Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

tiểu luận Lý thuyết kinh tế nền tảng cho lý luận về kinh tế báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.84 KB, 28 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ TRUYÊN TRUYỀN
Khoa Báo Chí
***

TIỂU LUẬN
Đề tài: Lý thuyết kinh tế - nền tảng cho lý
luận về kinh tế báo chí

Học viên: Trần Thị Phương Lan
Lớp Cao học Báo chí K17


2

Hà Nội -2012
MỞ ĐẦU
Kinh tế là một lĩnh vực lâu đời và là nền móng cho sự phát triển của
một xã hội. Xét về quan điểm hệ thống, cùng với kinh tế, báo chí cũng là một
tiểu hệ thống cấu thành nên hệ thống xã hội nói chung. Vì mối quan hệ trong
cùng một hệ thống mẹ nên báo chí và kinh tế có sự ràng buộc, chi phối lẫn
nhau và vận động trong những điều kiện lịch sử xác định.
Mối giao thoa, tương tác giữa kinh tế và báo chí là không thể tránh khỏi
bởi nếu không có kinh tế làm tiền đề vật chất thì báo chí truyền thông cũng
khó lòng tạo được những cú “hích” đột phá mới mẻ, phát triển thành một lĩnh
vực nóng hổi, linh hoạt phản ánh được mọi mặt, mọi vận động của cuộc
sống. Và ngược lại, báo chí cũng là “nhiệt kế khổng lồ” của nền kinh tế, đo
đạc, thể hiện những bước thăng trầm của những chuyển động kinh tế diễn
trong từng khu vực, từng mặt trận của đời sống xã hội.
Có thể nói những chuyển động kinh tế trong khu vực báo chí diễn ra
chậm hơn nhiều so với các khu vực kinh doanh, sản xuất của xã hội. Những
năm 90, khi quan hệ thị trường đã được khẳng định rõ ràng và trở thành đòi


hỏi trong quản lý, phát triển của các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh
tế, thì hầu như các cơ quan báo chí truyền thông còn quá lạ lẫm với vấn đề tự
chủ tài chính. Họ vẫn thụ động ngóng chờ nguồn dinh dưỡng nuôi cơ thể từ
Nhà nước rót về thông qua chế độ bao cấp bấy lâu nay và hoạt động thuần túy
với chức năng công cụ tuyên truyền trên mặt trận tư tưởng văn hoá, có trách
nhiệm tuyên truyền, định hướng của Đảng, Nhà nước và đoàn thể đến người
dân.. Chính thói quen đó đã khiến cho các cơ quan báo chí thiếu đi sự năng
động, linh hoạt trong việc điều hành vận động bộ máy làm việc của mình,
bào mòn sự sắc nhọn khi phản ảnh, đấu tranh, phản biện những vấn đề nhạy
cảm cũng như sự đa dạng muôn màu muôn sắc của đời sống xã hội. Tuy


3

nhiên, trong xu thế sự phát triển chung, một thế mới đang mở ra: bên cạnh
những báo đài vẫn được bao cấp hoàn toàn hoặc một phần, một số cơ quan
truyền thông đã tự làm dịch vụ kinh doanh, theo cơ chế "lãi hưởng lỗ chịu",
cung cấp cho xã hội những thông tin theo xu hướng kinh doanh, giải trí... Số
lượng ngày càng tăng của các cơ quan báo chí truyền thông đã hoàn toàn tự
chủ về tài chính, tự đảm bảo được nguồn lực kinh tế - kỹ thuật cho các hoạt
động nghiệp vụ cũng như khả năng mở rộng quy mô sản phẩm và khả năng
ảnh hưởng đã khiến cho người ta phải có suy nghĩ nghiêm túc khi thừa nhận
báo chí truyền thông cũng là một ngành kinh tế.
Việc nhìn nhận nghiêm túc, báo chí truyền thông là một ngành kinh tế,
thậm chí là ngành kinh tế mũi nhọn đã được nhiều nước có nền truyền thông
phát triển như Anh, Mỹ, Thụy Điển... đưa ra và chú trọng đầu tư nghiên cứu.
Tuy nhiên ở Việt Nam, lĩnh vực này vẫn còn sơ khai và chưa được đi sâu
nghiên cứu một cách hệ thống và bài bản. Trong sự phát triển kinh tế mạnh
mẽ hiện nay, việc nghiên cứu, phổ biến những kiến thức cơ bản về kinh tế
truyền thông một cách có hệ thống cần đặc biệt quan tâm nhất là trong đào tạo

báo chí nói chung, và trong các cơ quan báo chí, truyền thông nói riêng. Bởi
nếu được trang bị đầy đủ hành trang kiến thức lý luận của kinh tế báo chí,
chắc chắn sẽ tạo thêm sức mạnh tự chủ, linh hoạt trong hoạt động quản lý,
kinh doanh báo chí truyền thông, kích thích sự cạnh tranh, sáng tạo, góp phần
thúc đẩy nền báo chí phát triển vững mạnh hơn nữa.
Những cơ sở lý luận của kinh tế báo chí truyền thông trước hết phải
xuất phát từ những lý luận cơ bản của kinh tế với những học thuyết mang giá
trị thực tiễn cao. Mục đích của tiểu luận này trước hết xác định những khái
niệm cơ bản về mặt lý thuyết của lĩnh vực kinh tế bởi nó có liên quan mật
thiết, đóng vai trò nền tảng cho việc xây dựng cơ sở lý luận, đánh giá thực
trạng của kinh tế báo chí truyền thông hiện nay. Tiếp đó, trên cơ sở những lý
thuyết cơ bản về kinh tế, tiểu luận đưa ra những hiểu biết tổng quan về lý


4

thuyết kinh tế báo chí và một số giải pháp cho vấn đề kinh tế báo chí hiện
nay. Do đó, tiểu luận được xây dựng theo cấu trúc sau:
Chương I: Những lý thuyết kinh tế cơ bản
Chương II: Tổng quan về kinh tế báo chí truyền thông
Chương III: Một số phương hướng nghiên cứu kinh tế báo chí truyền thông.


