Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa ở huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.96 KB, 70 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ ĐỨC HUY

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRONG BỐI CẢNH ĐÔ THI
HÓA Ở HUYỆN QUỐC OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Quản lý kinh tê
Mã số

:

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS LÊ ANH VŨ

Hà Nội, năm 2016
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết luận văn của mình được thực hiện dựa vào sự hiểu biết và quá
trình nghiên cứu, tìm hiểu, cố gắng thực hiện của bản thân cùng với sự hướng dẫn
tận tình của TS Lê Anh Vũ Công trình nghiên cứu này của tôi không sao chép bất kì
nghiên cứu của cá nhân hay tổ chức nào. Các thông tin, tư liệu, số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và được trích dẫn nguồn gốc tài liệu tham khảo rõ ràng.
Hà Nội, ngày 22 tháng 01 năm 2016
Học viên thực hiện


2


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn luận văn này, trước hết tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc và
các cán bộ, giáo viên tại Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn Lâm khoa học Việt
Nam, đặc biệt là Khoa Kinh tế học đã tạo điều kiện cho tôi nghiên cứu, học tập
trong suốt thời gian vừa qua.
Đặc biệt cho tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Lê Anh Vũ đã chỉ
bảo, hướng dẫn tận tình cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận
văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới UBND huyện Quốc Oai đặc biệt là
đồng chí Nguyễn Đức Phương, phó chủ tịch UBND huyện đã giúp tôi tiếp cận các
tài liệu cần thiết. Tôi cũng gửi lời cám ơn tới Lãnh đạo, các đồng nghiệp tại nơi tôi
đang công tác đã thông cảm, tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ thời gian, công việc và tài
liệu tham khảo; tới gia đình và các bạn bè xung quanh đã động viên, chia sẻ giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng, song hiểu biết và năng lực bản thân còn hạn chế nên
chắc chắn luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự
quan tâm và đóng góp ý kiến của các cá nhân, bạn bè quan tâm để luận văn được
hoàn thiện và có ý nghĩa thực tiễn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 22 tháng 1 năm 2016
Học viên

3


MỤC LUC:


4


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

NTM

Nông thôn mới

KT- XH

Kinh tế - xã hội

NSNN

Ngân sách nhà nước

XDCB

Xây dựng cơ bản

DĐĐT

Dồn điền đổi thửa

KH

Kế hoạch

GTNT


Giao thông nông thôn

UBND

Ủy ban nhân dân

DN

Doanh nghiệp

NSTP

Ngân sách thành phố

NSH

Ngân sách huyện

5


DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiêt của đề tài
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược, quan trọng trong nền kinh

tế, là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữu vững ổn định chính
trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường
sinh thái của đất nước…Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác
định: “Xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển
ngày càng hiện đại”.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khóa X) ra
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5 tháng 8 năm 2008 đã nêu một cách toàn diện quan điểm
của Đảng ta về xây dựng nông thôn mới, Nghị quyết được coi như “luồng gió mới” cho sự
phát triển của nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Nghị quyết nêu rõ: “Nông nghiệp,
nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã
hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng”; đồng thời Nghị
quyết cũng đã nêu một cách tổng quát về mục tiêu, nhiệm vụ cũng như phương thức tiến
hành quá trình xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với điều kiện
thực tiễn phát triển của đất nước. Quan điểm đó của Đảng là sự kế thừa và phát huy những
bài học kinh nghiệm lịch sử về phát huy sức mạnh toàn dân, huy động mọi nguồn lực để
tạo ra sức mạnh tổng hợp xây dựng nông thôn mới.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI xác định: “Phát triển nông - lâm ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với giải quyết tốt vấn
đề nông dân, nông thôn”.
Thực hiện đường lối của Đảng, ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ra Nghị quyết số
24/2008/NQ-CP Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ về xây dựng nông
nghiệp, nông dân và nông thôn, thống nhất nhận thức, hành động về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn và Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Để cụ thể
hóa Nghị quyết, Thủ tướng Chính phủ đã lần lượt ban hành: Quyết định số 800/QĐ-TTg
ngày 04 tháng 6 năm 2010 Về phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 và Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009
của Thủ tướng Chính phủ ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới.

7



Nội dung chính của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới
là: Xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, giữ
gìn bản sắc văn hóa và môi trường sinh thái gắn với phát triển đô thị, thị trấn, thị tứ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) Đảng ta khẳng định xây dựng nông thôn mới là một nhiệm vụ quan
trọng trong định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ
XI của Đảng đã nêu rõ phương hướng, nhiệm vụ của xây dựng nông thôn mới đến năm
2020 là: Tiếp tục triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm
từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn, giữ gìn và phát huy
nét văn hóa bản sắc của nông thôn Việt Nam.
Qua 5 năm thực hiện chương trình xây dựng Nông thôn mới đã có những kết quả
tích cực trên địa bàn cả nước, về cấp xã đã có 1.298xã (14,5%) được công nhận đạt chuẩn
nông thôn mới,về cấp huyện đã có 11 đơn vị cấp huyện được Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định công nhận đạt chuẩn nông thôn mới là: Huyện Xuân Lộc, Thống Nhất,
Thị xã Long Khánh (Đồng Nai), Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè (TP. Hồ Chí Minh), Đông
Triều (Quảng Ninh), Hải Hậu (Nam Định), Đơn Dương (Lâm Đồng), Đan Phượng (TP. Hà
Nội), Thị xã Ngã Bảy (Hậu Giang).
Mặc dù đạt được những kết quả như trên nhưng việc thực hiện vẫn còn một số hạn
chế:
- Chương trình chưa đạt được mục tiêu tới năm 2015 có 20% xã đạt tiêu chí nông
thôn mới như Nghị quyết Trung ương 7, Khóa X đã đề ra (hiện mới đạt 14,5%).
- Các xã đã tập trung cao phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là làm đường giao thông
nhưng các nội dung về phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, xây dựng
đời sống văn hóa, bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức.
- Nhiều địa phương đã chú trọng thực hiện các nội dung xây dựng nông thôn mới do
cấp xã đảm nhận nhưng chưa chú trọng đúng mức thực hiện các nội dung ở cấp thôn và hộ
gia đình.
- Có sự chênh lệch lớn về kết quả thực hiện xây dựng nông thôn mới giữa các vùng,

miền. Trong khi số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới Đông Nam Bộ là 34 %, ĐBSH là
23,5% thì miền núi phía Bắc và Tây Nguyên mới chỉ đạt khoảng 7%.

