Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Luận án tiến sĩ thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 166 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm soát quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình tổ
chức thực thi quyền lực nhà nước, là yếu tố trung tâm của nhà nước pháp
quyền. Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng quyền lực nhà nước phải được kiểm
soát, không thể để quyền lực tuyệt đối không giới hạn. Bất kỳ cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào khi được giao sử dụng quyền lực nhà nước đều phải chịu sự
kiểm soát để không xảy ra các tệ nạn độc quyền, cửa quyền, đặc quyền, lạm
quyền, tiếm quyền,… làm tha hoá bản chất và mục đích ban đầu của quyền
lực nhà nước.
Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay đang đối diện với nhiều nguy cơ, thách thức, như: tham nhũng chưa
bị đẩy lùi; dân chủ có lúc, có nơi bị vi phạm; kỷ cương, kỷ luật ở một số cấp,
một số lĩnh vực không nghiêm. Nhiều biểu hiện tiêu cực trong đời sống xã hội
đang có xu hướng đi ngược lại với tôn chỉ, mục đích mà Đảng, Nhà nước ta
hướng đến là xây dựng một Nhà nước phục vụ Nhân dân, gắn bó mật thiết với
Nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của Nhân dân, tôn trọng, lắng
nghe ý kiến của Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân, có cơ chế và
biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân.
Mặt khác, chúng ta đang đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới toàn diện, hội nhập sâu rộng, theo đó giải
quyết mối quan hệ nhà nước - thị trường - xã hội trong các lĩnh vực phát triển
ngày càng trở nên quan trọng. Chúng ta cũng đang xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa mà trong đó các quyền con người, quyền công dân phải được
bảo đảm, Nhà nước phải là nhà nước “có trách nhiệm”, nhà nước “kiến tạo

1


phát triển”. Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn, kiểm soát quyền lực nhà nước


là đề tài cấp bách hiện nay.
Kiểm soát quyền lực nhà nước chỉ có thể có hiệu lực và hiệu quả khi
hoạt động này được thể chế hoá bằng luật pháp. Kinh nghiệm cho thấy, có thể
kiểm soát quyền lực nhà nước bằng những cách khác nhau: bằng đạo đức,
bằng tập quán, thông lệ truyền thống hay bằng dư luận xã hội… Nhưng với
đặc trưng của nhà nước pháp quyền là tính thượng tôn của pháp luật, thì khi
và chỉ khi được quy định bằng pháp luật, có thể chế pháp lý bảo đảm, các biện
pháp kiểm soát quyền lực nhà nước mới có đầy đủ sức mạnh và tính khả thi.
Hoàn thiện thể chế, trong đó có thể chế pháp lý, là một trong những
khâu đột phá của nước ta đã được xác định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI (năm 2011), tuy nhiên sau nhiều năm thực hiện, vẫn còn nhiều hạn chế.
Quá trình tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới đất
nước (1986 – 2016), đặc biệt 10 năm đổi mới gần đây, tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XII cho thấy động lực mà những cải cách trước đây tạo ra đã
không còn đủ mạnh để thúc đẩy phát triển. Đây là lúc chúng ta cần có thêm
động lực để lấy lại đà tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Ngu n động
lực đó phải đến từ đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của
Nhân dân.
Với các quy định của Hiến pháp năm 2013, cơ sở hiến định về kiểm
soát quyền lực nhà nước đã được ghi nhận nhưng thể chế pháp lý về kiểm soát
quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay chưa hoàn thiện. Kiểm soát giữa các
cơ quan trong bộ máy nhà nước đã được cụ thể hoá một bước trong các luật
về tổ chức bộ máy nhà nước nhưng vẫn còn phải tiếp tục; phương thức lãnh
đạo và kiểm soát của Đảng đối với Nhà nước cần được làm rõ hơn; kiểm soát
quyền lực nhà nước từ phía nhân dân mới được quy định có tính nguyên tắc,
muốn thực hiện cần xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các luật và
văn bản dưới luật kèm theo.
2



Những phân tích nêu trên cho thấy nghiên cứu “Thể chế pháp lý về
kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam” hiện nay là vấn đề thực sự cấp
thiết. Qua tìm hiểu, Nghiên cứu sinh nhận thấy có nhiều nghiên cứu về quyền
lực nhà nước và những cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, song nghiên
cứu toàn diện về thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta thì
chưa thực sự được chú ý. Do đó, Nghiên cứu sinh đã đề xuất và được chọn đề
tài: “Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam” để thực
hiện Luận án Tiến sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thể chế pháp lý kiểm
soát quyền lực nhà nước; khái quát sự hình thành, phát triển, đánh giá được
thực trạng và nêu ra những bất cập của thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực
nhà nước ở Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó xác định những yêu cầu và kiến
nghị giải pháp hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở
Việt Nam thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích những nội dung lý luận về thể chế pháp lý kiểm soát quyền
lực nhà nước, như: khái niệm, vai trò, đặc điểm, nội dung, hình thức, các bộ
phận hợp thành thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam;
trình bày một số kinh nghiệm có giá trị qua tham khảo thể chế pháp lý về
kiểm soát quyền lực nhà nước của một số nước trên thế giới.
- Khái quát quá trình hình thành, phát triển thể chế pháp lý về kiểm soát
quyền lực nhà nước ở Việt Nam trên nền tảng các bản hiến pháp đã có trong
lịch sử lập hiến nước ta; tập trung đánh giá thực trạng thể chế và việc thực
hiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước theo các quy định của
Hiến pháp năm 2013.

3



- Trên cơ sở kết quả đạt được từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn,
nêu ra các yêu cầu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện thể chế pháp lý về
kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta thời gian tới.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận chính là học thuyết Mác – Lênin, tư
tưởng H Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Có tham khảo một số tư tưởng,
học thuyết về nhà nước và pháp luật trên thế giới, như: học thuyết chủ quyền
nhân dân, học thuyết phân chia quyền lực, lý luận về nhà nước pháp quyền,…
Vận dụng các quan điểm của Đảng ta trong lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước theo yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của triết học Mác – Lê nin; đ ng thời áp dụng các phương pháp cụ thể như:
phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp chuyên gia; phương pháp hệ
thống, liên ngành; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp luật học
so sánh, … để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Bao g m các đề tài khoa học, sách
chuyên khảo, bài báo, tạp chí khoa học có chứa đựng các phân tích và kết luận
đã được các tác giả khác thực hiện; các văn kiện của Đảng, văn bản quy phạm
pháp luật của Nhà nước, số liệu thống kê chính thức đã công bố,… Phương
pháp này được áp dụng chủ yếu trong Chương 1 và Chương 3 của Luận án.
- Phương pháp chuyên gia: Được sử dụng để thu thập thông tin và ý
kiến của những chuyên gia, các nhà khoa học đã và đang nghiên cứu về
những vấn đề liên quan đến đề tài. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu
trong Chương 2 và Chương 3 của Luận án.
4