5

CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ THUYẾT KINH TẾ CƠ BẢN
1.

Kinh tế là gì?
Khái niệm kinh tế đề cập đế các hoạt động của con người có liên quan


đến sản xuất, phân phối, trao đổi, và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên
định nghĩa về kinh tế đã thay đổi theo lịch sử các hoạt động kinh tế cũng như
theo từng khu vực đại lý khác nhau.
Ở phương Đông, nguyên nghĩa của khái niệm này là "kinh bang tế thế",
chủ yếu đề cập đến các công việc mà một vị vua phải đảm nhiệm: chăm lo đời
sống vật chất của bề tôi, chăm lo đời sống tinh thần của cộng đồng. KINH trong
KINH BANG- trị nước và TẾ trong TẾ THẾ- giúp đời! (chữ này là do vua Minh
Trị của Nhật đã yêu cầu dịch ra từ tiếng Latinh, nhờ chữ này mà Minh Hoàng lôi
kéo được tầng lớp tri thức Nho giáo đi kinh doanh, buôn bán và làm giàu). Có
thể thấy rằng, từ lâu, những người trị vì đất nước đã ý thức sâu sắc vai trò của
việc sản xuất vất chất không chỉ đáp ứng nhu cầu đời sống của quần chúng mà
còn thể hiện được sức mạnh, tiềm lực của một đất nước. Tất nhiên những khái
niệm kinh tế thời kỳ này vẫn ở mức sơ khai, nguyên thủy.
Ở phương Tây, Adam Smith, cha đẻ của môn kinh tế, định nghĩa từ
"kinh tế" trong cuốn sách nổi tiếng Wealth of Nations (Sự giàu có của các
quốc gia) của ông là: Khoa học học gắn liền với những qui luât về sản xuất,
phân phối và trao đổi. Ông cho rằng "sự giàu có" chỉ xuất hiện khi con người
có thể sản xuất nhiều hơn với nguồn lực lượng lao động và tài nguyên sẵn có.
Như vậy từ định nghĩa trên ta thấy Adam Smith đã hiểu được bản chất của
kinh tế nhưng hiểu chưa đầy đủ và trọn vẹn bởi kinh tế là sự tổng hòa của của
nhiểu yếu tố khác nhau không chỉ là sản xuất, phân phối, trao đổi mà còn liên
quan đến sự lưu thông, các điều kiện sống ảnh hưởng tới quá trình hoạt động
kinh tế, tiêu thụ sản phẩm và đặc biệt là vấn đề sở hữu và lợi ích kinh tế...


6

Từ điển mở Wikipedia lại cho rằng kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ
tương tác lẫn nhau của con người và xã hội liên quan trực tiếp đến việc sản

xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ,
nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người trong một xã hội với
một nguồn lực có giới hạn. Đây có thể nói là quan niệm tương đối đầy đủ và
mang tính khái quát cao. Quan niệm trên đã cho thấy rõ kinh tế không chỉ là
đơn thuần là sự sản xuất tạo nên sự giàu có mỗi cá nhân, giai cấp, quốc gia
như Adam Smith đề cập mà là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện
sống của con người, các mỗi quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản
xuất xã hội.
Về định nghĩa từ kinh tế, xét theo bản chất, làm kinh tế là người ta cố
gắng thực hiện những công việc để sử dụng hiệu quả nguồn lực sẵn có của
mình (tiền, sức khoẻ, tài năng bẩm sinh, và nhiều tài nguyên khác) để tạo ra
những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của nhân loại. Từ đó tạo ra của cải vật
chất cho chính mình.
Như vậy, kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của
con người, các mỗi quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Nói đến kinh tế suy cho cùng là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích.
Hoạt động kinh tế là bất kỳ hoạt động nào mà sử dụng hiệu quả các
nguồn lực sẵn có của mình để tạo ra những sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ),
đem trao đổi và thu được một giá trị lớn hơn cái mà mình đã bỏ ra.
2.

Khái niệm hàng hóa
Trong kinh tế chính trị Mác - Lênin, hàng hóa cũng được định nghĩa là

sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông
qua trao đổi, mua bán.
Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực
phẩm… hoặc ở dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch
vụ của giáo viên, bác sỹ, nghệ sỹ.



7

C.Mác định nghĩa hàng hóa trước hết là đồ vật mang hình dạng có khả
năng thỏa mãn nhu cầu con người nhờ vào các tính chất của nó. Để đồ vật trở
thành hàng hóa cần phải có:
*Tính ích dụng đối với người dùng
* Giá trị (kinh tế), nghĩa là được chi phí bởi lao động
* Sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm
Như vậy có thể khái quát định nghĩa hàng hóa như sau: Hàng hóa là
sản phẩm của lao động có giá trị kinh tế, có tính ích dụng với người dùng
nhằm mục đích làm thỏa mãn nhu cầu của con người thông qua phương pháo
trao đổi, mua bán.
Thuộc tính của hàng hóa có những đặc điểm cơ bản sau: Hàng hóa là
một loại sản phẩm của lao động; hàng hóa được sản xuất để trao đổi, tiêu
dùng với những mục đích nhất định; hàng hóa phải bao gồm song hành giá trị
và giá trị sử dụng; hàng hóa trong các hình thái xã hội khác nhau thể hiện
được các quan hệ sản xuất khác nhau.
3.