8


- Một số địa phương chạy theo thành tích nên có biểu hiện huy động quá sức dân,
hoặc nợ đọng xây dựng cơ bản khó có khả năng chi trả.
Trong 5 năm qua huyện Quốc Oai đã huy động mọi nguồn lực, đẩy mạnh Chương
trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện. Kết quả của Chương trình rất đáng
khích, góp phần làm thay đổi đời sống xã hội nông thôn. Tuy nhiên, quá trình xây dựng
nông thôn mới còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập nhất, nhiều vấn đề phát sinh cần giải
quyết; có lúc, có nơi chưa gắn với điều kiện cụ thể của địa phương, chưa đặt việc xây dựng
nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa. Vì những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Xây
dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa ở huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội”
làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Có không ít công trình nghiên cứu về vấn đề nông nghiệp, nông thôn như:
- PGS.TS. Trần Thị Minh Châu (chủ biên - 2007): Chính sách nông nghiệp ở
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hệ thống hoá những chính sách trong
lĩnh vực nông nghiệp, phân tích những bất cập của các chính sách…
- TS. Đặng Kim Sơn (2008): Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam
hôm nay và mai sau, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả phân tích thực trạng nông
nghiệp trong 20 năm đổi mới về tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu, tổ chức sản xuất và dịch
vụ trong nông nghiệp; nông dân Việt Nam bàn về việc làm, về quyền sử dụng đất và thị
trường đất đai và tiếp cận nguồn vốn tín dụng; về nông thôn tác giả phân tích kinh tế, xã
hội nông thôn, quan hệ nông thôn với đô thị và công nghiệp…Kinh nghiệm quốc tế về
nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình công nghiệp hoá, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, (2008). Vai trò phát triển nông nghiệp là tiền đề khởi động công nghiệp hoá,
vấn đề tập trung hoá đất đai, vấn đề lao động và di cư lao động ra đô thị, vai trò của công

nghiệp nông thôn và dân cư nông thôn, công nghiệp hóa chưa thành công ở những nước
đang phát triển...
- Nhiều tác giả: Nông dân, nông thôn và nông nghiệp - Những vấn đề đang đặt ra,
Nxb Tri Thức, 12-2008. Cuốn sách “Nông Dân Nông Thôn Và Nông Nghiệp - Những Vấn
Đề Đang Đặt Ra” là tập hợp các bài viết trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu về “tam nông”
của Viện Nghiên cứu Phát triển IDS. Mỗi tác giả có một cách nhìn riêng và đi sâu vào các

9


khía cạnh khác nhau của vấn đề, nhưng đều có điểm chung nhau ở chỗ đánh giá thực trạng,
vạch rõ nguyên nhân cốt lõi và đề xuất hướng đi ra khỏi vướng mắc.
Từ cách tiếp cận Kinh tế học, Giáo sư Đào Thế Tuấn và Tiến sĩ Đặng Kim Sơn đã
đề xuất những giải pháp phát triển Kinh tế nông thông nhằm gắn kết một cách hữu cơ giữa
phát triển công nghiệp và phát triển nông nghiệp, giữa Đô thị và Nông thôn, giữa Bảo hộ
sản xuất nông nghiệp và Hội nhập kinh tế toàn cầu…
- TS. Chử Văn Lâm, Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Tam
nông: Một số vấn đề nổi lên ở Việt Nam hiện nay. Tác giải đã tổng hợp những vấn đề bức
súc từ thực tế tam nông ở Việt Nam và định hướng cách tháo gỡ…
- GS.TS. Tô Duy Hợp, Viện Xã hội học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam: Một số
vấn đề xã hội nan giải trong quá trình đổi mới tam nông Việt Nam. Tác giả đi sâu vào
những vấn đề xã hội bức súc trong quá trình đổi mới tam nông; đặc biệt là tích tụ ruộng
đất…
- PGS.TS. Nguyễn Đình Long Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông
nghiệp nông thôn: Hiện trạng nông thôn và thực hiện Nghị quyết 26 khóa X (Nông nghiệp,
Nông thôn, Nông dân). Tác giả đề cập thực trạng nông thôn, nông nghiệp và nông dân, đề
cập những bức xúc về nông thôn trong việc thực hiện Nghị quyết 26 khoá X…
- Luận án Tiến sĩ: Đánh giá hiệu quả một số mô hình sử dụng đất nông nghiệp sau
đồn điền đổi thửa ở huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình của TS Nguyễn Thị Thu Thủy,
Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân;

- Luận án Tiến sĩ của tác giả Phùng Đức Hiệp, Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển
nông thôn, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn: Quản lý nhà nước về quy hoạch xây
dựng nông thôn mới. Tác giả đã nêu ra những dự báo sự phát triển kinh tế - xã hội trong
tương lai của các địa phương và gợi ý một số định hướng trong công tác lập quy hoạch của
các xã xây dựng nông thôn mới.
Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung vào phân tích vai trò của hệ thống chính
sách trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH ở hai khía cạnh
lý luận và thực tiễn, trên phạm vi quốc gia và địa phương. Bên cạnh đó cũng có các công
trình nghiên cứu về các khía cạnh, các tiêu chí riêng biệt của chương trình NTM và đồng
thời, đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách
phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta và ở một số địa phương cụ thể. Tuy nhiên, các

10


công trình nghiên cứu này chưa có điều kiện đi sâu tính đặc thù, điều kiện xuất phát thấp,
tính đa dạng và chưa đề cấp tới vấn đề xây dựng nông thôn mới đối với một số huyện
ngoại thành trong bối cảnh đô thị hóa... của một huyện như Quốc Oai, thành phố Hà Nội.
Vì vậy, việc tiếp tục hướng nghiên cứu về vấn xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
huyện Quốc Oai là cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề liên quan đến xây dựng nông thôn
mới trong bối cảnh đô thị hóa ở huyện Quốc Oai
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa xây dựng nông thôn mới với đô thị
hóa, yêu cầu đặt ra đối với xây dựng NTM ở huyện Quốc Oai
Không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Quốc Oai
Thời giạn: Nghiên cứu thực trạng xây dựng NTM trong 5 năm qua, đề xuất giải
pháp đến 2020.

