Tải bản đầy đủ (.doc) (153 trang)

Luận văn thạc sĩ báo chí học sự tham gia của trẻ em trong chương trình truyền hình thiếu nhi của các đài tây nam bộ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.66 KB, 153 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

SỰ THAM GIA CỦA TRẺ EM TRONG CHƯƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH THIẾU NHI CỦA CÁC ĐÀI MIỀN
TÂY NAM BỘ HIỆN NAY
(Khảo sát trên đài PT - TH Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp
từ 3/2014 đến 3/2015)

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

CẦN THƠ - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

SỰ THAM GIA CỦA TRẺ EM TRONG CHƯƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH THIẾU NHI CỦA CÁC ĐÀI MIỀN
TÂY NAM BỘ HIỆN NAY
(Khảo sát trên đài PT - TH Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp


từ 3/2014 đến 3/2015)

Ngành : Báo chí học
Mã số

: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM THỊ THANH TỊNH

CẦN THƠ - 2015
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan nội dung, kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là quá trình lao động khoa học nghiêm túc của bản thân và chưa
từng công bố trên bất kỳ phương tiện truyền thông nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Xuân

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Phạm Thị Thanh Tịnh đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp
đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô ở khoa Phát Thanh - Truyền hình, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền đã truyền đạt cho tôi những kiến thức quý giá và phương pháp nghiên
cứu khoa học bổ ích.



Nhân đây, tôi xin gởi lời cảm ơn đến Phòng Đào tạo Sau đại học, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, các thầy, cô phụ trách công tác giáo vụ đã giúp đỡ, tạo điều kiện để chúng
tôi hoàn thành khó học đúng tiến độ và chất lượng.
Xin cản ơn Ban giám đốc, các anh, chị đồng nghiệp tại Đài -PT - TH Tiền Giang, Trà
Vinh, Đồng Tháp cùng các em học sinh các tỉnh Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp đã giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình nguyên cứu và hoàn thiện luận văn này.
Tiền Giang, tháng 7 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Xuân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA TRẺ EM
TRONG CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH THIẾU NHI
1.1. Các khái niện, thuật ngữ liên quan đến đề tài
1.2. Trẻ em ở vùng Tây Nam Bộ
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ SỰ THAM GIA CỦA TRẺ EM TRONG CÁC
CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH THIẾU NHI TRÊN SÓNG
ĐÀI PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH TIỀN GIANG, TRÀ
VINH, ĐỒNG THÁP
2.1. Đặc điểm của chương trình truyền hình thiếu nhi và vai trò của trẻ em trong
chương trình truyền hình thiếu nhi ở đài truyền hình Tây Nam Bộ
2.2. Đôi nét về các chương trình truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ em
trên sóng đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp
2.3. Sự tham gia của trẻ em trong các chương trình truyền hình thiếu nhi của đài
truyền hình Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp
2.4. Đánh giá về sự tham gia của trẻ em trong chương trình truyền hình thiếu nhi

của các đài truyền hình Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp
Chương 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ SỰ THAM GIA CỦA TRẺ EM TRONG CHƯƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH THIẾU NHI CỦA ĐÀI TIỀN GIANG, TRÀ
VINH, ĐỒNG THÁP
3.1. Những vấn đề đặt ra
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả trong các chương trình truyền
hình thiếu nhi trên sóng đài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang, Trà Vinh,
Đồng Tháp
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
13
13
27

37

37
51
55
69

80
80

87
111


115


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BBT

:

Ban biên tập

MC

:

Người dẫn chương trình

NSTT :

Ngôi sao tuổi thơ

PT - TH

:

Phát thanh, truyền hình

TNB

:


Tây Nam bộ


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1:
Bảng 1.2:
Bảng 2.1:

Bảng 2.2:

Bảng 2.3:

Bảng 2.4:
Bảng 3.1:

Bảng 3.2:

Bảng 3.3:

Bảng 3.4:

Bảng 3.5:

Bạn thường tiếp nhận thông tin qua phương tiện nào?
Bạn xem những nội dung nào trong các chương trình
truyền hình cho thiếu nhi?
Theo bạn, hình thức các chương trình truyền hình thiếu
nhi cho trẻ em của các đài truyền hình Tiền Giang, Trà

Vinh, Đồng Tháp hiện nay như thế nào?
Theo bạn, loại thông tin nào sau đây cần được tăng
cường trong các chương trình truyền hình thiếu nhi có
sự tham gia của trẻ em của đài Tiền Giang, Trà Vinh,
Đồng Tháp?
Ý kiến của bạn về sự tham gia của trẻ em trên các các
chương trình thiếu nhi phát trên Đài Truyền hình Tiền
Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp?
Mỗi ngày bạn dành bao nhiêu thời gian để xem truyền
hình? Lý do bạn xem truyền hình?
Thời gian phát sóng các chương trình truyền hình thiếu
nhi của đài truyền hình Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng
Tháp có trẻ em tham gia như thế nào ?
Nội dung các chương trình truyền hình thiếu nhi của đài
truyền hình Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp có trẻ em
tham gia như thế nào?
Những thông tin liên quan đến trẻ em được phóng sóng
trong các chương trình truyền hình thiếu nhi có phản
ánh đúng thực tế không?
Loại thông tin nào sau đây cần được tăng cường trong
các chương trình truyền hình thiếu nhi có sự tham gia
của trẻ em của đài Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp?
Hình thức các chương trình truyền hình thiếu nhi cho
trẻ em của các đài truyền hình Tiền Giang, Trà Vinh,
Đồng Tháp hiện nay như thế nào?

Trang
31
33


43

50

55
63

82

84

85

89

104


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là truyền thống vốn có của dân tộc Việt Nam,
là sự nghiệp của cộng đồng và sự chăm lo của toàn xã hội. Những năm qua, cùng với sự
phát triển về mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, vấn đề trẻ em ngày
càng được chú trọng quan tâm; nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước liên
quan đến sự nghiệp chăm sóc, giáo dục trẻ em đã và đang đi vào cuộc sống; điều này góp
phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của môi trường giáo dục toàn diện, tạo ra sự chuyển biến
về nhận thức của xã hội, thúc đẩy việc chăm lo sự nghiệp giáo dục thế hệ tương lai của dân
tộc.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, trẻ em được công nhận là có quyền. Hơn nữa, trẻ em

còn tham gia vào việc thực hiện các quyền ấy nữa. Các quyền của trẻ em là những quyền
cơ bản, chính đáng, là một phần trong số các nhu cầu, thiết yếu với tất cả mọi người. Mọi
trẻ em đều có các quyền như nhau. Đòi hỏi và được công nhận. Qui định nghĩa vụ rõ ràng.
Từ khi phê chuẩn Công ước, Chính phủ Việt Nam đã sửa đổi và ban hành một số luật và
chính sách để thực hiện Công ước ở Việt Nam như: Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục
Trẻ em; và một số các văn bản dưới luật về bảo vệ trẻ em như: Chỉ thị 1408/CT-TTg ngày
01/9/2009 của Thủ tướng Chính Phủ về tăng cường công tác Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em; Quyết định 19/2004/QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương
trình ngăn chặn và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục và trẻ
em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010;
Trong đó, ở nhóm quyền phát triển: Bao gồm mọi hình thức giáo dục (chính quy và không
chính quy) và quyền được có mức sống đầy đủ cho sự phát triển về thể lực, trí tuệ, tinh
thần, đạo đức và xã hội của trẻ.
Quyền được chăm sóc sức khoẻ, được học tập và phát triển năng khiếu. Quyền vui
chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, du lịch. Nhóm quyền tham
gia: Bao gồm quyền được bày tỏ ý kiến trong mọi vấn đề có liên quan tới bản thân, quyền
được lắng nghe và được kết giao hội họp. Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và
tham gia hoạt động xã hội. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và những nguy cơ mà các em đễ
bị lạm dụng, và các hình thức nghiêm cấm việc lạm dụng trẻ em để bóc lột và làm các
chuyện phi pháp.

