Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Phát triển nông nghiệp huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.64 KB, 83 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn
gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày 26 tháng 01 năm 2016
Học viên thực hiện

Trần Đình Hoạch


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình đào tạo thạc sỹ Quản lý Kinh tế tại Học
viện khoa học xã hội, bên cạnh sự cố gắng của bản thân tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, giảng dạy, động viên và nhiều ý kiến đóng góp quý báu trong suốt
quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện đề tài này từ các thầy giáo, cô
giáo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân
thành của mình tới:
Thầy giáo hướng dẫn: Tiến sỹ Lê Anh Vũ- Phó viện trưởng viện phát
triển bền vững;
Các thầy giáo, cô giáo Khoa kinh tế học- Học khoa học xã hội; Gia
đình, bạn bè, đồng nghiệp của tôi.
Xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, ngày 26 tháng 01 năm 2016
Học viên thực hiện

Trần Đình Hoạch


Mục Lục



Danh mục chữ cái viết tắt
AFTA:

ASEAN Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do Asean

ASEAN:

Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

BĐKH:

Biến đổi khí hậu

CDCCKT: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
CDCCKTNN: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
CEPT:

Common Effective Preferential Tariff
Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung

CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
FTA:

Free Trade Agreement
Hiệp định thương mại tự do

HNKTQT: Hội nhập kinh tế quốc tế
HTX:


Hợp tác xã

KHCN:

Khoa học công nghệ

KTTT:

Kinh tế thị trường

KTXH:

Kinh tế xã hội

NN:

Nông nghiệp

NNCNC:

Nông nghiệp công nghệ cao

NTM:

Nông thôn mới

OECD:

Organization for Economic Co-operation and Development

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

SXNN:

Sản xuất nông nghiệp

WTO:

World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới



Mở Đầu
1. Sự cần thiết nghiên cứu luận văn
Thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa, trong những năm qua Việt Nam
đã tích cực, chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, đàm phán và ký kết
các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương. Các tăng
trưởng về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cán cân xuất nhập khẩu, sự cải
thiện đời sống người dân,… minh chứng cho tính hiệu quả của đường lối mở
cửa, hội nhập quốc tế.
Số liệu thống kê cho thấy gần 70% dân số nước ta sống ở nông thôn;
hơn 48% lao động làm nông nghiệp; nông nghiệp tạo ra hơn 20% GDP của
đất nước. Thời gian qua, nông nghiệp nước ta phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa, hiệu quả sản xuất nông nghiệp không ngừng nâng cao; bảo đảm
vững chắc an ninh lương thực quốc gia; đóng góp quan trọng vào cán cân
xuất khẩu. Năng 2014, xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt kim ngạch hơn
30 tỷ USD, góp phần đưa tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt trên 150
tỷ USD. Nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam chiếm vị trí cao
về kim ngạch trên thị trường thế giới như gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu,… Kinh

tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng thuần nông nghiệp. Các hình thức
tổ chức sản xuất nông nghiệp đổi mới theo hướng liên kết, hợp tác. Đã xuất
hiện các mô hình liên kết, hợp tác hiệu quả trong nông nghiệp, nông thôn, góp
phần tăng cường hiệu quả sản xuất nông nghiệp, thu nhập của nông dân. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tạo điều kiện đa dạng hóa và
nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nông dân, thu hẹp khoảng cách phát
triển giữa các vùng, miền, địa bàn, nhất là giữa nông thôn và đô thị.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình hội nhập, nông
nghiệp,

nước ta vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất cập. Đây vẫn còn là khu


vực chậm phát triển trong mối quan hệ so sánh với các khu vực khác. Đầu tư
cho nông nghiệp chưa tương xứng với vị trí, vai trò của khu vực kinh tế quan
trọng này. Cơ cấu kinh tế trong khu vực nông thôn chuyển dịch chậm, tỷ
trọng nông nghiệp còn cao.
Tính quy hoạch, kế hoạch trong sản xuất nông nghiệp chưa rõ nét, đặc
biệt chậm triển khai và thực hiện các quy hoạch ngành hàng, vùng sản xuất,
nông dân phát triển sản xuất theo kiểu “phong trào”, vì vậy sản phẩm nông
nghiệp vẫn còn manh mún, chất lượng không đồng đều, rất khó để phát triển
thành vùng sản xuất hàng hóa hay phát triển công nghiệp chế biến. Tình trạng
được mùa, mất giá, hoặc nông sản đến kỳ thu hoạch không tiêu thụ được diễn
ra thường xuyên.
Các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp chậm đổi mới, chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển sản xuất hàng hóa, cạnh tranh trong hội nhập. Mô hình
kinh tế hộ gia đình vẫn đang là phổ biến ở các vùng nông thôn. Kinh tế trang
trại, gia trại, mặc dù được tạo điều kiện phát triển nhưng vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ
cả về quy mô sản xuất, sử dụng lao động. Mô hình cánh đồng mẫu lớn với