- Phương pháp hệ thống, liên ngành: Đặt đối tượng nghiên cứu trong
mối quan hệ có tính chỉnh thể, biện chứng, khách quan, kết hợp thành tựu
nghiên cứu của nhiều ngành (xã hội học, chính trị học, luật học,...) để luận
giải đa diện, đa chiều về đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này áp dụng chủ
yếu trong Chương 2 của Luận án.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Được sử dụng để tổng hợp các số
liệu, tri thức có được từ hoạt động nghiên cứu tài liệu, phỏng vấn chuyên gia
nhằm đưa ra những luận giải, nhận xét và đề xuất của tác giả luận án. Phương
pháp này được áp dụng chủ yếu trong Chương 3 và Chương 4 của Luận án.
- Phương pháp luật học so sánh được vận dụng trong nghiên cứu thể
chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước; rút ra những
kinh nghiệm có thể áp dụng phù hợp với yêu cầu, đặc điểm của Việt Nam.
Phương pháp này thể hiện tập trung ở mục 2.3, Chương 2 của Luận án.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là các vấn đề lý luận về thể chế
pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước; thực tiễn xây dựng, áp dụng thể chế
pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đây là đề tài có phạm vi rộng, do đó, trong khuôn khổ Luận án này, tác
giả xác định phạm vi nghiên cứu chủ yếu là thể chế pháp lý về kiểm soát
quyền lực nhà nước được quy định trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959,
1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001); tập trung vào thể chế pháp lý được
xây dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 và một số luật mới ban hành trong
thời gian gần đây ở nước ta.
5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án
- Luận án đã bổ sung, xây dựng được cơ sở lý luận về thể chế pháp lý
kiểm soát quyền lực nhà nước một cách khoa học, hệ thống và toàn diện: làm

5


rõ được khái niệm, đặc điểm, vai trò, các bộ phận cấu thành, nội dung, hình
thức của thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước; trình bày được một
số kinh nghiệm từ việc tham khảo thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà
nước của một số nước trên thế giới.
- Luận án đã khái quát được quá trình hình thành và phát triển thể chế
pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta qua các thời kỳ hiến pháp;
đặc biệt, tập trung phân tích thực trạng thể chế và việc áp dụng thể chế pháp
lý về kiểm soát quyền lực nhà nước hiện hành tính từ khi có Hiến pháp năm
2013 đến nay.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Luận án nêu được các yêu
cầu và đề xuất giải pháp hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực
nhà nước ở Việt Nam dưới góc nhìn tổng thể, đ ng bộ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
- Kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ góp phần xây dựng cơ sở lý luận
khoa học cho việc hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà
nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Luận án góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập của thể chế pháp
lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay bằng việc đề xuất
hoàn thiện thể chế đó theo tinh thần và nội dung mới của Hiến pháp năm
2013, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
- Luận án là ngu n tài liệu tham khảo tin cậy và cần thiết phục vụ hoạt
động nghiên cứu khoa học và giảng dạy trong các cơ sở giáo dục và đào tạo.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác
giả đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
g m 4 chương, 11 mục và các tiểu mục.


6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về quyền lực nhà nước
Tại Việt Nam, quyền lực nhà nước (QLNN) thuộc đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành: luật học, chính trị học, hành chính học, triết học,... Vì
vậy, QLNN được quan tâm luận giải dưới nhiều góc độ, qua đó đã góp phần
làm sáng tỏ những vấn đề, như: khái niệm, ngu n gốc, bản chất, cách thức tổ
chức, cơ chế vận hành, các bộ phận cấu thành QLNN. Các kết quả nghiên cứu
về QLNN đã được công bố trong nhiều tác phẩm, tiêu biểu như:
- Sách tham khảo Một số vấn đề về tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009) của TS. Nguyễn Minh
Đoan và các tác giả, trong đó đã trình bày: khái quát về QLNN; quyền lực nhà
nước thống nhất và vấn đề phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện QLNN ở Việt Nam; vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam với việc tổ chức thực hiện QLNN; nguy cơ tha hóa QLNN; vấn đề
bảo đảm tính minh bạch trong hoạt động của nhà nước.
- Sách chuyên khảo Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Nhà
xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2009) do GS.TSKH. Đào Trí Úc và
PGS.TS. Phạm Hữu Nghị đ ng chủ biên. Trên cơ sở nghiên cứu phân tích về
đặc trưng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã cho rằng cần
thiết xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phải bảo đảm sự giám sát
đối với việc thực thi QLNN ở Việt Nam.
Trong giai đoạn chuẩn bị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, nhiều

nghiên cứu đã tiếp tục đi sâu vào các vấn đề về QLNN và tổ chức quyền lực
7


nhà nước, như: Hội thảo “Quyền hành pháp – Một số vấn đề lý luận và Thực
tiễn” và Hội thảo “Quyền tư pháp – Một số vấn đề Lý luận và thực tiễn” do
Bộ Tư pháp tổ chức tại Hà Nội năm 2013. Các bài viết về QLNN, như: “Nội
hàm và thể hiện nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của PGS.TS. Vũ Thư, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 21, năm 2010; “Hoàn thiện mô hình tổ chức và vận hành quyền
lực nhà nước trong Hiến pháp” của TS. Đỗ Minh Khôi;… Một số nghiên cứu
khác cũng đề cập đến QLNN ở góc độ phân cấp, phân quyền giữa chính
quyền trung ương và chính quyền địa phương, như: Đề tài cấp bộ “Phân công
quyền lực gi a chính quyền trung ương và chính quyền đ a phương tại Việt
Nam - L ch s

Lý luận và Thực tiễn” của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư

pháp, nghiệm thu năm 2012); bài viết Đổi mới nhận thức về phân cấp phân
quyền gi a trung ương và đ a phương gi a chính quyền đ a phương các cấp
ở nước ta hiện nay của tác giả Chu Văn Hưởng trên Tạp chí Quản lý Nhà
nước, số 192(1/2012);...
Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, nhiều nhà nghiên cứu tiếp
tục có các bài viết phân tích sâu sắc những vấn đề về QLNN và tổ chức, vận
hành QLNN theo tinh thần Hiến pháp mới và đóng góp cho việc xây dựng các
luật về tổ chức bộ máy nhà nước, như: “Nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước
trong Hiến pháp năm 2013” của PGS,TS. Đinh Xuân Thảo; “Nh ng nội dung
cơ bản của Hiến pháp năm 2013 về chính quyền đ a phương và đ nh hướng
triển khai” của PGS, TS. Nguyễn Đức Minh; “Làm rõ nh ng quy đ nh của
Hiến pháp về v trí vai trò pháp lý của Chính phủ” của GS.TS. Phạm H ng

Thái [124]; “Sự phát triển nhận thức và vận dụng nguyên tắc về tổ chức
quyền lực nhà nước ở nước ta từ năm 1986 đến nay” của PGS,TS. Bùi Xuân
Đức; “Quyền lực nhà nước là thống nhất thuộc về nhân dân thể hiện xuyên
suốt trong toàn bộ Hiến pháp năm 2013” của TS. Trần Thị Tuyết Mai [123].