Chính phủ vừa ban hành Quyết định 1235/QĐ-TTg có hiệu lực từ ngày
3-8-2015 về phê duyệt Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em vào


2
các vấn đề về trẻ em giai đoạn 2016 - 2020. Theo đó, mục tiêu tổng quát của
chương trình là tạo môi trường thuận lợi và nâng cao năng lực cho trẻ em trong
việc thực hiện quyền tham gia các vấn đề liên quan đến trẻ em theo quy định của
pháp luật và Công ước của Liên hợp Quốc. Trong đó nhấn mạnh đến 1 trong

những mục tiêu là các cơ quan chức năng cần thực hiện các giải phái nhằm nâng
cao nhận thức về quyền tham gia của trẻ em, giúp cho trẻ em chủ động, sáng
tạo, tự tin trong cuộc sống, trở thành chủ nhân tương lai của đất nước.
Hãy dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em. Trẻ em là lớp thế hệ tiếp nối, kế tục và
là chủ nhân tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc; là nguồn lực cho sự phát triển thịnh vượng
và trường tồn của đất nước và nhân loại. Việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ không chỉ là
trách nhiệm của gia đình, nhà trường mà là trách nhiệm của toàn xã hội; trong đó, mỗi môi
trường đều có vị trí, vai trò quan trọng và phải được coi trọng như nhau, bổ trợ cho nhau.
Trẻ em cần được chăm sóc, giáo dục vừa được được hưởng không gian và thời gian để vui
chơi, giải trí, có một tuổi thơ trọn vẹn và ý nghĩa.
Hiện nay trên báo chí, dù là loại hình gì, báo in, báo nói, báo hình, báo mạng... đều
có những tin, ảnh, bài viết liên quan đến trẻ em, dù trực tiếp hay gián tiếp. Vì thế có thể
thấy trong xã hội, trong cuộc sống, hình ảnh trẻ em luôn hiện hữu khắp nơi và xã hội tác
động đến đời sống trẻ em thế nào thì trong báo chí hình ảnh trẻ em cũng tương tự vậy, khi
là chủ thể, khi là khách thể, khi bị động khi chủ động, khi trực tiếp khi gián tiếp.
So với hiện nay các chương trình thiếu nhi đã đa dạng và phong phú hơn khá nhiều.
Các chương trình của VTV và các đài truyền hình địa phương đang nỗ lực xây dựng nhiều
chương trình thiếu nhi gần gũi với đời sống hơn. Những chương trình này không chỉ đơn
thuần chỉ để giải trí cho các em nhỏ, mà còn như chiếc cầu nối giữa các bé và cha mẹ.
Không những thế, các em còn là người tham gia trực tiếp vào các chương trình này. Trẻ em
đang có nhiều cơ hội để xuất hiện trên màn ảnh nhỏ thông qua các gameshow, chương
trình truyền hình thực tế đang đua nhau trên sóng. Có thể kể một số chương trình
gameshow và truyền hình thực tế đáng chú ý như: Con đã lớn khôn, Ô cửa trái tim, Nhanh
nào bé yêu, Hành trình xanh, Ước mơ của em (phát sóng trên HTV); Ai thông minh hơn
học sinh lớp 5, Đồ Rê Mí, Giọng hát Việt nhí, Trẻ em luôn đúng, Chinh phục (phát sóng
trên VTV); Nào mình cùng đi, Thi tài cùng họa sĩ Đốm, Vui học toán, Ống kính Biết Tuốt
(phát sóng trên Kids & Family)… Ngoài những chương trình được Việt hóa, mua format
về sản xuất trong nước, còn có những chương trình nguyên gốc từ nước ngoài nhưng được



3
biên tập, lồng tiếng Việt như Bố ơi, mình đi đâu thế? Các chương trình bổ sung về kiến
thức phục vụ học tập có sự tham gia của chính các em giúp các em thể thiện sự khéo léo,
rèn luyện sự tự tin và đặc biệt là giáo dục về những kỹ năng sống cần thiết, giúp các em tự
lập và vững vàng hơn trong cuộc sống hàng ngày.
Trong khi đó, các đài truyền hình Tây Nam Bộ hiện nay cho thấy: tỷ lệ phát sóng
trong tổng thời lượng phát sóng còn ít. Rất thiếu chương trình mang tính định hướng, giáo
dục thẩm mỹ và nhân cách cho trẻ chưa cao, như chương hình thức và nội dung thường
xuyên lập lại. Nguyên nhân là các đài truyền hình còn xem nhẹ và chưa quan tâm đầu tư
đúng mức trong việc sản xuất các chương trình truyền hình phục vụ đối tượng khán giả
quan trọng này. Thiếu nhân lực, trang thiết bị, kinh phí dẫn đến chất lượng chương trình
kém so với các chương trình các đài trong khu vực, đài truyền hình tung ương. Lịch phát
sóng không phù hợp, nội dung khô cứng, nhàm chán đang tiếp tục là nguyên nhân thu hẹp
sân chơi này, không hấp dẫn cũng như hạn chế sự tham gia của các em trong các chương
trình truyền hình thiếu nhi.
Vì thế, với đề tài: Sự tham gia của trẻ em trong chương trình truyền hình thiếu nhi
của các đài Tây Nam Bộ hiện nay vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn sâu sắc,
có ý nghĩa thiết thực đối với hoạt động báo chí, cả trong tác nghiệp, cũng như trong công
tác bồi dưỡng nghiệp vụ. Những kết quả nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này sẽ là những
kinh nghiệm nghề nghiệp sinh động và thiết thiết thực nhất, cũng như đề xuất gợi ý rất hữu
ích cho việc nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của
trẻ em trên sóng đài truyền hình Tây Nam Bộ thời gian tới. Đồng thời, các đài truyền hình
miền Tây Nam Bộ sẽ có được chiến lược đầu tư phát triển một cách thích đáng cho các
chương trình dành cho thiếu nhi, từ đó nâng cao chất lượng về nội dung cũng như hình
thức cho các chương trình dành cho lượng khán giả đặc biệt và đông đảo này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh đến vấn đề trẻ em trên chương trình truyền hình thiếu nhi, trong thời
gian qua, báo chí của nước ta đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau. Liên quan đến đề tài này, chúng tôi chú ý các công trình sau:


