Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học làm việc tại chính quyền sở tại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.64 KB, 92 trang )

1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng n-ớc và giữ n-ớc đã chứng minh
rằng, chính quyền trung -ơng yếu hay mạnh, đất n-ớc thịnh hay suy, sự
nghiệp thành hay bại đều có nguyên nhân từ thái độ đánh giá và năng lực tổ
chức xây dựng chính quyền cơ sở. Trong quan điểm của Hồ Chí Minh một lần
nữa khẳng định, chính quyền cơ sở là gốc của chính quyền cách mạng. Chính
quyền cơ sở có vững vàng thì nhà n-ớc và chế độ mới vững vàng. Quan điểm
đó đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị.
Chính quyền cơ sở (xã, ph-ờng, thị trấn) là nơi trực tiếp giải quyết công việc
của ng-ời dân, là nơi thực hiện mọi chủ tr-ơng, chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà n-ớc và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa ph-ơng. Chính quyền cơ sở có vai trò đặc
biệt quan trọng trong hệ thống chính trị của n-ớc ta.
Vì vậy, xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị cấp cơ sở
là đòi hỏi khách quan của chính sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là điều
kiện tất yếu đảm bảo cho sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất n-ớc.
Trong những năm qua, đặc biệt từ sau khi triển khai thực hiện Nghị quyết
Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung -ơng Đảng về "Đổi mới và nâng
cao chất l-ợng hệ thống chính trị ở cơ sở ph-ờng, xã, thị trấn", các cấp chính
quyền cơ sở th-ờng xuyên đ-ợc chăm lo củng cố, kiện toàn b-ớc đầu đã tạo ra
những chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của chính quyền cơ sở, đem lại sự đồng thuận xã hội, ổn định chính trị, phát
triển kinh tế - xã hội, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ngày
càng đ-ợc đào tạo, bồi d-ỡng nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị,
chuyên môn, đ-ợc rèn luyện, thử thách và tr-ởng thành trong thực tiễn. Tuy
nhiên, đứng tr-ớc nhu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới, hệ thống



2
chính trị cấp cơ sở bộc lộ nhiều hạn chế, trong đó vấn đề cán bộ, công chức
làm việc ở chính quyền cơ sở là một hạn chế quan trọng làm chất l-ợng hoạt
động của hệ thống chính quyền cơ sở bất cập tr-ớc đòi hỏi thực tiễn. Điều này
khiến cho chính quyền cơ sở trở thành khâu yếu nhất trong hệ thống chính trị
n-ớc ta hiện nay.
Đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống chính quyền cơ sở có
vai trò hết sức quan trọng, họ là những ng-ời th-ờng xuyên tiếp xúc và trực
tiếp quan hệ với nhân dân; tổ chức vận động nhân dân thực hiện chủ tr-ơng,
đ-ờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà n-ớc và các hoạt động về
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ở địa ph-ơng.
Tuy vậy, đội ngũ cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở vẫn
còn nhiều bất cập, thiếu về số l-ợng, yếu về chất l-ợng đặc biệt là chất l-ợng,
trình độ đào tạo; năng lực quản lý, điều hành ch-a đáp ứng yêu cầu của đất
n-ớc trong thời kỳ mới.
Để từng b-ớc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cơ sở đủ
về số l-ợng, mạnh về chất l-ợng, đồng bộ về cơ cấu; đảm bảo tính kế thừa,
chuyển tiếp giữa các thế hệ một cách liên tục và vững chắc cần phải tập trung
đào tạo, bồi d-ỡng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam là: "Kiện toàn bộ máy chính quyền cấp cơ sở có sức quản lý, giải
quyết kịp thời, đúng thẩm quyền những vấn đề cuộc sống đặt ra và nhân dân
đòi hỏi ". Bên cạnh chính sách bồi d-ỡng, đào tạo các cán bộ, công chức đang
làm việc thì vấn đề thu hút đội ngũ trí thức đ-ợc đào tạo cơ bản về làm việc ở
chính quyền cơ sở là một giải pháp rất đáng quan tâm, đặc biệt là thu hút
những sinh viên đã tốt nghiệp ở các tr-ờng đại học, một bộ phận đông đảo của
đội ngũ trí thức, những ng-ời có trình độ, tuổi trẻ, nhiệt huyết và họ là những
ng-ời đang có nhu cầu tìm kiếm việc làm.
Thế nh-ng, trong thực tế, để có một đội ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở
trẻ tuổi, có trình độ đại học không đơn giản. Hầu hết các sinh viên ra tr-ờng, kể



3
cả sinh viên cử tuyển cũng tìm cách ở lại thành phố lập thân, lập nghiệp; một
phần vì họ muốn tiến thân với những kiến thức đã đ-ợc trang bị trong giảng
đ-ờng đại học, một phần vì phần lớn sinh viên vẫn có quan niệm về làm việc ở
ph-ờng, xã là không t-ơng xứng với trình độ mà họ đ-ợc đào tạo. Hơn nữa, sinh
viên mới ra tr-ờng về công tác tại cơ sở thì dù có lý lịch tốt nh- thế nào, năng lực
giỏi tới đâu cũng chỉ là nhân viên bình th-ờng, rồi từng b-ớc phấn đấu rất gian
nan, ở nhiều địa ph-ơng sinh viên về làm việc ở chính quyền cơ sở không đ-ợc
phân công nhiệm vụ đúng với khả năng của họ, những kiến nghị, sáng kiến của
sinh viên mới tốt nghiệp đại học không đ-ợc coi trọng do định kiến "ngựa non háu
đá", "trứng khôn hơn vịt"; trong khi đó công việc luôn đòi hỏi trách nhiệm cao do
th-ờng xuyên tiếp xúc trực tiếp với dân nh-ng chế độ đãi ngộ đối với cán bộ công
chức công tác ở chính quyền cơ sở còn ch-a t-ơng xứng. Qua quá trình phấn đấu,
họ rất dễ nản lòng, vì trong môi tr-ờng ấy họ rất lạc lõng, thiệt thòi nên sẵn sàng
bỏ việc đi tìm việc khác nhiều tiện nghi hơn, dễ tiến thân hơn.
Cũng trong tình trạng chung đó của cả n-ớc, hệ thống chính quyền cơ
sở ở Nghệ An cũng đang bộc lộ nhiều hạn chế mà một trong những nguyên nhân
cơ bản là do đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở ở đây ch-a đáp ứng đ-ợc yêu
cầu của thời kỳ mới. Trong thời gian qua, để giải quyết vấn đề này, các cấp chính
quyền ở Nghệ An cũng đã đ-a ra nhiều giải pháp, chính sách để nâng cao chất
l-ợng cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở nh-ng vẫn ch-a có một
chính sách nào để thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học. Trong khi đó, tại Hội nghị
Trung -ơng chín khoá X, Đảng ta đã đ-a ra chủ tr-ơng: " Nghiên cứu chính sách
thu hút, tạo nguồn cán bộ từ học sinh, sinh viên xuất sắc, các nhà khoa học trẻ
tuổi để bổ sung cán bộ cho các lĩnh vực công tác" [33, tr.57].
Tr-ớc thực tiễn đó đặt ra nhu cầu cấp thiết phải hoạch định một chính
sách cụ thể thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ
sở nhằm trả lời cho câu hỏi: Làm thế nào để sinh viên tốt nghiệp đại học về

làm việc, gắn bó lâu dài và phát huy hết khả năng, năng lực của họ ở hệ thống
chính quyền cơ sở?