8


Gần đây, để góp phần xây dựng văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII, nhiều quan điểm khoa học về QLNN được quan tâm chia sẻ, trong đó
tiêu biểu là các bài viết tại Hội thảo khoa học “Những vấn đề lý luận và thực
tiễn cấp bách về nhà nước và pháp luật trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng” do Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam) tổ chức tại Hà Nội ngày 14-15/7/2015, như: “Nh ng
vấn đề cấp bách trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở
nước ta hiện nay” của GS.TS. Võ Khánh Vinh; “Tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của
GS.TSKH. Đào Trí Úc; “Bàn về nh ng mối liên hệ của quyền lực nhà nước ở
nước ta hiện nay” của PGS.TS. Nguyễn Đức Minh; “Một số vấn đề về quyền
lực nhà nước ở nước ta hiện nay” của PGS.TS. Vũ Thư; “Quan hệ gi a
Đảng và Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” của
PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương; “Tổ chức thực thi quyền lập pháp trong
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” của TS. Nguyễn Văn Thuận; “Tổ
chức thực thi quyền hành pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam”
của TS. Nguyễn Văn Tuấn; “Tổ chức thực thi quyền tư pháp trong Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam” của TS. Phạm Thị Hương Lan …[122].
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà
nước
Cho đến nay, nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước (KSQLNN)
ở nước ta đã có khá nhiều, cả dưới góc độ chung và đi vào từng cơ chế, hình

thức, chủ thể, đối tượng của hoạt động KSQLNN. Trước khi có Hiến pháp
năm 2013, các công trình nghiên cứu tập trung vào các hình thức KSQLNN
như: giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát..., gắn với một số chủ thể: Nhân
dân, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,... Trong giai đoạn
chuẩn bị dự thảo Hiến pháp sửa đổi và sau khi ban hành Hiến pháp mới vào
năm 2013, các nghiên cứu về KSQLNN được thúc đẩy mạnh mẽ hơn, toàn
9


diện hơn, đi sâu vào các cơ chế KSQLNN bên ngoài, bên trong, cơ chế bảo
hiến. Có thể tóm tắt một số công trình tiêu biểu, như:
* Những nghiên cứu chung về KSQLNN:
- Sách “Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước
ở nước ta hiện nay” (Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2003), do GS.TSKH.
Đào Trí Úc và GS.TS. Võ Khánh Vinh đ ng chủ biên. Cuốn sách tập hợp
nhiều bài viết của nhiều nhà khoa học về giám sát việc thực hiện QLNN. Từ
phân tích, đánh giá những hạn chế, bất cập trong hoạt động thực tiễn của cơ
chế giám sát QLNN ở Việt Nam, các tác giả chỉ rõ sự khác biệt giữa giám sát
bên trong hệ thống QLNN, mang tính quyền lực nhà nước và giám sát bên
ngoài, không mang tính QLNN. Tuy nhiên, công trình chỉ tập trung nghiên
cứu về giám sát và cơ chế giám sát, chưa nghiên cứu các hình thức KSQLNN
khác như thanh tra, kiểm tra, kiểm sát... và chưa đi sâu luận giải về thể chế
pháp lý cho hoạt động KSQLNN.
- Sách chuyên khảo “Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay" của TS. Trịnh Thị Xuyến (Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008). Tác giả đã làm rõ nhiều vấn đề về
KSQLNN trên phương diện lý luận và thực tiễn, như: cơ sở lý luận về
KSQLNN; tính tất yếu, khái niệm, nội dung, mục đích, những phương thức
KSQLNN; thực tiễn KSQLNN ở một số nước tiêu biểu như Mỹ, Anh,
Singapore, Malaysia, Nhật Bản...; thực tiễn KSQLNN ở Việt Nam, những

mâu thuẫn, bất cập trong KSQLNN mà Việt Nam đang và sẽ phải giải quyết;
phương hướng và những giải pháp chủ yếu cho KSQLNN ở Việt Nam. Tuy
nhiên, vì tiếp cận KSQLNN dưới góc độ rộng, thiên về chính trị học, nên
công trình nghiên cứu chưa đi sâu vào thể chế pháp lý về KSQLNN.
- Sách chuyên khảo “Sự hạn chế quyền lực Nhà nước" của PGS.TS.
Nguyễn Đăng Dung (Nhà xuất bản Đại học quốc gia, Hà Nội, 2005). Cuốn
sách trình bày về cơ sở lý luận của sự hạn chế quyền lực nhà nước và nội
10


dung của việc hạn chế quyền lực nhà nước. Theo tác giả, nhà nước là một
thiết chế rất cần thiết, nhưng khi đã cần đến nhà nước thì cần phải có giới hạn
quyền lực của nó; ban hành hiến pháp là phương thức quan trọng nhất để
KSQLNN. Tác giả đề cập đến những phương thức hạn chế quyền lực nhà
nước, như: Dùng hiến pháp quy định và bảo đảm quyền con người; bầu cử các
chức danh quan trọng trong bộ máy nhà nước đi kèm với chế độ bỏ phiếu tín
nhiệm, bãi nhiệm đại biểu dân cử; phân chia, phân công, phân nhiệm và tự
kiểm tra bên trong giữa các cơ quan nhà nước; hoạt động tự do báo chí; sự
công khai, minh bạch của chính quyền; bỏ phiếu trưng cầu ý dân; sự độc lập
của tòa án; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị
- xã hội. Tác giả trích dẫn và phân tích nhiều nội dung trong Hiến pháp Mỹ,
Anh, Pháp,... để làm phong phú thêm các luận điểm về hạn chế quyền lực nhà
nước. Tuy nhiên, trong cuốn sách này, vì tập trung luận giải về hạn chế quyền
lực nhà nước, vấn đề còn khá mới mẻ ở nước ta vào năm 2005, nên tác giả có
nhắc đến nhưng chưa đi sâu phân tích các hình thức KSQLNN ở Việt Nam.
- Sách chuyên khảo: “Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước” của
PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng (Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2011). Tác giả
viện dẫn quan điểm của Jean Jacque Rousseau về kiểm soát quyền lực nhà
nước cách đây gần 250 năm và khẳng định đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Tiếp đó, tác giả đã nghiên cứu, phân tích, lý giải cách thức tổ chức và kiểm