Sản xuất hàng hóa
Có quan niệm cho rằng, sản xuất hàng hóa là sản xuất ra những vật

phẩm để trao đổi thông qua thị trường trước khi đi vào lĩnh vực tiêu dùng.
Quan niệm này đúng nhưng chưa đủ bởi chưa nhấn mạnh được sản xuất hàng
hóa là một quá trình trong đó có nhiều khâu, nhiều giai đoạn khác nhau của
một tổ chức kinh tế với mục đích đáp ứng nhu cầu và thu lợi nhuận.
Trong kinh tế chính trị Mac – Lê nin, sản xuất hàng hóa là một khái
niệm dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra
không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất

ra nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao
đổi, mua bán. Hay nói một cách khác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh
tế mà sản phẩm sản xuất ra là để bán.
Ra đời từ hai tiền đề: phân công lao động xã hội và sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất. Tuy tồn tại từ rất lâu trong lịch sử, từ khi xã hội công xã


8

nguyên thuỷ tan rã, nhưng chỉ đến khi xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, khi sức lao động trở thành hàng hoá thì sản xuất hàng hóa mới trở
thành phương thức thống trị trong xã hội. Sản xuất hàng hóa là một hình thái
sản xuất tiến bộ so với sản xuất tự cung, tự cấp, thể hiện trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, vẫn còn sản xuất hàng hóa. Ở những
nước đi từ một nền kinh tế lạc hậu, mang nặng tính tự cấp, tự túc, tiến lên chủ
nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, quá trình phát
triển kinh tế nhất thiết phải là quá trình phát triển sản xuất hàng hóa.
Ở Việt Nam, đường lối, chính sách xây dựng chủ nghĩa xã hội được xác
định rõ là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, và theo định hướng xã hội chủ
nghĩa được gọi là sản xuất hàng hoá XHCN.
4.

Giá trị sử dụng của hàng hoá
Là công dụng hay tính có ích của hàng hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu nào

đó của con người như nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt, nhu cầu sản xuất, nhu cầu
vật chất, nhu cầu tinh thần,,,
Ví dụ: công dụng của một cái kéo là để cắt nên giá trị sử dụng của nó là

để cắt; công dụng của bút để viết nên giá trị sử dụng của nó là để viết.
Một hàng hóa có thể có một công dụng hay nhiều công dụng nên nó có
thể có nhiều giá trị sử dụng khác nhau.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ thì giá trị sử dụng cũng
được phát hiện ra nhiều hơn, chủng loại giá trị sử dụng cũng ngày càng phong
phú, chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.
Giá trị sử dụng của hàng hóa do những thuộc tính lý, hóa quy định nên
nó là một phạm trù vĩnh viễn.
Là vật mang giá trị trao đổi cao.
Là giá trị sử dụng của xã hội vì: giá trị sử dụng cuả hàng hóa không
phải là giá trị sử dụng của người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho
xã hội, thông qua trao đổi, mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa


9

phải luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp
ứng đươc nhu cầu của xã hội thì hàng hóa của họ mới bán được.
5.

Giá trị hàng hóa
Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng.là tỷ lệ trao đổi lẫn nhau

giữa những giá trị trao đổi khác nhau. Khi đưa ra ngoài thị trường để trao đổi,
mua bán thì giá trị của hàng hóa thể hiện qua giá trị trao đổi hay giá cả của
hàng hóa.
Giá trị của hàng hóa do lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa
kết tinh trong hàng hóa đó. Do đó, giá trị là cơ sở, là nội dung bên trong, còn
giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bên ngoài. Giá rị hành hóa biểu hiện mối
quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa và là một phạm trù lịch sử chỉ

tồn tại trong kinh tế hàng hóa.
6.

Kinh tế hàng hóa
Kinh tế hàng hóa là một hình thái của nền sản xuất xã hội nối tiếp và

cao hơn nền sản xuất tự cung tự cấp, trong đó sản phẩm được sản xuất ra để
trao đổi thông qua mua - bán trên thị trường; hình thái quan hệ kinh tế thống
trị của các mối liên hệ kinh tế là quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Nó đối lập với
kinh tế tự nhiên, trong đó hình thái thống trị là các quan hệ hiện vật.
Theo Các Mác, kinh tế hàng hóa là một giai đoạn phát triển nhất định
trong lịch sử phát triển của xã hội theo tiến trình: kinh tế tự nhiên - kinh tế
hàng hoá - kinh tế sản phẩm. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu
của chủ nghĩa cộng sản về tổng thể là một nền kinh tế hàng hóa. Điều kiện
chung của tồn tại sản xuất hàng hoá là phân công lao động xã hội và sự tách
biệt (độc lập) kinh tế giữa những người sản xuất.


10

Đặc trưng chung của kinh tế hàng hóa trong bất kì chế độ xã hội nào là
sự tồn tại hình thái giá trị và thị trường, trong đó giá trị của hàng hoá - lượng
lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó, được đo bằng tiền tệ và
mang hình thái giá cả; quy luật đặc trưng của sản xuất hàng hoá là quy luật
giá trị, và những quy luật liên quan như quy luật cung cầu, quy luật lưu thông
tiền tệ, quy luật hàng hoá được trao đổi theo nguyên tắc ngang giá.
7.

Thị trường
Thị trường được định nghĩa khác nhau bởi các cách tiếp cận và mục


đích nghiên cứu khác nhau. Thoạt đầu người ta hiểu thị trường là nơi (địa
điểm) mà người mua và người bán tụ họp để thực hiện hành vi trao đổi.
Các nhà kinh tế mô tả thị trường là tổng thể các mối quan hệ mua bán
trao đổi sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Các nhà Marketing thì lại cho rằng:
Thị trường là tập hợp người mua và tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp.
Như vậy, thị trường là lĩnh vực trao đổi, mua bán mà ở đó các chủ thể
kinh tế tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa,
dịch vụ.
Thị trường báo chí hàng trăm năm nay đã rất sôi động ở tất cả các
nước. Ở nước ta, 20 năm đổi mới, báo chí đã có sự phát triển đa dạng phong
phú về số lượng và chất lượng. Có thể nói, ở nước ta đã hình thành một thị
trường báo chí. Nói thị trường báo chí là nói chuyện “lấy báo nuôi báo”.
8.

Khách hàng
Khách hàng là những cá nhân hay tổ chức có nhu cầu mua, tiêu dùng

sản phẩm của doanh nghiệp. Như vậy, khách hàng là đối tượng phục vụ của
doanh nghiệp.