4
Nhận thức đ-ợc vấn đề này, tôi chọn đề tài "Chính sách thu hút sinh
viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở (qua thực tế tỉnh
Nghệ An)" làm luận văn thạc sĩ Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu chính sách nâng cao
chất l-ợng và thu hút nguồn nhân lực có trình độ về làm việc ở chính quyền
cơ sở đã đ-ợc nhiều nhà khoa học nghiên cứu d-ới những góc độ khác
nhau: Xây dựng Đảng, Chủ nghĩa xã hội, Kinh tế chính trị, Chính trị học...
Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã đ-ợc công bố d-ới dạng đề tài
khoa học, chuyên đề, khảo sát, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài
báo đăng tải trên các sách, báo, tạp chí...
Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu nh-:
- Đề tài khoa học do PGS, TS Nguyễn Phú Trọng chủ biên (2002): "Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất l-ợng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n-ớc". Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Đề tài khoa học Độc lập cấp Nhà n-ớc do GS, TS Hoàng Chí Bảo chủ
nhiệm: "Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố tăng c-ờng hệ thống chính
trị cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển ở n-ớc ta hiện nay". Học viện
chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Kỷ yếu khoa học tập I,II,III.
- Đề tài khoa học cấp Bộ do PGS, TS Nguyễn Đăng Thành chủ nhiệm
(2002): "Chính sách và những vấn đề cơ bản chi phối việc hoạch định
chính sách ở Việt Nam" Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện
Chính trị học.
- GS, TS Hoàng Chí Bảo (2002) "Hệ thống chính trị cấp xã - hiện trạng
và những vấn đề đặt ra", Thông tin chính trị học, (2) tr. 13 - 18.

- Nguyễn Đặng (2004), Chính sách, chế độ đối với những cán bộ, công
chức xã, ph-ờng, thị trấn, Bộ Lao động Th-ơng binh và Xã hội, Nxb Lao động
Th-ơng binh và xã hội.


5
- Đề tài của TS Vũ Hoàng Công (2002) "Hệ thống chính trị cơ sở Đặc điểm, xu h-ớng và giải pháp" - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
Liên quan đến đề tài còn có luận văn:
- "Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn hiện nay - vấn đề và giải pháp",
Luận văn thạc sĩ Cấn Thị Dung (2003).
- "Chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở tỉnh
Nghệ An", Luận văn thạc sĩ Trần Ngọc Danh (2005)
- "Hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn trên địa bàn tỉnh Kom
Tum hiện nay", Luận văn thạc sĩ Võ Trọng Khoa (2007).
- "Thực thi chính sách phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Hậu Giang hiện nay", Luận văn thạc sĩ
Nguyễn Thị Ngọc Trang (2008)
Ngoài ra còn có nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã có những công trình,
bài viết về vấn đề thu hút nguồn nhân lực cho chính quyền cơ sở đã đ-ợc đăng
tải trên các tạp chí, các kỷ yếu khoa học, trên mạng Internet...
Nhìn chung, trên các bình diện khác nhau, các tác giả đã nghiên cứu một
cách cơ bản, đi sâu, làm rõ và đ-a ra những luận cứ khoa học cùng với những
kinh nghiệm thực tiễn nhằm củng cố và tăng c-ờng hệ thống chính trị cơ sở;
nâng cao chất l-ợng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n-ớc, trong đó, một
giải pháp để nâng cao chất l-ợng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc ở chính
quyền cơ sở là thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao; chu trình hoạch định
chính sách và những quy định cụ thể về chính sách chế độ đối với cán bộ, công
chức xã, ph-ờng, thị trấn... Đó là nguồn t- liệu quý giá và những gợi ý về ph-ơng

pháp luận giúp tôi kế thừa trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài của mình.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về vấn đề chính sách thu hút sinh viên tốt
nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở d-ới góc độ chính trị học, đặc


6
biệt là đối với một tỉnh có nhiều đặc thù nh- ở Nghệ An vẫn ch-a có tác giả
nào thực hiện. Vì vậy, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài này với mong muốn góp
phần luận giải những vấn đề mà lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra từ đó đề
xuất một chính sách mới giải quyết phần nào vấn đề đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở l m rõ quy trình hoạch định chính sách công,
phân tích nhu cầu lựa chọn chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về
làm việc tại chính quyền cơ sở tỉnh Nghệ An, luận văn đề xuất việc xây dựng
và ban hành, triển khai chính sách này nhằm nâng cao chất l-ợng đội ngũ cán
bộ, công chức ở cơ sở giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích đó luận văn có nhiệm vụ đề xuất
các quá trình cơ bản sau đây:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạch định chính sách công.
- Phân tích nhu cầu khách quan của việc lựa chọn chính sách thu hút sinh
viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở (qua thực tế ở Nghệ An).
- Xác định nội dung, ban hành v đ-a ra một số giải pháp có tính định
h-ớng cho việc triển khai thực hiện chính sách đó.
3.3. Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu nghiên cứu lý luận về vấn đề hoạch
định chính sách; nghiên cứu thực trạng sinh viên tốt nghiệp đại học và chính
quyền cơ sở ở Nghệ An từ sau Đại hội Đảng lần thứ X.
4. Cơ sở lý luận và ph-ơng pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận: Luận văn đ-ợc thực hiện dựa trên lý thuyết về chính
sách công; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, t- t-ởng Hồ Chí Minh,
đ-ờng lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách thu hút

nguồn nhân lực cho chính quyền cơ sở, đồng thời tác giả cũng kế thừa có chọn
lọc các ph-ơng pháp nghiên cứu của các công trình và những bài viết của
nhiều tác giả khác đã đ-ợc công bố.
4.2. Ph-ơng pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng ph-ơng pháp lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.