nền tảng là sự liên kết doanh nghiệp và nông dân vẫn đang trong quá trình
khẳng định hiệu quả và tính liên kết bền vững trên thực tế.
Phương thức sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động
của nông dân và kinh nghiệm canh tác truyền thống. Cơ giới hóa trong sản
xuất nông nghiệp mới chỉ dừng lại ở một vài khâu của chu trình sản xuất.
Việc áp dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng yêu
cầu. Công nghệ chế biến và bảo quản sau thu hoạch lạc hậu, làm cho sản
phẩm của nông dân luôn chịu sức ép về tính thời vụ trong tiêu thụ, chất lượng
thấp, kém sức cạnh tranh trên thị trường.
Trong quá trình hội nhập, mục tiêu đặt ra là phát triển nông nghiệp toàn
diện, theo hướng bền vững, sản xuất hàng hóa lớn có năng xuất, chất lượng,


hiệu quả và sức cạnh tranh; cơ cấu kinh tế nông nghiệp và các hình thức tổ
chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp và dịch vụ
theo quy hoạch;
Để thực hiện mục tiêu nêu trên, trước hết cần tăng cường vai trò của
Nhà nước trong phát triển nông nghiệp ở Việt Nam nói chung và ở huyễn Vũ
Thư nói riêng. Thực tiễn nhiều nước cho thấy, lĩnh vực nông nghiệp là lĩnh
vực được các nước chú trọng bảo hộ nhiều trong quá trình hội nhập và muốn
phát triển nông nghiệp vai trò của Nhà nước được đặt lên hàng đầu. Nhà nước
cần thực hiện tốt công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển sản xuất nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, có tính tới thị trường cả trong nước và
quốc tế cũng như an ninh lương thực quốc gia. Xây dựng đề án cơ cấu lại các
lĩnh vực; rà soát, điều chỉnh quy hoạch sản xuất nông nghiệp hàng hóa có chú
ý tới thế mạnh của mỗi địa phương trên cả nước. Tiến hành rà soát, xác định,
lựa chọn những cây trồng vật nuôi có lợi thế, có thị trường; hình thành các
vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Đối với các vùng miền núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số cũng theo điều kiện cụ thể để lựa chọn phát triển cây, con
hàng hóa thay cho tự cung tự cấp nhằm tạo ra lối thoát căn bản cho công tác

xóa đói giảm nghèo.
Cùng với việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch là quản lý việc thực hiện
quy hoạch, kế hoạch; cung cấp thông tin thị trường làm định hướng cho sản
xuất của nông dân. Tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, bao gồm
cả đầu tư trực tiếp từ ngân sách nhà nước và đầu tư gián tiếp, thông qua việc
ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích các nguồn vốn đầu tư vào nông
nghiệp
Xây dựng và nhân rộng các mô hình liên kết, hợp tác sản xuất hiệu quả
trong nông nghiệp theo hướng xuất phát từ nhu cầu sản xuất kinh doanh, đảm
bảo hài hòa quyền lợi, trên cơ sở tự nguyện và tuân theo pháp luật. Chỉ có như


vậy thì các liên kết, hợp tác mới bền vững và có sức sống trên thực tế. phát
triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả. Thông qua việc tổng
kết kinh nghiệm, đề xuất cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển, nhân rộng các
mô hình sản xuất, quản lý có hiệu quả trong thực tiễn như mô hình hợp tác,
liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ theo chuỗi giá trị ngành hàng, liên kết sản
xuất theo cánh đồng mẫu lớn giữa doanh nghiệp với hợp tác xã, tổ đội sản
xuất hoặc trực tiếp với nông dân,… Đẩy mạnh quá trình liên kết giữa Nhà
nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân, trước hết, tập trung ở những
vùng đã phát triển nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn như Tây và Đông Nam
Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng sông Hồng,... nhằm thúc đẩy hợp tác, liên kết từ
sản xuất, bảo quản, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm, giảm chi phí, nâng cao
hiệu quả và bảo đảm hài hòa lợi ích của các bên tham gia.
Phát triển nông nghiệp bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Cần chuyển mạnh từ phát triển theo chiều rộng lấy số lượng làm mục tiêu
phấn đấu sang nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, hiệu quả, thể hiện bằng
giá trị và lợi nhuận; đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng trong
nước và đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức, tạo sự quyết tâm

cao trong nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp để hiểu
rõ thời cơ và thách thức. Các cơ quan truyền thông cần hướng vào việc hỗ trợ
thông tin về chủ trương phát triển ngành nông nghiệp, cũng như những mô
hình liên kết sản xuất nông nghiệp thành công, kinh nghiệm hay để các địa
phương, đơn vị học tập, rút kinh nghiệm và vận dụng.
Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ.
Tập trung nguồn lực đầu tư nghiên cứu, giải quyết các vấn đề quan trọng bức
xúc của nền nông nghiệp hàng hóa; kiên quyết chống dàn trải, kém hiệu quả.
Thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học công nghệ, đặc biệt công nghệ sinh


