Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Các chính sách pháp luật của nhà nước liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học phân tích nội dung của một số chính sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.36 KB, 13 trang )

Quản lý và chính sách bảo tồn đa dạng sinh học

Đề bài: Các chính sách pháp luật của nhà nước liên quan đến bảo tồn đa
dạng sinh học. Phân tích nội dung của một số chính sách?
Bài làm
Bảo tồn đa dạng sinh học là quá trình quản lý mối tác động qua lại
giữa con người với các gen, các loài và các hệ sinh thái nhằm mang lại lợi
ích lớn nhất cho thế hệ hiện tại và vẫn duy trì tiềm năng của chúng để đáp
ứng nhu cầu và nguyện vọng của các thế hệ tương lai.
Việt Nam đã được xem là một trong những nước thuộc vùng Đông
Nam Á giàu về đa dạng sinh học. Do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng
gần xích đạo tới giáp vùng cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã
tạo nên sự đa dạng về thiên nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa
dạng sinh học cao. Việt Nam được biết đến như là một trung tâm đa dạng
sinh học (ĐDSH) của thế giới với các hệ sinh thái tự nhiên phong phú và đa
dạng. Các hệ sinh thái rừng, đất ngập nước, biển, núi đá vôi… với những nét
đặc trưng của vùng bán đảo nhiệt đới, là nơi sinh sống và phát triển của
nhiều loài hoang dã đặc hữu, có giá trị, trong đó có những loài không tìm
thấy ở nơi nào khác trên thế giới. Việt Nam cũng là nơi được biết đến với
nhiều nguồn gen hoang dã có giá trị, đặc biệt là các cây thuốc, các loài hoa,
cây cảnh nhiệt đới…
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn tài nguyên thiên nhiên, của
tính đa dạng sinh học, Chính phủ Việt Nam đã có những hành động tích cực
trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học từ những năm 1960. Nhiều văn bản
luật pháp và dưới luật đã được ban hành. Ngoài ra trong phong trào chung
của toàn thế giới về bảo tồn và phát triển bền vững, Việt Nam tham dự hầu

Sinh viên:

1



Quản lý và chính sách bảo tồn đa dạng sinh học
hết các hội nghị toàn cầu về những vấn đề có liên quan và cũng đã ký kết
nhiều công ước vê môi trường liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học:
Một số văn bản pháp luật và chính sách về bảo tồn đa dạng sinh học:
* Luật đa dạng sinh học 2008: Lần đầu tiên ở Việt Nam, Luật Đa
dạng sinh học ra đời đã bao quát các khía cạnh bảo tồn, từ vấn đề quy hoạch
đa dạng sinh học, đến bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên, loài, nguồn gen.
Đồng thời luật cũng tạo cơ sở pháp lý cho việc thiết lập các cơ chế tài chính,
hoàn thiện tổ chức, tăng cường nguồn lực cho công tác bảo tồn đa dạng sinh
học. Vấn đề đa dạng sinh học đã và đang được chú trọng trong việc hoạch
định chính sách ở các cấp.
Luật ĐDSH được Quốc hội thông qua tháng 11 năm 2008, bắt đầu có
hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2009. Luật này có 8 chương, 78 điều quy
định về bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH; quyền và nghĩa vụ của tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân trong bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH. Luật
có các quy định cụ thể về quy hoạch bảo tồn ĐDSH cấp quốc gia và địa
phương; bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái tự nhiên, các loài sinh
vật, và tài nguyên di truyền; hợp tác quốc tế về ĐDSH; cơ chế, nguồn lực và
phát triển bền vững ĐDSH. Hiện nay, các bộ, ngành liên quan đang tiến
hành xây dựng các văn bản dưới luật nhằm thể chế hoá và hướng dẫn thực
hiện các nội dung của luật này.
* Luật bảo vệ môi trường 2005: Luật Bảo vệ môi trường số
52/2005/QH11 được Quốc hội thông qua tháng 11 năm 2005, bắt đầu có
hiệu lực từ tháng 7 năm 2006. Luật bao gồm 15 chương và 136 điều; trong
đó chương IV quy định về Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên
điều chỉnh các nội dung sau: Quy n h vi c i u tra, ánh giá, l p quy ho ch
s d ng tài nguyên thiên nhiên; b o t n thiên nhiên; b o v D SH; b o v
Sinh viên:


2


Quản lý và chính sách bảo tồn đa dạng sinh học
và phát tri n c nh quan thiên nhiên; b o v môi tr n g trong kh o sát, th m
dò, khai thác, s d ng tài nguyên thiên nhiên; phát tri n n ng l n g s ch,
n ng l n g tái t o và s n ph m thân thi n v i môi tr n g; xây d ng thói
quen tiêu dùng thân thi n v i môi tr n g . Bên cạnh Luật Bảo vệ môi trường,
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường còn có các đạo
luật, pháp lệnh về bảo vệ các thành tố môi trường (còn gọi là các đạo luật,
pháp lệnh về tài nguyên). Cụ thể, đó là các đạo luật, pháp lệnh sau: Luật Bảo
vệ và phát triển rừng năm 2004; Luật Thủy sản năm 2003; Luật Khoáng sản
năm 1996 (được sửa đổi, bổ sung năm 2005); Pháp lệnh Giống cây trồng số
15/2004/PL-UBTVQH11 ngày 24/03/2004; Pháp lệnh Giống vật nuôi số
16/2004/PL-UBTVQH11 ngày 24/03/2004; Pháp lệnh Thú y số 18/2004/PLUBTVQH11 ngày 29/04/2004; Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật số
36/2001/PL-UBTVQH10 ngày 25/08/2001; Bộ luật hình sự (Điều 19, 191);
… Bên cạnh đó còn hệ thống các văn bản dưới Luật.
* Luật bảo vệ và phát triển rừng 2004: Luật Bảo vệ và phát triển
rừng được Quốc hội thông qua tháng 12 năm 2004, bắt đầu có hiệu lực từ
tháng 4 năm 2005. Luật có 8 chương và 88 điều quy định về quản lý, bảo vệ,
phát triển và sử dụng rừng; quyền và nghĩa vụ của chủ rừng. Luật có các quy
định cụ thể về quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng; giao rừng, cho thuê, thu
hồi rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng; đăng ký quyền sử dụng rừng; giá
rừng; bảo vệ rừng; phát triển và sử dụng các loại rừng; quyền và nghĩa vụ
của chủ rừng; các quy định liên quan đến kiểm lâm;giải quyết tranh chấp,xử
lý vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.
* Nghị định số 32/2006/NĐ-CP của chính phủ về quản lý thực vật
rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm: Nghị định này bao gồm 3

Sinh viên:


3


Quản lý và chính sách bảo tồn đa dạng sinh học
chương, 14 điều quy định về quản lý và danh mục thực vật rừng, động vật
rừng nguy cấp, quý, hiếm từ rừng Việt Nam, điều chỉnh các hành vi của cơ
quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có liên quan về theo dõi diễn
biến, bảo vệ, khai thác, phát triển và xử lý sai phạm đối với 2 nhóm động vật
rừng, thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm của Việt Nam. Nhóm I (gồm IA có
15 loài thực vật rừng và IB có 62 loài động vật rừng) nghiêm cấm khai thác,
sử dụng vì mục đích thương mại, gồm những loài thực vật rừng, động vật
rừng có giá trị đặc biệt về khoa học, môi trường hoặc có giá trị cao về kinh
tế, số lượng quần thể còn rất ít trong tự nhiên hoặc có nguy cơ tuyệt chủng
cao. Nhóm II (gồm IIA có 37 loài thực vật rừng và IIB có 89 loài động vật
rừng) hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại, gồm những loài
thực vật rừng, động vật rừng có giá trị về khoa học, môi trường hoặc có giá
trị cao về kinh tế, số lượng quần thể còn ít trong tự nhiên hoặc có nguy cơ
tuyệt chủng.
* Nghị định số 109/2003/NĐ-CP của chính phủ về bảo tồn và khai
thác bền vững các vùng đất ngập nước: Nghị định này bao gồm 6 chương
và 27 điều quy định về bảo tồn và khai thác bền vững các vùng đất ngập
nước trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Trong đó, có những chương, điều quy
định cụ thể về các hành vi bị cấm và được khuyến khích; các quy định về
điều tra, lập quy hoạch bảo tồn và khai thác bền vững các vùng đất ngập
nước, bảo tồn và khai thác bền vững đất ngập nước.
* Quyết định số 79/2007/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ phê
duyệt kế hoạch hành động quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2010 và
định hướng đến năm 2020 thực hiện công ước đa dạng sinh học và nghị
định thư CARTA-GENA về an toàn sinh học: Nghị định này đã chỉ rõ mục