- “Nhà báo với trẻ em, kiến thức và kỹ năng” của TS Nguyễn Ngọc
Oanh. Do Nhà xuất bản thông tấn phát hành 4/2014. Cuốn sách này là công
trình nghiên cứu của tác giả về những thách thức đặt ra đối với người làm báo
về trẻ em. Đó chính là những kiến thức và kỹ năng báo chí về trẻ em. Khung
lý thuyết về kỹ năng làm báo cho trẻ em, nhận diện những nhân tố có tính


4
chất điều kiện ảnh hướng đến quá trình hình thành, phát triển các kỹ năng tác
nghiệp, khảo sát thực tế kỹ năng tác nghiệp của nhà báo, tìm ra cơ sở khoa
học từ thực tiễn nhằm góp phần tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả tác
động của báo chí với trẻ em ở Việt Nam. Là tài liệu hướng dẫn kỹ năng tiếp
cận và giải quyết đề tài trẻ em dựa trên quyền và bảo đảm lợi ích tốt nhất cho
trẻ em; giúp các nhà báo hoàn thiện, nâng cao kỹ năng tác nghiệp báo chí, góp
phần tích cực, hiệu quả vào việc nâng cao năng lực và hiệu quả tác động của
báo chí đối với nhóm công chúng trẻ em ở nước ta hiện nay.
- “Sổ tay phóng viên báo chí với trẻ em” do PGS, TS. Nguyễn Văn Dững chủ biên,
được xuất bản vào năm 2001. Cuốn sách này nêu rõ những kiến thức chung về trẻ em; vấn
đề BVCS&GDTE; kỹ năng và kinh nghiệm hoạt động báo chí cho trẻ em. “Sổ tay phóng

viên: Báo chí với trẻ em” là các trải nghiệm thực tế, nhóm tác giả đã thể hiện
cái nhìn sâu sắc và toàn diện về kiến thức, thông tin nền, đặc biệt là các quyền
trẻ em trong Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em; Kĩ năng và kinh nghiệm làm
báo với đề tài trẻ em
- Truyền thông, đạo đức nghề nghiệp với trẻ em của tác giả Helena Thoefinn, do
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản 2003. Đây là cuốn sách đúc kết những phẩm
chất cần thiết của nhà báo viết về trẻ em. Tài liệu tham khảo truyền thông và trẻ em,

nghiên cứu mối quan hệ giữa trẻ em với truyền thông nhằm mục đích giảm
tác hại, tăng lợi ích của các phương tiện truyền thông đối với trẻ, nâng cao

đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực truyền thông, đồng thời tập trung phân
tích ba vấn đề lớn: trẻ em có quyền tiếp nhận, có quyền cùng tham gia, vừa có
quyền được bảo vệ trước các phương tiện truyền thông
- Báo chí với trẻ em do PGS, TS. Nguyễn Văn Dững chủ biên, xuất bản năm 2004
cũng đã cung cấp cái nhìn tổng quan về trẻ em và kỹ năng nghiệp vụ của nhà báo với trẻ
em. Công trình này hướng tới việc xây dựng khung lý thuyết về kỹ năng làm báo cho trẻ
em, nhận diện những nhân tố có tính chất điều kiện ảnh hưởng đến quá trình hình thành,
phát triển các kỹ năng tác nghiệp, khảo sát thực tế kỹ năng tác nghiệp của nhà báo, tìm ra
cơ sở khoa học từ thực tiễn nhằm góp phần tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả tác động
của báo chí với trẻ em ở Việt Nam.


5
- Công chúng báo chí do TS Phạm Thị Thanh Tịnh xuất bản năm 2013 Nhà xuất
bản chính trị - hành chính. Cuốn sách cũng đã cung cấp cái nhìn tổng quan về nghiên cứu
công chúng.
Ngoài những công trình nghiên cứu được biên soạn thành sách, tác giả còn tham
khảo thêm các luận văn, luận án, khóa luận tốt nghiệp khác như:
- Luận văn: “Báo chí cho trẻ em ở thành phố Hồ Chí Minh”, Huỳnh Thị Kim Thi
(2009) Cũng như những trẻ em ở các địa phương khác, trẻ em ở TP HCM đang

trong giai đoạn phát triển về thể chất lẫn tinh thần nên rất dễ bị tác động bởi
môi trường sống xung quanh. Chỉ cần thiếu sự quản lý, kiểm soát, định
hướng, giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội, những ấn phẩm độc hại sẽ
rơi vào tay trẻ em, gây ảnh hưởng xấu cho các em. Từ đây càng đòi hỏi, báo
chí cho trẻ em ở TP HCM không ngừng nâng cao vị trí, vai trò, trách nhiệm
“vừa là trường học, vừa là nhà hát” và là người bạn thân thiết của trẻ em.
- Luận văn: Giáo dục nhân cách cho trẻ vị thành niên trên báo chí
hiện nay, Trần Thị Dung (2007) Bằng cách tiếp cận với lý thuyết và khảo sát
trực tiếp, tác giả làm rõ vai trò của báo chí trong việc giáo dục nhân cách cho

trẻ vị thành niên trong giai đoạn hiện nay. Thông qua việc nêu lên thực trạng,
thành tựu, hạn chế, nguyên nhân thành công và hạn chế cùng việc đưa ra các
giải pháp để báo chí phục vụ trẻ em ngày càng càng tốt hơn.
- Luận văn: Góp phần hình thành và giáo dục nhân cách cho tuổi thơ
qua chương trình văn nghệ thiếu nhi Đài truyền hình Việt Nam của tác giả
Nguyễn Lan Hương, Học viện ba chí và Tuyên truyền, Hà Nội, năm 1997.
Để làm phong phú nguồn tài liệu, tác giả còn tham khảo 1 số bài báo,
bài viết đề cập đến báo chí, truyền hình cho trẻ em được công bố trên các
phương tiện thông tin đại chúng hoặc các tập chí nghiên cứu khoa học, đăng
trên các website, báo online:
- Các bài viết của tác giả Huỳnh Thị Kim Thi (2009), “Báo chí dành
cho trẻ em: Hãy để trẻ em nói lên tất cả”, Báo điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam, (ngày 28.7). “Báo chí cho trẻ em ở Thành phố Hồ Chí Minh thường