học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp, bảo quản và chế
biến nông sản. Nghiên cứu, chọn tạo và tổ chức sản xuất ra các giống cây
trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và giá trị thương phẩm cao; ưu tiên
nguồn lực cho các sản phẩm chủ lực, có khả năng cạnh tranh trên thị trường
trong nước và quốc tế.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, đào tạo nhân lực phục vụ
nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ trong nông nghiệp ở tất cả
các khâu của chu trình sản xuất. Đổi mới cơ chế quản lý, nhất là cơ chế tài
chính phục vụ nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ trong lĩnh vực
nông nghiệp, Khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp trong việc
nghiên cứu, chuyển giao khoa học, công nghệ trong nông nghiệp. Đổi mới và
nâng cao hiệu quả công tác khuyến nông, tập trung tạo ra sự chuyển biến rõ
nét, trên diện rộng đối với các loại sản phẩm chủ lực của mỗi vùng, miền, địa
phương.
Tiềm năng phát triển nông nghiệp trong hội nhập quốc tế là rất lớn.
Vấn đề đặt ra là nỗ lực toàn diện trong phát triển nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hóa nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, miền, địa
phương từng loại ngành hàng, sản phẩm để biến cơ hội thành những kết quả
cụ thể trong phát triển nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Nông nghiệp ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
ở Việt Nam, điều này càng được minh chứng trong cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu vừa qua. Ngay trong thời điểm khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nông
nghiệp vẫn phát triển tăng về số lượng lẫn giá trị. Kim ngạch xuất khẩu luôn
tăng dần theo từng năm, đưa nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam đứng vào tốp
đầu các nước xuất khẩu nhiều nhất trên thế giới. Tuy nhiên, ngành nông
nghiệp vẫn đang phải đối mặt với rất nhiều bất cập trong quá trình phát triển,
cụ thể là:


Thái Bình
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nông nghiệp, nông thôn huyện
Vũ Thư trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả khá toàn diện, như:
Tốc độ tăng trưởng khá và ổn định; tạo việc làm và thu nhập cho dân cư
nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội của
huyện. Bước đầu đã hình thành được các vùng sản xuất hàng hóa gắn với
chế biến và tiêu thụ sản phẩm như ngô, rau màu, kén tằm; phát triển chăn
nuôi tập trung theo hướng trang trại, gia trại, ứng dụng công nghệ tiên tiến
vào sản xuất.
Tuy nhiên, nông nghiệp Vũ Thư vẫn là nông nghiệp giá trị thấp, thu
nhập và đời sống của nông dân và những người làm nông nghiệp còn thấp,
không ổn định; hộ nghèo là nông dân chiểm tỷ lệ cao. Nguyên nhân chính là
do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, dễ bị ảnh hưởng do thiên tai, dịch bệnh và biến
động của thị trường; các hình thức liên kết trong sản xuất còn lỏng lẻo, hiệu
quả thấp, chưa tạo động lực để sản xuất phát triển.
Mô hình tăng trưởng nông nghiệp hiện nay chủ yếu theo chiều rộng,
mới chỉ tạo ra được khối lượng nhiều nhưng giá trị thấp, hiệu quả sử dụng đất
đai chưa cao. Sản phẩm làm ra chủ yếu do nông dân tự tiêu thụ trên thị
trường, các doanh nghiệp tham gia bao tiêu sản phẩm nông nghiệp ít.
Trước thực trạng trên, việc xây dựng Đề án tái cơ cấu ngành nông

nghiệp huyện Vũ Thư theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền
vững là hết sức cần thiết. Mục tiêu xây dựng và phát triển nền sản xuất nông
nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa, có năng
suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh, góp phần thực hiện thành
công Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng
trưởng theo Quyết định số 339/QĐ-TTg và Đề án tái cơ cấu ngành nông
nghiệp theo Quyết định số 899/QĐ-TTg.


Vũ Thư là huyện nông nghiệp trọng điểm của tỉnh Thái Bình, Huyện
với diện tích tự nhiên khoảng 195,1618 km² và dân số khoảng 224.832 người.
Tuy nhiên, hiện nay, sản xuất của huyện đang đứng trước nhiều khó khăn,
thách thức, tiềm ẩn nguy cwo thiếu bền vững như quy mô sản xuất nhỏ lẻ,
manh mún; công nghệ sản xuất, bảo quản, chế biến lạc hậu; năng suất, chất
lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp còn thấp; liên kết để
phát triển nông nghiệp còn rất mờ nhạt, lỏng lẻo; dịch vụ và cơ sở hạ tầng hỗ
trợ không theo kịp nhu cầu phát triển của nông nghiệp; công nghiệp chế biến
phát triển chậm; việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp còn
nhiều trở ngại, các doanh nghiệp chưa mặn mà đầu tư vào nông nghiệp, nông
thôn. Vì vậy, tôi chọn đề tài: Phát triển nông nghiệp huyện Vũ Thư , tỉnh
Thái Bình trong bối cảnh hội nhập” làm đề tài luận văn thạc sĩ. Đề tài có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tổng quan tài liệu liên quan đến đề tài
2.1. Tài liệu nghiên cứu nước ngoài
Những nghiên cứu về sự phát triển nông nghiệp
Có khá nhiều nghiên cứu về sự phát triển của nông nghiệp cũng như
nông thôn nói chung. Các nghiên cứu đã cho thấy con đường phát triển nông
nghiệp đa dạng trên thế giới. Richard Bolt (2004) trong nghiên cứu: “Đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp và nông thôn cho tăng trưởng: các chính sách
áp dụng cho các nước đang phát triển ở châu Á” đã luận giả những vấn đề về

