Tải bản đầy đủ (.pdf) (204 trang)

Các tỉnh ủy ở đồng bằng sông hồng lãnh đạo thực hiện công bằng xã hội giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.81 MB, 204 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN XUÂN HƯNG

CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

HÀ NỘI - 2016


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN XUÂN HƯNG

CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
Mã số: 62 31 02 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGÔ HUY TIẾP

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Xuân Hưng


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

6

1.1. Các công trình khoa học về công bằng xã hội và thực hiện công bằng xã
hội ở nước ngoài

6

1.2. Các công trình khoa học về công bằng xã hội và thực hiện công bằng xã
hội ở Việt Nam
1.3. Kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết

8
16


Chương 2: CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

2.1. Các tỉnh, tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng và công bằng xã hội, thực hiện
công bằng xã hội
2.2. Các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng lãnh đạo thực hiện công bằng xã hội khái niệm, nội dung và phương thức

18
18
52

Chương 3: THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ CÁC TỈNH ỦY Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
- THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM

3.1. Thực trạng thực hiện công bằng xã hội ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng
3.2. Các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng lãnh đạo thực hiện công bằng xã hội thực trạng, nguyên nhân, kinh nghiệm

64
64
79

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG
CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
ĐỐI VỚI THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2025

4.1. Dự báo những nhân tố tác động và phương hướng tăng cường sự lãnh đạo
của các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng đối với thực hiện công bằng xã hội

4.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh ủy ở
đồng bằng sông Hồng đối với thực hiện công bằng xã hội
KẾT LUẬN

108
108
119
149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

151
152
164


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBXH

: Công bằng xã hội

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐBSH


: Đồng bằng sông Hồng

HTCT

: Hệ thống chính trị

KTTT

: Kinh tế thị trường

MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc

Nxb

: Nhà xuất bản

PTLĐ

: Phương thức lãnh đạo

QPAN

: Quốc phòng, an ninh

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, công bằng xã hội (CBXH) luôn là
khát vọng và mục tiêu đấu tranh của con người. Trong thời đại ngày nay, cùng với
sự tăng trưởng của kinh tế và sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ,
nhu cầu về quyền con người về CBXH đã thật sự trở thành tiêu chí, điều kiện để
đánh giá sự phát triển bền vững và tiến bộ của mỗi quốc gia, dân tộc và chế độ
chính trị do các chính đảng cầm quyền lãnh đạo và điều hành. Với ý nghĩa đó,
CBXH đang và sẽ là một vấn đề lớn trên con đường phát triển của mỗi quốc gia và
toàn thể nhân loại.
Ở Việt Nam hiện nay, thực hiện CBXH không những là nguyện vọng chính
đáng của nhân dân, mà trở thành một nhu cầu bức thiết, là mục tiêu và động lực của
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo. Việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) và kiên trì phấn
đấu đi theo con đường đó là sự khẳng định nhận thức chính trị sâu sắc, có tầm chiến
lược và trách nhiệm cao của Đảng đối với việc thực hiện CBXH, nhất là khi Đảng
trở thành đảng cầm quyền. Điều đó, cũng khẳng định vai trò to lớn của CBXH đối
với xây dựng thành công CNXH ở nước ta: CBXH vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự nghiệp xây dựng CNXH.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định đường lối xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) là: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong toàn bộ quá trình phát triển. Công
bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện
cho mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình” [17, tr.113].
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta tiếp tục khẳng định phải: “thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và chính sách phát triển,

thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và
nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ” [24, tr.101]. Những chủ trương, quan điểm và


2
quyết định đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về CBXH đã được các cấp uỷ, chính
quyền địa phương lãnh đạo thực hiện đạt nhiều thành tựu lớn.
Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là vùng có vị trí, vai trò rất quan trọng về
chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh với những tiềm năng, thế mạnh về phát
triển kinh tế và thực hiện CBXH. Trong 30 năm qua, các tỉnh uỷ trong vùng đã coi
trọng lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện
CBXH, đạt kết quả quan trọng. Ở các tỉnh vùng này, kinh tế tăng trưởng khá nhanh,
chính trị ổn định, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện và nâng
lên; CBXH trong giáo dục đào tạo được cải thiện; CBXH trong chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe, văn hóa, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện các quyền
của công dân... được cải thiện.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu phát triển kinh tế, thực hiện CBXH nói
trên, tình trạng phân hóa giàu nghèo cũng đang diễn ra nhanh và có xu hướng mở
rộng ở các tỉnh ĐBSH. Sự phân hóa ấy càng gây bức xúc xã hội hơn khi một số
người giàu lên nhanh chóng do làm ăn phi pháp, tham nhũng, lãng phí và thu nhập
không chính đáng; trong khi, với nhiều gia đình trong diện chính sách và người
nghèo, Nhà nước đang thiếu nguồn lực để chăm sóc, hỗ trợ. Tình trạng thất nghiệp,
bất bình đẳng giới và sự xuống cấp của các dịch vụ y tế, giáo dục, sự gia tăng của
các tệ nạn xã hội và tai nạn đang đòi hỏi phải được giải quyết.
Trong lãnh đạo thực hiện CBXH, bên cạnh những ưu điểm và kết quả nêu
trên, việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về CBXH còn
nhiều hạn chế. Ở một số nơi, cấp ủy lãnh đạo thực hiện CBXH chưa gắn chặt với
lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội. Trình độ, năng lực lãnh đạo thực hiện CBXH
của nhiều cấp ủy và cán bộ chủ chốt các cấp còn nhiều bất cập. Một số ít cán bộ
tham nhũng cả nguồn kinh phí của Nhà nước về cứu trợ thiên tai, hỗ trợ gia đình

khó khăn, gia đình chính sách. Việc phát huy vai trò của chính quyền trong thực
hiện CBXH chưa mạnh mẽ. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các đoàn thể
chính trị - xã hội, các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm trong thực hiện CBXH ở nhiều
nơi chưa được phát huy mạnh mẽ. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện


3
CBXH chưa thường xuyên, nhiều yếu kém... Việc phát huy ưu điểm, khắc phục
khuyết điểm, tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh ủy ở ĐBSH trong thực hiện
CBXH đang thực sự là vấn đề cấp thiết, cần được đầu tư nghiên cứu thỏa đáng.
Để góp phần thực hiện vấn đề cấp thiết nêu trên, nghiên cứu sinh chọn và
thực hiện đề tài “Các tỉnh uỷ ở đồng bằng sông Hồng lãnh đạo thực hiện công
bằng xã hội giai đoạn hiện nay” làm luận án tiến sĩ khoa học chính trị.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tỉnh ủy ở ĐBSH
lãnh đạo thực hiện CBXH giai đoạn hiện nay, luận án đề xuất những giải pháp chủ
yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với thực hiện CBXH ở các tỉnh
ĐBSH đến năm 2025.
2.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tỉnh ủy ở ĐBSH lãnh đạo thực
hiện CBXH.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện CBXH và các tỉnh ủy ở ĐBSH lãnh
đạo thực hiện CBXH trong giai đoạn hiện nay, tập trung vào thời kỳ từ năm 2006
đến nay, chỉ ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và những kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh
đạo thực hiện CBXH của các tỉnh ủy ở ĐBSH đến năm 2025.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án

Luận án nghiên cứu: Các tỉnh ủy ở ĐBSH lãnh đạo thực hiện CBXH giai
đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Luận án tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện CBXH và các
tỉnh ủy ở ĐBSH lãnh đạo thực hiện CBXH từ năm 2006 đến nay.
- Phương hướng và giải pháp đề xuất trong luận án có giá trị đến năm 2025.


4
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng ta về CBXH và Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời
sống xã hội.
- Cơ sở thực tiễn của luận án là các tỉnh ủy ở ĐBSH lãnh đạo các tổ chức
trong hệ thống chính trị (HTCT), các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội thực hiện
CBXH trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin; đồng thời sử dụng các phương pháp chuyên ngành và liên ngành chủ yếu
như: phương pháp logic và lịch sử; phân tích và tổng hợp; thống kê, so sánh; tổng
kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia...
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Khái niệm:
Công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử, mang tính giai cấp, dùng để chỉ
trình độ phát triển của một chế độ xã hội, được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội, chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội..., phản
ánh mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa
thưởng và phạt của cá nhân (nhóm xã hội), bảo đảm cho xã hội phát triển ổn
định, hài hòa, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội loài người, vừa là khát
vọng của con người, vừa là động lực, mục tiêu phát triển của xã hội.

Các tỉnh ủy ở ĐBSH lãnh đạo thực hiện CBXH là toàn bộ hoạt động của
các tỉnh ủy, trên cơ sở quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước về thực hiện CBXH, ban hành các nghị quyết, quyết
định về thực hiện CBXH, chỉ đạo các cấp uỷ trực thuộc, các cơ quan nhà nước,
các lực lượng xã hội ở địa phương tổ chức thực hiện; đồng thời kiểm tra, giám
sát việc thực hiện để các nghị quyết của tỉnh uỷ về thực hiện CBXH trở thành
hiện thực.
- Luận án tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo thực hiện CBXH: các tỉnh ủy tập
trung lãnh đạo chính quyền tỉnh tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương, nghị


5
quyết của tỉnh uỷ về thực hiện CBXH; đồng thời phối hợp chặt chẽ với lãnh đạo
đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã
hội và các tổ chức xã hội tham gia vào thực hiện CBXH ở địa phương.
- Luận án đề xuất hai giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của
các tỉnh uỷ ở các tỉnh ĐBSH đối với thực hiện CBXH đến năm 2025: Một là, đổi
mới quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện tốt một số nghị quyết chuyên đề của
tỉnh uỷ về phát triển kinh tế tạo cơ sở vững chắc để thực hiện công bằng xã hội.
Hai là, tỉnh ủy lãnh đạo chặt chẽ công tác thanh tra, xử lý sai phạm trong thực
hiện CBXH; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí và lợi ích nhóm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về tỉnh ủy ở
ĐBSH lãnh đạo thực hiện CBXH.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ quá trình lãnh đạo của các tỉnh ủy ở ĐBSH đối với thực hiện CBXH trong
những năm tới.
Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo

phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu về Xây dựng Đảng ở các trường chính trị
tỉnh, thành phố thuộc ĐBSH.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả đã
công bố liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm
4 chương, 9 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Trong thời kỳ đổi mới thực hiện kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN) CBXH và thực hiện CBXH là vấn đề đặc biệt quan trọng,
thu hút khá nhiều nhà khoa học nghiên cứu từ những góc độ, khía cạnh khác nhau,
đạt kết quả quan trọng. Kết quả nghiên cứu của nhiều công trình đã được công bố
trên sách, báo, tạp chí, tham luận hội thảo khoa học, tổng quan các đề tài khoa học,
luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ. Các công trình tiêu biểu liên quan trực tiếp đến đề
tài luận án, gồm:
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ THỰC
HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở NƯỚC NGOÀI