11

Có thể nói rằng, chúng ta đang sống trong nền kinh tế khách hàng. Ở đó,
khách hàng là “vua”. Các công ty đứng trước sự khan hiếm khách hàng, họ đã và
đang chuyển tiêu điểm từ tạp sản phẩm sang tiêu điểm sở hữu khách hàng. Các
công ty thức tỉnh và nhận ra “có một ông chủ của họ” đó là khách hàng.
Khách hàng là “tài sản đặc biệt” mà công ty phải luôn trân trọng và gìn
giữ. Tuy nhiên, “tài sản” này lại không được ghi giá trị tài chính trong sổ sách

tài chính của công ty.
9.

Giá trị khách hàng
Giá trị khách hàng là một tổ hợp chất lượng, giá cả, sự thuận lợi, các

dịch vụ hỗ trợ…mà doanh nghiệp mang lại cho khách hàng mục tiêu của
mình. Giá trị khách hàng là sự thỏa mãn các yêu cầu của khách hàng với
mức chi phí có thể chấp nhận để sở hữu và sử dụng sản phẩm.
Giá trị khách hàng bao gồm cả giá trị mua sắm và giá trị tiêu dùng.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp chính là cạnh tranh giá trị khách hàng. Các
doanh nghiệp đều phải nỗ lực rất cao để cung ứng những giá trị ưu việt nhất,
tối ưu nhất cho khách hàng.
Giá trị khách hàng trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, trong thế giới
phẳng là một thách thức rất lớn. Nếu bạn không bán một sản phẩm với chất
lượng dẫn đầu, với giá trị thấp nhất thế giới thì bạn sẽ bị đẩy khỏi cuộc chơi.
Giá trị khách hàng tùy thuộc vào nhận thức và nếu không đảm bảo một nhận
thức đúng và thống nhất trong toàn bộ doanh nghiệp thì không thể thắng trong
cạnh tranh.
10.

Sản phẩm


12

Sản phẩm là tất cả những gì mà doanh nghiệp có thể mang ra trao đổi
nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, cung ứng lợi ích cho khách hàng,
được khách hàng mua và tiêu dùng.
Sản phẩm có thể tồn tại dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể. Sản phẩm là

cho khách hàng, vì khách hàng.
Giáo sư Theodore Levitt của ĐH Harvard đã nói: “Một sản phẩm và là
một sản phẩm chỉ khi nó ăn khách. Bằng không nó đơn thuần là một mẫu vật
của viện bảo tang”.
Người Nhật phát biểu về sản phẩm như sau:
-

Zero thời gian phản hồi khách hàng: Luôn có thông tin sớm nhất về
phản hồi khách hàng

11.

-

Zero thời gian cải tiến sản phẩm: Liên tục cải tiến sản phẩm

-

Zero hàng tồn kho: Tồn kho càng ít càng tốt

-

Zero khuyết tật: Không được có sản phẩm khuyết tật.

Sự hài lòng của khách hàng
Sự hài lòng của khách hàng là sự thỏa mãn những kỳ vọng của khách

hàng. Có 4 yếu tố tạo nên mức độ kỳ vọng thỏa mãn:
-


Sự chính xác: Đáp ứng đúng nhu cầu của khách hàng

-

Sự sẵn sang: Khi cần là có thể mua được

-

Tính hợp tác: Lắng nghe và chia sẻ trách nhiệm với khách hàng

-

Sự chân thành: Trung thực, tư vấn đúng cho khách hàng


13

Cạnh tranh là một trong những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế
truyền thông. Cạnh tranh khiến các tập đoàn, công ty truyền thông chú
trọng đầu tư vào chất lượng, hạ giá thành… làm sao để có thể thu hút được
nhiều công chúng.
Trong nền kinh tế truyền thông, công chúng được phục vụ tốt hơn, có
được nhiều sự lựa chọn hơn. Độc giả có thể chọn cho mình những tờ báo với
nội dung thông tin tốt, phân tích, bình luận sâu và giá cả hợp lý. Khán giả
truyền hình có thể chọn lựa kênh, đài truyền hình mình yêu thích… với chất
lượng phục vụ tốt và giá cả thấp.
12.

Kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế dựa trên nền sản xuất hàng hoá phát


triển, và hoạt động theo cơ chế thị trường ra đời từ trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Nói cách khác, kinh tế thị trường là một hình thái kinh tế hàng hóa, mọi
hàng hóa được trao đổi ngang giá thông qua hàng hóa trung gian nào đó (có
thể là súc vật, lúa, vàng, bạc hay tiền giấy). Khi con người ở các vùng miền
thoát khỏi tình trạng sản xuất kiểu tự cung tự cấp, họ biết chuyên môn hóa
trong sản xuất, họ biết phân công lao động, họ biết khai thác những lợi thế so
sánh thì đã xuất hiện mô hình kinh tế hàng hóa – kinh tế thị trường. Lúc này,
người dân ở các vùng miền khác nhau, có những sản phẩm lao động khác
nhau sẽ đem ra thị trường (chợ) để trao đổi nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng
của cuộc sống.
13.

Lợi nhuận


14

Trong kinh tế học, lợi nhuận là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm
nhờ đầu tư sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả
chi phí cơ hội; là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí.
Trong kế toán, lợi nhuận là phần chênh lệch giữa giá bán và chi phí sản
xuất. Sự khác nhau giữa định nghĩa ở hai lĩnh vực là quan niệm về chi phí.
Trong kế toán, người ta chỉ quan tâm đến các chi phí bằng tiền, mà không kể
chi phí cơ hội như trong kinh tế học. Trong kinh tế học, ở trạng thái cạnh
tranh hoàn hảo, lợi nhuận sẽ bằng 0. Chính sự khác nhau này dẫn tới hai khái
niệm lợi nhuận: lợi nhuận kinh tế và lợi nhuận kế toán.
Lợi nhuận kinh tế lớn hơn 0 khi mà chi phí bình quân nhỏ hơn chi phí
biên, cũng tức là nhỏ hơn giá bán. Lợi nhuận kinh tế sẽ bằng 0 khi mà chi phí