4. Mục tiêu nghiên cứu
4.1. Mục tiêu chung
Làm rõ thực trạng và đề xuất giải pháp xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô
thị hóa ở huyện Quốc Oai
4.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ cơ sở lý thuyết về xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa,
những bài học kinh nghiệm về xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa.
- Làm rõ thực trạng, đánh giá đặc điểm, những vấn đề phát sinh cần giải quyết trong
xây dựng nông thôn ở huyện Quốc Oai.
- Làm rõ quan điểm định hướng và giải pháp xây dựng nông thôn mới theo hướng
bền vững ở huyện Quốc Oai, giai đoạn 2016 - 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận nghiên cứu
Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học và luận văn triệt
để vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách quản lý kinh tế. Đó là cách tiếp cận từ
hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá có sự tham gia của các chủ thể chính

11


sách.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng hợp, thu thập số liệu
Thu thập tài liệu thứ cấp
Luận văn thu thập các số liệu về chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới của Trung ương, TP Hà Nội, huyện Quốc Oai; các Nghị quyết của Đảng, chính
sách của Nhà nước quy định về vấn đề xây dựng nông thôn mới.
Thu thập tài liệu sơ cấp
Để có thông tin số liệu phục vụ đề tài, tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu 12 cán bộ, viên
chức đang công tác tại UBND huyện, xã là những cán bộ có kinh nghiệm trong công tác

xây dựng nông thôn mới; 20 người dân đang thụ hưởng chính sách xây dựng nông thôn
mới.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp số liệu
- Dữ liệu được thu thập sẽ thống kê, tổng hợp, lựa chọn, hiểu chỉnh, mã hóa và
phân tích, đánh giá đồng thời sử dụng các bảng, biểu đồ để minh họa cho những nội dung
phân tích. Qua đó tổng hợp lại sẽ đưa ra những kết luận để chỉ rõ bản chất của các dữ liệu
thu thập được nhằm đảm bảo độ tin cậy khoa học cho các kết quả nghiên cứu. Các số liệu
được lấy từ số liệu thứ cấp sẽ được phân tích, đây là kỹ thuật lấy dữ liệu, mẫu biểu đơn giản, dễ
kiểm tra và có thực. Các số liệu thu thập được tổng hợp theo các phần mềm EXCEL,
Window để tính các tham số thống kê
Ngoài các phương pháp trên luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên
ngành, đa ngành như: Quản trị học, kinh tế học, xã hội học.
5.3. Câu hỏi nghiên cứu

- Thực trạng thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới ở huyện Quốc Oai hiện
nay như thế nào?

- Những khó khăn, thách thức trong việc thực hiện chính sách xây dựng NTM
trong bối cảnh đô thị hóa ở huyện Quốc Oai?

- Chính sách xây dựng nông thôn mới đã thực sự phù hợp với huyện Quốc Oai hay
không?

- Những vấn đề gì đặt ra trong thực hiện chính sách xây dựng NTM ở huyện Quốc
Oai trong bối cảnh đô thị hóa?

- Giải pháp hoàn thiện chính sách xây dựng nông thôn mới?
12



6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về nông thôn mới và xây dựng nông
thôn mới.
- Đánh giá thực trạng về quá trình thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới
trên địa bàn huyện Quốc Oai trong bối cảnh đô thị hóa; chỉ ra những tác động tích cực và
hiệu quả các chính sách nông thôn mới.
- Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy nhanh và nâng cao chất lượng cho việc xây
dựng nông thôn mới .
6.2. Ý nghĩa thự tiễn
Luận văn sẽ phân tích những điểm phù hợp, chưa phù hợp của chủ trương, chính
sách xây dựng nông thôn mới của cả nước cũng như trên địa bàn huyện Quốc Oai để từ đó
nêu những kiến nghị để đẩy nhanh quá trình và nâng cao chất lượng xây dựng nông thôn
mới, cung cấp những luận cứ quan trọng cho việc hoàn thiện quá trình xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn huyện Quốc Oai.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết thúc, phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục các
hình và bảng, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn còn được bố trí theo 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô
thị hóaở huyện Quốc Oai
Chương 2: Thực trạng xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa ở huyện
Quốc Oai
Chương 3: Quan điểm và giải pháp thúc đẩy xây dựng nông thôn mới trong bối
cảnh đô thị hóa ở huyện Quốc Oai giai đoạn 2016 - 2020