7
- Ph-ơng pháp logic và lịch sử.
- Ph-ơng pháp so sánh.
- Ph-ơng pháp phân tích và tổng hợp.
- Kết hợp ph-ơng pháp xã hội học, đặc biệt coi trọng ph-ơng pháp tổng
kết thực tiễn.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Cung cấp luận chứng, luận cứ cho một sáng kiến chính sách về thu hút
sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
- Góp phần hệ thống hoá những b-ớc cơ bản trong quy trình hoạch định
chính sách công
- Góp phần nâng cao nhận thức lý luận về vai trò của hệ thống chính
quyền cơ sở và vai trò của chính sách nâng cao chất l-ợng đội ngũ cán bộ
công chức làm việc ở chính quyền cơ sở.
- Đề xuất những nội dung cơ bản và giải pháp nhằm thực thi chính sách
thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở đạt hiệu
quả cao.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Luận văn có thể đ-ợc dùng tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy, công tác nhân sự, công tác quản lý nhà n-ớc; cung cấp những luận cứ
khoa học cho các nghiên cứu hoặc hoạch định chính sách phát triển nguồn

nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất l-ợng cao.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo nghiên
cứu, giảng dạy ở các Trung tâm Chính trị, Tr-ờng Chính trị tỉnh và tr-ờng đại
học n-ớc ta nói chung, ở Nghệ An nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, gồm có 2
ch-ơng và 5 tiết.


8
Ch-ơng 1
cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoạch định
chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học
về làm việc ở chính quyền cơ sở

1.1. Một số vấn đề lý luận về hoạch định chính sách công

1.1.1. Các cách tiếp cận chính sách công
1.1.1.1. Quan niệm về chính sách công (Public Policy)
Chính sách là khái niệm th-ờng đ-ợc đề cập trong khoa học hành chính
nh-ng thực sự nó còn là phạm trù của khoa học chính trị.
Thuật ngữ "chính sách" đ-ợc sử dụng rộng rãi trên sách báo, trên các
ph-ơng tiện thông tin đại chúng và trong đời sống xã hội. Hiểu một cách đơn
giản, chính sách là ch-ơng trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản
lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.
Theo James Anderson: "Chính sách là một quá trình hành động có mục
đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề
mà họ quan tâm". Hay Chính sách cũng là những hoạt động nên hay không
nên làm do nhà n-ớc quyết định lựa chọn[50, tr.45].
William Jenkin: Chính sách cũng là một tập hợp các quyết định có liên

quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với
việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt đ-ợc mục tiêu đó.
(William Jenkin, 1978) [50, tr.56].
Căn cứ từ hiện thực chính sách ở n-ớc ta, từ góc độ nghiên cứu khác nhau các
nhà nghiên cứu trong n-ớc đã đ-a ra một số quan niệm về chính sách:
- Từ cách phân biệt "chính sách" theo "nghĩa rộng" và "chính sách" theo
"nghĩa hẹp". Các tác giả Nguyễn Hữu Đổng và Lê Minh Quân định nghĩa:"
chính sách với nghĩa rộng (nghĩa chung nhất) là tổng thể các quan điểm, các
biện pháp mà chủ thể lãnh đạo, quản lý (Đảng, Nhà n-ớc và các tổ chức chính


9
trị xã hội ) tác động lên đối t-ợng quản lý nhằm đạt đến một mục tiêu nào đó
trong một khoảng thời gian nhất định". Còn "chính sách" theo nghĩa hẹp, là
một "quy định cụ thể nào đó nhằm thực hiện đ-ờng lối, nhiệm vụ trong một
thời gian nhất định"[35, tr.45].
- Trong bài "Mấy khía cạnh lý luận về chính sách", tác giả Vũ Hoàng
Công đ-a ra định nghĩa: "chính sách là các tổng thể những quy định pháp lý
có tính nhất quán, thể hiện thái độ quan điểm của nhà n-ớc trong việc khuyến
khích hoặc hạn chế hoạt động nào đó trong các lĩnh vực nào đó của một số đối
t-ợng nào đó của xã hội "[63, tr.200].
- Theo tác giả Nguyễn Đăng Thành, "chính sách là tập hợp những văn
bản theo một h-ớng nhất định đ-ợc quyết định bởi chủ thể cầm quyền nhằm
quy định quá trình hành động của những đối t-ợng nào đó, để giải quyết
những vấn đề mà nhóm chủ thể - đối t-ợng đó quan tâm theo một ph-ơng thức
nhất định để phân bổ giá trị "[63, tr.12].
Về nghĩa hẹp, các chính sách có thể đ-ợc đề ra và thực hiện ở những tầng
nấc khác nhau: Chính sách của Liên hiệp quốc, chính sách của một đảng,
chính sách của Chính phủ, chính sách của một bộ, chính sách của chính quyền
địa ph-ơng, chính sách của một tổ chức, đoàn thể, hiệp hội...

Các tổ chức, các hiệp hội, đoàn thể...có thể đề ra những chính sách riêng
biệt để áp dụng trong phạm vi một tổ chức, hiệp hội hay đoàn thể đó. Các
chính sách này nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức, chúng
chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó, vì vậy, chúng mang tính chất riêng
biệt và đ-ợc coi là những "chính sách t-", tuy trên thực tế khái niệm "chính
sách t-" hầu nh- không đ-ợc sử dụng.
Những chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy
nhà n-ớc ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng đ-ợc gọi
là chính sách công. Khoa học chính sách nghiên cứu các chính sách nói
chung, nh-ng chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu các chính sách công
nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà n-ớc.


10
Vậy chính sách công là gì?
ở các n-ớc phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ "chính
sách công" đ-ợc sử dụng rất phổ biến. Cụ thể nêu ra một số quan điểm sau:
Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm
(Thomas R. Dye, 1985) [23, tr.103].
Chính sách công là một kết hợp phức tạp những lựa chọn có liên quan lẫn
nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà n-ớc hay
các cơ quan chức năng nhà n-ớc đề ra (William N. Dunn, 1992) [36, tr.85].
Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các
ch-ơng trình nhằm đạt đ-ợc những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and
Eloise F. Malone, 1995) [50, tr.158].
Nói cách đơn giản nhất, chính sách công là tổng hợp các hoạt động của
chính phủ/ chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua tác nhân bởi vì nó có ảnh
h-ởng tới đời sống của công dân. (B. Guy Peters, 1999) [50, tr.92].
Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân
hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề

(James Anderson, 2003) [50, tr 109].
Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của
chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó đ-ợc kết hợp với các cách
thức và mục tiêu chính sách đã đ-ợc chấp thuận một cách hình thức, cũng nhcác quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những ch-ơng
trình (Kraft and Furlong, 2004) [50, tr.95]
B. Guy Peter: Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước
có ảnh h-ởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi ng-ời
dân. (B. Guy Peter, 1990) [50, tr.130].
Hoa Kỳ: Chính sách công là tất cả những công việc mà chính quyền thi
hành đến dân [18, tr.183].
Từ các quan niệm trên, chính sách công có thể đ-ợc nhìn nhận nh- sau:


11
Tr-ớc hết, là một chính sách của nhà n-ớc, của chính phủ (do nhà n-ớc,
do chính phủ đ-a ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách
nói chung của mỗi n-ớc.
Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công thể hiện hoạt động cũng nhquản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hoá, dịch vụ công
cộng cho nền kinh tế.
Thứ ba, một công cụ quản lý của nhà n-ớc, đ-ợc nhà n-ớc sử dụng để:
Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hoá, dịch vụ công cho nền
kinh tế, khuyến khích cả với khu vực công và khu vực t-; quản lý nguồn lực
công một cách có hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã
hội, môi tr-ờng, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn.
Nói cách khác, chính sách công là một trong những căn cứ đo l-ờng năng
lực hoạch định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác
định trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công nh- ngân sách nhà n-ớc,
tài sản công, tài nguyên đất n-ớc.
Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách công
vẫn đang là một chủ đề sôi động và khó đạt đ-ợc sự nhất trí rộng rãi. D-ới đây

chúng tôi muốn dẫn chứng một số định nghĩa chính sách công khá tiêu biểu
của các học giả n-ớc ngoài và trong n-ớc để cùng tham khảo tr-ớc khi đi đến
một định nghĩa thích hợp.
William Jenkin cho rằng: " Chính sách công là tập hợp các quyết định
có liên quan đến nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị
gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để đạt đ-ợc các mục
tiêu đó" [50, tr.75].
Định nghĩa này nhấn mạnh các mặt sau:
- Chính sách công không phải là một quyết định đơn lẻ nào đó, mà là một
tập hợp các quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một khoảng thời
gian dài.


12
- Chính sách công do các nhà chính trị trong bộ máy nhà n-ớc ban hành.
Nói cách khác, các cơ quan nhà n-ớc là chủ thể ban hành chính sách công.
- Chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn
của nhà n-ớc và bao gồm các giải pháp để đạt đ-ợc mục tiêu đã lựa chọn.
Thomas R.Dye lại đ-a ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công,
song định nghĩa này lại đ-ợc nhiều học giả tán thành. Theo ông, "chính sách
công là cái mà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm" [23, tr.45]. Ba mặt
quan trọng của định nghĩa này là:
Thứ nhất, không giống nh- các định nghĩa khác, nó không bàn luận về
"mục tiêu" hay "mục đích" của chính sách. Các chính sách là các ch-ơng trình
hành động riêng biệt; việc áp dụng các chính sách không có nghĩa là tất cả
những ai đồng tình với chính sách sẽ có cùng một mục đích nh- nhau. Trên
thực tế, một số chính sách ra đời không phải vì sự nhất trí về mục tiêu mà bởi
vì nhiều nhóm ng-ời khác nhau đồng tình với chính sách đó với nhiều nguyên
do khác nhau (tuy nhiên, theo chúng tôi, dù các nhóm khác nhau có những
mục tiêu khác nhau, song bản thân mỗi chính sách vẫn phản ánh những mục

tiêu nhất định của Chính phủ).
Thứ hai, định nghĩa của Dye thừa nhận rằng, các chính sách phản ánh sự
lựa chọn làm hay không làm. Việc quyết định không làm có thể cũng quan
trọng nh- việc quyết định làm. Điều này hoàn toàn hợp lý trong tr-ờng hợp
Chính phủ ra quyết định không can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp
nhà n-ớc.
Thứ ba, một điểm đ-ợc nhấn mạnh ở đây là các chính sách không chỉ là
những đề xuất của Chính phủ về một vấn đề nào đó, mà cũng là cái đ-ợc thực
hiện trên thực tế. Nói cách khác, định nghĩa của Dye về những cái mà Chính
phủ làm hoặc không làm, chứ không phải là cái mà họ muốn làm hoặc lập kế
hoạch để làm.
Wiliam N. Dunn cho rằng: "Chính sách công là một kết hợp phức tạp những
lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các


13
cơ quan nhà n-ớc hay các quan chức nhà n-ớc đề ra" [50, tr.123]. Ông dùng thuật
ngữ "sự lựa chọn" - đây là điểm đáng l-u ý để tránh nhầm lẫn giữa chính sách với
các khái niệm khác nh- các quyết định hành chính.
Theo Peter Aucoin," Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do
chính phủ tiến hành" [36, tr.134]. Aucoin cho rằng, chính sách có thể vừa là
hành động riêng biệt của Chính phủ (quết định của chính quyền tỉnh về sự
phát triển ở một vùng cụ thể) vừa là kết quả của hàng loạt quyết định đa dạng
( chính sách môi tr-ờng và quyết định không hành động của nhiều chính phủ).
Thông th-ờng, thuật ngữ "chính sách" đ-ợc sử dụng theo nghĩa thứ hai - một
chính sách đ-ợc cấu thành từ một loại quyết định.
B. Guy Peter đ-a ra định nghĩa: "Chính sách công là toàn bộ các hoạt
động của nhà n-ớc có ảnh h-ởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của
mọi công dân" [36, tr. 65]. Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và
thực thi chính sách công là nhà n-ớc, đồng thời nhấn mạnh tác động của chính

sách công đến đời sống của ng-ời dân với t- cách là một cộng đồng.
Từ điển Bách khoa Việt Nam đã đ-a ra khái niệm chính sách nh- sau:
"Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đ-ờng lối, nhiệm vụ. Chính
sách đ-ợc thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào
đó. Bản chất, nội dung và ph-ơng h-ớng của chính sách tuỳ thuộc vào tính chất
của đ-ờng lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá."[46, tr. 105].
Định nghĩa này không làm rõ đ-ợc thực chất của chính sách, chỉ đ-a ra
một cách chung chung là những chuẩn tắc (chuẩn tắc là gì?) để thực hiện
đ-ờng lối, trong một thời gian nhất định và trên những lĩnh vực cụ thể. Định
nghĩa nh- vậy không chỉ nói về chính sách, mà có thể hiểu là bất kỳ một kế
hoạch, một hoạt động nào đó.
Trong cuốn sách "Chính sách kinh tế - xã hội", các tác giả đồng nhất
chính sách công với chính sách kinh tế - xã hội và đ-a ra định nghĩa:"chính
sách kinh tế - xã hội là tổng thể các quan điểm, t- t-ởng, các giải pháp và