6
xuyên đổi mới nội dung và hình thức”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền
thông, (số tháng 9), tr.46-48. Các bài viết của tác giả Huỳnh Thị Kim Thi
cung cấp một cái nhìn khách quan về nội dung và hình thức của 1 số tờ báo,
chương trình truyền hình thiếu nhi ở thành phố Hồ Chí Minh. Là 1 những căn
cứ khoa học để góp phần giúp báo chí nói chung viết cho thiếu nhi nơi đây
nâng cao chất lượng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của trẻ em.
- Bài báo Tìm hiểu tâm lý trẻ em - một nhóm công chúng đặc thù của báo chí của
tác giả Đỗ Thu Hằng đăng trên website Báo chí với trẻ em, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Hà Nội vào ngày 11.27.2005. Làm báo cho trẻ em, vì thế khó hơn rất nhiều

so với các nhóm công chúng khác thuộc nhóm người đã trưởng thành. Do đó,
cần giúp cho các nhà báo viết về trẻ em và cho trẻ em có nhiều cơ hội hơn để
tiếp cận với nhóm tri thức này. Đồng thời, bằng việc phân tích tâm lý riêng có
của trẻ em, cần nâng cao hơn nữa vị thế xã hội của các sản phẩm báo chí truyền thông , cũng như đội ngũ các nhà báo viết cho trẻ em và về trẻ em ở

nước ta hiện nay.
- Bài báo “ Nhà báo với trẻ em” của tác giả Thu Thủy Truyền hình K32-A2
đăng trên Sóng trẻ online ngày 18.3.2015. Tác giả cho rằng t rẻ em chưa ý thức được

những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của truyền thông, báo chí đến cuộc
sống của chính mình. Vì vậy, các nhà báo, bằng kiến thức, kỹ năng và đạo
đức nghề nghiệp phải có trách nhiệm bảo vệ các em trước mọi sự bất lợi mà
do vô tình hay cố ý các nhà báo đã đem đến cho các em.
- Bài báo “Cần chú trọng tính tương tác trong sản xuất các chương
trình truyền hình dành cho thiếu nhi”. Của tác giả Minh Hoàng trên
TREEMVIET.vn (2004) Tác giả cho rằng, hầu hết các chương trình sản xuất
cho thiếu nhi mặc dù cũng có sự kết hợp giữa giải trí và giáo dục nhưng nó
thường mang tính giáo dục nhiều hơn, cách chuyển tải cũng giản đơn không
thu hút được sự hứng thú của trẻ em do chưa ứng dụng được sự phát triển và
đa dạng của công nghệ trong sản xuất chương trình truyền hình. Những người
làm truyền hình dành cho trẻ em cần không chỉ có tài mà còn có tâm, có đức,


7
không chỉ hiểu về tâm lý lứa tuổi trẻ em mà còn cần biết về quyền tiếp cận
thông tin của trẻ em để quá trình xây dựng các chương trình truyền hình thực
sự gần gũi và thân thiết với trẻ em.
Tóm lại, cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh vấn đề báo
chí và trẻ em trên cả hai phương diện: lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, những công trình
này mới cho chúng ta cái nhìn tổng quan về báo chí và trẻ em, kỹ năng nghiệp vụ viết báo
cho trẻ em, chưa đi sâu nghiên cứu báo chí truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ em
ở một địa phương cụ thể như Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp. Trong khi đó, báo chí
truyền hình có sự tham gia của trẻ em ở TP HCM và đã và đang phát triển rất mạnh mẽ
không thua kém báo chí cho trẻ em ở trung ương. Như vậy, có thể nói, thực hiện đề tài “Sự
tham gia của trẻ em trên chương trình truyền hình thiếu nhi của các đài miền Tây Nam Bộ”

là đề tài mang ý nghĩa thực tiễn cho địa phương cụ thể: miền Tây Nam Bộ, chưa có công
trình nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở tìm hiểu nội dung và hình thức các chương trình truyền hình thiếu nhi
của các đài miền Tây Nam Bộ, luận văn làm rõ mức độ tham gia cũng như những thành
công và hạn chế của trẻ em trên các chương trình thiếu nhi. Từ đó, đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả các chương trình truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ
em, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công chúng trẻ em.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu các tài liệu, sách lý luận báo chí về trẻ em để rút ra những vấn đề lý
luận làm cơ sở cho nghiên cứu thực tế.
- Khảo sát các chương trình truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ em trên
sóng truyền hình đài truyền hình Tiền Giang, Đồng Tháp và Trà Vinh. Phân tích những
thành công và hạn chế các chương trình truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ em
trên sóng truyền hình đài truyền hình Tiền Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh trên các phương
diện: nội dung và hình thức; mức độ tham gia, cơ cấu tổ chức; đội ngũ những người thực
hiện các chương trình này.
- Vận dụng lý luận báo chí và căn cứ vào tình hình thực tế để đề ra những giải pháp
nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ em ở
Tây Nam Bộ nói chung, trong đó có Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


8
Với đề tài này, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu chính là sự tham gia của
trẻ em trong các chương trình truyền hình thiếu nhi ở Tây Nam Bộ. Cụ thể là các chương
trình truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ em trên sóng các đài PT - TH Tiền Giang,
Trà Vinh, Đồng Tháp. Trong đó, tác giả tập trung khảo sát ở 1 số phương diện: mức độ

tham gia, nội dung thông tin có sự tham gia của trẻ em, hình thức tham gia của trẻ em.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn cao học, đề tài này chỉ nghiên cứu các chương
trình truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ em phát sóng trên các đài PT - TH Tiền
Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp. Thời gian từ 3/2014 đến 3/ 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở sử dụng phương pháp luận báo chí, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước
về báo chí và trẻ em, các tài liệu lý luận về báo chí, truyền thông đã xuất bản.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả vận dụng, kết hợp các phương pháp nghiên cứu
sau:
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu liên quan đến báo chí cho trẻ
em, các công trình khoa học liên quan đến báo chí cho trẻ em nhằm tìm hiểu lịch sử nghiên
cứu vấn đề, có thêm kiến thức về báo chí cho trẻ em, đề cập cụ thể đến thể loại chương
trình truyền hình thiếu nhi, tránh trùng lập với các bài viết, các công trình nghiên cứu đã có
trước đây. Đồng thời phân tích làm rõ đặc điểm của chương trình truyền hình thiếu nhi,
bước đầu góp phần xây dựng lý luận về chương trình truyền hình thiếu nhi trên sóng truyền
hình.
- Phương pháp khảo sát thực tế nhằm nắm bắt được cách tổ chức thực hiện chương
trình truyền hình thiếu nhi trên sóng đài PT - TH Tiền Giang, trà Vinh, Đồng Tháp. Trên
cơ sở đó luận văn sẽ đề cập đến những vấn đề mang tính lý luận nhưng sát với thực tế để
việc thực hiện đạt hiệu quả hơn.
- Phương pháp phỏng vấn sâu tới nhóm quản lý báo chí nhằm lấy ý kiến của những
nhà quản lý (2 người) xem họ nhìn nhận như thế nào về chương trình truyền hình thiếu nhi,
những khó khăn, thuận lợi cũng như những giải pháp nâng cao chất lượng các chương trình
này trong thời gian tới. Nhóm biên tập viên (3 người) nhằm khai thác các thông tin của
biên tập viên về việc thực hiện các chương trình truyền hình thiếu nhi, những thuận lợi,