13


Chương 1

Cơ sở lý luận và kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa
1.1. Lý luận về xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa
1.1.1. Xây dựng nông thôn mới và đô thi hóa
1.1.1.1. Nông thôn và xây dựng nông thôn mới
* Khái niệm
Trước hết, cần phải hiểu khái niệm về nông thôn là gì? theo từ điển bách khoa toàn
thư thế giới thì “Nông thôn là khu vực mà ở đó tập trung dân cư sống chủ yếu bằng sản
xuất nông nghiệp”.
Nông thôn là nơi sinh sống và làm việc của một cộng đồng bao gồm chủ yếu là
nông dân, là vùng sản xuất nông nghiệp là chính. Nông thôn có cơ cấu hạ tầng, trình độ
tiếp cận thị trường, trình độ sản xuất hàng hóa thấp hơn so với thành thị.
Đến nay, ở nước ta, khái niệm về nông thôn đã được nêu rõ tại Thông tư số 54/TTBNN ngày 21/8/2009 của Bộ NN-PTNT là: "Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội
thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là
UBND xã".
Về phát triển nông thôn là một khái niệm rất rộng và đa dạng, thay đổi theo từng
giai đoạn phát triển của nền kinh tế và phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế - xã hội của từng
quốc gia. Nhìn chung phát triển nông thôn bao hàm chuyển biến và tiến bộ của các vùng
nông thôn trên tất cả các phương diện kinh tế, xã hội, văn hóa, nội lực…
Nhưng nông thôn mới là gì? Trong Nghị quyết số 26-NQ/TW đưa ra mục tiêu:
"Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và
các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp,
dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc;
dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn
dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường".
Như vậy, nông thôn mới trước tiên nó phải là nông thôn, không phải là thị tứ, thị
trấn, thị xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống hiện nay, có thể khái quát gọn
theo năm nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, đó là làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại;
Thứ hai, sản xuất phải phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa;


14


Thứ ba, đời sống về vật chất và tinh thần của dân nông thôn ngày càng được nâng
cao;
Thứ tư, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển;
Thứ năm, xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ.
Chức năng của nông thôn
Thứ nhất, sản xuất nông nghiệp
Nông thôn mới phải là nơi sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp có năng suất, chất
lượng cao theo hướng sản xuất hàng hóa, không phải là tự cung, tự cấp, phát huy được đặc
sắc của địa phương (đặc sản). Đồng thời với việc này là phát triển sản xuất ngành nghề,
trước hết là ngành nghề truyền thống của địa phương. Sản phẩm ngành nghề vừa chứa
đựng yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể của từng làng quê Việt Nam, tạo việc làm, tăng
thu nhập cho cư dân nông thôn...
Thứ 2, giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc
Nông thôn là nơi ghi nhiều dấu ấn văn hóa truyền thống tinh hoa của dân tộc. Bản
sắc văn hóa làng quê cũng đồng nghĩa với bản sắc từng dân tộc, giữ gìn nó là giữ gìn văn
hóa truyền thống đa dạng của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Xây dựng nông thôn mới theo
hướng hiện đại nhưng không được phá vỡ những nét truyền thống ấy.
- Thứ ba, chức năng sinh thái
Nếu như nền văn minh công nghiệp phá vỡ mối quan hệ hài hóa vốn có con người
và thiên nhiên, thì thuộc tính (chức năng) sản xuất nông nghiệp lại mang chức năng phục
vụ hệ thống sinh thái. Một thực tế hiện nay ở nước ta là nhiều làng quê cũng đã bị bê tông
hóa, đô thị hóa, phá vỡ môi trường sinh thái, gây ô nhiễm môi trường sống ở khu vực nông
thôn. Để nông thôn phát triển một cách bền vững cần phải gắn sự phát triển với việc bảo
vệ môi sinh thái. Và hơn lúc nào hết, chức năng sinh thái phải được dùng làm thước đo sự
hoàn thiện mô hình nông thôn mới ở Việt Nam.
Chức năng của nông thôn mới phải nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển nông thôn là
nâng cao mức sống và chất lượng sống về vật chất và tinh thần của người dân nông thôn,

xóa bỏ sự cách biệt về mọi mặt giữa thành thị và nông thôn.
Xây dựng nông thôn mới là nhằm tạo ra những giá trị mới của nông thôn Việt Nam,
một nông thôn hiện đại hàm chứa những giá trị kinh tế mới, có văn hóa nông thôn văn
minh, hiện đại nhưng vẫn giữ gìn, bảo tồn được bản sắc văn hóa dân tộc, và ở đó những

15


người nông dân vừa là chủ thể sáng tạo, vừa được thụ hưởng những giá trị vật chất, tinh
thần do chính họ tạo ra.
Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó của
chính phủ nó bao gồm các mục tiêu mà chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện
các mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực
kinh tế - văn hóa – xã hội – môi trường.
Khoản 3 điều 23 Thông tư 54/2009/TT-BNN&PTNT ngày 21 tháng 8 năm 2009
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc
gia về nông thôn mới quy định: Ban chỉ đạo nông thôn mới Trung ương kiểm tra việc
công nhận xã nông thôn mới ở các tỉnh để xét công nhận huyện, tỉnh đạt chuẩn nông
thôn mới cho các huyện có 75% số xã trong huyện đạt nông thôn mới và tỉnh có 75%
số huyện trong tỉnh đạt nông thôn mới.
Chính sách xây dựng nông thôn mới là tập hợp các chủ trương và hành động của
chính phủ nhằm tạo cho nông thôn phát triển bằng cách tác động vào việc cung cấp các
yếu tố đầu vào (đất đai, lao động, vốn, cơ sở hạ tầng), tác động tới giá đầu vào hay giá đầu
ra trong nông thôn, tác động về việc thay đổi tổ chức, trong đó thị trường đầu vào và cả
đầu ra được thực hiện, tác động vào chuyển giao công nghệ.
Chính sách xây dựng NTM là cuộc cách mạng và vận động lớn để cộng đồng dân cư
ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình khang trang, sạch đẹp; phát
triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hóa, môi
trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của
người dân được nâng cao.