1.1.1. Công trình của các nhà khoa học Trung Quốc
- Cát Chí Hoa, Từ nông thôn mới đến đất nước, con người [39]. Cuốn sách tập
hợp các bài nghiên cứu về thực trạng và biến động của nông thôn Trung Quốc trong
công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, khái quát những vấn đề lý luận,
nguồn gốc hình thành và những đặc trưng của vấn đề "tam nông" ở Trung Quốc.
- Dang Guoying, Agriculture, rural areas and farmers in China (Nông
nghiệp, nông thôn và nông dân ở Trung Quốc) [11]. Cuốn sách khái quát về nông
nghiệp, các vùng nông thôn và các trang trại ở Trung Quốc; phân tích tình hình kinh

tế và xã hội ở các khu vực nông thôn Trung Quốc; sự thành thị hóa và sự luân
chuyển dân số nông thôn ra thành thị, đưa ra phương hướng xây dựng một số vùng
nông thôn mới.
Hai công trình trên cung cấp một số điểm để xây dựng khung lý thuyết của
luận án.
- Quyết định của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về Xây
dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa [35]. Đây là tài liệu tham khảo có giá trị đối
với luận án. Những nội dung bổ ích, gồm: quan niệm, nguyên tắc xây dựng xã hội
hài hòa XHCN. Đáng quan tâm hơn là các giải pháp xây dựng xã hội hài hòa


7
XHCN, gồm: đảm bảo phát triển cân đối, chú trọng phương diện xã hội của phát
triển; xây dựng văn hóa, củng cố nền tảng tư tưởng đạo đức của xã hội hài hòa;
hoàn thiện quản lý xã hội, duy trì xã hội ổn định có trật tự; tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với việc xây dựng xã hội hài hòa XHCN.
- Trác Vệ Hoa, Lý luận và thực tiễn cải cách và phát triển nông thôn Trung
Quốc 30 năm qua [40]. Tác giả phân kỳ sự phát triển của nông thôn Trung Quốc
qua 30 năm thành 4 giai đoạn: từ năm 1978 đến năm 1984 là giai đoạn đột phá cải
cách nông thôn; từ năm 1985 đến năm 1991 là giai đoạn thúc đẩy cải cách toàn diện
nông thôn; từ năm 1992 đến năm 2001 là giai đoạn cải cách nông thôn chuyển toàn
diện sang thể chế kinh tế thị trường XHCN; từ năm 2002 đến nay là giai đoạn mới
tính toán tổng thể phát triển thành thị và nông thôn, xây dựng nông thôn mới
XHCN. Tác giả khái quát những thành tựu quan trọng và rút ra một số kinh nghiệm,
đồng thời nêu một số giải pháp thúc đẩy xây dựng nông thôn mới ở Trung Quốc.
1.1.2. Công trình của các nhà khoa học Lào
- Phêng-Pha Văn Đao-Phon-Cha Rơn, Về vấn đề nâng cao sử dụng vốn đầu
tư của Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở Cộng hòa Dân chủ
nhân dân Lào [70]. Luận án nêu những nguyên lý cơ bản về hiệu quả đầu tư; phân
tích thực trạng đầu tư nhà nước vào lĩnh vực kinh tế - xã hội nông thôn Lào, đưa ra

các giải pháp về nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhà nước trong phát triển
kinh tế - xã hội nông thôn ở Lào. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Nhà
nước trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn là một giải pháp quan trọng thực
hiện CBXH. Công trình này là tài liệu tham khảo tốt để luận án đề xuất giải pháp.
- Khăm-Bay Ma-La-Sinh, Thực trạng đói, nghèo trong các hộ gia đình ở
nông thôn tỉnh Chăm Pa Sắc, kiến nghị về chính sách, giải pháp [49]. Luận văn đã
hệ thống hóa, đường lối, quan điểm về chính sách xã hội của Đảng Nhà nước Lào;
đánh giá thực trạng đói, nghèo ở nông thôn tỉnh Chăm Pa Sắc, chỉ rõ quy mô, mức
độ đói nghèo của các hộ gia đình; nêu một số kiến nghị về chính sách và các giải
pháp xóa đói, giảm nghèo của tỉnh. Luận văn cung cấp một số điểm để xác định
nguyên nhân và giải pháp của luận án.


8
- Xỉn-Xỏn Phun-Bun-Sỉ, Kinh tế nông thôn ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân
Lào thời kỳ đổi mới [145]. Luận án làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển
kinh tế nông thôn Lào thời kỳ đổi mới; phân tích thực trạng phát triển kinh tế nông
thôn; đề xuất sáu giải pháp phát triển kinh tế nông thôn Lào hiện nay. Trong đó,
phát triển kinh tế nông thôn là một giải pháp quan trọng của thực hiện CBXH, có
giá trị tham khảo tốt đối với luận án.
- Bun-Thoong Chit-Ma-Ni, Đảng Nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo xây
dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay [7]. Luận án nêu quan niệm về nông
thôn mới và chỉ rõ những đặc trưng cơ bản của nông thôn mới ở Lào; khái niệm
Đảng Nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo xây dựng nông thôn mới, nội dung,
phương thức, quy trình Đảng lãnh đạo xây dựng nông thôn mới. Tác giả khái quát
thực trạng Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo xây dựng nông thôn mới, đề
xuất phương hướng và sáu giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng Nhân dân cách mạng Lào đối với xây dựng nông thôn mới giai đoạn hiện nay.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ THỰC
HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM


1.2.1. Sách, đề tài khoa học
- Lê Bộ Lĩnh (chủ biên), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số
nước châu Á và Việt Nam [54].
Sau khi nêu các quan niệm khác nhau về tăng trưởng kinh tế và CBXH, và
mối quan hệ giữa hai yếu tố này, cuốn sách khái quát mô hình tổng quát lý giải tăng
trưởng kinh tế đi liền với CBXH ở các nước Đông Á; những chính sách giảm bất
bình đẳng (dân chủ hóa kinh tế, cải cách ruộng đất và phát triển nông thôn, phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, đầu tư phát triển nguồn nhân lực và tạo lập thị
trường lao động linh hoạt, chính sách phúc lợi xã hội về nhà ở, xây dựng bộ máy
nhà nước trong sạch và hiệu quả).
Tiếp theo các tác giả nêu sự tăng trưởng kinh tế và CBXH ở một số nền kinh
tế Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan), Đông Nam Á (Malaixia, Thái
Lan). Bài học về CBXH gắn với tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản nửa sau thế kỷ
XX; kinh nghiệm của Hàn Quốc về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế


9
và CBXH theo quan điểm tăng trưởng kinh tế góp phần làm giảm bất bình đẳng thu
nhập; thực hiện CBXH thông qua việc tạo dựng các cơ hội việc làm và các phúc lợi
xã hội cho mọi tầng lớp nhân dân; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục - đào
tạo; kinh nghiệm của Đài Loan về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và CBXH thông qua một số chính sách như cải cách ruộng đất; bình đẳng trong thu
nhập; hỗ trợ nông nghiệp... trong những năm 50-60 của thế kỷ trước.
Từ đó, các tác giả đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt hơn
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và CBXH ở nước ta, gồm: tăng trưởng kinh tế
phải gắn liền với tiến bộ và CBXH ngay trong từng bước và trong suốt quá trình
phát triển; tăng cường hơn nữa công tác kế hoạch hóa gia đình; xóa đói giảm nghèo;
chống tham nhũng, buôn lậu; xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; phát triển y tế,
giáo dục; phát huy vai trò của Nhà nước trong thực hiện CBXH.

- Lê Văn Sang, Kim Ngọc (đồng chủ biên), Tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội ở Nhật Bản giai đoạn “thần kỳ” và Việt Nam thời kỳ “đổi mới” [83].
Theo các tác giả sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản
nhanh chóng phục hồi và có bước phát triển nhảy vọt, do nhiều nguyên nhân, đặc
biệt đã tạo được môi trường thuận lợi cho các công ty hoạt động nhờ tạo dựng cơ
chế thị trường, cơ chế quản lý kinh tế hợp lý; ý thức trách nhiệm của mỗi người dân,
mỗi công ty...
Trên cơ sở kinh nghiệm của Nhật Bản các tác giả khảo sát thực trạng tăng
trưởng kinh tế và CBXH ở nước ta sau 10 năm đổi mới, đánh giá các biện pháp,
chương trình quốc gia thực hiện tăng trưởng kinh tế và CBXH. Đồng thời, luận
giải một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và CBXH.
- Trịnh Quốc Tuấn (chủ nhiệm), Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta [135]. Các tác giả bàn đến
nhiều nội dung như quan niệm mới về phát triển và phương hướng phát triển kinh tế
- xã hội ở nước ta (GS.TS Đỗ Thế Tùng); mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và
thực hiện CBXH trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam (GS.TS Nguyễn


10
Ngọc Long); hậu quả xã hội của quá trình tăng trưởng kinh tế qua thực tiễn đổi mới
ở Việt Nam và Trung Quốc (TS Hoàng Thị Thành); những vấn đề xã hội cần giải
quyết để phục vụ trực tiếp cho tăng trưởng kinh tế (TS Nguyễn Hữu Dũng); về phân
tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp (TS
Phạm Hảo); sự lựa chọn và thực hiện chính sách xã hội bảo đảm kết hợp tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ, CBXH trong điều kiện phát triển KTTT theo định hướng
XHCN ở nước ta (TS Nguyễn Thanh Tuấn). Kỷ yếu cũng cung cấp cho luận án
nhiều điểm quan trọng để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của luận án.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Vấn đề phân phối và phân hóa

giàu nghèo trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta [5]. Các tác giả tập trung luận bàn về phân phối và phân hóa
giàu nghèo trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta; đánh
giá quá trình thể chế hóa và thực hiện các chủ trương, đường lối đó, chỉ ra kết quả,
hạn chế, nguyên nhân; kiến nghị giải pháp giải quyết vấn đề phân phối và phân
hóa giàu nghèo. Đáng chú ý là các tham luận về phân phối và tác động của phân
phối đến sự phân hóa giàu nghèo trong nền KTTT của GS Đỗ Thế Tùng; phân
phối, tăng trưởng và công bằng trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
của TS Đặng Đức Đạm; CBXH và mối quan hệ giữa CBXH với tăng trưởng kinh
tế của PGS.TS Trần Đình Thiên...
- Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (VASS), German Catholic Action For
Human Development (MISEREOR), "Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và
đoàn kết xã hội" "social justice, social responsibility and social solidarity" [142].
Có 35 tham luận được đưa vào kỷ yếu của Hội thảo. Qua các tham luận, các nhà
khoa học đưa ra các quan niệm về CBXH, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội;
quan hệ giữa CBXH với trách nhiệm xã hội và với đoàn kết xã hội; các chức sắc tôn
giáo đưa ra quan niệm của các tôn giáo về CBXH, trách nhiệm xã hội và về đoàn
kết xã hội theo thế giới quan của họ; đề xuất các giải pháp giải quyết có hiệu quả
mối quan hệ đó.
- Nguyễn Gia Thơ, Vấn đề công bằng và bình đẳng trong lịch sử triết học
phương Tây [91].


11
Sau khi trình bày tư tưởng của các nhà triết học phương Tây, tác giả nêu bật
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về CBXH và kết luận: đa phần các quốc gia
cần tiến hành các cuộc cách mạng xã hội khoa học để giải phóng con người bị áp
bức, bóc lột, thống trị; một số quốc gia cần tiếp tục giữ vững định hướng XHCN
trong đổi mới toàn diện đất nước, đấu tranh triệt để hơn với quan liêu, tham nhũng,
thoái hoá biến chất; xã hội hóa việc thực hiện CBXH trong sự phối hợp chặt chẽ của