9
khó khăn trong quá trình thực hiện, những yếu tố quan trọng để thực hiện 1 chương trình
truyền hình thiếu nhi thu hút trẻ em. Qua đó gợi mở các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng chương trình truyền hình thiếu nhi.
- Phương pháp điều tra xã hội học bằng câu hỏi, phát 300 phiếu câu hỏi và thu được
255 phiếu hợp lệ dành cho học sinh các trường học tên địa bàn 3 tỉnh Tiền Giang, Trà
Vinh, Đồng Tháp. Nhằm tìm hiểu xem công chúng trẻ em nhận thấy sự sinh động, hấp dẫn
nào trong các chương trình truyền hình thiếu nhi để đáp ứng nhu cầu của trẻ em
- Các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp so sánh các số lượng, số liệu các
chương trình truyền hình thiếu nhi mà tác giả tiến hành khảo sát các đài truyền hình Tiền
Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp. Cụ thể là các chương trình truyền hình thiếu nhi có sự tham
gia của trẻ em do các đài tổ chức thực hiện từ 3/2014 đến 3/2015. Trên cơ sở đó khẳng
định vai trò và nhiệm vụ của các đài PT - TH Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp trong việc
tổ chức thực hiện các chương trình truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ em.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Về mặt lý luận
Đây là đề tài đầu tiên khảo sát các chương trình truyền hình thiếu nhi có sự tham
gia của trẻ em trên sóng 3 đài PT - TH Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp. Đề tài không chỉ
làm sáng rõ diện mạo, nội dung và hình thức về sự tham gia của trẻ em trong các chương
trình truyền hình thiếu nhi ở Tây Nam Bộ, cụ thể đài là PT - TH Tiền Giang, Trà Vinh,
Đồng Tháp mà còn đánh giá tương đối chính xác, khách quan về vai trò, vị trí của các
chương trình truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ em hiện nay. Đặc biệt là vấn đề
tham gia của trẻ em trong các chương trình truyền hình thiếu nhi với 2 mặt tiêu cực và tích
cực đang được dư luận xã hội ngày càng quan tâm từ nhiều khía cạnh khác nhau.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung cấp cơ sở dữ liệu về chương trình truyền hình thiếu nhi có sự tham
gia của trẻ em cho các cơ quan quản lý báo chí ở Tây Nam Bộ hiểu sâu sắc hơn về vai trò,
vị trí thực trạng hoạt động của các đài PT - TH nơi đây về tổ chức thực hiện các chương
trình truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ em, từ đó có cách lãnh đạo, quản lý phù

hợp và đạt hiệu quả hơn.
Thông qua luận văn này, các đài PT - TH Tây Nam Bộ, cụ thể là các đài PT - TH
Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp nhận thấy những mặt được và chưa được trong việc tổ
chức thực hiện các chương trình truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ em; có thể
nghiên cứu, tham khảo, áp dụng những giải pháp luận văn đưa ra để đổi mới, cải tiến nội


10
dung và hình thức chương trình truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ em, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của đông đảo công chúng nhỏ tuổi hiện nay. Từ đó đánh giá đúng
chất lượng chương trình, tạo mối quan hệ tốt giữa đài truyền hình với trẻ em.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng, giảng
viên, học viên ở các trường đào tạo chuyên ngành báo chí, tạo tiền đề cho các công trình
nghiên cứu tiếp theo. Đồng thời, qua tìm hiểu việc tổ chức thực hiện các chương trình
truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ em ở các đài PT - TH Tiền Giang, Trà Vinh,
Đồng Tháp, tác giả cũng nâng cao sự hiểu biết của mình khi thực hiện các chương trình
truyền hình thiếu nhi có sự tham gia của trẻ em
7. Kết cấu luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của
luận văn được trình bày trong 3 chương,
Chương 1: Những vấn đề lý luận về sự tham gia của trẻ em trong chương trình
truyền hình thiếu nhi.
Chương 2: Thực trạng về sự tham gia của trẻ em trong các chương trình truyền hình
thiếu nhi trên sóng đài PT - TH Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp.
Chương 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao hiệu quả sự tham gia của trẻ
em trong chương trình truyền hình thiếu nhi của đài PT - TH Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng
Tháp.


11

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA TRẺ EM TRONG CHƯƠNG
TRÌNH TRUYỀN HÌNH THIẾU NHI
1.1. Các khái niện, thuật ngữ liên quan đến đề tài
1.1.1. Công chúng trẻ em
- Nhà xã hội học Blumer cho rằng, thuật ngữ “công chúng” được sử dụng để chỉ một
nhóm người (a) đối mặt với sự kiện (b), chia sẻ trong quan điểm của họ về việc làm thế nào
để các quan điểm của họ gặp nhau, và (c) liên quan đến việc bàn luận về vấn đề này. Theo
ông, công chúng là những nhóm người có sự quan tâm đến những vấn đề nhất định. Có thể
xem công chúng là một đám đông - một nhóm người phân tán, có một mối quan tâm
chung, liên quan hoặc tập trung về một dư luận (hay một ý kiến). Công chúng là khối
người phân tầng (cũng như xã hội), sự phân tầng này dựa trên những khác biệt về kinh tế,
khả năng hiểu biết, tôn giáo, tuổi tác….
- Khái niệm công chúng được từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà
Nội, năm 1988 giải thích như sau: “Công chúng là đông đảo người đọc, người nghe, chứng
kiến việc gì trong mối quan hệ với người diễn thuyết, tác giả, diễn viên...”.
- Theo TS. Đinh Văn Hường, công chúng báo chí là: “người đọc, người nghe, người
xem, là lực lượng đông đảo nhất của báo chí. Họ vừa là đối tượng phản ánh và phục vụ của
báo chí, vừa là những người tiêu thụ và hưởng thụ báo chí” [18, tr.16].
- Theo TS Phạm Thị Thanh Tịnh trong cuốn sách Công chúng báo chí Nhà xuất bản
Chính trị - Hành chính xuất bản 2013 thì:
Công chúng báo chí là những người được các sản phẩm truyền thông tác động
hoặc định hướng vào để tác động. Đó là đọc giả của báo in, thính giả của đài
phát thanh, khán giả của đài truyền hình. Công chúng đó là một cộng đồng
người với giới hạn bé nhỏ như làng, xã đến những cộng đồng to lớn trên phạm
vi quốc tế. Đây là một hay nhiều tầng lớp xã hội, có một trình độ và nhu cầu
chung về thông tin dành cho họ [39, tr.21].
Từ các khái niệm trên, công chúng được hiểu là toàn bộ các cá nhân trong một không
gian cộng đồng mà trong đó có thể trực tiếp tiếp cận chung một vấn đề nhất định, ở một
lĩnh vực nhất định, ví dụ như quan tâm đến tác giả nào đó trong lĩnh vực văn hoá, nghệ

thuật. Vì thế, công chúng bao gồm trong đó nhiều loại công chúng khác nhau, ví dụ như
công chúng báo chí, công chúng văn học, công chúng âm nhạc, công chúng sân khấu...