Xây dựng NTM giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết
giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
Xây dựng nông thôn mới là làm cho các xã nông thôn trong cả nước đạt được 19 tiêu chí
quy định trong quyết định số 491/QĐTTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 và có sửa đổi tại
quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20 tháng 02 năm 2003 của Thủ tướng chính phủ. Đồng
thời trong giai đoạn 2010 – 2020 phải thực hiện cho được mục tiêu ghi trong quyết định
800/QQĐ-TTg, ngày 04 táng 6 năm 2010 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mớNguyên tắc xây dựng nông thôn mới
Nội dung xây dựng nông thôn mới hướng tới thực hiện Bộ tiêu chí Quốc gia được
qui định tại Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ. (Bộ tiêu

16


chí Quốc gia xem ở phần phụ lục)
Xây dựng nông thôn mới theo phương châm phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng
dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng, ban hành các tiêu chí, quy
chuẩn xã đặt ra các chính sách, cơ chế hỗ trợ và hướng dẫn. Các hoạt động cụ thể do chính
cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để quyết định và tổ chức thực hiện.
Được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình MTQG, chương
trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang triển khai ở nông thôn, có bổ
sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần thiết; có cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh
mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế; huy động đóng góp của các tầng lớp dân cư.
Được thực hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm
bảo an ninh quốc phòng của mỗi địa phương (xã, huyện, tỉnh); có quy hoạch và cơ chế
đảm bảo cho phát triển theo quy hoạch (trên cơ sở các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các
Bộ chuyên ngành ban hành).
Là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp uỷ Đảng, chính quyền đóng vai trò
chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tổ chức thực hiện; Hình thành cuộc vận
động “toàn dân xây dựng nông thôn mới“ do Mặt trận Tổ quốc chủ trì cùng các tổ chức chính trị - xã

hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò chủ thể trong việc xây dựng nông thôn mới.
* Vai trò của chính sách xây dựng nông thôn mới trong phát triển kinh tê - xã
hội
Chính sách xây dựng nông thôn mới có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội, cụ thể như sau:
Một là, xây dựng cộng đồng xã hội văn minh, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
ngày càng hoàn thiện; cơ cấu kinh tế hợp lý, các hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến;
Hai là, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ và du lịch; gắn
phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; từng bước thực hiện CNH-HĐH nông
nghiệp, nông thôn.
Ba là, xây dựng xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc;
trình độ dân trí được nâng cao; môi trường sinh thái được bảo vệ.
Bốn là, hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật
chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao.
Năm là, áp những thành tựu khoa học - kỹ thuật, để sản xuất ra nông sản ngày càng
nhiều, chất lượng cao đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Qua đó,

17


người dân có điều kiện nâng cao thu nhập, tích lũy vật chất, ổn định cuộc sống và góp
phần làm cho bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc, tạo cơ sở cho việc chuyển đổi cơ cấu
nông nghiệp.
* Mục tiêu và nội dung chính sách xây dựng nông thôn mới
Mục tiêu của chính sách xây dựng nông thôn mới
+ Xây dựng cộng đồng xã hội văn minh, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày
càng hoàn thiện; cơ cấu kinh tế hợp lý, các hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến;
+ Gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ và du lịch; gắn phát
triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; từng bước thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn;

+ Xây dựng xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; trình
độ dân trí được nâng cao; môi trường sinh thái được bảo vệ;
+ Hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật
chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao.
Nội dung của chính sách xây dựng nông thôn mới
Chính sách xây dựng nông thôn mới có nội dung rất rộng, thể hiện trong việc thực
hiện Bộ tiêu chí quốc gia NTM được ban hành theo Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày
16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ, gồm 5 nhóm tiêu chí, 19 tiêu chí cụ thể như sau: Quy
hoạch; Hạ tầng kinh tế xã hội; Kinh tế và tổ chức sản xuất; Văn hóa - xã hội - môi trường; Hệ
thống chính trị.
19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới gồm: 1: Quy hoạch; 2: Giao thông; 3: Thủy lợi;
4: Điện; 5: Trường học; 6: Cơ sở vật chất văn hóa; 7: Chợ; 8: Bưu điện; 9: Nhà ở dân cư;
10: thu nhập; 11: Tỷ lệ hộ nghèo; 12: Cơ cấu lao động; 13: Hình thức tổ chức sản xuất; 14:
Giáo dục; 15: Y tế; 16: Văn hóa; 17: Môi trường; 18: Hệ thống tổ chức chính trị xã hội
vững mạnh; 19: An ninh trật tự, xã hội.
Như vậy, chính sách xây dựng nông thôn mới phải hướng đến đạt được những nội
dung cơ bản sau: làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; sản xuất phát triển bền
vững theo hướng kinh tế hàng hóa; đời sống về vật chất và tinh thần của người dân nông
thôn ngà càng được nâng cao; bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển; xã hội
nông thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ.

18


* Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới
- Nội dung xây dựng nông thôn mới hướng tới thực hiện Bộ tiêu chí Quốc gia được
qui định tại Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ. (Bộ tiêu
chí Quốc gia xem ở phần phụ lục)
- Xây dựng nông thôn mới theo phương châm phát huy vai trò chủ thể của cộng
đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng, ban hành các tiêu

chí, quy chuẩn xã đặt ra các chính sách, cơ chế hỗ trợ và hướng dẫn. Các hoạt động cụ thể
do chính cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để quyết định và tổ chức thực
hiện.
- Được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình MTQG, chương
trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang triển khai ở nông thôn, có bổ
sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần thiết; có cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh
mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế; huy động đóng góp của các tầng lớp dân cư.
- Được thực hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm
bảo an ninh quốc phòng của mỗi địa phương (xã, huyện, tỉnh); có quy hoạch và cơ chế
đảm bảo cho phát triển theo quy hoạch (trên cơ sở các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các
Bộ chuyên ngành ban hành).
- Là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp uỷ Đảng, chính quyền đóng vai trò
chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tổ chức thực hiện; Hình thành cuộc vận
động “toàn dân xây dựng nông thôn mới“ do Mặt trận Tổ quốc chủ trì cùng các tổ chức chính trị - xã
hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò chủ thể trong việc xây dựng nông thôn mới.
1.1.1.2. Xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa
* Khái niệm đô thị
Đô thị: Đô thị được hiểu là nơi tập trung dân cư và các hoạt động chính trị, văn hóa,
kinh tế, nhất là các ngành nghề công nghiệp và thương mại - dịch vụ xét về mặt địa lý và
không gian - lãnh thổ. Điều đó nhằm khai thác tính kinh tế theo quy mô (economies of
scale), ưu thế của phân công lao động và mật độ hoạt động trên một diện tích. Đô thị là
biểu tượng cho văn minh thị trường, công nghiệp và kiến trúc hiện đại được phân biệt với