Sinh viên:

4


Quản lý và chính sách bảo tồn đa dạng sinh học
tiêu cụ thể từ nay đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 về bảo tồn và
phát triển ĐDSH, các nhiệm vụ chủ yếu, các giải pháp chính và tổ chức thực
hiện nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Trong quyết định này, nhiều chỉ tiêu
cụ thể đã được đề ra như tăng tỷ lệ che phủ rừng đạt 42 - 43%; phục hồi 50%
diện tích rừng đầu nguồn đã bị suy thoái; nâng tổng diện tích các khu bảo
tồn đất ngập nước và biển có tầm quan trọng quốc tế và quốc gia lên trên 1,2
triệu ha; phục hồi được 200.000 ha rừng ngập mặn.
* Quyết định số 04/2004/QĐ-BTTNMT của bộ trưởng bộ tài nguyên
và môi trường phê duyệt kế hoạch hoạt động về bảo tồn và phát triển bền
vững các vùng đất ngập nước giai đoạn 2004 – 2010: Quyết định này nêu
rõ mục tiêu cụ thể đến năm 2010 về Bảo tồn và phát triển bền vững đất
nước, ngập nước ở Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường và đa
dạng sinh học; đưa ra 7 chương trình hành động giai đoạn 2004-2010; và 9
dự án ưu tiên về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước.
* Quyết định số 192/2003/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ phê
duyệt chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến
năm 2010: Chiến lược đề ra 8 nhóm hành động chính: 1.Quy hoạch hệ
thống khu bảo tồn thiên nhiên; 2.Xây dựng khung pháp lý về quản lý hệ
thống khu bảo tồn; 3.Tăng cường quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo tồn
đa dạng sinh học; 4.Đổi mới hệ thống tổ chức quản lý các khu bảo tồn thiên
nhiên; 5.Đổi mới cơ chế thiết lập, đầu tư và cung cấp tài chính cho các khu
bảo tồn; 6.Đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao kiến thức và kỹ năng
về bảo tồn; 7.Đẩy mạnh công tác Thông tin-Giáo dục-Truyền thông và thu

hút cộng đồng tham gia vào bảo tồn sinh học; 8.Tăng cường hợp tác quốc tế.
Sinh viên:

5


Quản lý và chính sách bảo tồn đa dạng sinh học
Mục tiêu: Thiết lập, tổ chức và quản lý có hiệu quả hệ thống các khu
bảo tồn thiên nhiên phân bố ở các hệ sinh thái khác nhau (bao gồm các khu
bảo tồn thiên nhiên trên cạn, khu bảo tồn thiên nhiên vùng đất ngập nước và
các khu bảo tồn thiên nhiên biển) nhằm góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên,
tính đa dạng sinh học, cảnh quan phong phú và độc đáo của Việt Nam trong
khuôn khổ phát triển bền vững. Kết hợp chặt chẽ các hoạt động bảo tồn và
phát triển, phát huy đầy đủ vai trò và chức năng của hệ thống các khu bảo
tồn thiên nhiên để góp phần tích cực vào việc thực hiện Chiến lược tăng
trưởng toàn diện, xoá đói giảm nghèo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Nâng cao nhận thức chung của người dân về tầm quan
trọng, giá trị của nguồn tài nguyên và đa dạng sinh học, xác định rõ vai trò,
trách nhiệm và tăng cường sự tham gia của người dân trong việc bảo vệ các
khu bảo tồn thiên nhiên. Đổi mới thể chế chính sách quản lý khu bảo tồn
thiên nhiên, tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước đối với hệ thống
khu bảo tồn thiên nhiên. Nâng cao năng lực quản lý tài nguyên và bảo tồn đa
dạng sinh học của chính quyền các địa phương và các Ban quản lý khu bảo
tồn thiên nhiên. Tăng cường hợp tác quốc tế, xác định nguồn và cách tiếp
cận các khoản tài trợ.

* Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ về việc
phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020: Chiến lược đã đưa ra quan điểm, định hướng, mục
tiêu và giải pháp chính cũng như phê duyệt về nguyên tắc 36 chương trình,

kế hoạch, đề án và dự án ưu tiên cấp quốc gia để triển khai, thực hiện các nội
dung cơ bản của Chiến lược. Chiến lược đã đưa ra chỉ tiêu cụ thể cần đạt
được đến năm 2010 liên quan đến đa dạng sinh học như phục hồi 50% các

Sinh viên:

6


Quản lý và chính sách bảo tồn đa dạng sinh học
khu vực khai thác khoáng sản và 40% các hệ sinh thái đã bị suy thoái nặng;
nâng tỷ lệ đất có rừng che phủ đạt 43% tổng diện tích đất tự nhiên; khôi
phục 50% rừng đầu nguồn đã bị suy thoái và nâng cao chất lượng rừng; đẩy
mạnh trồng cây phân tán trong nhân dân; nâng tỷ lệ sử dụng năng lượng
sạch đạt 5% tổng năng lượng tiêu thụ hàng năm; nâng tổng diện tích các khu
bảo tồn tự nhiên lên gấp 1,5 lần hiện nay đặc biệt là các khu bảo tồn biển và
đất ngập nước; phục hồi diện tích rừng ngập mặn lên bằng 80% mức năm
1990.
* Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ phê
duyệt chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2010:
Chiến lược đã tóm tắt thực trạng ngành lâm nghiệp, phân tích các điểm tồn
tại, yếu kém và đưa ra mục tiêu cần đạt được đến năm 2020, định hướng
phát triển, 5 chương trình và nhiệm vụ chủ yếu. Một số chỉ tiêu cần đạt được
đến năm 2020 gồm thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững
16,24 triệu ha đất quy hoạch cho lâm nghiệp; nâng tỷ lệ đất có rừng lên 42 43% vào năm 2010 và 47% vào năm 2020; đảm bảo có sự tham gia rộng rãi
của các thành phần kinh tế và tổ chức xã hội vào phát triển lâm nghiệp.
* Công ước đa dạng sinh học (CBD): Công ước ĐDSH ra đời năm
1992 và có hiệu lực thi hành từ ngày 29/11/1993. Mục tiêu chính của Công
ước nhằm bảo tồn đa dạng sinh học; sử dụng bền vững các thành phần của
đa dạng sinh học; và chia sẻ công bằng và hợp lý những lợi ích thu được từ

việc sử dụng tài nguyên sinh học. Công ước đa dạng sinh học là một công
ước khung, các điều khoản của công ước chỉ đưa ra các mục tiêu tổng quát
cần đạt được chứ không phải là các hoạt động cụ thể và bắt buộc. Các bên
tham gia công ước, tuỳ thuộc vào khả năng của mình, sẽ tự quyết định cách
Sinh viên:

7


Quản lý và chính sách bảo tồn đa dạng sinh học
thức thực hiện các điều khoản đó. Cơ quan ra quyết định của công ước là
Hội nghị Các bên Tham gia (COP). Hội nghị là nơi các bên tham gia công
ước bàn bạc và đưa ra các quyết định liên quan đến việc thực hiện công ước
cũng như bổ sung thêm các phụ lục hoặc nghị định thư của công ước.
Việt Nam trở thành thành viên của Công ước từ ngày 17 tháng 11 năm
1994, Bộ Tài nguyên và Môi trường là đầu mối thực hiện Công ước. Các
văn bản nhằm thể chế hóa Công ước này ở Việt Nam gồm có Luật Bảo vệ
môi trường, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Đa dạng sinh học, Kế
hoạch hành động quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020; Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia giai đoạn 20012010; Chương trình Nghị sự 21.
Cho đến nay, Công ước Đa dạng Sinh học vẫn được coi là công ước
quốc tế đầu tiên và duy nhất giải quyết một cách toàn diện các vấn đề về bảo
tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học. Các điều khoản của công ước
không những không đi ngược lại với các công ước quốc tế khác mà còn luôn
tạo điều kiện cho việc phối hợp thực hiện. Việc điều tra và tư liệu hoá nguồn
gen là một trong những nội dung quan trọng của công ước. Công ước lần
đầu tiên đưa ra vấn đề quản lý tiếp cận nguồn gen và tri thức truyền thống và
chia sẻ lợi ích từ việc sử dụng nguồn gen và tri thức đó. Vấn đề an toàn sinh
học cũng được đặt ra trong nội dung công ước, cũng như được cụ thể hoá
bằng Nghị định thư về An toàn Sinh học. Tất cả các vấn đề này sẽ giúp cho