12
Hiện nay, Nhà nước mới chỉ công nhận 48 chức danh trong ngành Văn hóa - Thông
tin, trong đó các chức danh như phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên, cộng tác viên,
thông tin viên… đã được xác định, còn công chúng thì chưa. Công chúng chỉ là tên gọi
thông thường chứ không phải chức danh công chức Nhà nước. Tuy chức danh công chúng
chưa được xác định nhưng công chúng có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động báo
chí. Hiệu quả hoạt động của báo chí phụ thuộc vào khả năng ảnh hưởng của báo chí đối với
công chúng.
Công chúng không chỉ là đối tượng tác động, đối tượng chi phối điều chỉnh mà
còn là lực lượng xã hội quyết định vai trò, vị thế xã hội của cơ quan báo chí [5,
tr.14].
Công chúng có vai trò quan trọng đối với các kênh thông tin. Công chúng là
người nuôi dưỡng chương trình, đánh giá, thẩm định cuối cùng chất lượng của
chương trình, bài báo. Họ là người thẩm định vai trò, vị thế xã hội của người
làm báo, cơ quan báo chí. Công chúng là nguồn đề tài vô tận của báo chí [39,
tr.21].
Công chúng trẻ em
Trẻ em - đối tượng luôn nhận sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta. Trẻ em
luôn nhận sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội qua đạo lý dân tộc, đạo
đức xã hội và trách nhiệm pháp lý. Điều này thể hiện rõ tại điều 65, Hiến pháp nước
CHXHCN năm 1992: “Trẻ em được gia đình, Nhà nước, và xã hội bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục”; Điều 5, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em (sửa đổ, bổ sung): “Việc bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, Nhà nước, xã hội và
công dân. Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến trẻ
em thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu”.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tình yêu thương vô bờ cho trẻ em. Người

viết trong bài Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng: “Thiếu
niên, nhi đồng là người chủ tương lai của đất nước… Vì tương lai của con em ta, dân tộc
ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các bé cho tốt”.
Thực hiện lời dạy của Người, trong mọi chặng đường phát triển đất nước, Đảng, Nhà
nước ta luôn xác định:“Quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng một lớp người mới không
những phục vụ cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa hiện nay mà còn cho sự nghiệp xây dựng
cộng sản chủ nghĩa sau này”.


13
Từ khi ký Công ước, Việt Nam luôn tôn trọng và luật hoá các quyền cơ bản của trẻ em
trên cơ sở phù hợp với hiến pháp và pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật ảo vệ chăm sóc và
giáo dục trẻ em nhiều lần đã được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với từng giai đoạn phát
triển; hàng loạt các chương trình hành động quốc gia vì trẻ em đã được triển khai.
Trẻ em tùy theo môi trường, hoàn cảnh, trình độ văn hoá và nhận thức của mỗi
người, mỗi quốc gia được định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, để dễ dàng xác
định ai là đối tượng trẻ em và để thuận lợi trong công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ
em ở mỗi quốc gia, Công ước đã đưa ra một quy định chung mang tính quốc tế
là “Trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp quốc gia công nhận
tuổi thành niên sớm hơn.
Theo Pháp luật Việt Nam “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Như vậy, do
điều kiện cụ thể của đất nước, trẻ em Việt Nam được hiểu nhỏ hơn trẻ em quy định trong
Công ước. Trẻ em phát triển phụ thuộc vào điều kiện sống và chịu sự phi phối của xã hội,
nhất là về kinh tế, văn hóa… Dù vậy, về phương diện nào đó, trẻ em vẫn phải trải qua
những giai đoạn phát triển cơ bản phát triển thể chất - sinh lý, phát triển nhận thức và phát
triển nhân cách. Đặc biệt, giai đoạn phát triển tâm lý chủ yếu chia theo từng nhóm tuổi cụ
thể như tuổi trước đi học (từ 0-6 tuổi), tuổi nhi đồng (cấp tiểu học, từ 6-12 tuổi), tuổi thiếu
niên (cấp THCS và THPT, từ 12-18 tuổi). Và, theo nhà tâm lý học Eric Ericson, sự phát
triển nhân cách của trẻ em được chia thành 5 giai đoạn: sơ sinh; nhà trẻ; mẫu giáo; đi học;
vị thành niên.

- Giai đoạn sơ sinh (từ 0-1,5 tuổi) là giai đoạn trẻ em chủ yếu ăn, ngủ, phối hợp với
các phản xạ mang tính bột phát. Đến khoảng từ 4-12 tháng tuổi, trẻ mới phát triển các động
tác biểu cảm, cộng sinh cảm xúc. Các em rất cần sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ.
- Giai đoạn nhà trẻ (từ 1,5-3 tuổi) là lúc trẻ mới tập đi, tập định hướng, hình thành sự
tự chủ (cảm giác sự tự kiểm soát và quyết định). Đặc điểm nổi bật của trẻ trong giai đoạn
này là tỏ ra độc lập và không vâng lời.
- Giai đoạn mẫu giáo (từ 3-6 tuổi) là giai đoạn trẻ em thể hiện sự hiếu thắng, hiếu
động, hiếu kỳ, bắt chước và giàu sức tưởng tượng.
- Giai đoạn đi học (từ 6-tuổi dậy thì): Từ lớp 1-2, trẻ em chú ý vô thức và tư duy hình
tượng cụ thể. Từ lớp 2-9, các em đã nhận thức được ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết và hình
ảnh.


14
- Giai đoạn vị thành niên (từ tuổi dậy thì-16 tuổi) là giai đoạn trẻ em phát triển nhanh
về thể lực và trí lực. Đây là thời kỳ then chốt sự phát triển tâm lý của con người. Ngoài ra,
ở lứa tuổi này, các em có sự phát triển mạnh mẽ về tâm lý giới tính.
Theo nhà tâm lý học Eric Ericson, sự phát triển nhân cách của trẻ em được chia thành
5 giai đoạn: sơ sinh; nhà trẻ; mẫu giáo; đi học; vị thành niên. Và theo từng giai đoạn, nhận
thức của trẻ sẽ phát triển khác nhau về ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết và hình ảnh, cũng như
nhu cầu tiếp nhận thông tin.
Từ sự phân chia giai đoạn phát triển nhận thức và phát triển nhân cách của trẻ em
nhằm khẳng định những đòi hỏi riêng biệt của trẻ em đối với sản phẩm báo chí dành cho
chính mình. Cụ thể, ở hai giai đoạn sơ sinh (từ 0-1,5 tuổi), nhà trẻ (từ 1,5-3 tuổi) trẻ em
chưa có khả năng tiếp nhận báo chí. Đến giai đoạn mẫu giáo (từ 3-6 tuổi), lứa tuổi này trẻ
em đã tiếp nhận được báo chí, nhất là truyền hình. Trẻ thích xem những gì mới, lạ và bắt
chước lời nói, hành động của nhân vật. Các em chưa phân biệt lợi - hại, tốt - xấu. Giai đoạn
đi học (từ 6-tuổi dậy thì) các em đã nhận thức được ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết và hình
ảnh đa dạng hơn. Vì thế, các em có khả năng tiếp cận và chịu ảnh hưởng từ báo chí, nhất là
truyền hình. Hiện nay, trẻ em từ 6 tuổi trở lên đã tiếp cận được với báo chí như đọc báo,