19


nông thôn. Đô thị chủ yếu là kết quả của quá trình tăng trưởng kinh tế dựa trên sự phát
triển công nghiệp và tập trung sản xuất vào khu vực trung tâm.
Khái niệm đô thị cần lưu ý các vấn đề như: Đặc trưng về thiết chế chính trị và kết cấu
giai tầng xã hội của đô thị bao gồm: bộ máy chính trị - hành chính và giai cấp công nhân, tư

sản, thợ thủ công, viên chức, trí thức (khác với nông thôn chỉ cótầng lớp nông dân, chủ đất,
thợ thủ công, người buôn bán nhỏ...); Đặc trưng về kết cấu kinh tế của đô thị bao gồm các
lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ, thương mại và các ngành sản xuất tinh thần (khác
với nông thôn chỉ có nông nghiệp và một số hoạt động phi nông nghiệp trong thôn); Đặc
trưng về lối sống, văn hóa của đô thị theo kiểu thị dân – công nghiệp, tương ứng còn có hệ
thống dịch vụ, hạ tầng, năng lượng và nhà ở được quy hoạch thuận lợi tập trung (khác với
nông thôn chủ yếu dựa vào sinh hoạt cộng đồng làng xã và quy hoạch phân tán). Tùy theo
từng hoàn cảnh mà người ta nhấn mạnh một số đặc trưng nhất định; nhưng trên phương diện
kinh tế chính trị cần nhấn mạnh khía cạnh kinh tế - xã hội và cách thức tổ chức sinh hoạt
chính trị, tinh thần cũng như phương thức tổ chức kinh tế và sản xuất của đô thị chủ yếu dựa
trên cơ sở công nghiệp và phát triển kinh tế thị trường.
Đô thị hóa: Là quá trình tăng trưởng của đô thị về mặt dân cư, quy mô các thành phố
và lan tỏa lối sống đô thị về nông thôn. Theo nghĩa rộng, đô thị hóa là quá trình phát triển
đô thị về các mặt kinh tế, dân số, không gian và kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị; sự biến đổi
và phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp
hóa; sự thay đổi điều kiện sản xuất, lối sống và văn hóa đô thị.Tóm lại, đây là quá trình
chuyển đổi căn bản mọi mặt xã hội nông thôn truyền thống sang xã hội đô thị - công
nghiệp và thị trường hiện đại.
Đô thị hóa phụ thuộc vào các yếu tố như: chính trị, kinh tế - công nghệ và xã hội.
Thời kỳ kinh tế chưa phát triển thì đô thị hóa phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, ví
dụ, ven các bờ sông và nguồn nước, theo các đường trục và bến cảng thuận tiện cho giao
thông thủy bộ. Trong điều kiện kinh tế thị trường, đô thị phát triển mạnh mẽ chủ yếu dựa
vào các tiến bộ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Đô thị tập trung các hoạt động kinh tế
và dân cư nhờ phát triển ngành nghề, mạng lưới hạ tầng và dịch vụ thuận lợi. Trên cơ sở
đó hình thành sự phát triển hệ thống đô thị hóa của vùng và quốc gia.
Vùng đô thị hóa: Là những khu vực được quy hoạch phát triển tập trung về chính trị
- kinh tế - xã hội để hình thành các trung tâm thương mại - dịch vụ - công nghiệp và hành
chính mới (đô thị). Tại đây diễn ra quá trình đô thị hoá với tốc độ cao (hay đô thị hóa

20



nhanh). Về mặt không gian, vùng đô thị hóa có thể là vùng đất mới được quy hoạch,
nhưng thường là những vùng ven hay phụ cận các trung tâm đô thị lớn, vùng ngoại thành.
Theo quy luật phát triển của đô thị mang tính lan tỏa, đô thị sẽ mở rộng ra các vùng phụ
cận, biến các vùng này từ nông nghiệp, nông thôn trở thành các đô thị và vùng công
nghiệp vệ tinh.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đên quá trình xây dựng nông thôn mới trong bối
cảnh đô thị hóa
1.2.1. Nhân tố vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Đối với các vùng ven đô có vị trí gần thành phố, tốc độ đô thị hóa nhanh thường
dẫn đến có sự thay đổi lớn về không gian, lãnh thổ đô thị và khu vực nông thôn; một số
vùng có lợi thế về giao thông cũng chuyển sang hướng đô thị hóa trên cơ sở chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang công nghiệp và hoạt động thương mại - dịch vụ.
Vì vậy,ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc về tài nguyên đất đai, về kinh tế, xã hội và môi
trường; mối quan hệ tương tác giữa thành phố với nông thôn tạo điều kiện thuận lợi cho
xây dựng nông thôn mới, vv…Tuy vậy , quá trình xây dựng nông thôn mới cũng đặt ra
nhiều vấn đề cần giải quyết như: Việc làm cho người mất đất nông nghiệp, đời sống xã hội
sẽ thay đổi gây nhiều vấn đề về an ninh và trật tự xã hội, các biến đổi về tự nhiên, môi
trường xã hội, môi trường sinh thái…
1.2.2. Nhân tố kinh tê
Xu thế phát triển của đô thị hóa, công nghiệp hóa đã trực tiếp góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng thúc đẩy các ngành công nghiệp, thương mại dịch vụ phát triển
mạnh, hình thành các khu đô thị, khu công nghiệp tập trung tuy nhiên cũng gây những tác
động tiêu cực ảnh hưởng đến phát triển ngành nông nghiệp, nông thôn và nông dân, đã dần
thu hẹp diện tích đất nông nghiệp làm chuyển dịch cơ cấu nội ngành trong nông nghiệp
theo hướng phát triển các cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng; trong trồng trọt tỷ
trọng hoa màu, cây ăn quả, rau sạch tăng cao để phục phụ cho nhu cầu của của người dân
Thành phố.
Thiếu việc làm ở khu vực nông thôn, kết quả của việc di dân tự do, lao động trẻ rời

nông thôn để tìm kiếm việc làm ở các khu đô thị, các thành phố lớn, các khu công nghiệp.
Đây là thực trạng mà hầu hết các địa phương đang phải đối mặt, điều này khiến cho khu
vực nông thôn đang thiếu một lực lượng lao động trẻ có trình độ, có sức khỏe, nhanh nhậy