lãnh đạo chính trị, quản lý của Nhà nước và nhân dân.
Từ tư tưởng của các nhà triết học phương Tây tác giả cuốn sách nêu những
đề xuất đối với nước ta. Theo tác giả, đối với nước ta CBXH chỉ có thể thành hiện
thực khi có sự tác động tổng hợp của nhiều nhân tố dưới sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước. Trong đó, việc thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh là cơ sở vững chắc để biến khả năng
CBXH thành hiện thực.
- Nguyễn Duy Quý Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa [80]. Tác giả đã phân tích tư tưởng của C.Mác về CBXH và
nguyên tắc phân phối theo lao động để thực hiện CBXH; việc thực hiện CBXH ở
nước ta trước và trong thời kỳ đổi mới, khẳng định: không nhất thiết phải giàu có
mới thực hiện CBXH; Việt Nam coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển xã hội; không chờ tới khi kinh tế phát triển cao mới thực hiện CBXH,
mà ngay từ khi bắt đầu đổi mới phải kết hợp nhiệm vụ kinh tế với các nhiệm vụ xã
hội, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới chính sách kinh tế với đổi mới chính
sách xã hội, đó là một phương thức để thực hiện CBXH hiệu quả. Tác giả đề xuất
các giải pháp về nâng cao nhận thức; chính sách; huy động nguồn lực; gắn phát
triển kinh tế với văn hóa.
- Phạm Xuân Nam, Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường và
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa [64]. Tác giả đã điểm qua một số
mô hình kinh tế tiêu biểu trên thế giới xét từ góc độ giải quyết mối quan hệ giữa
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với thực hiện CBXH; phân tích việc kết hợp tăng
trưởng kinh tế và CBXH trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta qua hơn 20
năm đổi mới, chỉ ra những thành tựu và những vấn đề đặt ra. Đáng chú ý hơn là, tác


12
giả đã kiến nghị một số hướng giải pháp về thực hiện CBXH trong nền KTTT định
hướng XHCN ở nước ta trong thời gian tới. Thứ nhất, tiếp tục thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng

thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực vào quá trình sản xuất,
kinh doanh. Thứ hai, trong việc thực hiện đầu tư cho phát triển, cần có quy hoạch
và kế hoạch cụ thể để cân đối hợp lý mức đầu tư cho các vùng lãnh thổ khác nhau.
Thứ ba, trong số những chính sách có liên quan đến phân phối lại tổng thu nhập
quốc dân, không nên chỉ đặt vấn đề phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Thứ tư,
ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả những hiện tượng làm giàu phi pháp, vì đây
chính là nhân tố vừa làm tổn hại đến tăng trưởng kinh tế chung, vừa tạo ra bất
CBXH lớn nhất.
- Lê Hữu Tầng (2008), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc
thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay [87]. Tác giả đã trích dẫn một số ý
kiến về CBXH: ở những nước kém phát triển, nội dung quan trọng nhất của CBXH
là công bằng về kinh tế. Ở nước ta, tác giả đề xuất, để thực hiện đầy đủ hơn CBXH
cần mở rộng nguyên tắc phân phối theo lao động và theo mức đóng góp vốn vào
sản xuất kinh doanh hiện nay thành nguyên tắc phân phối theo cống hiến (về lao
động, nguồn vốn và những cống hiến khác) cho xã hội không chỉ cho sản xuất, mặc
dầu cống hiến cho sản xuất là chủ yếu.
- Đỗ Huy (2009), Công bằng xã hội ở Việt Nam nhận diện và giải pháp [47].
Tác giả đã khái quát việc thực hiện CBXH ở nước ta trong các thời kỳ cách mạng từ
khi Đảng và nhân dân ta giành được chính quyền và trong thời kỳ đổi mới hiện nay;
chỉ ra những hạn chế bất cập của việc thực hiện CBXH trong các thời kỳ đó. Tác
giả đề xuất những giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu CBXH toàn diện ở nước
ta trong điều kiện hiện nay: một là, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân;
hiện đại hoá lực lượng sản xuất; hai là, từng bước tập thể hoá, quốc doanh hoá
trong quá trình thiết lập quan hệ sản xuất mới; ba là, xây dựng hệ tư tưởng chính
thống theo tư tưởng Hồ Chí Minh; bốn là, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, quốc tế,
con người; năm là, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc; sáu là, xây dựng Đảng
vững mạnh.


13

- Nguyễn Minh Hoàn, Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội [41]. Cuốn
sách có giá trị tham khảo đối với luận án về một số điểm: một số quan điểm tiêu
biểu về CBXH thời kỳ trước C.Mác; một số quan điểm hiện đại về CBXH của các
học giả phương Tây; quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về nguyên tắc phân
phối đảm bảo CBXH; tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH và bình đẳng xã hội. Đáng
chú ý là tác giả đã nêu một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện CBXH ở nước ta
hiện nay, gồm: thái độ ứng xử của chúng ta trước thực trạng gia tăng phân hoá giàu
nghèo và bất bình đẳng hiện nay; vấn đề thực hiện CBXH trong phân phối tư liệu
sản xuất; vấn đề CBXH trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân; trong
lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
1.2.2. Luận án, luận văn và các bài đăng trên tạp chí
1.2.2.1. Luận án, luận văn
- Nguyễn Hữu Đổng, Sự hình thành thu nhập cá nhân trong các doanh
nghiệp nhà nước theo hướng đảm bảo công bằng xã hội ở Việt Nam [36]. Luận văn
phân tích những đặc điểm, nội dung chủ yếu, thực trạng phân phối hình thành thu
nhập cá nhân thực hiện CBXH trong các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình
chuyển đổi sang nền KTTT định hướng XHCN; đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện phân phối hình thành thu nhập cá nhân thực hiện CBXH trong các doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
- Lê Như Nhất, Đảng bộ tỉnh Kon Tum lãnh đạo xoá đói, giảm nghèo trong
giai đoạn hiện nay [67]. Luận văn đã xây dựng quan niệm về Đảng bộ tỉnh Kon
Tum lãnh đạo xoá đói, giảm nghèo; tổng kết được những kinh nghiệm về Đảng bộ
tỉnh Kon Tum lãnh đạo xoá đói, giảm nghèo trong những năm qua. Luận văn đã đề
xuất được các giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của đảng bộ tỉnh đối với xoá đói,
giảm nghèo.
- Nguyễn Văn Kính, Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công
bằng xã hội ở Hải Phòng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay [51]. Luận văn phân tích những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và CBXH trong lịch sử; phân tích một số mâu thuẫn giữa KTTT và
thực hiện CBXH ở Hải Phòng, đề xuất một số giải pháp nhằm kết hợp có hiệu quả