soát quyền lực nhà nước trong các kiểu, mô hình nhà nước phong kiến Việt
Nam, các nhà nước tư sản, các nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Trung
và Đông Âu (trước 1991); nước Nga và các nước Trung, Đông Âu ngày nay;
... Đây là công trình có giá trị tham khảo về KSQLNN tuy nhiên tác giả chưa
đi sâu vào thể chế pháp lý về KSQLNN ở nước ta.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước: “Phân công phối hợp quyền lực và
kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam"(Mã số KX. 04-28/6-10) và Sách chuyên khảo "Một số vấn đề về
11


phân công phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2011) do GS.TS. Trần Ngọc Đường làm Chủ nhiệm và Chủ biên. Tác giả đã
nghiên cứu tổng thể về phân công, phối hợp và KSQLNN trong xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện
và kiến nghị liên quan trực tiếp đến phân công, phối hợp và KSQLNN trong
mối liên hệ với các chủ thể cấu thành hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đây là
công trình giải quyết một cách tương đối có hệ thống cả về lý luận và thực
tiễn mối liên hệ giữa Nhân dân với nhà nước - chủ thể tối cao của quyền lực
nhà nước; giữa Đảng với Nhà nước và giữa các cơ quan nhà nước với nhau.
Tuy nhiên, đề tài chưa đi sâu nghiên cứu về thể chế pháp lý KSQLNN.
- Các bài viết: “Kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” của GS.TS. Đinh Văn Mậu, Tạp
chí Quản lý nhà nước, số 10, năm 2009; “Bàn thêm về mối quan hệ phân
công phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của
GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Tạp chí Kiểm sát, năm 2012; “Vấn đề kiểm soát
quyền lực nhà nước” của TS. Phạm Thế Lực, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 01 năm 2011; “Tư tưởng quan điểm kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt
Nam hiện nay” của TS. Trần Quốc Việt, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 07

năm 2012; “Kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay” của PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan [122];…. Trong những
công trình trên các tác giả đã đề cập đến khái niệm kiểm soát quyền lực, sự
cần thiết phải kiểm soát quyền lực, một số vấn đề liên quan đến KSQLNN.
* Những nghiên cứu về KSQLNN bên trong bộ máy nhà nước:
- Luận án tiến sĩ luật học của Trương Thị H ng Hà (2007), Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia H Chí Minh: “Hoàn thiện cơ chế pháp lý
bảo đảm chức năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”. Trên cơ sở tiếp cận, phân tích làm sáng tỏ khái niệm cơ chế pháp
12


lý, các yếu tố cấu thành và mối quan hệ mật thiết tạo nên hệ thống cơ chế
pháp lý, Luận án là một công trình nghiên cứu công phu có tính khoa học cao
về hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát QLNN từ phía một chủ thể đặc trưng là
Quốc hội ở Việt Nam. Đây là công trình có ý nghĩa tham khảo về mặt lý luận
cho việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bằng dân chủ đại
diện ở nước ta.
- Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Chí Dũng (2009), Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia H Chí Minh: “Về cơ chế pháp lý giám sát
hoạt động tư pháp ở Việt Nam”. Đây là công trình mà tác giả chủ yếu đi sâu
phân tích về cơ chế pháp lý giám sát đối với các hoạt động tư pháp bên trong
nhà nước còn cơ chế giám sát (kiểm soát) bên ngoài nhà nước mang tính
Nhân dân tác giả chưa đề cập nghiên cứu.
- Ngoài ra còn có các bài viết: “Phân công phối hợp và kiểm soát
trong thực hiện quyền lập pháp ở Việt Nam" của TS. Lương Minh Tuân, Tạp
chí nghiên cứu lập pháp số 9 (146) năm 2009; “Cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước (và cả quyền lập pháp) trong nhà nước pháp quyền" của GS.TSKH.
Lê Văn Cảm và ThS. Dương Bá Thành, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1
(162), năm 2010; “Về kiểm soát quyền lực hành pháp trong hệ thống quyền

lực nhà nước Việt Nam hiện nay” của PGS.TS. Vũ Thư, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 12, năm 2006; “Kiểm soát quyền lực nhà nước bằng hệ thống
Viện Kiểm sát ở Việt Nam trong bối cảnh s a đổi Hiến pháp hiện nay” của
GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Tạp chí Kiểm sát, số 13, năm 2012; "Kiểm soát của
Trung ương đối với chính quyền đ a phương ở một số nước trên thế giới” của
TS. Nguyễn Thị Thu Vân, trên trang: www.caicachhanhchinh.gov.vn…
Sau khi Hiến pháp năm 2013 chính thức khẳng định yếu tố kiểm soát
trong nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta, đã có nhiều tác giả
phân tích sâu sắc hơn về vị trí, vai trò của các cơ quan nhà nước trong cơ chế
KSQLNN, như các bài viết: “Quốc hội trong cơ chế phân công phối hợp và
13


kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam” của TS. Hoàng Minh Hiếu;
“Chính phủ trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước” của TS. Dương
Thanh Mai; “Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân trong cơ chế phân
công phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của
PGS,TS. Trương Thị H ng Hà [123];…
* Những nghiên cứu về KSQLNN từ bên ngoài bộ máy nhà nước:
- Kiểm soát quyền lực nhà nước của Nhân dân:
+ Sách chuyên khảo: “Cơ chế giám sát của Nhân dân đối với hoạt động
của bộ máy đảng và nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, do
GS.TSKH. Đào Trí Úc chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2010). Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu của nhiều tác giả về cơ chế
giám sát của Nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước. Các
tác giả tập trung phân tích khoa học, có hệ thống về bản chất nền dân chủ
XHCN và yêu cầu xây dựng cơ chế giám sát của Nhân dân đối với hoạt động
của bộ máy Đảng và Nhà nước trong điều kiện một Đảng cầm quyền. Xác
định vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ các chủ thể là MTTQ, các tổ chức
thành viên trong cơ chế Nhân dân giám sát Đảng và Nhà nước cũng như thực