14
công cụ mà nhà n-ớc sử dụng để tác động lên các đối t-ợng và khách thể quản
lý nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu nhất định
theo định h-ớng mục tiêu tổng thể của xã hội ". Định nghĩa này tuy có cố
gắng nêu lên một cách đầy đủ các yếu tố cấu thành chính sách kinh tế - xã hội
n-ớc ta, song lại có những sự trùng lặp nh-: quan điểm - t- t-ởng, giải pháp công cụ, đối t-ợng - khách thể quản lý.
Tuy có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về chính sách công nh- đã
nêu trên, song điều đó không có nghĩa chính sách công mang những bản chất
khác nhau. Thực ra, tuỳ theo quan niệm của mỗi tác giả mà các định nghĩa
đ-a ra nhấn mạnh vào đặc tr-ng này hay đặc tr-ng khác của chính sách công.
Những đặc tr-ng này phản ánh chính sách công từ các góc độ khác nhau, song
chúng đều hàm chứa những nét đặc thù thể hiện bản chất của chính sách công.
Trên cơ sở nghiên cứu về chính sách công, chúng tôi thấy có những đặc
tr-ng cơ bản nhất nh- sau:

Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là nhà n-ớc. Nếu chủ thể
ban hành các "chính sách t-" có thể là các tổ chức t- nhân, các đoàn thể chính
trị - xã hội, cũng nh- các cơ quan trong bộ máy nhà n-ớc để điều tiết hoạt
động trong phạm vi tổ chức, đoàn thể hay cơ quan riêng biệt đó thì chủ thể
ban hành chính sách công chỉ có thể là các cơ quan trong bộ máy nhà n-ớc.
Vấn đề ở đây là các cơ quan trong bộ máy nhà n-ớc vừa là chủ thể ban hành
chính sách công , vừa là chủ thể ban hành "chính sách t-". Sự khác biệt là ở
chỗ các "chính sách t-" do các cơ quan nhà n-ớc ban hành là những chính
sách chỉ nhằm giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ cơ quan đó, không có
hiệu lực thi hành bên ngoài phạm vi cơ quan.
Chính sách công do nhà n-ớc ban hành nên có thể coi chính sách công là
chính sách của nhà n-ớc. Nhà n-ớc ở đây đ-ợc hiểu là cơ quan có thẩm quyền
trong bộ máy nhà n-ớc, bao gồm Quốc hội, các bộ, chính quyền địa ph-ơng
các cấp


15
ở n-ớc ta, trên sách báo, chúng ta th-ờng bắt gặp cụm từ "chính sách của
Đảng và Nhà n-ớc", vì vậy có ý kiến cho rằng, Đảng cũng là chủ thể ban hành
chính sách công. Điều này có thể giải thích bằng thực tế đặc thù của n-ớc ta. ở
Việt Nam, Đảng cộng sản là lực l-ợng chính trị chủ yếu và duy nhất lãnh đạo
nhà n-ớc thông qua việc vạch ra c-ơng lĩnh, chiến l-ợc, các định h-ớng chính
sách - đó chính là những căn cứ chỉ đạo để nhà n-ớc ban hành các chính sách
công. Nh- vậy, về thực chất, các chính sách công là do Nhà n-ớc Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam (chủ yếu là Chính phủ đề ra). Các chính sách này là
sự cụ thể hoá về đ-ờng lối, chiến l-ợc và các định h-ớng chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, các quyết định này là những quyết định hành động hoặc không
hành động, có nghĩa là chúng bao gồm cả những hành vi thực tiễn. Chính sách
công không chỉ thể hiện dự định của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề

nào đó, mà còn bao gồm những hành vi thực hiện các dự định nói trên.
Chính sách công tr-ớc hết thể hiện dự định của nhà hoạch định chính
sách nhằm làm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó. Song, nếu chính
sách chỉ là những dự định, dù đ-ợc ghi thành văn bản thì nó vẫn ch-a phải là
một chính sách. chính sách công còn phải bao gồm các hành vi thực hiện
những dự định nói trên và đ-a lại những kết quả thực tế.
Nhiều ng-ời hiểu chính sách công một cách đơn giản là những chủ
tr-ơng của nhà n-ớc ban hành, điều đó đúng nh-ng ch-a đủ. Nếu không có
việc thực thi chính sách để đạt đ-ợc kết quả nhất định thì những chủ tr-ơng đó
chỉ là khẩu hiệu mà thôi.
Thứ ba, chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra
trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định. Chính sách công
là một quá trình hành động nhằm giải quyết một vấn đề nhất định. Khác với
các loại công cụ quản lý khác nh- chiến l-ợc, kế hoạch của nhà n-ớc là những
ch-ơng trình hành động tổng quát, bao quát một hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế -


16
xã hội, đặc điểm của chính sách công là chúng đ-ợc đề ra và đ-ợc thực hiện
nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong
xã hội. Chính sách công chỉ xuất hiện khi tr-ớc đó đã tồn tại hoặc có nguy cớ
chắc chắn xuất hiện một vấn đề cần giải quyết. Vấn đề chính sách công đ-ợc
hiểu là một mâu thuẫn hoặc một nhu cầu thay đổi hiện trạng xuất hiện trong
đời sống kinh tế - xã hội đòi hỏi nhà n-ớc sử dụng quyền lực công để giải
quyết. Có thể nói, vấn đề chính sách là hạt nhân xuyên suốt toàn bộ quy trình
chính sách (bao gồm các giai đoạn hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách
). Việc giải quyết những vấn đề nói trên nhằm vào những mục tiêu mà nhà
n-ớc mong muốn đạt đ-ợc.
Thứ t-, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau.
Tr-ớc hết, chúng ta không nên đồng nhất khái niệm quyết định ở đây với các

quyết định hành chính, càng không thể coi đó chỉ là những văn bản quy phạm
pháp luật của nhà n-ớc. Khái niệm quyết định ở đây có ý nghĩa rộng hơn, nó
có thể đ-ợc coi nh- một sự lựa chọn hành động của nhà n-ớc. Các quyết định
này có thể bao gồm cả luật, các quyết định d-ới luật, thậm chí cả những tt-ởng của các nhà lãnh đạo thể hiện trong lời nói và hành động của họ. Song,
chính sách không đồng nghĩa với một đạo luật riêng biệt hay một văn bản nào
đó. Chính sách là một chuỗi hay một loạt các quyết định cùng h-ớng vào việc
giải quyết một vấn đề chính sách, do một hoặc nhiều cấp khác nhau trong bộ
máy nhà n-ớc ban hành và thực thi trong một thời gian dài. Một chính sách có
thể đ-ợc thể chế hoá thành các văn bản pháp luật để tạo căn cứ pháp lý cho
việc thực thi, song nó còn gồm những ph-ơng án hành động không mang tính
bắt buộc mà có tính định h-ớng, kích thích phát triển.
Trên thực tế, một chính sách thực sự của nhà n-ớc đ-ợc kết nối lại từ vô
số các quyết định và các hành động riêng biệt. Chẳng hạn, chính sách cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà n-ớc ở n-ớc ta bắt nguồn từ những nỗ lực cải cách các
doanh nghiệp nhà n-ớc, nó đ-ợc chính thức đề cập đến trong Quyết định