phát triển nông nghiệp ở các nước đang phát triển. Ông lập luận rằng, việc áp
dụng khoa học kỹ thuật để cải thiện sản lượng cây trồng sẽ cho phép tạo ra
một lượng sản xuất thặng dư, trước hết là sản xuất lương thực. Phần sản xuất
thặng dư được bán trên thị trường nông thôn địa phương như là kênh đầu ra
trực tiếp. Khoản thu nhập vượt trội này sẽ được dùng để chi tiêu cho các sản
phẩm nội địa khác, từ đó cải thiện thu nhập ở khu vực nông thôn. Do thu nhập


tăng, xuất hiện tầng lớp có thu nhập trung lưu và tăng nhu cầu tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp có hàm lượng giá trị cao hơn. Việc tăng nhu cầu sử dụng
hàng hóa và dịch vụ phi nông nghiệp sẽ giúp thu hút thêm lao động và đồng
thời khuyến khích người nông dân tăng năng suất lao động thông qua việc sử
dụng công nghệ tiết kiệm lao động. Từ đó, tác giả nhấn mạnh vai trò to lớn
của khoa học công nghệ trong phát triển nông nghiệp: Việc áp dụng khoa học
kỹ thuật nhằm cải thiện sản lượng và mở rộng sản xuất hàng hóa có giá trị
cao, cùng với việc tăng giá trị hàng hóa và dịch vụ phi nông nghiệp là chìa
khóa để tạo cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho dân số khu vực nông thôn
các nước châu Á – nơi mà có tới gần 3 tỷ người đang sống. Theo Ngân hàng
thế giới (2007) trong báo cáo “Tăng cường nông nghiệp cho phát triển” đã
đưa ra thông điệp: Trên qui mô toàn thế giới, đặc biệt là tại các nước thuộc
thế giới thứ ba, nông nghiệp là một trong những công cụ hiệu quả để đạt được
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và giảm nghèo. Tuy nhiên, để phát huy
vai trò của nông nghiệp cần có những cải cách mạnh mẽ hơn nữa đối với khu
vực kinh tế này.
Về ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế với phát triển nông nghiệp
Ngân hàng phát triển Châu Á trong cuốn sách “Thương mại hóa nông
nghiệp, chuỗi giá trị và giảm nghèo” cho rằng những nước đang phát triển
sau khi đạt được an ninh lương thực quốc gia thì cần chuyển đổi nền nông
nghiệp từ chỗ dựa vào sản xuất lương thực là chính sang một nền nông nghiệp
có khả năng đáp ứng nhu cầu của chuỗi thực phẩm toàn cầu trong khi vẫn

đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, tạo thêm thu nhập cho người nông dân
và chuyển dần nền kinh tế sang hoạt động phi NN.
Nghiên cứu sự phát triển của nền nông nghiệp Trung Quốc trong những
năm đầu thế kỷ XXI, GS Cốc Nguyên Dương, trong cuốn: “Trung Quốc 10
năm đầu thế kỷ XXI: Phát triển và hợp tác” phân tích tác động tích cực của


hội nhập kinh tế quốc tế. Tác giả cho rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là xu
hướng tất yếu không một quốc gia nào có thể cưỡng lại, chỉ có thể gia nhập
trước hoặc sau mà thôi. Gia nhập WTO sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Trung
Quốc: vị thế chính trị và kinh tế trên trường quốc tế tăng, thúc đẩy thương
mại và thu hút đầu tư nước ngoài, nền kinh tế phát triển hiệu quả hơn, các
nguồn lực xã hội được phân bố hợp lý, cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng
phát huy lợi thế so sánh, những ngành hàng có khả năng cạnh tranh sẽ phát
triển, ngành yếu kém bị đào thải.
Về các giải pháp phát triển nông nghiệp
Nhóm chính sách đầu tiên có thể kể đến là trợ cấp, trợ giá, theo từng
sản phẩm, theo nhóm hộ hoặc theo các diễn biến của điều kiện tự nhiên và thị
trường (Brooks 2010; Jones and Kwiecinski 2010; OECD 2003). Việc giảm
thuế, phí cũng được áp dụng với các điều kiện tương tự (OECD 2009; World
Bank 2007). Ngoài ra, đối với nhiều loại nông phẩm, có thể kiểm soát giá, áp
dụng giá sàn đầu ra hay giá trần đối với các dịch vụ đầu vào để đảm bảo
quyền lợi của người sản xuất. Các biện pháp này ở các nước đang phát triển
hiện nay, do nhiều nguyên do, nhìn chung được áp dụng ở mức thấp (OECD
2009).
Cải cách các thể chế xã hội nông thôn, hạn chế bớt những mặt tiêu cực
của các quan hệ đẳng cấp, các quy tắc ứng xử phi chính thức và cách tư duy
khép kín cúng là hướng đi quan trọng (Brooks, Cervantes-Godoy and
Jonasson 2009; IFAD 2003; World Bank 2007). Ngoài ra, cũng cần khuyến
khích sự hình thành các hiệp hội nhằm giảm chi phí giao dịch, tạo sự hỗ trợ

lẫn nhau và tận dụng lợi thế nhờ quy mô (Cervantes-Godoy and Brooks 2008;
World Bank 2003b)
Gần đây, đã xuất hiện "trường phái cơ cấu luận" với những quan điểm
về phát triển cơ cấu kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và sự ảnh hưởng ngày