trạng của cơ chế này ở nước ta. Công trình đã nghiên cứu kinh nghiệm một số
nước trên thế giới về hình thức giám sát của Nhân dân trong tổ chức thực hiện
quyền lực quyền lực nhà nước và đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất
lượng giám sát của Nhân dân đối với hoạt động của Đảng và Nhà nước.
+ Luận án Tiến sĩ luật học của Nguyễn Mạnh Bình (2009), Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia H Chí Minh, Hoàn thiện cơ chế pháp lý
giám sát xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện
nay. Đây là công trình tác giả đi sâu vào phân tích, luận chứng cơ sở lý luận
và thực tiễn cũng như yêu cầu hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối
với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Luận án đã nêu rõ thể chế
pháp lý là một yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý giám sát xã hội đối với việc
14


thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta, phân biệt thể chế với thiết chế. Tuy
nhiên, Luận án này chỉ đề cập đến cơ chế và thể chế pháp lý giám sát xã hội,
một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước.
+ Luận án Tiến sỹ luật học của Hoàng Minh Hội (2014), Học viện
Chính trị quốc gia H Chí Minh, Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân
dân đối với cơ quan hành chính nhà nước của Việt Nam. Luận án đã nghiên
cứu khá hoàn chỉnh về cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về giám
sát của nhân dân đối với hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, trên cơ sở
đó, đề ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối
với cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay. Những kiến nghị về giải
pháp này có ý nghĩa tham khảo đối với tổng thể vấn đề hoàn thiện thể chế
pháp lý về KSQLNN, trong đó có KSQLNN từ phía nhân dân.
+ Luận án Tiến sỹ luật học của Nguyễn Quang Anh (2015), Học viện
Chính trị quốc gia H Chí Minh, Hoàn thiện cơ chế pháp lý Nhân dân kiểm
soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Sau khi Hiến pháp 2013 được ban hành,
đây là công trình nghiên cứu khá toàn diện về cơ chế pháp lý nhân dân

KSQLNN trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam; làm rõ được khái niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu thành và mối quan hệ
giữa các yếu tố cấu thành cơ chế, vai trò, mục đích, tiêu chí hoàn thiện cơ chế
pháp lý nhân dân KSQLNN; nội dung và phương thức hoạt động của cơ chế;
khảo sát cơ chế pháp lý nhân dân KSQLNN một số nước và rút ra những giá
trị tham khảo cho Việt Nam; khái quát được thực trạng và chỉ ra những hạn
chế, nguyên nhân hạn chế của cơ chế pháp lý nhân dân KSQLNN ở Việt Nam
hiện nay; đề xuất được các quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý
nhân dân KSQLNN ở Việt Nam. Tuy nhiên, luận án mới nghiên cứu một bộ
phận của thể chế pháp lý về KSQLNN là thể chế KSQLNN từ phía Nhân dân,
và chưa coi thể chế như một chỉnh thể mà chỉ dưới quan niệm là một yếu tố
cấu thành trong cơ chế pháp lý nhân dân KSQLNN ở Việt Nam.
15


+ Ngoài ra, các bài viết: “Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam vận động Nhân dân thực hiện giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở" của Trần Thanh Bình, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 9 năm 2003;
“Cần tăng cường hơn n a sự kiểm tra giám sát của Nhân dân đối với việc
phòng chống quan liêu tham nhũng hiện nay" của Bùi Thành Phần, Tạp chí
Dân vận, số 01/2005; “Tăng cường hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc
đối với hoạt động của cơ quan nhà nước cán bộ công chức" của GS. Lưu
Văn Đạt, Tạp chí Mặt trận, số 31/2006; “Nâng cao vai trò giám sát của
MTTQ Việt Nam" của tác giả Huỳnh Đảm, Tạp chí Cộng sản, số 792, năm
2008;“Giám sát xã hội trong nhà nước pháp quyền" của Vũ Anh Tuấn, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp số 31(130), 7/2009;... đã góp phần phân tích về các
chủ thể, nội dung, hình thức KSQLNN từ phía nhân dân ở Việt Nam.
- Kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng Cộng sản Việt Nam:
+ Đề tài cấp bộ “Mối quan hệ gi a nhà nước với Đảng Cộng sản trong
Nhà nước pháp quyền Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” (Mã số: CT11-1603) do PGS.TS Nguyễn Thị Việt Hương, Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện

Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, làm Chủ nhiệm. Đề tài đã làm rõ cơ sở
lý luận của mối quan hệ giữa nhà nước với Đảng trong Nhà nước pháp quyền
Việt Nam; đánh giá thực trạng mối quan hệ đó trong lĩnh vực thực hiện quyền
lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp; đánh giá thực trạng mối quan hệ
giữa cơ quan nhà nước và cấp uỷ Đảng tại các địa phương, cơ quan; đưa ra
mô hình mối quan hệ giữa các cơ quan lãnh đạo của Đảng với cơ quan nhà
nước ở Trung ương và địa phương và nêu yêu cầu phải thể chế hoá, có thể
bằng các quy định của pháp luật, có thể bằng các văn bản có tính quy phạm
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, hoặc có thể bằng các văn bản
liên tịch. Đề tài có ý nghĩa tham khảo rất hữu ích khi nghiên cứu về thể chế
pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước, nhất là từ chủ thể kiểm soát là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
16


+ Ngoài ra còn có các bài viết: “Tăng cường giám sát trong Đảng" của
PGS.TS. Nguyễn Thị Doan, Tạp chí Cộng sản số 22, năm 2004; “Lênin nói về
kiểm tra giám sát để xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên trong sạch" của Lê
Trọng Hanh, Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 4 năm 2005; cuốn sách "Tăng
cường công tác giám sát của Đảng", của tác giả Mai Thế Dương, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013;... đã viết về kiểm soát của
Đảng Cộng sản Việt Nam với việc tổ chức, thực hiện QLNN, một đặc điểm
rất quan trọng trong tổ chức, vận hành của hệ thống chính trị nước ta.
* Những nghiên cứu về cơ chế bảo vệ Hiến pháp:
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam,
nhất là dịp chuẩn bị sửa đổi Hiến pháp 1992 để ban hành Hiến pháp mới 2013,
nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung vào vấn đề bảo vệ Hiến pháp, coi đây như
là vấn đề cốt lõi của sự hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà nước.
Hầu như tất cả các công trình nghiên cứu chuyên khảo về nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam khi nêu các đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa đều thừa nhận nguyên tắc tính tối cao của Hiến pháp, như:
GS.TSKH. Đào Trí Úc (chủ biên, 2007), “Mô hình tổ chức và hoạt động của
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam”, (Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, tr.
245); GS.VS. Nguyễn Duy Quý và PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn (đ ng chủ biên,
2008), “Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân: Lý
luận và thực tiễn”, (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.163).
Ngoài ra, quan điểm ủng hộ việc thành lập Tòa án Hiến pháp được chia
sẻ bởi nhóm nghiên cứu của PGS.TS. Nguyễn Như Phát và các cộng sự trong
sách “Tài phán Hiến pháp: Một số vấn đề lý luận cơ bản, kinh nghiệm quốc
tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam” (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2011); hay TS. Võ Trí Hảo trong bài “Tài phán Hiến pháp – Nh ng vấn
đề phổ biến, đặc thù quốc gia và mô hình thích hợp cho Việt Nam” (sách