14
giữa tăng trưởng kinh tế và CBXH ở Hải Phòng giai đoạn hiện nay gồm: đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH;
đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn; phát triển nguồn nhân lực; đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, khuyến khích làm giàu chính đáng và thực hiện tốt
chính sách xã hội.
- Trịnh Sơn, Các huyện ủy ở tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác xóa đói, giảm
nghèo giai đoạn hiện nay [84]. Luận văn khái quát được tình hình đói nghèo ở tỉnh
Hà Giang, đã xây dựng được quan niệm về huyện uỷ ở tỉnh Hà Giang lãnh đạo công
tác xoá đói, giảm nghèo; chỉ ra kết quả và tổng kết được những kinh nghiệm về các
huyện uỷ ở tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác xóa đói, giảm nghèo. Luận văn đề xuất
được các nhóm giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của các huyện uỷ đối với công
tác xoá đói, giảm nghèo: Một là, nhóm giải pháp về tiếp tục đổi mới nội dung,
phương thức lãnh đạo xoá đói, giảm nghèo. Hai là, nhóm giải pháp về lãnh đạo phát
triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm. Ba là, nhóm giải
pháp về nâng cao nhận thức của các cấp uỷ, về công tác xoá đói, giảm nghèo. Bốn
là, phát huy vai trò của Mặt trận, đoàn thể trong thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
- Nguyễn Hồng Quân, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng đời sống
văn hóa ở nông thôn giai đoạn 1997-2010 [73]. Luận văn đã phân tích thực trạng
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn giai đoạn
1997-2010. Luận văn đã tổng kết được những kinh nghiệm bổ ích. Đáng quan tâm
là kinh nghiệm về phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu trong việc làm của cán
bộ chủ chốt, nhất là cán bộ xã, thôn, bản và gia đình trong thực hiện nghiêm những
quy định về việc cưới, việc tang, lễ hội, mừng thọ; tăng cường sự lãnh đạo của các
cấp uỷ đối với xây dựng và thực hiện thiết chế văn hóa nông thôn.
- Phạm Thị Hường, Các huyện ủy ven biển tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo phát
triển văn hóa giai đoạn hiện nay [46]. Luận văn đã xây dựng khái niệm các huyện
ủy ven biển tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo phát triển văn hóa, xác định nội dung và

phương thức lãnh đạo của huyện ủy đối với phát triển văn hóa, khảo sát, đánh giá
thực trạng, đề xuất các giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của các huyện uỷ ven biển
tỉnh Thanh Hoá đối với phát triển văn hoá trong giai đoạn hiện nay. Đáng chú ý là


15
giải pháp về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của huyện uỷ đối với phát
triển văn hoá.
- Lê Văn Diến, Các huyện ủy ở tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo xây dựng nông thôn
mới giai đoạn hiện nay [12]. Luận văn đã xây dựng khái niệm, xác định nội dung và
phương thức lãnh đạo của huyện ủy đối với xây dựng nông thôn mới, khảo sát,
đánh giá thực trạng, đề xuất các giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của các huyện uỷ
đối với xây dựng nông thôn mới. Giải pháp có giá trị tham khảo đối với luận án là,
đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo xây dựng nông thôn mới của các huyện uỷ.
1.2.2.2. Các bài đăng trên tạp chí
Nguyễn Trần Quế, Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam
[74]; Phạm Tất Dong, Tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội - một nội
dung của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa [14]; Phùng Văn Hùng,
Vai trò của Nhà nước trong xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam [45];
Nguyễn Văn Huyên, Xây dựng nền kinh tế thị trường vì một xã hội nhân văn [48];
Lương Việt Hải, công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay [38]; Phương Ngọc Thạch, Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã
hội [88]; Nguyễn Đình Tấn, Sự phát triển nhận thức của Đảng về công bằng xã hội
và xóa đói, giảm nghèo [86]; Ngô Ngọc Thắng, Chính sách an sinh xã hội trong bối
cảnh tái cấu trúc mô hình tăng trưởng [89]. Các bài báo này đã tập trung nghiên
cứu từng mặt, từng khía cạnh của CBXH trong điều kiện hiện nay, cung cấp cho
luận án một số điểm để xây dựng khái niệm, nội dung CBXH.
- Hoàng Thị Bích Phương, Thực hiện xóa đói, giảm nghèo bền vững ở tỉnh
Bắc Giang (2008-2013) [71]. Bài báo đã đánh gia thực trạng thực hiện xóa đói,
giảm nghèo bền vững trong những năm qua; đề xuất các giải pháp xóa đói, giảm

nghèo bền vững, đáng chú ý là các giải pháp: tăng cường vận động các doanh
nghiệp, doanh nhân tham gia xóa đói, giảm nghèo bền vững.
- Hà Vũ Tuyến, Công tác đào tạo nghề ở Vĩnh Phúc - kết quả và một số kinh
nghiệm [137]. Bài báo đã đánh giá thực trạng, tổng kết được những kinh nghiệm về
công tác dạy nghề ở tỉnh Vĩnh phúc. Đáng quan tâm là kinh nghiệm về hoàn thiện


16
hệ thống dạy nghề; đổi mới giáo trình, bài giảng, đặc biệt coi trọng thực hành; xã
hội hóa đào tạo nghề.
1.3. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA LUẬN ÁN TIẾP
TỤC GIẢI QUYẾT