17
217/HBT (14/11/1987) và đ-ợc tiếp nối bằng một loạt các quyết định của
nhà n-ớc và các cấp, các ngành về vấn đề này. Nghị định 44/Chính phủ của
Chính phủ ngày 29/6/1998 và việc thực thi Nghị định đó đã mở ra một chặng
đ-ờng mới của chính sách cổ phần hoá ở n-ớc ta. Chúng ta có thể thấy, chính
sách này sẽ còn tiếp diễn lâu dài trong t-ơng lai.
Từ những phân tích trên, thuật ngữ chính sách công có thể hiểu nh- sau:
"Chính sách công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động
của nhà n-ớc nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong một thời gian
nhất định của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội theo mục tiêu xác định".
Nh- vậy, chính sách công là một bộ phận của chiến l-ợc, bao gồm những
giải pháp và công cụ để thực hiện mục tiêu chiến l-ợc.
1.1.1.2. Hoạch định chính sách công

Chính sách công là một trong những công cụ cơ bản của nhà n-ớc sử dụng để
phát triển kinh tế - xã hội của đất n-ớc. ở mỗi giai đoạn phát triển, yêu cầu nâng
cao chất l-ợng, hiệu quả các chính sách công luôn đ-ợc đặt ra. Để làm đ-ợc điều
đó cần có sự hoàn thiện quy trình chính sách, trong đó quy trình hoạch định chính
sách - b-ớc khởi đầu đặc biệt quan trọng của quy trình chính sách.
Chính sách công do nhà n-ớc ban hành để giải quyết một hoặc một số
vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo
những mục tiêu xác định (tuy nhiên không phải vấn đề nào nảy sinh trong đời
sống kinh tế - xã hội cũng cần có chính sách điều chỉnh). Việc giải quyết
nhằm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó. Khi nói tới chính sách công
là bao gồm những dự định của nhà hoạch định chính sách và các hành vi thực
hiện những dự định đ-a lại kết quả thực tế. Vì vậy chính sách công đ-ợc hiểu
là "những quy định về sự ứng xử của nhà n-ớc với các vấn đề phát sinh trong
đời sống cộng đồng, đ-ợc thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm
thúc đẩy xã hội phát triển theo định h-ớng" [42, tr.21]. Hay chính sách công
cũng chính là "một chuỗi các quyết định hành động của nhà n-ớc nhằm giải


18
quyết một vấn đề chung đang đ-ợc đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo
mục tiêu xác định" [44, tr.53].
ở n-ớc ta, chính sách thể hiện nh- một công cụ quản lý của Nhà n-ớc và
đ-ợc hiến định tại Điều 26 Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001: "Nhà n-ớc
thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính
sách". Nh- vậy, chính sách công là một trong những công cụ cơ bản đ-ợc
nhà n-ớc sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà n-ớc.
Đối với một chu trình chính sách th-ờng bắt đầu từ việc hoạch định chính
sách, tiếp theo là thực thi chính sách và sau đó thực hiện phân tích chính sách
để điều chỉnh, bổ sung chính sách. Nh- vậy, hoạch định chính sách là b-ớc
khởi đầu trong chu trình chính sách. Đây là b-ớc đặc biệt quan trọng. Hoạch

định chính sách đúng đắn, khoa học sẽ xây dựng đ-ợc chính sách tốt, là tiền đề
để chính sách đó đi vào cuộc sống và mang lại hiệu quả cao. Ng-ợc lại, hoạch
định sai cho ra đời chính sách không phù hợp với thực tế, thiếu tính khả thi sẽ
mang lại hậu quả không mong muốn trong quá trình quản lý. Những tổn hại này
không chỉ tạm thời, cục bộ mà nó ảnh h-ởng lâu dài, liên quan đến nhiều lĩnh
vực, ngành nghề khác nhau.
xác định vấn đề
chính sách

phát hiện
mâu thuẫn

Hoạch định
chính sách

Phân tích
chính sách

đánh gía
chính sách
Sơ đồ 1.1: Chu trình chính sách công

Thực thi chính
sách

duy tri
chính
sách



19
Hoạch định chính sách công là công việc th-ờng xuyên của nhà n-ớc và
đ-ợc xây dựng thành quy trình. Quy trình hoạch định chính sách công chính là
trình tự, công đoạn để tạo ra một chính sách công. Hiện nay, quy trình hoạch định
chính sách do nhà n-ớc ban hành, theo tôi, đ-ợc thực hiện theo sơ đồ d-ới đây:

các uỷ ban của
Quốc hội
vấn đề
kinh tế

vấn đề
ngoại giao

vấn đề xã
hội.. ...

các tổ
chức
chính trị,
tổ chức
chính trị
- xã hội,
xã hội
kiến nghị
hoạch
định
chính
sách



quan

thẩm
quyền
và dự
thao

quốc hội

chính
sách

ban

chính phủ

chính sách và các
biện pháp
cụ thể

Sơ đồ 1.2: Hệ thống các b-ớc hoạch định chính sách
Quy trình hoạch định chính sách ở n-ớc ta đ-ợc thực hiện tuần tự các
b-ớc nh- sau: Nêu lý do hoạch định chính sách, xây dựng dự thảo các ph-ơng
án chính sách, lựa chọn ph-ơng án dự thảo tốt nhất, hoàn thiện ph-ơng án đã
chọn, thẩm định ph-ơng án chính sách, quyết nghị ban hành chính sách, công
bố chính sách. Trong thực tế, các chính sách công của n-ớc ta chủ yếu đ-ợc
thể chế hoá bằng nghị quyết của Chính phủ nên quy trình hoạch định chính
sách công đ-ợc tiến hành theo quy định ban hành nghị quyết của Chính phủ
tại các Điều 59, 60, 61, 62, 63, 64 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp

luật năm 1996, sửa đổi năm 2002.
Thời gian qua, việc hoạch định chính sách công ở n-ớc ta đã cho ra đời
nhiều chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện
cụ thể là đã góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất n-ớc ta trong hơn