17


Nguyễn Đăng Dung chủ biên, Những vấn đề về Hiến pháp và sửa đổi Hiến
pháp, Nhà xuất bản Dân trí, Hà Nội, 2012, tr. 97).
Về các cơ chế bảo hiến khác, GS.TS. Nguyễn Đăng Dung có bài: “Xây
dựng cơ chế bảo hiến trong hoạt động lập pháp ở Việt Nam” tại Hội thảo
khoa học do Bộ Tư pháp tổ chức năm 2008 tại Hà Nội. Nhiều ý kiến của các
đ ng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, như: Đỗ Mười (2012), “Góp ý
s a đổi, bổ sung Hiến pháp 1992: Xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo hiến",
Báo Lao động điện tử ngày 17/5/2012 />Như vậy, nghiên cứu về cơ chế bảo hiến, từ chỗ chỉ là bước khởi đầu
tập hợp, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, đã trở thành bộ phận không thể
thiếu, có ý nghĩa quan trọng trong các nghiên cứu về KSQLNN ở nước ta.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về thể chế pháp lý kiểm soát
quyền lực nhà nước
* Những vấn đề lý luận về thể chế, thể chế pháp lý KSQLNN:
Về thể chế, một số sách báo chuyên ngành, đề tài nghiên cứu, hội thảo

khoa học đã đề cập đến khái niệm thể chế dưới những góc độ khác nhau, chủ
yếu dưới góc độ kinh tế và quản lý xã hội, tiêu biểu như: Sách “Thể chế cải
cách thể chế và phát triển: Lý luận và thực tiễn ở nước ngoài và Việt Nam”
của TS. Đinh Văn Ân và TS. Võ Trí Thành (chủ biên), (Nxb Thống kê, Hà
Nội, 2002). Đề tài “Thể chế xã hội trong phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội ở nước ta hiện nay” là một trong các đề tài thuộc Chương trình
khoa học-công nghệ cấp nhà nước KX02/06-10 “Quản lý phát triển xã hội
trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam” do TS. Dương Thị Thanh Mai làm Chủ
nhiệm. Hội thảo quốc tế về “Cải cách thể chế kinh tế: chuyển đổi cấu trúc
tăng trưởng toàn diện và bền v ng” do Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế
Trung ương (CIEM), Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp cùng Viện nghiên cứu
Kinh tế Phát triển Thế giới thuộc Đại học Liên hợp Quốc (UNU-WIDER) tổ
18


chức ngày 29 - 30/6/2014, tại Hà Nội… Các nghiên cứu trên cho thấy cách
hiểu còn đa chiều về khái niệm thể chế ở nước ta và chưa tiếp cận sâu khái
niệm thể chế dưới góc độ pháp lý.
Sách “Thể chế chính tr ” của tác giả Nguyễn Đăng Dung và Bùi Ngọc
Sơn (Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004) đã tiếp cận quan niệm thể
chế khi nghiên cứu về thể chế chính trị. Theo các tác giả: “Mỗi lĩnh vực hoạt
động của con người đều có các thể chế nhất định. Vì vậy, thể chế bao g m
nhiều loại khác nhau: thể chế kinh tế, thể chế chính trị, thể chế giáo dục, thể
chế y tế, thể chế văn hoá,…”. Điểm độc đáo của công trình này là tiếp cận thể
chế chính trị dưới hai góc độ: Thể chế chính trị về hành vi và thể chế chính trị
về tổ chức. Và, dựa vào hình thức thể hiện để chia làm hai loại, thể chế chính
trị thành văn và thể chế chính trị bất thành văn. Thể chế chính trị thành văn
thể hiện tập trung trong hiến pháp của mỗi quốc gia, nhưng còn có thể được
quy định ở các văn bản dưới hiến pháp, bao g m: các đạo luật thường, thậm
chí cả văn bản dưới luật. Do đó, tuy không nêu trực tiếp vấn đề thể chế pháp

lý về kiểm soát quyền lực nhà nước, song cuốn sách chứa đựng nhiều nội
dung tham khảo có giá trị cho Luận án.
Về thể chế pháp lý KSQLNN, gần đây có một số nhà khoa học đã trình
bày quan niệm về thể chế trong cơ chế KSQLNN. Tiêu biểu như: Đề tài cấp
bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước trong vệc thực hiện các quyền lập pháp hành pháp tư pháp ở
nước ta, do GS.TS. Trần Ngọc Đường làm Chủ nhiệm (Văn phòng Quốc hội
đã nghiệm thu năm 2015). Hai bài viết: “Về các yếu tố cấu thành của cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước” và “Quan niệm về kiểm soát và cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước” của PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan, PGS.TS. Vũ Thu
Hạnh, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (Viện Nhà nước và Pháp luật), số
7/2014 và số 9/2014. Mặc dù không đề cập trực tiếp, toàn diện các vấn đề lý
luận về thể chế pháp lý KSQLNN, song những công trình nêu trên đã thừa
19


nhận thể chế pháp lý là một bộ phận có vị trí, vai trò quan trọng, nền tảng
trong cơ chế pháp lý KSQLNN, và gợi mở cho Nghiên cứu sinh hướng đi sâu
nghiên cứu về thể chế pháp lý KSQLNN.
* Những nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về xây dựng thể chế pháp lý
KSQLNN
- Sách Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào? của tác giả Nguyễn
Cảnh Bình (Nhà xuất bản Thế giới, tái bản lần thứ 4, năm 2013). Cuốn sách
có cách tiếp cận về lịch sử lập hiến nước Mỹ khá toàn diện và lối viết dễ hiểu,
góp phần giải thích ý nghĩa của bản Hiến pháp Mỹ, và còn giúp người đọc
hiểu được quá trình xây dựng một đạo luật quan trọng nhất ở Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ. Những lập luận, tranh luận của những người được mệnh danh là cha
đẻ của bản Hiến pháp Mỹ, những nội dung của Hiến pháp này và bản Tuyên
ngôn nhân quyền của nước Mỹ đã cho thấy nhiều kinh nghiệm về xây dựng
thể chế pháp lý KSQLNN ở một nước tư sản phát triển hàng đầu hiện nay.