1.3.1. Kết quả đạt được
Qua tổng quan một số công trình nêu trên của các nhà khoa học nước ngoài
và trong nước về CBXH và thực hiện CBXH, thấy rằng, các công trình đã đạt kết
quả đáng trân trọng:
Một là, về CBXH: Nhiều công trình đã phân tích những tư tưởng, quan điểm
khác nhau về CBXH. Một số công trình đã nêu khái niệm CBXH theo tư tưởng,
quan điểm khác nhau đó. Tuy nhiên, những tư tưởng quan điểm khác nhau đó, có
những điểm chung là: từ khi xã hội phân chia thành giai cấp CBXH luôn là khát
vọng và mục tiêu đấu tranh của con người. Trong thời đại ngày nay, cùng với sự
tăng trưởng của kinh tế và sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, nhu
cầu về quyền con người về CBXH đã thật sự trở thành tiêu chí, điều kiện để đánh
giá sự phát triển và tiến bộ của mỗi quốc gia, dân tộc và chế độ chính trị do các
chính đảng của giai cấp cầm quyền lãnh đạo và điều hành. Với ý nghĩa đó, CBXH
đang và sẽ là một vấn đề lớn trên con đường phát triển của mỗi quốc gia và toàn thể
nhân loại. Một số công trình đã nêu một vài nội hàm của khái niệm CBXH và cho
rằng, CBXH gắn liền và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, song tập
trung ở bốn lĩnh vực chủ yếu là kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Khá nhiều công

trình đã luận bàn về vai trò và một số đặc tính của CBXH.
Hai là, về thực hiện CBXH: Hầu hết các công trình ở những mức độ khác
nhau đều bàn về thực hiện CBXH. Một số công trình đã chỉ ra kinh nghiệm về thực
hiện có hiệu quả CBXH ở một số nước tư bản và khái quát về chủ trương giải pháp
cụ thể về thực hiện CBXH đạt hiệu quả ở một số nước. Đối với Việt Nam, hầu hết
các công trình ở những mức độ khác nhau đều đề xuất các giải pháp thực hiện có
kết quả CBXH hoặc ở phương pháp luận, đề xuất quan điểm, hoặc các giải pháp cụ
thể ở các địa phương và trong cả nước. Những đề xuất này rất đa dạng, phong phú.


17
Ba là, về Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện CBXH: Tuy đã có một vài công
trình đề cập đến vấn đề rất quan trọng là Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và các
cấp uỷ đảng nói riêng lãnh đạo thực hiện CBXH trong điều kiện thực hiện cơ chế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta, song mới chủ yếu dừng lại ở nêu vấn đề,
việc luận giải chưa được chú ý. Như vậy, đến nay chưa có công trình khoa học nào
luận bàn và làm sáng tỏ vấn đề này; chưa có công trình nào đề cập và làm sâu sắc
các giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với thực hiện CBXH.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
Thứ nhất, về CBXH: Xây dựng khái niệm CBXH; chỉ ra và phân tích nội
dung, đặc tính của CBXH, khái quát và phân tích, làm rõ vai trò của CBXH nói
chung, từ đó làm rõ vai trò ấy đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay nói riêng.
Phân tích những đặc tính cơ bản của CBXH.
Thứ hai, về thực hiện CBXH: Xây dựng khái niệm thực hiện CBXH, xác
định và phân tích làm rõ nội dung của thực hiện CBXH; chỉ ra và phân tích những
nhân tố chủ yếu chi phối việc thực hiện CBXH.
Thứ ba, về tỉnh ủy ở ĐBSH lãnh đạo thực hiện CBXH: Xây dựng khái niệm,
xác định nội dung và phương thức lãnh đạo thực hiện CBXH của các tỉnh ủy trong
điều kiện hiện nay làm cơ sở cho việc phân tích đánh giá thực trạng lãnh đạo thực
hiện CBXH của các tỉnh ủy, chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân, kinh nghiệm và

đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu tăng cường lãnh đạo thực hiện
CBXH của các tỉnh ủy ở ĐBSH đến năm 2025.


18
Chương 2
CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI GIAI ĐOẠN HIỆN NAY NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. CÁC TỈNH, TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ CÔNG BẰNG
XÃ HỘI, THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI

2.1.1. Các tỉnh, tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng
2.1.1.1. Khái quát về các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng
Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 14-9-2005 của Bộ Chính trị khóa IX về phát
triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh (QPAN) vùng ĐBSH đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Quyết định số 191/2006/QĐ-TTg, ngày
17-8-2006 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai thực hiện Nghị quyết số 54NQ/TW nêu trên, xác định ĐBSH gồm 10 tỉnh và 2 thành phố. Sau khi Hà Nội mở
rộng địa giới hành chính đến tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và 4 xã
thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, ĐBSH còn 9 tỉnh, gồm: Hải Dương, Hưng
Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh
Bình và 2 thành phố trực thuộc Trung ương là Hà Nội và Hải Phòng.
* Điều kiện tự nhiên: Các tỉnh ở ĐBSH có tổng diện tích hơn 21.049,2 km2,
chiếm 5% diện tích toàn quốc [Phụ lục 1]. Đây là các tỉnh thuộc đồng bằng lớn thứ
hai ở nước ta (sau đồng bằng sông Cửu Long). Phía Đông và Đông Nam ĐBSH là
vịnh Bắc Bộ rộng lớn, nối liền với biển Đông. Các tỉnh có khí hậu nhiệt đới, gió
mùa, với 4 mùa trong một năm (xuân, hạ, thu, đông), trong đó có một mùa đông
lạnh; đất đai màu mỡ, mưa, nắng khá thuận hòa, rất thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp, nhất là trồng lúa nước và chăn nuôi. Hệ thống sông ngòi dày đặc, các cảng
ven biển cùng với cảng lớn Hải Phòng và cảng nước sâu Cái Lân tạo thuận lợi cho
các tỉnh giao lưu với nhau, giao lưu với các tỉnh khác trong cả nước và quốc tế để

phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống đường quốc lộ được nâng cấp khá hiện đại,
cùng với đường sắt, đường hàng không tạo thuận lợi lớn cho các tỉnh phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm QPAN, phát triển bền vững.