21


trong việc tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật và mạnh dạn trong phát triển kinh tế, ứng
phó nhanh trước những
1.3. Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương
1.3.1. Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới của huyện Đan Phượng, Hà Nội
* Đặc điểm chung:
Đan Phượng là huyện ven đô nằm phía Tây Thủ đô Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô
20km, diện tích đất tự nhiên 7.735,48 ha, dân số 162.856 người. Huyện có 16 đơn vị hành
chính: gồm 1 thị trấn và 15 xã, với49 tổ chức cơ sở Đảng và 5.517 đảng viên. Đảng bộ và
nhân dân Đan Phượng có truyền thống anh hùng trong đấu tranh cách mạng. Trong những
năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đan Phượng là nơi khởi nguồn của phong trào phụ
nữ Ba đảm đang, là huyện đạt năng suất lúa 5 tấn/ha/năm đầu tiên của Miền Bắc.
* Kết quả thực hiện xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015
Trước khi xây dựng nông thôn mới, Đan Phượng là một huyện nông nghiệp, các xã
trong huyện mới đạt bình quân gần 10/19 tiêu chí nông thôn mới, hạ tầng kỹ thuật còn khó
khăn, không đồng bộ; số thu ngân sách hàng năm nhỏ, đầu tư chủ yếu dựa vào ngân sách
Thành phố.
Thực hiện Chương trình 02 của Thành ủy về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng
nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân” giai đoạn 2011-2015, huyện Đan
Phượng xác định đây là cuộc cách mạng trong nông nghiệp, nông thôn, là thách thức lớn
đối với vai trò lãnh đạo của đảng bộ, song đó cũng là thời cơ để cho huyện bứt phá phát
triển nhanh. Vì vậy phải tập trung cao độ sự lãnh đạo, chỉ đạo và huy động toàn dân tham
gia để chương trình thành công.
Xác định đúng vai trò của người dân trong xây dựng nông thôn mới, người dân là

chủ thể, là người chủ xây dựng nông thôn mới, đồng thời là người được thụ hưởng thành
quả do xây dựng nông thôn mới đem lại. Xây dựng nông thôn mới lấy nội lực là căn bản;
ngoài kinh phí của Nhà nước cần thực hiện tốt xã hội hoá, huy động các nguồn lực, trong
đó đóng góp của nhân dân thông qua việc hiến đất, đóng góp kinh phí, công sức, trí tuệ là
rất quan trọng góp phần cho chương trong thành công. Với nhận thức đó, Đan Phượng
xác định:
- Quy hoạch phải đi trước một bước, đây là căn cứ quan trọng để xác định đầu tư, là cơ
sở để huy động nguồn lực, đồng thời làm đâu được đó, tránh lãng phí.

22


- Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, đây vừa là giải pháp, vừa là mục tiêu, là
cơ sở để tăng thu nhập nâng cao đời sống nhân dân.
- Xây dựng hạ tầng là động lực, thực chất là tạo ra thế và lực mới cho sự phát triển,
là điều mà nhân dân dễ cảm nhận thấy sự thay đổi và được thụ hưởng ngay thành quả.
- Cán bộ là khâu quyết định, là người tổ chức đồng thời là người gương mẫu thực
hiện.
- Sự đồng thuận và tích cực tham gia của người dân là nền tảng.
Huyện xác định trước hết phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động để mọi tầng
lớp nhân dân tham gia, làm cho người dân hiểu rõ vai trò chủ thể, thấy rõ trách nhiệm
trong việc xây dựng nông thôn mới, từ đó công việc đầu tiên huyện triển khai là tổ chức lễ
phát động “toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới”, giao cho MTTQ, các đoàn thể
nhân dân tiếp tục tuyên truyền tổ chức bằng nhiều hình thức, hội họp, phát thanh, cổ động
và tuyên truyền trực quan, tạo không khí sôi nổi và sự quan tâm của nhân dân với chương
trình xây dựng nông thôn mới.
Để có hạ tầng cho nông thôn mới, ngoài hỗ trợ của Thành phố, huyện chủ động khai
thác các nguồn thu từ đất (đấu giá quyền sử dụng đất, thu tiền sử dụng đất từ các dự án đô
thị, thu tiền thuê đất, xử lý đất xen kẹt…) để đầu tư với 02 khâu đột phá là: “Đấu giá quyền
sử dụng đất và giải phóng mặt bằng” tập trung đầu tư các công trình lớn: đường giao

thông, các công trình bảo vệ môi trường, những công trình dân sinh bức xúc tạo thế và lực
mới cho huyện. Khi UBND Thành phố có Quyết định số 16 ngày 06/7/2012 về hỗ trợ xây
dựng hạ tầng nông thôn mới. Đan Phượng đã chủ trương vận dụng sáng tạo hỗ trợ trước
đầu tư. Huyện uỷ có kết luận số 62(2012) về hỗ trợ xây dựng đường giao thông xóm, ngõ.
Trên cơ sở quy hoạch và đề án xây dựng nông thôn mới được phê duyệt, huyện yêu cầu
các xã đồng bộ lập các dự án thành phần cải tạo nâng cấp đường làng, ngõ, xóm, đường
giao thông nội đồng, phê duyệt để thực hiện. Để tạo động lực và huy động sức đóng góp
của nhân dân, huyện chủ trương vận dụng quyết định số 16(2012) của UBND Thành phố
ứng trước 100% vật liệu chính (cát, đá, sỏi, xi măng), nhân dân đóng góp ngày công lao
động để xây dựng đường xóm ngõ và đường giao thông nội đồng. Chủ trương của Huyện uỷ
nhằm phục vụ trực tiếp nhu cầu của người dân nên được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Toàn
huyện tập trung triển khai trong 2 tháng cuối năm 2012 các xã đã cơ bản hoàn thành xây dựng
đường ngõ xóm. Kết quả, toàn huyện xây dựng được 136,7 km đường ngõ xóm, 22km đường