càng lớn của chuỗi giá trị toàn cầu. Trong đó, lý luận về sự biến động cơ cấu
dựa trên cách tiếp cận của trường phái cổ điển giữ vị trí chủ yếu, tiêu biểu là
"mô hình kinh tế nhị nguyên” của Lewis - Fellner - Ranis và mô hình phân
tích cơ cấu của Chenery. Theo hướng tiếp cận mơi này, vấn đề cốt lõi là các
nước đang phát triển phải vận dụng cơ cấu kinh tế nào thì mới có thể làm cho
cơ cấu của nền kinh tế chuyển từ một xã hội nông nghiệp truyền thống là chủ
yếu thành xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá, đa dạng hoá lấy
ngành chế tạo, ngành dịch vụ làm nòng cốt. Trong những năm 50 - 60 của thế
kỷ XX, "mô hình kinh tế nhị nguyên" đã được thừa nhận là nguyên lý phổ
biến để giải thích quá trình, cơ chế phát triển của những nước dư thừa lao
động. Về cơ bản, nó cũng đã phản ánh được một số quy luật khách quan của
sự vận động đối lập, chuyển hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành
thị và nông thôn, giữa chuyển dịch dân cư và đô thị hoá trong quá trình phát
triển kinh tế của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, cũng có những ý kiến
cho rằng, mô hình này có một số khiếm khuyết, do các giả thuyết đưa ra chưa
phù hợp với thực tế của các nước đang phát triển hiện nay.
2.2. Tài liệu nghiên cứu trong nước
Các nghiên cứu về phát triển nông nghiệp
Theo hướng nghiên cứu rộng hơn, đặt nông nghiệp trong mối quan hệ
với nông thôn và nông dân, tác giả Nguyễn Danh Sơn trong cuốn “Nông
nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình phát triển đất nước theo hướng
hiện đại” (2010), đã tập trung nghiên cứu về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước theo hướng hiện đại dưới
góc độ lý luận chính trị. Cuốn sách đã chỉ ra những điểm cơ bản cần lưu ý

nhằm giải quyết hài hòa trong vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Đi
sâu nghiên cứu vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.


Lê Quốc Sử (2001), trong nghiên cứu: Chuyển dịch cơ cấu và xu
hướng phát triển của kinh tế nông nghiệp của Việt Nam theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa từ thế kỷ XX đến thế kỷ thứ XXI trong thời đại kinh
tế tri thức đã phân tích làm rõ đặc điểm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nói chung, cơ cấu cây trồng nói riêng của nước ta. Trịnh Đình
Dũng (2007): “Một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế”,
đã nghiên cứu cụ thể vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó có đề
cập đến việc phát triển nông nghiệp bền vững ở từng địa phương, trong đó tác
giả cho rằng các địa phương cần khai thác lợi thế, tiềm năng để phát triển
nông nghiệp bền vững.
Các tác giả cuốn sách: “Vấn đề Nông nghiệp nông dân nông thôn Kinh nghiệm Việt Nam và Trung Quốc”, (2009) đã có những phân tích xác
đáng về kinh nghiệm giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân của Việt Nam
và Trung Quốc. Các tác giả cho thấy lợi ích cá nhân của người lao động nông dân được coi trọng và kinh tế hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh
tế cơ bản ở nông thôn. Phát triển kinh tế hàng hóa và áp dụng cơ chế thị
trường đã đem lại luồng sinh khí mới cho các cộng đồng xã hội nông thôn
trong đổi mới, đã tạo động lực thực sự cho nông dân bằng việc giải quyết hợp
lý các quan hệ lợi ích trong nông nghiệp và nông thôn.
Đặng Kim Sơn (2008) trong công trình: Kinh nghiệm Quốc tế về nông
nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, đã chỉ rõ, giải
phóng sức sản xuất, giải phóng mọi tiềm năng của xã hội, huy động được cơ
chế thị trường để phát triển mạnh lực lượng sản xuất. Giải phóng để phát
triển, không chỉ lực lượng sản xuất nói chung, mà trước hết là giải phóng tiềm
năng sáng tạo to lớn của lực lượng lao động nông thôn vốn hết sức đông đảo.
Về phát triển nông nghiệp với hội nhập kinh tế quốc tế



Đến nay có khá nhiều nghiên cứu về hội nhập như Nguyễn Xuân
Thắng, Phạm Quốc Trụ, Phạm Tất Thắng…nhưng không có nhiều nghiên cứu
về tác đông của hội nhập kinh tế quốc tế đến ngành nông nghiệp. Đáng kể đến
có cuốn: “Chính sách hỗ trợ của Nhà nước ta đối với nông dân trong điều
kiện hội nhập WTO”, của tác giải Vũ Văn Phúc; Trần Thị Minh Châu (2010).
Nôi dung chính của cuốn sách tập trung luận giải những vấn đề lý luận về
vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình CNH, HĐH và hội
nhập kinh tế quốc tế, từ đó làm rõ hơn thực tiễn ở Việt Nam. Một công trình
nghiên cứu tổng hợp của Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương và Bộ Nông
nghiệp & Phát triển nông thôn (2002) đã phân tích, đánh giá tác động của hội
nhập đối với nông nghiệp, chỉ rõ hội nhập mang lại nhiều cơ hội thuận lợi cho
nông nghiệp nhưng cũng đặt nông nghiệp trước nhiều thách thức, phải cạnh
tranh với sản phẩm nông nghiệp của các nước trên thế giới và khu vực, trong
đó nhiều quốc gia có trình độ phát triển nông nghiệp cao hơn nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu chung
Trên cơ sở làm rõ khung lý thuyết về phát triển nông nghiệp trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Vũ Thư đến năm 2020.
Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về phát triển nông
nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
- Làm rõ thực trạng về phát triển nông nghiệp của huyện Vũ Thư trong
thời gian qua gắn với bối cảnh hội nhập quốc tế, chỉ ra những thành công, hạn
chế, những khó khăn thách thức và những vấn đề đặt ra đối ngành nông
nghiệp huyện Vũ Thư.