bình quân bằng chi phí biên, cũng tức là bằng giá bán.Trong điều kiện cạnh
tranh hoàn hảo (xét trong dài hạn), lợi nhuận kinh tế thường bằng 0. Tuy
nhiên, lợi nhuận kế toán có thể lớn hơn 0 ngay cả trong điều kiện cạnh tranh
hoàn hảo.
Một doanh nghiệp trên thị trường muốn tối đa hoá lợi nhuận sẽ chọn
mức sản lượng mà tại đó doanh thu biên bằng chi phí biên. Tức là doanh thu
có thêm khi bán thêm một đơn vị sản phẩm bằng phần chi phí thêm vào khi
làm thêm một đơn vị sản phẩm. Trong cạnh cạnh tranh hoàn hảo, doanh thu
biên bằng giá. Ngay cả khi giá thấp hơn chi phí bình quân tối thiểu, lợi nhuận
bị âm. Tại điểm doanh thu biên bằng chi phí biên, doanh nghiệp lỗ ít nhất.
14.

Khái niệm tiền tệ
Tiền tệ là một phạm trù kinh tế nhưng cũng lại là một phạm trù lịch sử.

Sự xuất hiện của tiền tệ là một phát minh vĩ đại của loại người trong lĩnh vực
kinh tế, nó có tác dụng thúc đẩy nhanh chóng các hoạt động giao lưu kinh tế,
làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội.


15

Trong kinh tế chính trị của các nước phương Tây hình thành nên hai
trường phái:
Một truờng phái cho rằng tiền tệ ra đời là kết quả tất yếu khách quan
của quá trình trao đổi hang hóa (Trường phái kinh tế chính trị học cổ điển
như: Adam Smith, David Ricardo…)
Trường phái thứ hai giải thích sự xuất hiện của tiền như là một sự kiện
có tính chất tâm ly (như hai nhà tâm ly học W.Gherlop và Smondest). Họ cho
rằng: “Nguồn gốc của tiền tệ không nằm trong quá trình trao đổi hàng hóa mà

do lòng ham muốn hiểu biết và nhu cầu làm đẹp là bản tính của đàn bà. Còn
bản tính của đàn ông lại là danh vọng, và sự ham muốn có nhiều tiền”
Lần đầu tiên, C.Mác vận dụng phương pháp duy vật biện chứng
nghiên cứu các hiện tượng kinh tế. Ông đã nghiên cứu sự phát triển của
các hình thái trao đổi từ hình thái trao đổi ngẫu nhiên đến quá trình trao
đổi hàng hóa sử dụng tiền tệ, từ đó ông xác định bản chất của tiền tệ cũng
như sự ra đời của nó.
C.Mác cho rằng: Tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt, được tách ra
khỏi thế giới hàng hoá, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các
loại hàng hoá khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan
hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.
Kết luận: Tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của
nền kinh tế hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Tiền tệ
được định nghĩa là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán
để nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ. Sự ra đời và phát triển của
tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
15.

Khái niệm thuế


16

Thuế hay thu ngân sách nhà nước là việc Nhà nước dùng quyền lực của
mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ Ngân
sách nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu của Nhà nước.
Thuế là số tiền thu của các công dân, hoạt động và đồ vật (như giao
dịch, tài sản) nhằm huy động tài chính cho chính quyền nhằm tái phân phối
thu nhập, nhằm điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội.
Thuế là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các

chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Thuế dựa vào thực trạng của nền kinh tế (GDP, chỉ số giá tiêu dùng, chỉ
số giá sản xuất, thu nhập, lãi suất,..).
Thuế được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả không trực tiếp là chủ yếu.

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN KINH TẾ BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG
1.

Khái niệm Kinh tế báo chí truyền thông


17

Dựa trên nền tảng lý thuyết về kinh tế, nhìn nhận vấn đề ở mức độ vi
mô thì Kinh tế báo chí truyền thông là sự tổng hòa các mối quan hệ tương tác
lẫn nhau của các cơ quan báo chí truyền thông và khách hàng. Mối quan hệ
đó liên quan đến quá trình sản xuất ra loại sản phẩm dịch vụ thỏa mãn đời
sống tinh thần, tình cảm của khách hàng, đáp ứng nhu cầu hiểu biết, nâng
cao nhận thức của công chúng và phụ thuộc vào thị hiếu của khách hàng.
Đối với nhiều quốc gia, truyền thông không chỉ dừng lại ở mức độ phục
vụ nhu cầu thông tin, giải trí của công chúng mà nó còn được coi là một
ngành kinh tế, thậm chí là ngành kinh tế mũi nhọn. Trong truyền thông các
khái niệm như tập đoàn, cổ đông, cổ phiếu, thuế, thị trường …ngày càng được
nhắc đến nhiều. Đầu tiên phải nói đến sự xuất hiện của những tập đoàn truyền
thông khổng lồ, Viacom là một ví dụ. Tập đoàn sở hữu không chỉ một mà rất
nhiều những kênh truyền hình có danh tiếng như MTV, Nickledeon… News
Corp. cũng là một điển hình cho mô hình kinh tế truyền thông. Bên cạnh các
dịch vụ tin tức và xuất bản, Murdoch còn đầu tư vào lĩnh vực thể thao. Hàng
năm ông trùm truyền thông này rót hàng trăm triệu đô la vào việc tổ chức các
giải bóng bầu dục tại Australia.