nghe phát thanh, xem truyền hình, truy cập internet. Ngoài ra, các em có khả năng tham gia
sản xuất báo chí, ví dụ như tham gia các chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi. Đặc
biệt, các em đã nhận thức, nhận xét sau khi xem xong bộ phim hoạt hình, các em có thể
nhận xét hay hay dở; nhân vật trong bộ phim có hành vi tốt hay xấu.
Trong xã hội thông tin, mọi thông tin đến rất nhanh và đi cũng rất nhanh. Mối quan
tâm của các tầng lớp công chúng được trãi rộng trên rất nhiều luồng thông tin khác và trên
các phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Bên cạnh đó,
“Xã hội Việt Nam đang chuyển đổi mạnh mẽ, mối quan tâm của công chúng
với những vấn đề khác với trước kia họ thường quan tâm do những định hướng
và các mối quan tâm về lợi ích khác nhau. Các nhóm công chúng cũng được
chia nhỏ và trở nên đa dạng”.
Vì vậy, hiện nay, mỗi kênh thông tin đại chúng, cụ thể là báo chí có xu hướng phục vụ
cho một hoặc một số đối tượng công chúng nhất định. Thực tế chứng minh, ngày càng có
nhiều sản phẩm báo chí mới ra đời phục vụ cho từng nhóm công chúng được chia nhỏ theo
giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, vùng miền, quốc tịch, dân tộc…
Có thể thấy những nét riêng có của nhóm công chúng trẻ em thông qua những phân
tích chung nhất về đặc điểm về sự phát triển nhận thức và nhân cách của các em như đã nói


15
trên. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về công chúng báo chí trẻ em là đối tượng mà

báo chí hướng vào để tác động, nhằm lôi kéo, thu phục họ vào phạm vi ảnh
hưởng của mình. Đồng thời, công chúng trẻ em còn tương tác trở lại, giám
sát, quyết định vai trò, vị thế xã hội của sản phẩm báo chí - truyền thông. Sự
tiếp cận các đề tài liên quan tới trẻ em như các sự kiện, hiện tượng xung
quanh cuộc sống của các em, trong gia đình, ngoài nhà trường và cộng đồng
xã hội đều được báo chí đề cập. Những thông tin được cung cấp cho các em
không chỉ mang tính giải trí, làm phong phú cho đời sống tinh thần của các
em, đáp ứng được nhu cầu thông tin phù hợp với trẻ em mà còn có tác dụng

giáo dục rất tích cực về ứng xử trong cuộc sống, những kỹ năng cần thiết của
trẻ thông qua những tác phẩm báo chí. Hiện nay, cùng với nhận thức về quyền
trẻ em của cộng đồng và chính bản thân trẻ em đang có những bước cải thiện
đáng kể thì công chúng trẻ em không chỉ là đối tượng hưởng thụ các sản
phẩm báo chí dành cho lứa tuổi mình mà các em còn trực tiếp tham gia sáng
tạo các tác phẩm đó. “Điểm tạo ra sự khác biệt giữa trẻ em và người lớn, và
các em trở thành nhóm đối tượng đặc thù, rất quan trọng của báo chí là ở
chỗ: trẻ em là những con người đang ở giai đoạn phát triển cả về thể lực và
tâm sinh lý” [5, tr.217].
Ngoài ra, so với các nhóm công chúng khác thì: “Trẻ em luôn có thế giới riêng của
mình, cả về thể chất, tâm - sinh lý, nhận thức, văn hoá cùng với nhu cầu, nguyện vọng và
cách thể hiện chúng” [5, tr.217].
Như vậy, trẻ em còn được xem là nhóm công chúng xã hội đặc thù.
1.1.2. Chương trình truyền hình thiếu nhi
Báo chí Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự giám
sát và xây dựng của nhân dân. Ngay tại điều 1, Luật Báo chí ban hành ngày 2.1.1989 đã
khẳng định: “Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin
đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của
Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội (dưới đây gọi chung là tổ chức); là diễn đàn của
nhân dân”.
Tại điều 3, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1999, quy định:


16
Báo chí gồm báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn); báo nói (chương
trình phát thanh); báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe - nhìn thời sự
được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau); báo điện tử (được thực hiện trên
mạng thông tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước
ngoài [7, tr.212].
Báo chí vừa là công cụ tích cực, hữu hiệu trong việc truyền bá sản phẩm văn hóa, vừa

là địa chỉ hội tụ và kiểm nghiệm những giá trị văn hóa. Sức mạnh và ưu thế của báo chí
trong việc truyền bá, phổ biến các sản phẩm văn hóa - giải trí là thông qua hoạt động này
để cùng lúc đạt hai mục đích: giáo dục chính trị - tư tưởng và giáo dục đạo đức, thẩm mỹ
cho công chúng, hướng công chúng tới chân - thiện - mỹ, làm phong phú và giàu có đời
sống tinh thần của họ. Vì vậy, có thể nói, báo chí là thước đo tầm cao của văn hóa, là công
cụ để truyền bá, hướng dẫn và lưu giữ các nội dung và giá trị văn hóa và bản thân báo chí
cũng là văn hóa.
Bên cạnh chức năng giáo dục tư tưởng và quản lý, giám sát xã hội, phát triển văn hóa
và giải trí là một trong những chức năng khách quan của báo chí. Báo chí là kênh truyền
bá, phổ biến một cách sinh động, hấp dẫn các loại hình và tác phẩm văn hóa - văn nghệ để
nâng cao trình độ hiểu biết và đáp ứng nhu cầu văn hóa - giải trí của nhân dân. Thực hiện
chức năng này, báo chí quan tâm hàng đầu đến những giá trị văn hóa - nhân văn. Đó là phổ
biến tác phẩm văn học, nghệ thuật, âm nhạc, điêu khắc, hội họa, kiến trúc… Đây là điều
kiện quan trọng để đại chúng hóa các giá trị văn hóa, tinh thần tốt đẹp của dân tộc và nhân
loại, giúp cho mọi thành viên của xã hội không ngừng bổ sung vốn tri thức, làm phong phú
thêm đời sống tinh thần của mình.
Đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng của xã hội, làm phong phú thêm nội dung
thông tin của báo chí và đáp ứng nhu cầu thiết thực của nhân dân, báo chí còn thực hiện
chức năng quảng cáo, dịch vụ, chỉ dẫn, dự báo thời tiết, giá cả thị trường… Qua những
hoạt động này, báo chí có thể giúp công chúng tìm kiếm những hàng hóa và dịch vụ cần
thiết, tiết kiệm thời gian và mang lại không ít lợi ích kinh tế cho người dân. Đồng thời
truyền bá phong tục, tập quán, đạo đức, lối sống của một dân tộc.
Với các chức năng trên, báo chí không ngừng tác động đến tư tưởng, tình cảm, đạo
đức, nhân cách, lối sống của con người, trong mối quan hệ mọi lĩnh vực đời sống xã hội, từ
chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội trên bình diện cộng đồng cũng như hình thành nhân
cách cá nhân, trong đó có trẻ em.