20
20 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, quy trình hoạch định chính
sách công nh- nêu trên cũng bộc lộ một số tồn tại, đó là: các kiến nghị hoạch
định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ quan nhà n-ớc đ-ợc giao nhiệm
vụ quản lý nhà n-ớc. Việc dự thảo chính sách th-ờng do các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan đặc biệt của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung -ơng. Nh- vậy, chính sách công đ-ợc ban hành dựa trên
suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơ sở những mong muốn quản lý
của từng cơ quan nhà n-ớc. Sự tham gia đề xuất ý t-ởng hoạch định chính
sách, hoặc đóng góp vào xây dựng các ph-ơng án, biện pháp chính sách của
các đối t-ợng bị ảnh h-ởng bởi chính sách là rất hạn chế. Rất ít các chính sách
công đ-ợc ban hành xuất phát từ ý t-ởng của những đối t-ợng bị chính sách
chi phối, ảnh h-ởng và các biện pháp thực hiện chính sách do những nhà quản
lý xây dựng nên. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho một số
chính sách có tính khả thi thấp, hoặc thực thi không mang lại hiệu quả nhnhà quản lý mong muốn. Bên cạnh đó, các ý t-ởng hoạch định chính sách
đ-ợc đề xuất, và dự thảo chính sách chủ yếu do cơ quan nhà n-ớc (chủ yếu do
các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện) thì dễ nảy sinh tình
trạng cục bộ, bản vị; đề xuất dựa trên mong muốn, mục đích quản lý của
ngành, địa ph-ơng do mình quản lý mà không tính tới tổng thể chung. Trên cơ
sở chức năng, nhiệm vụ đ-ợc giao và căn cứ vào tình hình quản lý, các bộ,
ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố để đề xuất dự thảo chính sách trong
lĩnh vực quản lý đ-ợc giao cũng chính là cơ quan dự thảo, do đó thiếu sự phối
hợp giữa các bộ, ngành nên chính sách thiếu tính toàn diện. Biểu hiện cụ thể
của thực trạng này là có một vấn đề nhiều bộ, ngành ra chính sách thực hiện

nh-ng có những vấn đề lớn thì lại không có bộ, ngành nào tham gia đề xuất,
xây dựng chính sách. Dẫn tới tình trạng tạo "khoảng trống" trong quản lý nhà
n-ớc không có chính sách để điều chỉnh.
Việc hoạch định chính sách công của nhà n-ớc hiện nay chủ yếu đ-ợc
tiến hành theo quy trình soạn thảo, ban hành nghị quyết của Chính phủ. Trong


21
khi đó, nghị quyết của Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật mang tính
bắt buộc thực hiện. Hiện nay, quy trình hoạch định chính sách công đ-ợc thực
hiện theo quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 sửa đổi
2002 còn mang tính chất khung ch-a phân công rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và
cả chế tài đối với tập thể hoặc cá nhân trong từng khâu, công đoạn từ soạn
thảo, lựa chọn ph-ơng án, thẩm định, ban hành
Quy trình hoạch định chính sách còn khép kín; việc lấy ý kiến tham gia
của các đối t-ợng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít, nếu có
thì còn hình thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành ch-a thể hiện tính
chủ động. Mặt khác, ch-a có quy định cụ thể để huy động đ-ợc trí tuệ của
nhân dân, các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính
sách là vô hình chung làm hạn chế cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề.
Chẳng hạn, trong hoạch định chính sách, việc dự báo chính sách rất quan
trọng. Tuy nhiên, thời gian qua, ở n-ớc ta việc dự báo chính sách còn yếu
kém. Dự báo chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn. Nếu trong
hoạch định chính sách không có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa
học thì việc dự báo chính sách gặp rất nhiều khó khăn. Trong quá trình
hoạch định chính sách công ch-a tạo đ-ợc kênh thông tin tốt nhất để tiếp
thu ý kiến đóng góp của những đối t-ợng chịu ảnh h-ởng của chính sách.
(Việc này ảnh h-ởng tới tính tự giác thực hiện chính sách). Trong khi đó,
chính sách không thể là ý muốn chủ quan của cơ quan nhà n-ớc, càng
không phải là ý chí áp đặt của cá nhân có thẩm quyền mà xuất phát từ hiện

thực khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức một cách biện
chứng các vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội và có các ph-ơng
án giải quyết phù hợp với thực tế. (Từ thực tiễn để hoạch định chính sách,
đó cũng chính là biểu hiện tính khách quan của chính sách). Một chính
sách đúng đắn phải từ thực tế khách quan.
Trong việc hoạch định chính sách công cần phải có sự tổng kết, phân
tích, đánh giá tình hình, tác động ảnh h-ởng tới quá trình thực hiện chính


22
sách, các biện pháp thực hiện chính sách và từ đó làm căn cứ để lựa chọn
ph-ơng án chính sách phù hợp với thực tế.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, cần thiết phải hoàn thiện
quy trình hoạch định chính sách công của nhà n-ớc ta trong thời kỳ mới. Với
việc lấy Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính
quyền cơ sở (qua thực tế tỉnh Nghệ An ) làm tr-ờng hợp cụ thể, tác giả đề xuất
một ph-ơng án mới cho quy trình hoạch định chính sách đó là việc các nhà
khoa học, những ng-ời hoạt động thực tiễn trực tiếp chịu tác động của vấn đề
chính sách đó đề xuất ý t-ởng hoạch định chính sách lên các cơ quan nhà
n-ớc có thẩm quyền và các cơ quan đó có thể xem xét nếu đó là một ý t-ởng
hay, một vấn đề cấp thiết thì bổ sung hoàn thiện và đ-a chính sách đó vào
cuộc sống.
1.1.2. Lựa chọn, hoạch định chính sách công
1.1.2.1. Lý do hoạch định chính sách
Khi hoạch định một chính sách, tr-ớc tiên phải thuyết phục đ-ợc ý chí
chủ thể về sự cần thiết phải giải quyết vấn đề bằng công cụ chính sách và qua
chủ thể thuyết phục các đối t-ợng thực thi chính sách về lợi ích kinh tế, xã
hội, của chính sách sẽ ban hành. Đây đ-ợc coi là phần mở đầu của một
chính sách, để ng-ời tiếp cận có thể nắm đ-ợc tầm quan trọng của việc giải
quyết vấn đề chính sách. Toàn bộ nội dung thuyết phục đó đ-ợc gọi là lý do

hoạch định chính sách.
Vấn đề chính sách đ-ợc hiểu là những mâu thuẫn nảy sinh trong các lĩnh
vực hoạt động cần đ-ợc giải quyết bằng chính sách để thoả mãn nhu cầu nhất
định của xã hội. Nh- vậy có thể thấy vấn đề chính sách là hạt nhân của chính
sách, nó h-ớng các mục tiêu, giải pháp cần có của chủ thể hoạch định chính
sách vào giải quyết vấn đề, đồng thời nó cũng thu hút sự tham gia của đông
đảo các tầng lớp nhân dân vào thực hiện chính sách để giải quyết vấn đề cùng
nhà n-ớc.