- Sách “Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới”
của Ban Biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia – sự thật, Hà Nội, 2013) đã trình bày tổng quan về hiến pháp các
nước trên thế giới, trong đó đáng chú ý là: Chương I có phần trình bày về chế
độ bảo vệ hiến pháp; Chương II về chủ quyền nhân dân và các hình thức nhân
dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước; Chương III về quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Chương V về tổ chức bộ máy nhà
nước ở trung ương; Chương VI về chính quyền địa phương. Đây là tài liệu có
giá trị để nghiên cứu thể chế pháp lý về KSQLNN ở các nước trên thế giới.
- Ngoài ra, còn có các công trình tham khảo hữu ích khác, như: Bài viết
“Nguyên tắc phân quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước của các nhà nước
tư bản phát triển” của GS, TS. Nguyễn Đăng Dung [123]; đề tài KX.10-10,
thuộc chương trình KX.10, Mô hình tổ chức và hoạt động tổ chức của hệ
thống chính tr ở một số nước trên thế giới, của PGS.TS. Tô Huy Rứa; Tuyển
20


tập Hiến pháp một số nước trên thế giới (Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội,
2009) của Trung tâm thông tin, thư viện và nghiên cứu khoa học - Văn phòng
Quốc hội, … Kinh nghiệm quốc tế về KSQLNN cũng được trình bày như một
hợp phần không thể thiếu trong một số công trình nghiên cứu về KSQLNN ở
nước ta.
* Những nghiên cứu về thực trạng thể chế pháp lý về KSQLNN ở nước
ta và kiến nghị hoàn thiện thể chế pháp lý về KSQLNN
Thời gian gần đây, trong các nghiên cứu về cơ chế pháp lý KSQLNN
đã cơ bản thừa nhận cơ chế đó bao g m thể chế và các thiết chế, có quan điểm
bổ sung thêm các điều kiện và có quan điểm bổ sung thêm sự tương tác của
các bộ phận cấu thành cơ chế. Đa số các nghiên cứu dựa trên quan điểm thể
chế KSQLNN chính là tổng thể các quy định của pháp luật có nội dung, mục
đích và vai trò quy định về hoạt động KSQLNN. Từ đó, nhiều nghiên cứu đề

cập trực tiếp đến pháp luật về KSQLNN, nhất là trong các nghiên cứu về thực
trạng thể chế và kiến nghị giải pháp hoàn thiện thể chế.
- Sách chuyên khảo: S a đổi bổ sung Hiến pháp 1992: Nh ng vấn đề
lý luận và thực tiễn, tập 1: Những vấn đề chung về Hiến pháp và bộ máy nhà
nước, tập 2: Quyền công dân, quyền con người, chế độ kinh tế, bảo hiến và
một số vấn đề khác. Sách của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội và Trung
tâm thông tin thư viện và Nghiên cứu Khoa học, Văn phòng Quốc hội do
Phạm H ng Thái, Nguyễn Sỹ Dũng, Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao,
Hoàng Minh Hiếu, Đặng Minh Tuấn đ ng chủ biên (Nhà xuất bản H ng Đức,
Hà Nội, 2012). Cuốn sách tập hợp 76 bài nghiên cứu chọn lọc của nhiều nhà
luật học đầu ngành và nhà nghiên cứu của Việt Nam về những vấn đề cơ bản
của Hiến pháp. Trong đó, đáng lưu ý là Phần II Tổ chức và kiểm soát quyền
lực nhà nước, với các bài viết: Kiểm soát gi a các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp hành pháp tư pháp của GS.TS Phạm
H ng Thái; Kiểm soát quyền lực trong Hiến pháp của Nguyễn Đức Lam;...
21


- Sách “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Nền
tảng chính tr pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước” do Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp – Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Uỷ ban thường vụ
Quốc hội (Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội, 2014); trong đó, có nhiều
bài viết có giá trị tham khảo rất hữu ích, tiêu biểu như: Các bài viết trong
Phần thứ nhất: Những vấn đề chung về Hiến pháp: Ý nghĩa của quy đ nh về
Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến pháp năm 2013 của PGS, TS. Nguyễn
Minh Đoan; Nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 2013
của PGS, TS. Đinh Xuân Thảo; Hiến pháp năm 2013: Cơ hội và thách thức
cải cách thể chế nhà nước của PGS,TS. Vũ Công Giao; Luật hoá việc kiểm
soát quyền lực nhà nước của nhân dân theo Hiến pháp năm 2013 của
PGS,TS. Lê Văn Hoè và Ths, LS. Lê Việt Nga; Quyền giám sát của Nhân dân

đối với bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 2013 của Ths. Hoàng Minh
Hội… và các bài phân tích, bình luận trong Phần thứ hai: Quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
- Sách: Nh ng vấn đề lý luận và thực tiễn s a đổi bổ sung Hiến pháp
năm 1992 của tập thể tác giả do TS. Uông Chu Lưu chủ biên (Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014). Trong đó, đáng lưu ý là: Chương III: Cơ
sở lý luận về bảo vệ hiến pháp và việc vận dụng vào s a đổi Hiến pháp năm
1992; Chương IV: Quy đ nh và tổ chức thực hiện Hiến pháp năm 1992 về chế
độ chính tr ; Chương IX: Quy đ nh và tổ chức thực hiện quy đ nh của Hiến
pháp năm 1992 về tổ chức bộ máy nhà nước,...
- Sách chuyên khảo “Hiến pháp năm 2013 – Nh ng điểm mới mang
tính đột phá” của PGS.TS Hoàng Thế Liên chủ biên (Nhà xuất bản Tư pháp,
Hà Nội, 2015) phân tích những điểm mới mang tính đột phá của Hiến pháp
năm 2013, trong đó, đáng chú ý là việc bổ sung yếu tố kiểm soát vào nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước và phân tích cụ thể tại các chương bám
sát theo bố cục của bản Hiến pháp năm 2013.
22