19
Các tỉnh ở ĐBSH có nguồn tài nguyên đất nông nghiệp khá lớn, với tổng số
11.280,6 km2 [Phụ lục 1]. Một số tỉnh có bờ biển dài và thềm lục địa rất thuận tiện
cho phát triển kinh tế biển và du lịch. Ở nhiều tỉnh có nguồn tài nguyên, khoáng sản
đa dạng, trữ lượng lớn, như: đất sét, than nâu, đá vôi và các tài nguyên khác có giá
trị lớn đối với phát triển công nghiệp.
* Đặc điểm kinh tế: Qua 30 năm đổi mới, kinh tế ở các tỉnh phát triển khá
mạnh. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng giá trị kinh tế
nông nghiệp, tăng tỷ trọng giá trị kinh tế công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong
GDP. Kinh tế nông nghiệp phát triển khá mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng
sản lượng và chất lượng sản phẩm, nhiều sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao.
Số lượng lao động nông nghiệp giảm mạnh, chuyển sang ngành công nghiệp - xây
dựng và dịch vụ. Tỷ trọng giá trị công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong tổng
GDP của các tỉnh ngày càng tăng, nhất là các tỉnh gần Tam giác kinh tế trọng điểm
Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Ở các tỉnh đã hình thành các khu, cụm công nghiệp, nhiều tỉnh có các khu
công nghiệp lớn, như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương thu hút ngày càng lớn
lượng vốn đầu tư và nhiều doanh nghiệp có uy tín của nước ngoài. Tam giác kinh tế
trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh được hình thành, phát triển hoạt động
có hiệu quả, có vai trò, tác dụng lớn đối với phát triển kinh tế của các tỉnh: tăng
trưởng kinh tế của tỉnh Thái Bình 8,2% (năm 2013), 7,83% (năm 2014); tỉnh Bắc
Ninh, Hải Dương, Quảng Ninh có số liệu tương ứng: 10,2% và 16,2%; 9,2% và
7,7%; 7,1% và 8,8% [Phụ lục 2].
Các tỉnh ở ĐBSH có nhiều làng nghề truyền thống với những sản phẩm có
giá trị không chỉ nổi tiếng trong nước, mà còn được nhiều nước trên thế giới biết và

ưa chuộng, như: gốm, sứ Bát Tràng; đồ gỗ chất lượng cao ở La Xuyên (Nam Định),
Đồng Kỵ (Bắc Ninh); đúc đồng ở Vụ Bản (Nam Định); chiếu cói ở Phát Diệm,
huyện Kim Sơn (Ninh Bình)...
Ngành du lịch ở các tỉnh phát triển khá nhanh. Với nhiều cảnh quan thiên
nhiên tuyệt đẹp, nhiều di tích lịch sử, văn hóa, một số cảnh quan thiên nhiên được
UNESCO công nhận là cảnh quan thiên nhiên của thế giới như: Vịnh Hạ Long,


20
Tràng An... là tài sản vô giá do thiên nhiên ban tặng các tỉnh để phát triển du lịch,
dịch vụ ở ĐBSH đã hình thành các tuyến du lịch liên tỉnh, thu hút ngày càng lớn du
khách trong, ngoài nước, đóng góp đáng kể vào sự phát triển mọi mặt của các tỉnh,
nhất là phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
* Đặc điểm văn hóa: ĐBSH có Thủ đô Hà Nội “là trái tim của cả nước, đầu
não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục,
kinh tế và giao dịch quốc tế” [20, tr.2], tác động rất lớn đến sự phát triển văn hóa
của các tỉnh. Các tỉnh ở vùng này là cội nguồn của văn hóa Việt, đời sống văn hóa,
tinh thần của cư dân nơi đây, gắn chặt với văn hóa làng, xã, lễ hội và quan hệ huyết
thống. Đây là một trong những nét đặc trưng của văn hóa vùng ĐBSH, đã phát huy
tác dụng góp phần to lớn vào sự phát triển của các tỉnh và đất nước.
Các tỉnh ở ĐBSH là nơi sinh sống của nhiều dân tộc, như Kinh, Dao, Cao
Lan, Sán Dìu, Tày, Nùng, Hoa, Mường..., trong đó người Kinh là chiếm tuyệt đại đa
số. Các dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số dân cư trong vùng, sống tập
trung ở một số huyện như Lập Thạch (Vĩnh Phúc), Hải Hà (Quảng Ninh), Nho
Quan (Ninh Bình), có truyền thống văn hóa riêng, độc đáo, tạo nên bức tranh đa
dạng về văn hóa trong vùng. Các dân tộc thiểu số cần cù, chịu khó, tương thân,
tương ái, sống hòa thuận với nhau và với người Kinh. Nhìn chung, đời sống của họ
được nâng lên một bước khá lớn, song đời sống của nhiều gia đình vẫn còn khó
khăn, thiếu thốn.
Nhân dân ở các tỉnh có truyền thống hiếu học, tôn sư, trọng đạo, khắc phục

mọi khó khăn, luôn vươn lên nâng cao trình độ trí tuệ. Hệ thống giáo dục đào tạo
phát triển khá (tỉnh Vĩnh Phúc có 183 trường mầm non, 173 trường tiểu học, 146
trường trung học cơ sở, 37 trường trung học phổ thông; các tỉnh Thái Bình, Nam
Định, Hải Dương có số liệu tương ứng: 301, 295, 271, 39; 266, 293, 242, 57; 109,
281, 272, 54 [Phụ lục 6]) tạo thuận lợi cho việc học tập người dân và phổ cập giáo
dục tiểu học, trung học cơ sở. Nơi đây, tập trung nhiều trường đại học, viện nghiên
cứu khoa học lớn, nổi tiếng của nước ta là thuận lợi lớn để cư dân học tập để có
trình độ cao nên nhìn chung, trình độ dân trí ở các tỉnh vào loại cao nhất nước.


×