- Đề xuất các giải pháp phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Vũ

Thư trong bối cảnh hội nhập quốc tế đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về sự phát triển
của nông nghiệp trên địa bàn huyện Vũ Thư trong bối cảnh hội nhập quốc tế
sâu rộng.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi về nội dung
Nghiên cứu về phát triển nông nghiệp là chủ đề rất rộng và phức tạp,
luận văn tập trung nghiên cứu sự phát triển của ngành trồng trọt trên địa bàn
huyện trong hội nhập quốc tế.
* Phạm vi về không gian
Luận văn triển khai nghiên cứu thực trạng phát triển nông nghiệp bền
vững trên địa bàn huyện Vũ Thư.
* Phạm vi về thời gian
Luận văn nghiên cứu thực trạng phát triển nông nghiệp bền vững trên
địa bàn huyện Vũ Thư trong giai đoạn từ 2010 đến 2015; đề xuất các giải
pháp phát triển nông nghiệp đến 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng một số phương pháp
cụ thể sau:
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin thứ cấp,
- Phương pháp so sánh, thống kê,
- Phương pháp điều tra, khảo sát
- Phương pháp chuyên gia,


- Phương pháp phân tích - tổng hợp,
- Phương pháp quan sát...

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã đưa ra cái nhìn tổng quát về nông nghiệp và phát triển
nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và mới. Đặc
biệt áp dụng tại huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, luận văn đã đánh giá thực
trạng phát triển nông nghiệp của huyện trong bối cảnh hội nhập quốc tế từ
năm 2010 – 2015. Trên cơ sở đánh giá hiện trạng, luận văn đưa ra định hướng
phát triển và giải pháp phát triển nông nghiệp huyện Vũ Thư trong bối cảnh
hội nhập kinh tế, quốc tế.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm phát triển nông nghiệp trong
bối cảnh hội nhập quốc tế
Chương 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp huyện Vũ Thư trong bối
cảnh hội nhập kinh quốc tế từ 2010 – 2015
Chương 3: Quan điểm định hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp
ở huyện Vũ Thư trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1 Khái niệm nông nghiệp và hội nhập quốc tế
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là ngành sản xuất ra của cải vật chất mà
con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi để tạo ra
sản phẩm như lương thực, thực phẩm... để thoả mãn các nhu cầu của
mình. Nông nghiệp theo nghĩa rộng còn bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp.
Như vậy, nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tự
nhiên. Những điều kiện tự nhiên như đất đai, nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, bức
xạ mặt trời... trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng cây trồng vật nuôi.
Nông nghiệp cũng là ngành sản xuất có năng suất lao động rất thấp, vì đây là

ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên; là ngành sản xuất mà việc
ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài ra sản
xuất nông nghiệp ở nước ta thường gắn liền với những phương pháp canh tác,
lề thói, tập quán... đã có từ hàng nghìn năm nay.
Phát triển nông nghiệp
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế mỗi
nước, đặc biệt là trong các thế kỷ trước đây khi công nghiệp chưa phát triển
và nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế. Nông nghiệp là tập hợp
các phân ngành như trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản và công nghệ sau
thu hoạch. Trong nông nghiệp cũng có hai loại chính, việc xác định sản xuất
nông nghiệp thuộc dạng nào cũng rất quan trọng:
* Nông nhiệp thuần nông hay nông nhiệp sinh nhai là lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp có đầu vào hạn chế, sản phẩm đầu ra chủ yếu phục vụ cho chính


gia đình của mỗi người nông dân. Không có sự cơ giới hóa trong nông nghiệp
sinh nhai.
* Nông nghiệp chuyên sâu: là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp được
chuyên môn hóa trong tất cả các khâu sản xuất nông nghiệp, gồm cả việc sử
dụng máy móc trong trồng trọt, chăn nuôi, hoặc trong quá trình chế biến sản
phẩm nông nghiệp. Nông nghiệp chuyên sâu có nguồn đầu vào sản xuất lớn,
bao gồm cả việc sử dụng hóa chất diệt sâu, diệt cỏ, phân bón, chọn lọc, lại tạo
giống, nghiên cứu các giống mới và mức độ cơ giới hóa cao. Sản phẩm đầu ra
chủ yếu dùng vào mục đích thương mại, làm hàng hóa bán ra trên thị trường
hay xuất khẩu. Các hoạt động trên trong sản xuất nông nghiệp chuyên sâu là
sự cố gắng tìm mọi cách để có nguồn thu nhập tài chính cao nhất từ ngũ cốc,
các sản phẩm được chế biến từ ngũ cốc hay vật nuôi...
Hội nhập quốc tế
Thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa, trong những năm qua Việt Nam
đã tích cực, chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, đàm phán và ký kết