- Đề tài cấp bộ: “Cơ chế pháp lý KSQLNN của các cơ quan nhà nước ở
Việt Nam hiện nay”, do PGS.TS Nguyễn Minh Đoan làm Chủ nhiệm, Viện
Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp là cơ quan chủ trì (đã nghiệm thu năm 2015).
Báo cáo khoa học của đề tài đã trình bày các vấn đề lý luận về cơ chế pháp lý
kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước; đặc biệt rất có giá
trị ở phần nghiên cứu thực tiễn và khảo sát đối với cán bộ, công chức và nhân
dân tại Thành phố Hà Nội, tỉnh Thanh Hóa, tỉnh Điện Biên để đánh giá về thể
chế pháp lý và thực tiễn kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà
nước ở Việt Nam hiện nay. Báo cáo trình bày khoa học và mạch lạc về các
vấn đề: quyền lập pháp và kiểm soát quyền lập pháp, quyền hành pháp và
kiểm soát quyền hành pháp, quyền tư pháp và việc kiểm soát quyền tư pháp

của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam. Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện
Kiểm sát, Chủ tịch nước, các cơ quan chính quyền địa phương trong cơ chế
pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam.
Đây là tài liệu tham khảo rất hữu ích cho đề tài Luận án.
- Bên cạnh đó có một số bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành
như: “Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước và một số kiến giải lập hiến
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”, của GS.TSKH.
Lê Văn Cảm, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 06(2012); bài viết “Bàn thêm
về kiểm soát quyền lực nhà nước với việc s a đổi Hiến pháp năm 1992”, Tạp
chí Quản lý nhà nước, số 08, 2012, của Nguyễn Bái Chiến; bài viết “Kiểm
soát quyền lực nhà nước với việc s a đổi Hiến pháp năm 1992”, của PGS.TS.
Nguyễn Minh Đoan, Tạp chí Luật học, 08,2012; bài viết “Hiến pháp phải là
văn bản kiểm soát quyền lực nhà nước”, Tạp chí Nhà nước & Pháp luật, 04
(2012) của GS. TS Nguyễn Đăng Dung;…
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI

Kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề được đề cập từ rất sớm trong
lịch sử các tư tưởng và học thuyết chính trị trên thế giới. Thời kỳ cổ đại,
23


Aristotle đã đưa ra phương án phải phân chia quyền lực để kiểm soát lẫn nhau
trong tác phẩm “Chính tr luận” (The politics). Thời kỳ cận đại, trong tác
phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” (Two treasures of government),
J.Locke cho rằng trong thể chế chính trị tự do, quyền lực tối cao phải được
phân chia cho các tổ chức, cá nhân nắm giữ, không được tập trung trong tay
một người hay tổ chức nào. Đến Montesquieu thì lý thuyết phân quyền cơ bản
được định hình rõ nét. Lý thuyết đó là một phát kiến quan trọng của nhân loại
trong lĩnh vực chính trị - pháp lý và là một trong các nguyên tắc căn bản trong
Hiến pháp của nhiều quốc gia cho đến ngày nay.

Trong tác phẩm “Bàn về tinh thần pháp luật” (De L’Esprit des lois),
Montesquieu cho rằng cách tốt nhất để chống lạm quyền không phải là tập
trung quyền lực nhà nước mà phải phân chia quyền lực nhà nước thành ba
quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Khi đưa ra thuyết phân quyền,
Montesquieu muốn giải quyết sự xung đột giữa các giai cấp trong xã hội (vua
chúa, quý tộc và thường dân) bằng cách san sẻ quyền lực chính trị cho mỗi
giai cấp để các giai cấp tự kiểm soát và kiềm chế lẫn nhau. Phân quyền là cơ
sở để các nhánh quyền lực nhà nước tương tác, phụ thuộc, kiềm chế, đối
trọng, kiểm soát lẫn nhau, để nhà nước không dẫn đến chuyên quyền, độc
đoán… Ngoài ra, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước còn được xác định từ
bên ngoài nhà nước. Đó là những hạt nhân hợp lý đã được vận dụng phổ quát
trên thế giới có hiệu quả cần được nghiên cứu nghiêm túc và vận dụng hợp lý
ở Việt Nam.
Bên cạnh lý thuyết phân quyền, nhiều nhà tư tưởng cho rằng quyền lực
nhà nước là tập trung, thống nhất, được tạo lập từ sự ủy quyền của nhân dân,
do đó nhân dân phải làm chủ quyền lực nhà nước thông qua cơ chế dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện để kiểm soát, hạn chế quyền lực nhà nước. Cuốn
“Bàn về khế ước xã hội” của Jean Jacques Rousseau: Ông cho rằng quyền lực
nhà nước bắt ngu n từ Nhân dân, chủ quyền Nhân dân có tính chất tối cao,
24


không thể từ bỏ, không thể phân chia. Nhà nước được thiết lập thông qua một
khế ước (Hiến pháp) do tất cả người dân đ ng thuận, trao quyền lực chính trị
cho chính quyền - chính quyền là người đại diện cho ý chí của Nhân dân (dân
chúng) - để quản lý, điều hành đất nước theo nguyện vọng, ý chí của Nhân
dân. Chính quyền có thể bị thu h i quyền lực nếu không làm đúng chức năng,
nhiệm vụ được Nhân dân giao phó: “Những người được ủy thác nắm quyền
hành không phải là ông chủ của Nhân dân mà chỉ là những công chức. Dân
chúng có thể cất chức hay bãi miễn họ". Và mặc dù có sự ủy quyền nhưng

quyền lực nhà nước vẫn thuộc về Nhân dân. Có như vậy chính quyền đó mới
nguyên nghĩa là chính quyền của dân, do dân và vì dân. Ông cũng cho rằng
việc chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ
là bề ngoài là biện pháp để ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực nhà nước.
John Dewey (1859-1952), trong cuốn “Nền cộng hòa và nh ng vấn đề”
(The Public and Its Problems, 1929), “Lý thuyết giá tr ” (Theory of
Valuation, 1939) đã nêu ra vấn đề nhà nước được thiết lập là để phục vụ Nhân
dân. Điều này có nhiều điểm tương tự như luận giải về ngu n gốc phát sinh
nhà nước của các học giả trước đó. Tác giả chỉ ra tính tư hữu, tư lợi của các cá
nhân trong giai cấp cầm quyền khiến quyền lực nhà nước bị lạm dụng, biến
dạng, tha hóa nếu không có sự giám sát, kiểm soát hay “trói buộc" cần thiết
của Nhân dân (cử tri). Do đó, việc nắm quyền (các chức vụ trong bộ máy nhà
nước) phải có kỳ hạn, có cạnh tranh và mỗi quy trình thực thi quyền lực đều
phải có sự kiểm soát chặt chẽ từ Nhân dân.
Cuốn “Nghiên cứu quá trình ra quyết đ nh trong tổ chức hành chính”
(A Study of Decision- Making Process in Administration Organization, 1945)
của tác giả H.A.Simon, đã nhấn mạnh đến tính phân quyền cho các cơ quan
hoạch định chính sách, phân tích các giai đoạn hình thành và quyết định chính
sách, phân biệt quyết định chính sách với quyết định hành chính... đặc biệt tác
giả nêu lên vấn đề kiểm soát các nội dung đó phải khách quan, chặt chẽ để
25


×