Ở Việt Nam, kinh tế báo chí – truyền thông phát triển sẽ mang lại lợi
ích to lớn cho cả nhà nước, người dân và cả cơ quan truyền thông. Nhà nước
không phải chi một khoản tiền khổng lồ để nuôi tất cả báo chí, trong đó có
những đài báo chỉ chuyên cung cấp thông tin kinh doanh, giải trí..., thậm chí
còn thu được những khoản đóng góp của các cơ quan truyền thông "dịch vụ"
để tăng cường chất lượng cho các cơ quan "chính thống". Người dân được tự
do lựa chọn các thông tin mà họ cần, không còn bị "ép" phải xem một kênh
truyền hình hay một tờ báo nào đó nữa. Họ sẽ chọn nguồn thông tin chính
xác, phong phú, kịp thời, phân tích sâu theo đúng yêu cầu của họ. Còn các cơ
quan truyền thông có thể bán sản phẩm của mình, kinh doanh quảng cáo thu
lãi lớn... Thật không hay, trong khi chúng ta phải bỏ ra những khoản tiền lớn


18

để mua thông tin của các hãng truyền thông nước ngoài thì các thông tin
chúng ta sản xuất ra phải đem cho không mà không bán được.
2. Những hiểu biết cơ bản về kinh tế báo chí
2.1.

Hàng hóa là một thuộc tính của báo chí.

Sản phẩm báo chí cũng là sản phẩm hàng hóa, cho nên tin tức báo chí
trước hết phải mang những phẩm chất của thuộc tính hàng hóa Trong xã hội
hiện đại, thông tin trở thành một trong những “nhu yếu phẩm” không thể thiếu
được. Người ta cần rất nhiều loại thông tin: thông tin chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa giải trí... và sẵn sàng trả tiền để được đáp ứng nhu cầu này. Căn cứ
đưa ra kết luận điều này trước hết dựa vào những thuộc tính của hàng hóa.
Những tin tức mà báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng
đưa tin đều là sản phẩm của lao động. Lao động tạo ra sản phẩm báo chí

truyền thông có sự đóng góp của lao động chân tay nhưng vai trò của lao
động trí óc được đề cao hơn cả.
Sản phẩm tin tức được sản xuất ra là để trao đổi và trao đổi thường
xuyên, liên tục trên diện rộng, mang tính công khai trong cộng đồng đông đảo
người. Trong quá trình trao đổi sản phẩm, chủ thể trao đổi là những người
làm báo, những nhà truyền thông... những người tạo ra hàng hóa thông tin
thông qua những phương tiện, máy móc kỹ thuật trung gian mang sản phẩm
của mình tới đến cho khách thể.
Sản phẩm tin tức có giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng của tin tức
báo chí thông thường có tính thời sự tức thì, càng nhiều người sử dụng thì giá
trị sử dụng càng cao. Giá trị sử dụng của tin tức báo chí rất đa dạng, ở mọi các
lĩnh vực: chính trị, văn hóa, kinh tế xã hội, dân sinh, cả trên phạm vi cộng
đồng như nhóm, cá nhân... Giá cả và giá thành của tin tức báo chí có những


19

đặc thù riêng nó. Thường giá cả bán dưới giá thành; mặt khác, kết cấu và mối
quan hệ giá cả, giá thành trong tin tức báo chí cũng hết sức phức tạp.
Sản phẩm tin tức trong các hình thái kinh tế xã hội khác nhau thể
hiện được các quan hệ sản xuất khác nhau. Chẳng hạn như trên phương tiện
kinh tế - chính trị, sản phẩm tin tức trong nước tư bản khác với các nước xã
hội chủ nghĩa.
Tóm lại, ko giống như những loại hàng hóa khác, báo chí là loại hàng
hóa đặc thù riêng cần chú ý. Nó tác động tư tưởng tình cảm của con người,
góp phần tạo nên niềm tin, tư tưởng của con người. Hàng hóa này càng
nhiều người dùng thì hiệu ứng càng tăng, và thuộc tính xã hội lớn. Do đó,
cách thức tổ chức sản xuất của sản phẩm báo chí khác với loại sản phẩm
hàng hóa khác. Đó là quá trình sản xuất hàng hóa của báo chí – truyền
thông luôn xuất phát từ vấn đề, nhu cầu cuộc sống. Sản phẩm báo chí thay

đổi hàng ngày, chất liệu sản phẩm làm nên là sự kiện và vấn đề thời sự... Mục
đích của sản xuất sản phẩm báo chí xuất phát từ nhiều nhu cầu khác nhau:
nhu cầu chính trị, kinh tế, giải trí, văn hóa...
2.2.

Đối tượng nghiên cứu của kinh tế báo chí

Xã hội đang hình thành một nền kinh tế báo chí. Hai chỗ dựa quyết
định cho nền kinh tế báo chi là sản phẩm hàng hóa báo chí truyền thông và
dịch vụ quảng cáo trên các phương tiện truyền thông. Xã hội càng phát triển
thì yêu cầu thông tin báo chí càng tăng lên, do đó nhu cầu về sản phẩm hàng
hóa báo chí cũng tăng lên. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh dẫn đến nhu cầu
ngày càng lớn về quảng cáo nhằm đưa hàng hóa, dịch vụ đến người tiêu dùng.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế báo chí chính là các hình thức sản
sinh ra lợi nhuận trên các hoạt động báo chí:


20

2.3 Quảng cáo trên báo chí
Với mỗi loại hình báo chí truyền thông thì tương ứng với nó là những
hoạt động quảng cáo theo đó:
* Nhóm các phương tiện nghe nhìn: bao gồm quảng cáo trên truyền
hình, trên đài phát thanh và trên Internet, trong đó, quảng cáo trên truyền hình
là hình thức phổ biến nhất và có phạm vi tác động rất rộng, lại vừa có thể
truyền tải hình ảnh và âm thanh chân thực đến người xem. Tuy nhiên, hình
thức quảng cáo này ngày nay đang bị lạm dụng nhiều khi gây phản ứng tiêu
cực đối với người xem (như tắt tivi hay chuyển sang kênh khác). Tuy phạm vi
tác động không rộng bằng truyền hình nhưng Internet đã xóa bỏ những giới
hạn của các phương tiện quảng cáo truyền thống. Đó là lượng thông tin có thể