các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương. Các tăng
trưởng về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cán cân xuất nhập khẩu, sự cải
thiện đời sống người dân,… minh chứng cho tính hiệu quả của đường lối mở
cửa, hội nhập quốc tế.
Đến nay, Việt Nam đã ký kết FTA với Brunei, Singapore, Malaysia
(AFTA); với Australia, New Zealand và với Nhật Bản (trong Khu vực thương
mại tự do ASEAN - Nhật Bản được thiết lập bởi Hiệp định đối tác Kinh tế
toàn diện ASEAN - Nhật Bản AJCEP). Ngoài việc ký kết và tham gia các
FTA với tư cách là thành viên khối ASEAN thì FTA đầu tiên mà Việt Nam
ký kết với tư cách là một bên độc lập là Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam Nhật Bản (VJEPA năm 2008), tiếp đó là FTA Việt Nam - Chile (năm 2011);


FTA Việt Nam - Hàn Quốc (2015), với Liên minh Kinh tế Á - Âu (2015),
hiện đang đàm phán FTA với một số nước và đối tác khu vực,...
Năm 2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đã hoạch định tầm nhìn ASEAN
2020 bao gồm ba trụ cột chính là Cộng đồng An ninh - Chính trị ASEAN
(APSC), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội
ASEAN (ASCC). Năm 2007, các nhà lãnh đạo ASEAN đã đồng ý rút ngắn
tiến trình hội nhập kinh tế khu vực bằng việc thông qua Kế hoạch hành động
AEC và thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015.
Một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất ASEAN bao gồm chu
chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ, lao động có tay nghề; chu chuyển tự do hơn
nữa các dòng vốn và dòng đầu tư. Hàng rào thuế quan và hàng rào phi thuế
quan sẽ từng bước bị xóa bỏ. Các nhà đầu tư ASEAN sẽ được tự do đầu tư
vào tất cả mọi lĩnh vực trong khu vực. Những thủ tục hải quan và thương mại
khi đã được tiêu chuẩn hóa hài hòa và đơn giản hơn sẽ góp phần làm giảm chi
phí giao dịch. Thị trường hàng hóa và dịch vụ thống nhất sẽ thúc đẩy phát
triển mạng lưới sản xuất trong khu vực, mang lại lợi ích cho các ngành công
nghiệp, nông nghiệp, hàng không (vận chuyển bằng đường hàng không), ô tô,
e-ASEAN, điện tử, ngư nghiệp, chăm sóc sức khỏe, cao su, dệt may và thời

trang, du lịch, nghành công nghiệp gỗ và các dịch vụ logistics khác… Bên
cạnh Cộng đồng Kinh tế ASEAN sẽ bắt đầu hình thành từ cuối năm 2015,
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Việt Nam là một trong
những thành viên tham gia sẽ sớm kết thúc quá trình đàm phán.
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương theo xu hướng mở cửa sâu
rộng hơn các cam kết mở cửa trong các hiệp định thương mại tự do (FTA)
thông thường. Cao hơn hẳn về mức độ mở cửa, phạm vi điều chỉnh của Hiệp
định TPP dự kiến sẽ rất rộng và phức tạp, với các vấn đề thương mại và phi


thương mại đan xen. TPP mở ra cơ hội mới cho việc phát triển, mở rộng thị
trường cho hàng hóa nông sản.
Các hiệp định thương mại tự do đã ký kết và đang đàm phán sẽ tạo
thuận lợi cho xuất khẩu một số hàng hóa có thế mạnh của Việt Nam như các
sản phẩm thủy sản, nông sản, đồ gỗ,... Tuy nhiên, hàng nông sản của các nước
đối tác cũng được hưởng những thuận lợi tương tự khi thâm nhập vào thị
trường Việt Nam, vì vậy, sức ép cạnh tranh ngay trên sân nhà cùng rất lớn đối
với các mặt hàng nông sản của Việt Nam.
Rõ ràng, phải thấy tính hai mặt của các hiệp định FTA, một mặt mang
lại cơ hội, thuận lợi cho Việt Nam trong phát triển kinh tế, xuất khẩu hàng
hóa, trong đó có hàng nông sản, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới.
Cần phải thấy rõ những khó khăn, thách thức bởi đây là những hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, có độ mở rộng trên nhiều lĩnh vực kinh tế mà
hai bên cam kết. Yêu cầu đặt ra là phải khai thác tối đa những lợi thế mà các
hiệp định mang lại, đi liền với đó là phải thấy rõ những khó khăn, thách thức,
từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo đảm chất lượng sản phẩm, thúc đẩy
sản xuất kinh doanh phát triển, mang lại lợi ích cho đất nước.
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế mỗi
nước, đặc biệt là trong các thế kỷ trước đây khi công nghiệp chưa phát triển
và nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế.