các bên tham gia công ước xây dựng các bước đi riêng của mình để có thể
bảo tồn, phát triển và sử dụng bền vững tài nguyên di truyền của nước mình.

* Công ước về bảo tồn các vùng đất ngập nước có ý nghĩa quốc tế
(Công ước RAMSAR): Công ước Ramsar về các vùng đất ngập nước ra đời
Sinh viên:

8


Quản lý và chính sách bảo tồn đa dạng sinh học
năm 1971 bắt đầu có hiệu lực từ năm 1975 dưới sự phê chuẩn bởi các quốc
gia tham gia tại cuộc họp tại thành phố Ramsar, Iran. Đây là công ước quốc
tế về bảo tồn và sử dụng một cách hợp lý và hài hòa các vùng đất ngập nước.
Mục tiêu của Công ước là nhằm ngăn ngừa việc tiếp tục phá hủy các vùng đất
ngập nước, trước sự xâm lấn ngày càng gia tăng đặc biệt là những vùng có
nhiều loài chim nước di cư qua lại và nhằm công nhận các giá trị về sinh thái,
khoa học, kinh tế, văn hoá và giải trí của các vùng đất ngập nước bảo vệ các
vùng đất ngập nước và ngăn chặn những tổn thất có thể xuất hiện trong hiện
tại và tương lai; bảo đảm tính ĐDSH của các loài chim nước.. Công ước này
đề cập tới những nơi cư trú như các thủy vực nước ngọt, cửa sông và ven biển
gồm 590 địa điểm với tổng diện tích trên 37 triệu ha.
Công ước này là Danh sách các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng
quốc tế (danh sách Ramsar). Hiện nay, các Bên tham gia đã đưa vào danh sách
này trên 1.634 vùng đất ngập nước được coi là “vùng Ramsar” cần được bảo vệ
đặc biệt với diện tích trên 145 triệu hecsta (1,45 triệu km²).
Sứ mạng của Công ước Ramsar được các Bên tham gia thông qua năm 1999 và
điều chỉnh vào năm 2002 là “Bảo tồn và sử dụng một cách khôn khéo các vùng
đất ngập nước thông qua hành động của địa phương, củakhu vực, của quốc gia
và hợp tác quốc tế nhằm góp phần đạt được mụctiêu phát triển bền vững trên

toàn thế giới”.
Đến nay (2010) đã có 159 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia công
ước. Việt Nam đã ký gia nhập Công ước Ramsar vào năm 1989, là thành
viên thứ 50, đồng thời là quốc gia đầu tiên của Đông Nam Á tham gia Công
ước này. Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối thực hiện Công
ước, có nghĩa vụ phải thực hiện các cam kết quốc tế về bảo tồn và sử dụng
khôn khéo các vùng đất ngập nước theo đúng nguyên tắc của Luật Quốc tế

Sinh viên:

9


Quản lý và chính sách bảo tồn đa dạng sinh học
và đề xuất một số khu Ramsar theo đúng tiêu chuẩn của Công ước. Đến nay
Việt Nam đã có 2 khu Ramsar là Xuân Thuỷ (1989) và Bàu Sấu (2005).
* Công ước về buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã
nguy cấp (Công ước CITES): Công ước quan trọng nhất trong việc bảo vệ
các loài ở qui mô quốc tế là Công ước về buôn bán các loài đang có nguy cơ
tuyệt chủng (CITES, Convention on International Trade in Endangered
Species) được ra đời năm 1973 cùng với sự ra đời của Chương trình Môi
trường Liên Hiệp Quốc (UNDP).
Công ước CITES bắt đầu có hiệu lực từ năm 1975. Mục tiêu của Công
ước là nhằm đảm bảo việc buôn bán quốc tế các mẫu vật động vật, thực vật
hoang dã không đe doạ đến sự sống còn của loài. Công ước này hiện có 120
nước tham gia. Công ước CITES đưa ra một danh sách các loài được kiểm
soát trong việc buôn bán quốc tế; các quốc gia thành viên đồng ý hạn chế
buôn bán và khai thác có tính hủy diệt các loài này. Phụ lục I của của Công
ước liệt kê 675 loài động vật và thực vật bị cấm buôn bán hoàn toàn. Còn phụ
lục II gồm 3.700 loài động vật và 21.000 loài thực vật có sự kiểm soát và

giám sát trong việc buôn bán quốc tế. Trong số các loài thực vật có cả các loài
được tạo thành do nuôi cấy mô như phong lan, xương rồng, dương xỉ, đồng
thời ngày cũng có nhiều các loài cây lấy gỗ. Trong số các loài động vật, các
nhóm được kiểm soát chặt chẽ gồm vẹt, các loài có kích thước lớn gồm các
loài thuộc họ mèo, cá voi, rùa biển, chim ăn thịt, tê giác, gấu, linh trưởng, các
loài được bắt về nuôi trong nhà, sở thú, thủy cung; các loài được săn bắt để
lấy lông, da hay các sản phẩm khác.
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Công ước
CITES từ năm 1994 và là thành viên thứ 121. Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn là đầu mối thực hiện Công ước này. Cơ quan quản lý CITES của
Sinh viên:

10


Quản lý và chính sách bảo tồn đa dạng sinh học
Việt Nam trực thuộc Cục Kiểm lâm. Cơ quan khoa học CITES của Việt
Nam gồm có Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Khoa học Lâm
nghiệp Việt Nam, Viện nghiên cứu hải sản, và Trung tâm Nghiên cứu Tài
nguyên và Môi trường.
* Công ước khung của liên hợp quốc về biến đổi khí hậu
(UNFCCC) (Berlin, 1992): Công ước NFCCC bắt đầu có hiệu lực từ năm
1994. Mục tiêu của Công ước là ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí
quyển ở mức có thể ngăn ngừa sự can thiệp nguy hiểm của con người đối
với hệ thống khí hậu. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Công
ước này từ năm 1994. Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối
thực hiện Công ước này. Tham gia vào Công ước, Chính phủ các nước cần:
Thu thập và chia sẻ thông tin về nồng độ phát thải khí nhà kính, các chính
sách liên quan và các ví dụ điển hình về hạn chế phát thải khí nhà kính;
thông qua các chính sách quốc gia nhằm giảm lượng phát thải khí nhà kính

và thực thi các giải pháp hạn chế các tác động tiêu cực có thể xảy ra và hợp
tác nhằm chuẩn bị ứng phó với biến đổi khí hậu.
* Công ước chống sa mạc hoá (UNCCD): Công ước UNCCD bắt
đầu có hiệu lực từ năm 1996 với mục tiêu: Xây dựng các chương trình quốc
gia, tiểu vùng và vùng để phòng chống khô hạn và sa mạc hoá; Kêu gọi
cộng đồng quốc tế hỗ trợ tài chính cho việc chống sa mạc hoá; Trao đổi
thông tin, kỹ thuật và đào tạo về chống sa mạc hoá và ngăn chặn hậu quả sa
mạc hoá dẫn đến di cư ồ ạt, các loài động thực vật bị tuyệt chủng, khí hậu
thay đổi. Công ước hiện có gần 200 thành viên. Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của Công ước UNCCD từ năm 1998. Bộ NN-PTNT là đầu
mối thực hiện Công ước này.
Sinh viên:

11


Quản lý và chính sách bảo tồn đa dạng sinh học

* Công ước về bảo vệ Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới
(Công ước Pari): Công ước này do UNESCO khởi xướng và được chấp
thuận vào năm 1972, có 09 nước tham gia. Để thành lập Uỷ Ban Di sản Thế
giới, họp đầu tiên vào năm 1977. Mục tiêu của Công ước này là đê bảo vệ
vùng thiên nhiên có ý nghĩa quốc tế thông qua chương trình Di sản văn hóa
Thế giới. Hiện trên Thế giới có hơn 100 khu Di sản. Ở Việt Nam có các khu
Di tích đã được công nhận: Vịnh Hạ Long, Cố đô Huế, TP Cổ Hội An và
Mỹ Sơn.
* Công ước bảo vệ tầng ozon (Công ước Vietne, 1985): Công ước
gồm 21 điều, thúc đẩy các bên để bảo vệ sức khỏe con người và môi trường
trước tiên hãy bảo vệ tầng ozone. Quyết định: bảo vệ sức khoẻ con người và
môi trường trước những ảnh hưởng có hại do sự biến đổi của tâng ôzôn.

* Công ước về luật biển (Công ước Vịnh Montego, 1982; có hiệu
lực 1994): Công ước xác định chế độ pháp lý mới về Đại Dương và nguồn
tài nguyên bao la của nó. Công ước Luật biển là một bộ các quy định về sử
dụng các đại dương của thế giới, chiếm 70% diện tích bề mặt Trái Đất. Công
ước đã được ký kết năm 1982 để thay thế cho 4 hiệp ước năm 1958 đã hết
hạn. UNCLOS có hiệu lực năm 1994, và đến nay, 154 quốc gia và Cộng
đồng châu Âu đã tham gia Công ước này. Hoa Kỳ không tham gia vì nước
này tuyên bố rằng hiệp ước này không có lợi cho kinh tế và an ninh của Mỹ.
Công ước quy định quyền và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử
dụng biển, thiết lập các hướng dẫn rõ ràng cho các hoạt động kinh doanh,
bảo vệ môi trường và cải thiện quản lý các tài nguyên thiên nhiên đại dương.

Sinh viên:

12


Quản lý và chính sách bảo tồn đa dạng sinh học

Kết Luận: Đa dạng sinh học có vai trò vô cùng quan trọng đối với an ninh
lương thực, cân bằng sinh thái và hơn hết là sự tồn vong của loài người. Vai
trò đó được thừa nhận trên quy mô toàn thế giới cũng như ở cấp quốc gia.
Chính vì thế, bảo tồn Đa dạng sinh học được coi như một yếu tố cấu thành
vững chắc cho sự nghiệp phát triển bền vững của tất cả các nước trên toàn
thế giới.
Thống kê cho thấy, Đa dạng sinh học đang tiếp tục bị suy giảm. Diện
tích các khu vực có các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị thu hẹp dần. Số
loài và số lượng cá thể của các loài hoang dã bị suy giảm mạnh. Nhiều loài
hoang dã có giá trị bị suy giảm hoàn toàn về số lượng hoặc bị đe dọa tuyệt
chủng ở mức cao. Các nguồn gen hoang dã cũng đang trên đà suy thoái

nhanh và thất thoát nhiều. Suy thoái ĐDSH dẫn đến mất cân bằng sinh thái,
ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con người, đe dọa sự phát triển
bền vững của đất nước. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình
trạng trên là do còn nhiều tồn tại, bất cập trong các quy định của pháp luật
về ĐDSH. Toàn cầu đang có nỗ lực lớn để thực hiện công cuộc bảo tồn Đa
dạng sinh học. Ý chí này thể hiện trong các cam kết tại phiên họp lần thứ 65
của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 22 tháng 9 năm 2010 tại New York,
Mỹ và Hội nghị các bên tham gia Công ước ĐDSH lần thứ 10 được tổ chức
tại Nagoya, Nhật Bản.
Việt Nam đã được công nhận là một trong 16 nước có tính
ĐDSH cao nhất trên thế giới và là một trong các quốc gia được ưu tiên cho
bảo tồn toàn cầu. Cũng như toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ
khi có cùng xu hướng suy giảm đa dạng sinh học, và tốc độ suy giảm tăng
lên cùng với sự tăng tốc của nền kinh tế.

Sinh viên:

13



×