truyền tải đến người xem và hoàn toàn không bị giới hạn bởi vị trí địa lí. Hơn
thế nữa, người xem chủ động trong việc có xem thông điệp quảng cáo đó hay
không bằng cách click vào đường link hoặc banner quảng cáo trên website.
* Nhóm các phương tiện in ấn: gồm có báo chí, tạp chí, tờ rơi, niên
giám…mà quảng cáo trên báo chí và tạp chí là hai hình thức được áp dụng
nhiều nhất. Mọi người ở khắp nơi trên thế giới đều có thể tiếp cận báo chí.
Vấn đề mà các nhà làm quảng cáo gặp phải là có quá nhiều các tờ báo cho họ
lựa chọn. Chỉ với số dân 3,8 triệu người, Li-băng có khoảng 600 tờ nhật báo
hoặc tuần báo với số ấn bản phát hành trung bình là 7500 tờ mỗi đầu báo. Báo
có nhiều loại: báo địa phương, báo quốc gia, báo chuyên ngành. Mỗi loại đều
tìm thấy đối tượng quảng cáo phù hợp. Quảng cáo bằng báo chí có thể kết hợp
cả ngôn ngữ và hình ảnh, có thể được truyền tay nhau, được lưu giữ hoặc đọc
lại. Không có nơi nào trên thế giới có nhiều loại tạp chí như ở Mỹ. Do các tạp
chí Mỹ phân đoạn thị trường theo nhiều tiêu chí khác nhau nên có nhiều tạp
chí phục vụ cho số đông độc giả đồng thời có những tạp chí nhằm vào một số
ít và có sự lựa chọn độc giả. Điều này cho phép những nhà quảng cáo có thể


21

thực hiện các chiến lược quảng cáo thích hợp nhằm đạt được hai mục tiêu:
tiếp cận thị trường và/hoặc mức độ thường xuyên. Tuy nhiên, chuẩn bị quảng
cáo trên tạp chí tốn nhiều thời gian. Thêm vào đó, một số tạp chí thường dồn
phần quảng cáo vào đầu, giữa hoặc cuối tạp chí khiến cho chúng dễ bị cho
mỗi cú nhấp chuột) để liên kết đến trang web của mình.
2.4. Dịch vụ trên báo chí
Xã hội càng phát triển, các dịch vụ xã hội trên các phương tiện truyền
thông càng đa dạng, phong phú và có vai trò quan trọng trong đời sống dân
cư. Các dịch vụ ngày càng phát triển như tư vấn sức khỏe-kỹ năng sống, việc
làm, kết nối thị trường lao động, kết bạn phương xa, thông báo…v..v. Đối với

báo mạng điện tử, ngoài nguồn thu từ quảng cáo, dịch vụ gia tăng là hướng
phát triển chính, cơ bản và hiệu quả nhất.
2.5 Doanh thu từ hoạt động xuất bản
Doanh thu từ các xuất bản phẩm báo chí vốn là nguồn thu truyền thống
của ngành báo. Đây cũng là một đối tượng nghiên cứu của kinh tế báo chí.
Doanh thu này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng của xuất bản phẩm.
Điều này thể hiện rõ nhất ở báo in, yếu tố quyết định doanh thu là chất lượng
các bài báo, tin, ảnh… có thu hút được độc giả hay không.
2.6

Sản phẩm báo chí gắn với công chúng, và khách hàng, thị trường
Nhìn nhận ở mức phổ quát thì công chúng là khách hàng phục vụ trước

nhất của báo chí. Ngày nay, công chúng có nhu cầu thông tin nhiều hơn và
những thông tin đó phải liên quan và tập trung vào học và cộng đồng quanh
họ. Công chúng không muốn báo của họ phớt lờ những gì đang diễn ra ở nơi
khác trong nước và trên thế giới. Họ không bị lừa phỉnh bởi những mánh lới
quảng cáo hay cách trình bày bay bướm. Họ chỉ chấp nhận chúng khi nào


22

chúng có vẻ liên quan đến bài viết, làm cho bài báo dễ “nuốt” hay làm cho
thông tin dễ hiểu hơn. Nếu những mánh lới câu khách đó quá lộ liễu hay cách
trình bày quá khác lạ, người đọc sẽ vứt bỏ chúng vì đã làm họ không được
thoải mái khi đọc báo. Và trên hết, công chúng muốn những tin tức thiết thực
và hữu ích để giúp họ hoàn thiện cuộc sống. Họ cần những mẹo vặt và những
lời khuyên. Vì lối sống của độc giả thay đổi, các chủ bút phải tạo ra những tờ
báo đi sâu vào đời sống.
Ngoài ra, báo chí truyền thông còn phục vụ cho khách hàng với những

đơn đặt hàng theo yêu cầu về quảng bá dịch vụ, tiếp thị sản phẩm,
Chỉ cần thay đổi từ ngữ một tí, danh sách những đòi hỏi và nhu cầu này
cũng có thể áp dụng cho khán thính giả của phát thanh - truyền hình. Chính sự
cạnh tranh ngày càng khốc liệt để tăng thời lượng phát sóng và lôi kéo sự chú
ý của khán giả mà nghiệp vụ phát thanh - truyền hình cũng buộc phải không
ngừng thay đổi cho phù hợp với nhu cầu không ngừng thay đổi của những đối
tượng công chúng cũng không ngừng thay đổi. Hãy thử xem trong một
khoảnh khắc có bao nhiêu là nguồn thông tin và giải trí đến với bạn. Đó là
báo in, dĩ nhiên rồi. Đó là tạp chí và sách. Đó là hàng tá kênh truyền hình cáp.
Và trên Internet, có biết bao trang web đan cài vào nhau trên khắp thế giới để
ta khám phá.