Nông nghiệp là tập hợp các phân ngành như trồng trọt, chăn nuôi, chế
biến nông sản và công nghệ sau thu hoạch.
Trong nông nghiệp cũng có hai loại chính, việc xác định sản xuất nông
nghiệp thuộc dạng nào cũng rất quan trọng:
* Nông nhiệp thuần nông hay nông nhiệp sinh nhai là lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp có đầu vào hạn chế, sản phẩm đầu ra chủ yếu phục vụ cho chính


gia đình của mỗi người nông dân. Không có sự cơ giới hóa trong nông nghiệp
sinh nhai.
* Nông nghiệp chuyên sâu: là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp được
chuyên môn hóa trong tất cả các khâu sản xuất nông nghiệp, gồm cả việc sử
dụng máy móc trong trồng trọt, chăn nuôi, hoặc trong quá trình chế biến sản
phẩm nông nghiệp. Nông nghiệp chuyên sâu có nguồn đầu vào sản xuất lớn,
bao gồm cả việc sử dụng hóa chất diệt sâu, diệt cỏ, phân bón, chọn lọc, lại tạo
giống, nghiên cứu các giống mới và mức độ cơ giới hóa cao. Sản phẩm đầu ra
chủ yếu dùng vào mục đích thương mại, làm hàng hóa bán ra trên thị trường
hay xuất khẩu. Các hoạt động trên trong sản xuất nông nghiệp chuyên sâu là
sự cố gắng tìm mọi cách để có nguồn thu nhập tài chính cao nhất từ ngũ cốc,
các sản phẩm được chế biến từ ngũ cốc hay vật nuôi...
1.2. Phát triển nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế
1.2.1. Ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đến phát triển nông nghiệp
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa đang tác động sâu sắc tới
sự phát triển của các quốc gia dân tộc, nhân tố này càng có ý nghĩa quan trọng
đến sự hình thành và CDCCKTNN. Đối với Việt Nam, việc tham gia vào quá
trình này đã và đang tạo ra các nhân tố quan trọng từ các nước đối tác để thực
hiện CDCCKTNN theo hướng hiện đại hóa và phát triển bền vững. Cụ thể là:
Thông qua việc mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại với các nước khác,
mỗi quốc gia ngày càng tham gia sâu hơn vào sự hợp tác và phân công lao động
quốc tế. Chính điều này đã và sẽ tạo điều kiện cho mỗi nước khai thác và sử

dụng các nguồn lực của mình có lợi nhất trên cơ sở phát huy tối đa các lợi thế so
sánh; đồng thời đây cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến biến đổi cơ cấu
kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng. Mặt khác, tham gia
vào thị trường quốc tế, vào các tổ chức kinh tế thế giới... mỗi nước càng gia tăng


thêm các cơ hội tìm kiếm công nghệ và kỹ thuật mới, các nguồn vốn đầu tư, kinh
nghiệm quản lý... để đẩy nhanh quá trình CDCCKT.
Để tham gia sâu rộng hơn vào thị trường thế giới, vào các tổ chức kinh
tế quốc tế đòi hỏi mỗi quốc gia phải thu thập kịp thời và xử lý thông tin về thị
trường, xu hướng biến đổi của các biến động kinh tế..., từ đó lựa chọn cơ hội
mới tham gia vào thị trường thế giới. Rõ ràng, tham gia vào thị trường thế
giới, một mặt, tạo ra cơ hội để các quốc gia từng bước CDCCKT của mình
nhằm khai thác tốt lợi thế so sánh; mặt khác cũng buộc các quốc gia phải chủ
động CDCCKT theo nhu cầu của thị trường thế giới.
Xu hướng tiêu dùng các mặt hàng nông sản: Hiện nay, xu hướng tiêu
dùng các mặt hàng nông sản đã có sự dịch chuyển nhu cầu: từ sử dụng sản
phẩm thực phẩm liên quan đến thịt sang những mặt hàng thủy sản, nông sản,
đặc biệt là những sản phẩm không sử dụng hóa chất, không sử dụng thực
phẩm có nguồn gốc biến đổi gen… Và chính xu hướng tiêu dùng này đã, đang
đặt ra những yêu cầu mới cho các sản phẩm nông sản, thực phẩm của Việt
Nam phải đáp ứng và phù hợp với thị hiếu tiêu dùng trong và ngoài nước. Đặc
biệt, đối với người tiêu dùng nước ngoài, xu hướng tiêu dùng không chỉ về
chất lượng, mà họ còn chú trọng đến đẳng cấp sản phẩm nhiều hơn … Điều
này, đang đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi quá trình CDCCKTNN của vùng phải
tìm ra hướng đi để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng ở đẳng cấp cao hơn.
Sự thay đổi về chuỗi giá trị: Sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu là
sự lựa chọn tất yếu của các nền kinh tế chậm phát triển và để thoát khỏi tụt
hậu. Tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu là quy luật tất yếu trong phát triển
các nền kinh tế trong điều kiện HNKTQT ở nước hiện nay. Việt Nam đang

hướng đến quá trình này, mà trước hết từ các công ty phát triển phần mềm,
các công ty trong ngành nông, lâm, thủy sản,… đồng thời nâng cao sự hiểu
biết về chuỗi giá trị đang xâm nhập vào nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, sự


×