17
Theo cách hiểu thông thường từ trước đến nay, chúng ta thường hiểu trẻ em đơn thuần

là đứa trẻ nhỏ. Cũng trong độ tuổi trẻ em, ta thường gặp những cách gọi quen thuộc: Thiếu
niên, thiếu nhi, nhi đồng… Điều lệ Đội TNTP Hồ Chí Minh quy định độ tuổi của thiếu
niên là từ 9 đến 14 tuổi. Theo quy định của Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, trẻ
em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi. Theo công ước quốc tế từ mới sinh đến 16 tuổi
được coi là độ tuổi của trẻ em. Trong độ tuổi này có một mốc quan trọng: 6 tuổi - tuổi bắt
đầu đến trường. Vì vậy trước 6 tuổi được coi là trước tuổi học và sau 6 tuổi được coi là
tuổi đến trường. Tâm lý học cũng coi 6 đến 16 tuổi là tuổi thiếu nhi, bao gồm tuổi nhi đồng
(6- 10 tuổi) và thiếu niên (11 đến 16 tuổi).
Thiếu nhi là một giai đoạn phát triển đặc thù trong độ tuổi trẻ em và có ý nghĩa quan
trọng trong cuộc đời mỗi người.

Chương trình truyền hình thiếu nhi
Báo chí nói chung là những sản phẩm báo chí (báo in, báo hình, báo nói, báo điện
tử…) được sản xuất ra để phục vụ nhu cầu người đọc, người nghe, người xem. Mỗi loại

hình truyền thông đại chúng đều có những đặc thù riêng. Nếu chỉ xét trên
phương diện quá trình làm ra một tác phẩm, ở báo in mỗi tác phẩm, mỗi bài báo
có thể là sản phẩm riêng, là sự sáng tạo riêng của mỗi cá nhân, mỗi nhà báo.
Nhưng để sáng tạo một tác phẩm truyền hình còn công phu hơn nhiều, đó là một
đứa con tinh thần của cả một tập thể, đạo diễn, biên kịch và những người làm kỹ
thuật, sản phẩm đó thể hiện ý kiến thống nhất của từng thành viên trong đoàn
làm phim, giữa người biên tập và người quay phim. Chương trình truyền hình là
sự liên kết, sắp xếp bố trí hợp lý các tin bài, bảng tư liệu, hình ảnh, âm thanh
trong một thời gian nhất định được mở đầu bằng lời giới thiệu, nhạc hiệu, kết
thúc bằng lời chào tạm biệt, đáp ứng yêu cầu tuyên truyền của cơ quan báo chí
truyền hình nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho khán giả.
Báo chí cho trẻ em được sản xuất ra để phục vụ nhu cầu đọc, nghe, xem của đối tượng
chính là trẻ em với mục đích định hướng, giáo dục thẩm mỹ, hình thành nhân cách cho trẻ
thông qua việc cung cấp những thông tin bổ ích, hỗ trợ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm
sống, tạo môi trường vừa giải trí vừa học tập cho các em, giúp các em phát triển toàn diện

về thể chất lẫn tinh thần. Hay nói cụ thể hơn, báo chí cho trẻ em là những ấn phẩm, các
chương trình truyền hình, chương trình phát thanh dành cho trẻ em.


18
Truyền hình cho thiếu nhi gồm các nhóm sản phẩm sau đây:
- Nhóm sản phẩm truyền hình tăng cường giáo dục gia đình: Cụ thể là các chương trình
truyền hình cung cấp kiến thức về mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa trách nhiệm
bảo vệ chăm sóc và giáo dục của cha mẹ đối với con cái và nghĩa vụ của con cái đối với
cha mẹ.
- Nhóm sản phẩm truyền hình tác động vào quá trình học tập và rèn luyện của thiếu nhi
trong nhà trường: Đó là các chương trình truyền hình ra đời dựa trên sự phối hợp với
ngành giáo dục để tác động theo chiều rộng, chiều sâu quá trình học tập, tiếp thu tri thức
của thiếu nhi.
- Nhóm sản phẩm truyền hình theo sát những mục tiêu cụ thể của chính sách chăm sóc,
giáo dục trẻ em trong toàn xã hội:
Truyền hình cho thiếu nhi hiện nay gồm các mảng nội dung chính sau:
- Nội dung mang tính giải trí: trên truyền hình gồm phim (phim hoạt hình và phim thiếu
nhi), văn nghệ (ca nhạc, kịch, kịch rối, hoạt cảnh thiếu nhi, múa rối), trò chơi truyền hình.
- Nội dung cung cấp kiến thức khoa học - đời sống: những kiến thức phổ thông trong
nhà trường và xã hội giúp trẻ em mở rộng sự hiểu biết của mình về thế giới xung quanh
như: kiến thức về động vật, thực vật; tâm lý trẻ em; cách thức học tập, chăm sóc sức khỏe
cho trẻ em …
- Nội dung chia sẻ kỹ năng, kinh nghiệm sống: giới thiệu những gương mặt điển hình
người tốt - việc tốt; những bài học kinh nghiệm; mô hình hoạt động hiệu quả; tư vấn giải
quyết tình huống trong cuộc sống xung quanh trẻ em (bạn bè, nhà trường, gia đình và xã
hội).
Như vậy, chương trình truyền hình thiếu nhi là một tác phẩm báo chí cụ thể, riêng lẻ
dành cho công chúng thiếu nhi. Đó là những chương trình chỉ dành để phản ánh hoặc
truyền tải thông điệp hay thông tin nào đó về một vấn đề cụ thể của thiếu nhi liên quan và

tác động vào nhận thức và hành vi của đối tượng này. Trong xu hướng hiện nay, với mục
đích đem lại những gì tốt đẹp nhất cho thiếu nhi, truyền hình cho thiếu nhi không chỉ tác
động đến thiếu nhi mà còn tác động đến người lớn (chủ yếu là các bậc cha mẹ, thầy cô)
thông qua việc cung cấp những kiến thức về tâm lý trẻ em, cách chăm sóc, giáo dục các
em… để định hướng, nâng cao nhận thức và hành vi cho cha mẹ, thầy cô trong việc bảo vệ
chăm sóc và giáo dục các em
Đặc biệt, truyền hình và thiếu nhi có mối quan hệ gắn kết với nhau. Thiếu nhi là đối
tượng phản ánh của truyền hình. Thiếu nhi là công chúng của truyền hình, là đối tượng tiếp


×