23

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU KINH TẾ
BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG
Trong kinh tế thị trường, báo chí có khả năng và điều kiện tham gia hoạt
động kinh tế, tăng nguồn thu. Về pháp lý không có điều khoản nào cấm cơ
quan báo chí làm kinh tế, thậm chí trong chủ trương đường lối của Đảng, Nhà
nước khuyến khích cơ quan báo chí tăng cường nguồn thu cai thiện đời sống,
tăng thu nhập. Điều 17c, Luật Báo chí (sửa đổi) qui định: “Cơ quan báo chí
được tổ chức các hoạt động kinh doanh, dịch vụ phù hợp với chuyên môn
nghiệp vụ của mình theo qui định của Chính phủ và qui định của pháp luật để
tạo nguồn thu trở lại cho sự phát triển của mình”1
Trong thực tế, báo chí có trong tay lực lượng lao động tinh tuý của xã
hội, có chất lượng cao. Đòi hỏi tất yếu là phải sử dụng có hiệu quả lực lượng
này, tránh lãng phí xã hội thì phải tạo việc làm cho người ta, đó là tham gia
hoạt động kinh tế. Các cơ quan báo chí nắm trong tay cơ sở vật chất kỹ thuật,
có một số động sản và bất động sản khác. Vậy lực lượng vật chất này phải sử

dụng sao cho hiệu quả. Trong điều kiện hiện nay chu kỳ khấu hao ngày càng
rút ngắn. Muốn sử dụng có hiệu quả thì làm thế nào để những công năng của
nó phaỉ được sử dụng một cách hiệu quả nhất. Đây chính là điều kiện để làm
kinh tế.
Trong thời kỳ hội nhập, mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, như đã đề
cập, sự phát triển kinh tế báo chí là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, sự phát triển
này dẫn đến sự tác động có tính hai mặt vào đời sống báo chí. Một mặt, ở yếu
tố tích cực, nó mang lại nguồn lực tài chính quan trọng, đảm bảo cho sự tiếp
tục phát triển, tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới thiết bị kỹ thuật công nghệ,
mở mang thêm các nguồn thông tin, tài liệu, cũng như công tác đào tạo, nâng
1 Luật báo chí (sửa đổi bổ sung) số 1999/QH10


24

cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ những người làm báo. Mặt
khác, nó dẫn đến hiện tượng thương mại hóa báo chí, hay là sự xuất hiện
những sản phẩm báo chí thuần túy hàng hóa, chỉ quan tâm thu lợi nhuận, xem
nhẹ chức năng thông tin, tuyên truyền của báo chí vô sản. Chính vì vậy, để
tạo cho báo chí vừa hoạt động kinh tế một cách có hiệu quả, hạn chế những
tiêu cực cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
1.

Nghiên cứu về cơ chế quản lý:

Sửa đổi, bổ sung, ban hành hệ thống luật pháp khoa học, phù hợp, sát
vơí thực tiễn vận động và phát triển của hoạt động báo chí trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết chúng ta phải hoàn thiện cơ
cấu tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý của các cơ quan chức năng nhằm nâng cao

hiệu lực quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này; khắc phục tình trạng chồng
chéo, phân công, phân cấp không rõ ràng giữa các cơ quan quản lý, giữa Trung
ương với địa phương; bảo đảm sự tập trung, hiệu quả của công tác chỉ đạo,
quản lý hoạt động kinh tế của cơ quan báo chí.
Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý, chính sách để các cơ quan báo chí
tăng nguồn thu từ quảng cáo, hoạt động kinh tế hỗ trợ, mở rộng hợp tác quốc
tế trong phát hành. Mở rộng các hoạt động kinh doanh, dịch vụ của các cơ
quan báo chí thuộc các lĩnh vực phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ góp phần
tăng nguồn thu đầu tư cho hoạt động báo chí. Cần xây dựng chính sách kinh tế
đối với hoạt động báo chí.
2.

Nghiên cứu các chính sách khuyến khích tự chủ về kinh tế đối
với các cơ quan báo chí

Đa dạng hóa các hoạt động đúng pháp luật để tăng thêm nguồn lực tài
chính cho các cơ quan báo chí. Muốn vậy, trước hết phải tập trung vào các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin; kiện toàn tổ chức, bộ máy,


25

nhân sự các cơ quan làm công tác thông tin đủ năng lực, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ để thực hiện tốt nhiệm vụ.
Sắp xếp, quy hoạch lại hệ thống thông tin, sửa đổi một số chính sách đối
với thông tin nhằm tạo điều kiện để tăng các nguồn thu, giảm sự đầu tư của
ngân sách nhà nước cho hoạt động thông tin nói chung trong đó có hoạt động
báo chí. Các cơ quan báo chí coi trọng việc đa dạng hoá các hoạt động dịch vụ
phù hợp với chức năng nhiệm vụ để tăng nguồn thu đầu tư cho việc nâng cao
chất lượng báo chí.

Tiến hành phân loại các cơ quan báo chí theo tôn chỉ mục đích, đối
tượng phục vụ. Các khoản tài trợ của nguồn ngân sách nhà nước tập trung đầu
tư cho nhóm báo chí do yêu cầu phục vụ các nhiệm vụ chính trị mà giá bán báo
thấp hơn giá thành. Nhóm báo chí chủ yếu phục vụ nhu cầu giải trí có cơ chế
hoạt động, chính sách về thuế, về đầu tư phù hợp với yêu cầu phát triển.
Đầu tư ngân sách thỏa đáng để triển khai các dự án đã được Chính phủ
phê duyệt về phát thanh, truyền hình, thông tấn xã, cơ sở hạ tầng Internet, các
thiết bị phục vụ cho in ấn và phát hành báo chí.
nhằm đảm bảo cho cơ quan báo chí hoạt động hiệu quả, vừa tăng
doanh thu vừa đảm bảo định hướng và nhiệm vụ chính trị thì phải tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác này. Để làm tốt điều đó,
chúng ta phải chú trọng công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan báo
chí, truyền thông, làm cho cấp uỷ, tổ chức Đảng của các cơ quan này thực
sự nêu cao trách nhiệm chính trị và vai trò lãnh đạo trong tổ chức và hoạt
động của cơ quan, đơn vị. Xây dựng quy định chức năng, nhiệm vụ các tổ
chức Đảng trong các cơ quan báo chí; quy chế tuyển chọn, đề bạt, sử dụng,
bãi nhiệm lãnh đạo cơ quan báo chí.
3.3. Nghiên cứu về các cơ chế tài chính


×