23


trục thôn, 80,6 km đường nội đồng với tổng vốn đầu tư 317,4 tỷ đồng; tiết kiệm được 234,5
tỷ đồng so với dự toán ban đầu, nhân dân đóng góp 413.722 ngày công và hiến 2.522,2 m 2
đất thổ cư và 18,5 m2 đất nông nghiệp; có 31 doanh nghiệp ủng hộ nhân công, máy là 25
tỷ 554 triệu đồng.
Sau 5 năm thực hiện chương trình, hạ tầng kinh tế xã hội được đầu tư xây dựng và
nâng cấp tương đối đồng bộ, tạo thế và lực mới cho huyện phát triển, bộ mặt nông thôn
khang trang, sạch đẹp. Đời sống nhân dân được nâng lên, thu nhập bình quân đầu người đạt
28,8 triệu đồng, tăng gần gấp đôi so với năm 2010.Tỷ lệ hộ nghèo năm 2015 giảm xuống
còn 2%.Nhận thức của đội ngũ cán bộ được nâng lên, cán bộ trưởng thành hơn; nhân dân
đoàn kết, lòng tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố. Và vinh dự lớn đối với huyện
Đan Phượng ngày 23/10/2015 được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận huyện
Đan Phượng đạt chuẩn nông thôn mới năm 2015.
* Một số kinh nghiệm:

- Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng phải đi trước một bước; thực hiện đúng tư
tưởng Hồ Chí Minh: “ Muốn cách mạng, tiên cách tâm”; tuyên truyền được đặt lên hàng
đầu với nhiều hình thức phong phú, theo hướng gọn, rõ, sát đối tượng nhằm tạo sự đồng
thuận cao trong xã hội.
- Phát huy dân chủ là động lực cho phát triển, muốn vậy phải công khai, minh bạch trong
tất cả các khâu, nhất là việc huy động và sử dụng các nguồn lực từ nhân dân, tăng cường phân
cấp, trao quyền cho cấp xã quản lý và tổ chức thực hiện công trình, dự án của Chương trình.
Phát huy vài trò làm chủ cuả người dân, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường kiểm
tra, giám sát của nhân dân.
- Bám sát vào chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, quy định
của Thành phố, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương đảm bảo để phát
triển kinh tế, ổn định xã hội gắn với bảo vệ môi trường.
- Cán bộ phải năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tâm
huyết, trách nhiệm, vì dân. Công tác cán bộ là yếu tố quan trọng quyết định thành công
cao trong xây dựng nông thôn mới. Quá trình thực hiện, cán bộ nào không đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ thì kiên quyết phải thay thế; đồng thời Huyện chú trọng công tác thi đua, kịp

24


thời biểu dương, khen thưởng các tổ chức, cá nhân có thành tích, lập sổ vàng ghi danh
những tập thể, cá nhân có nhiều đóng góp công sức xây dựng nông thôn mới.
1.3.2. Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới của huyện Hải Hậu, tỉnh Nam
Định
* Đặc điểm chung:
Hải Hậu là huyện đồng bằng ven biển thuộc châu thổ sông Hồng, nằm phía Đông
Nam tỉnh Nam Định, dân số trên 260.000 người, có 32 xã, 3 thị trấn, 546 xóm, tổ dân phố.
Diện tích tự nhiên 23.000 ha; trong đó đất nông nghiệp 15.636 ha ( chiếm 68,3%), đất
chuyên dùng 4.202 ha; đất ở 1.602 ha. Có 33 Km đê biển, 24 Km đê sông bao bọc. Cơ cấu
kinh tế : nông nghiệp - thủy sản; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.

* Kết quả thực hiện xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2015
Được sự quan tâm của Trung ương, sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, UBND tỉnh,
năm 2010 huyện Hải Hậu được chọn là một trong 5 huyện của cả nước làm điểm thực hiện
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới. Đây cũng là vinh dự, nhưng
cũng là trách nhiệm nặng nề của cán bộ, nhân dân toàn huyện. Huyện ủy, UBND huyện
Hải Hậu xác định nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới là việc làm thường xuyên, liên tục; là
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị; là nhiệm vụ trọng tâm của cả nhiệm kỳ 2010 - 2015.
Căn cứ tình hình thực tiễn của huyện, Ban chấp hành Đảng bộ huyện đã chủ động, tập
trung xây dựng và ban hành 3 Nghị quyết, 6 Để án về phát triển kinh tế - xã hội xây dựng
nông thôn mới 2010-2015, gồm: Đề án dồn điền đổi thửa; Đề án mở rộng sản xuất chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, trồng cây vụ đông trên chân ruộng 2 lúa và phát triển trang trại nông
nghiệp; Đề án xây dựng làng nghề trên địa bàn huyện Hải Hậu; Đề án đào tạo nghề, truyền
nghề, gải quyết việc làm trong nông thôn; Đề án nâng cao chất lượng hoạt động Nhà văn
hóa xóm, tổ dân phố; Đề án nâng cao chất lượng dạy và học.
Với phương châm chỉ đạo xây dựng nông thôn mới: "Nhân dân làm nhà nước hỗ
trợ; Làm từ đồng ruộng về làng, làm từ xóm lên xã, xã lo xây dựng công trình chính của
xã, các xóm vận động nhân dân đóng góp xây dựng các công trình của xóm. Các hộ dân lo
cải tạo ao vườn, sân, ngõ, 3 công trình vệ sinh của gia đình. Lấy xóm là đơn vị cơ sở, hộ
gia đình là hạt nhân để vận động xây dựng nông thôn mới", sau 5 năm triển khai thực hiện

25


×