23
Để bản chính sách có sức thuyết phục cao đối với cả ng-ời tổ chức và
thực thi; củng cố lòng tin của nhân dân vào chính sách của nhà n-ớc chính
sách đó cần đảm bảo một số tiêu chí nh-:
- Tính bức xúc của vấn đề chính sách đối với đời sống xã hội.
-Tính phức tạp của vấn đề chính sách.
- Tính thời cơ của việc ban hành chính sách.
- Khả năng giải quyết vấn đề chính sách của nhà n-ớc.
- Khả năng tồn tại của chính sách với các công cụ quản lý nhà n-ớc.
- Kết quả và hiệu quả kinh tế - xã hội của chính sách so với yêu cầu quản
lý nhà n-ớc.
- Phải trình bày những căn cứ khoa học để hoạch định chính sách và
những căn cứ ban hành chính sách của cơ quan nhà n-ớc có thẩm quyền. Các
căn cứ đ-ợc nêu ngắn gọn, xác thực với điều kiện hoàn cảnh của đất n-ớc và
nên h-ớng vào vấn đề chính sách.
1.1.2.2. Ban hành chính sách
Sau khi nhà hoạch định dự thảo những nội dung chi tiết của chính sách,
để chính sách đ-ợc chính thức ban hành phải trải qua một b-ớc rất quan trọng,
đó là quyết nghị chính sách.
Quyết nghị chính sách là hình thức pháp lý hoá chính sách tr-ớc khi đ-a

vào thực hiện để cho chính sách có đ-ợc sức mạnh công quyền, thu hút đ-ợc
sự tham gia của cơ quan nhà n-ớc các cấp, của mọi tầng lớp nhân dân.
ở n-ớc ta, với những chính sách do trung -ơng ban hành, theo quy định
của Hiến pháp việc quyết nghị chính sách do hai cơ quan thực hiện là Quốc
hội và Chính phủ. Quốc hội quyết định những chính sách lớn cơ bản còn
Chính phủ quyết định những chính sách cụ thể. Việc quyết nghị chính sách
th-ờng diễn ra trong các phiên họp Chính phủ sau khi đã xin ý kiến của Ban
chấp hành Trung -ơng Đảng cộng sản, do các thành viên Chính phủ biểu
quyết theo quy định của Luật tổ chức Chính phủ. Chính sách đ-ợc ban hành


24
d-ới thể thức là nghị quyết Chính phủ theo quy định của Điều 56, khoản 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật*.
Với những chính sách do cấp Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành, theo Điều
40 - Luật Ban hành văn quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân [57] đã quy định rõ: chính sách thông qua sau khi cơ quan t- pháp
đã thẩm định dự thảo chính sách do đại diện cơ quan soạn thảo đ-a ra và khi
có quá nửa tổng số thành viên uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành. Chính
sách chính thức có hiệu lực khi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thay mặt Uỷ ban
nhân dân tỉnh ký ban hành.
Chính sách đã đ-ợc ban hành nh-ng để cho các cơ quan quản lý nhà
n-ớc và mọi tầng lớp nhân dân biết để thực hiện, cơ qua ban hành chính sách
cần phải công bố chính sách bằng nhiều hình thức (kênh thông tin) để chính
sách đến đ-ợc với ng-ời dân nh- : Đăng công báo của Uỷ ban nhân dân tỉnh,
qua các ph-ơng tiện báo chí, phát thanh truyền hình
1.1.2.3. Triển khai chính sách
Triển khai chính sách là giai đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực,
nói cách khác đây là b-ớc tổ chức thực thi chính sách để thực hiện các mục
tiêu chính sách và mục tiêu chung.
Một khi chính sách đ-ợc triển khai thực hiện rộng rãi trong đời sống xã

hội thì tính đúng đắn của chính sách đ-ợc khẳng định ở mức cao hơn, đ-ợc cả
xã hội thừa nhận, nhất là đối t-ợng thụ h-ởng chính sách.
Thứ nhất, để triển khai chính sách một cách có hiệu quả, nhiệm vụ tiên
quyết là xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, đây là b-ớc cần
*

"Nghị quyết của Chính phủ đ-ợc ban hành để quyết định chính sách cụ thể về xây dựng kiện toàn
bộ máy Nhà n-ớc từ trung -ơng đến cơ sở, h-ớng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các
văn bản của các cơ quan Nhà n-ớc cấp trên; bảo đảm thực hiện Hiến pháp và pháp luật trong các cơ
quan Nhà n-ớc, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân; thực hịên chính sách xã hội,
dân tộc, tôn giáo, quyết định chủ tr-ơng, chính sách cụ thể về ngân sách Nhà n-ớc, tiền tệ, phát
triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi tr-ờng; củng cố và tăng c-ờng quốc
phòng, an ninh; thống nhất quản lý công tác đối ngoại của Nhà n-ớc, các biện pháp chống quan
liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà n-ớc; phê duyệt các điều -ớc thuộc thẩm quyền của Chính
phủ."


25
thiết quan trọng vì tổ chức thực thi chính sách là quá trình phức tạp, lại diễn ra
trong thời gian dài do đó phải có kế hoạch.
Kế hoạch này phải đ-ợc xây dựng tr-ớc khi đ-a chính sách vào cuộc
sống, các cơ quan triển khai từ trung -ơng đến địa ph-ơng đều phải lập kế
hoạch gồm các b-ớc nh-: Kế hoạch về tổ chức, điều hành nh- hệ thống các cơ
quan tham gia, đội ngũ nhân sự, cơ chế thực thi; Kế hoạch cung cấp nguồn vật
lực nh- tài chính, trang thiết bị; Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện; Kế
hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách; Dự kiến về quy chế, nội quy tổ
chức và điều hành thực thi chính sách.
Thứ hai, phổ biến tuyên truyền chính sách. Đây là công đoạn tiếp theo
sau khi chính sách đã đ-ợc thông qua. Nó cũng cần thiết vì giúp cho nhân dân,
các cấp chính quyền hiểu đ-ợc về chính sách và giúp cho chính sách đ-ợc

triển khai thuận lợi và có hiệu quả.
Để làm đ-ợc việc tuyên truyền này thì chúng ta cần phải đầu t- về trình
độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, trang thiết bị kỹ thuật vì đây là đòi hỏi
của thực tế khách quan.
Việc tuyên truyền này cần phải đ-ợc thực hiện th-ờng xuyên liên tục,
ngay cả khi chính sách đang đ-ợc thực thi, với mọi đối t-ợng và trong khi
tuyên truyền phải sử dụng nhiều hình thức nh- tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp
Thứ ba, phân công phối hợp thực hiện chính sách: một chính sách
th-ờng đ-ợc thực hiện trên một địa bàn rộng lớn và nhiều tổ chức tham gia
do đó phải có sự phối hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Mặt khác các hoạt động thực thi mục tiêu là hết sức đa dạng, phức tạp, chúng
đan xen, thúc đẩy lẫn nhau, kìm hãm, bởi vậy việc phối hợp các cấp các
ngành để triển khai một chính sách chủ động khoa học, sáng tạo sẽ có hiệu
quả cao và duy trì ổn định.
Thứ t-, duy trì chính sách. Đây là b-ớc làm cho chính sách tồn tại đ-ợc
và phát huy tác dụng trong môi tr-ờng thực tế.


×