Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA LÁ CÂY BẰNG LĂNG NƯỚC (LAGERSTROEMIA SPECIOSA) THUỘC CHI TỬ VI (LAGERSTROEMIA)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 68 trang )

Luận văn thạc sỹ hóa học
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC TỰ NHIÊN

ĐỖ MINH KIỆP

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA LÁ CÂY
BẰNG LĂNG NƯỚC (LAGERSTROEMIA SPECIOSA)
THUỘC CHI TỬ VI (LAGERSTROEMIA)

LUẬN VĂN THẠC SỸ HÓA HỌC

2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

Đỗ Minh Kiệp

i


Luận văn thạc sỹ hóa học

ĐỖ MINH KIỆP

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA LÁ CÂY
BẰNG LĂNG NƯỚC (LAGERSTROEMIA SPECIOSA)
THUỘC CHI TỬ VI (LAGERSTROEMI)

LUẬN VĂN THẠC SỸ HÓA HỌC
NGÀNH HÓA HỮU CƠ


HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRƯƠNG CHÍ THÀNH
TS. TÔN NỮ LIÊN HƯƠNG

2014

Đỗ Minh Kiệp

ii


Luận văn thạc sỹ hóa học
LỜI CẢM ƠN
Sau gần hai năm học tập và làm thực nghiệm, ngày hôm nay em đã hoàn
thành luận văn tốt nghiệp. Một lời cám ơn chắc chắn sẽ không nói hết được tất ca
nhưng xin cho em được gởi lời cám ơn chân thành đến:
Quý Thầy Cô trong bộ môn Hóa – khoa Khoa học Tự Nhiên, trường Đại học
Cần Thơ. Đặc biệt, em xin cám ơn thầy Lê Thanh Phước và cô Bùi Thị Bửu Huê
đã truyền đạt cho em những kiến thức qúy báu cũng như là tạo những điều kiện
tốt nhất để em hoàn thành luận văn.
Xin cám ơn thầy Trương Chí Thành, người thầy đã tận tình hướng dẫn và
tạo mọi điều kiện để em hoàn thành đề tài.
Xin gởi lời cam ơn sâu sắc và chân thành đến cô Tôn Nữ Liên Hương, cô
là người đã chỉ dẫn em thực hiện đề tài. Trong quá trình làm đề tài có nhiều điều
em còn chưa biết, chưa hiểu thì cô là người đã chỉ dạy cho em, khơi dậy trong em
niềm tin và sức mạnh tinh thần để em vượt qua khó khăn và từ đó hoàn thành
luận văn của mình.
Cam ơn các anh chị và các bạn trong lớp Hóa Hữu Cơ K19 đã động viên và
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Cuối cùng là lời cam ơn của con muốn gởi tới cha mẹ, cam ơn cha mẹ đã

luôn là chỗ dựa vững chắc cho con.
Xin chân thành cam ơn!!
Đỗ Minh Kiệp

Đỗ Minh Kiệp

iii


Luận văn thạc sỹ hóa học
ABSTRACT
Lagerstroemia speciosa L,. is commonly in many countries in Asia such as
China, Philippines, Malaysia and Vietnam. The leaves of this plant are used in
Philippines medical folk for many years. The phytochemistry studies show that
this plant contains active and medicinal compounds like corosolic acid,
ellagitannins, tannic acids, phytosterols,…This study deals with the isolation and
identification of the compounds.
The air-dried powdered leaves of Lagerstroemia speciosa L., (3kg) were
extracted three times with MeOH for 24 h at room temperature. The methanolic
extract was suspended in water and extracted with petroleum ether, chloroform
and ethyl acetate to give petroleum ether (50 g), chloroform (6 g) and ethyl
acetate (6 g) as respectively. This study only focus on the petroleum ether extract.
From petroleum ether extract (50 g) was fractionated by column chromatography
with the gradient of solvents to yield 12 fractions. Further separation and
purification of these fractions led to the isolation of seven compounds, including:
Stigmast-4-en-3-one, β-sitosterol-3-O-glucopyranoside, Ursolic acid, Arjunolic
acid, BL7, BL10, BL11 and one mixture of oleanolic and ursolic acid. The
structure of these compounds were characterized by 1H–NMR, 13C–NMR, DEPT–
NMR, HMBC, HSQC, GC – MS and MS spectroscopic data


Đỗ Minh Kiệp

iv


Luận văn thạc sỹ hóa học

TÓM TẮT
Cây Bằng lăng nước thì rất phổ biến ở nhiều nước Châu Á như Trung Quốc,
Philippines, Malaysia và Việt Nam. Lá của loài cây này được dùng trong nền y
học dân gian ở Philippines trong nhiều năm qua. Những nghiên cứu về thành
phần hóa học cho thấy trong cây Bằng lăng nước có chứa nhiều chất có hoạt tính
dược học như acid corosolic, ellagitannins, tannic acids, phytosterols,…trong
nghiên cứu này chỉ đề cập đến việc cô lập và nhận danh các hợp chất.
Bột lá Bằng lăng khô (3 kg) được chiết 3 lần với methanol ở nhiệt độ phòng
trong 24 giờ. Dịch chiết methanol được thêm nước vào và chiết với ether dầu hỏa,
chloroform và ethyl acetate để thu được cao ether dầu hỏa (50 g), chloroform (6
g) và ethyl acetate (6 g). Trong nghiên cứu này chỉ tập trung tiến hành khao sát
trên cao ether dầu hỏa. Từ 50 g cao ether dầu hỏa thực hiện sắc ký cột với dung
môi có độ phân cực tăng dần thu được 12 phân đoạn. Tiến hành tinh chế các phân
đoạn này cho phép cô lập được bay hợp chất, bao gồm: Stigmast-4-en-3-one, βsitosterol-3-O-glucopyranoside, Ursolic acid, Arjunolic acid, BL7, BL10, BL11
và một hỗn hợp của oleanolic và ursolic acid . Cấu trúc của các hợp chất được
xác định thông qua các dữ liệu phổ 1H–NMR, 13C–NMR, DEPT–NMR, HMBC,
HSQC GC – MS và MS.

Đỗ Minh Kiệp

v



Luận văn thạc sỹ hóa học

LỜI MỞ ĐẦU
Nghiên cứu hóa thực vật về cây dược liệu đã và đang là lĩnh vực thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học. Ngay từ khi nguồn thuốc tổng hợp chưa xuất
hiện thì con người đã biết dùng các cây cỏ trong tự nhiên để làm thuốc chữa bệnh.
Do đó, các nghiên cứu về cây dược liệu không chỉ là định danh, xác định cấu trúc
hóa học mà còn góp phần giai thích thỏa đáng những thành phần dược chất nào
trong cây có tác dụng chữa bệnh.
Cây Bằng lăng nước vốn đã rất quen thuộc và phổ biến ở Việt Nam, là một
trong những cây có trong danh mục cây thuốc. Lá Bằng lăng non có vị hơi chát
nên được người dân Nam Bộ dùng như là một loại rau ăn kèm với các món chiên,
lẩu. Ở Philippines, lá Bằng lăng non được sử dụng như một loại đông dược để trị
bệnh béo phì và bệnh tiểu đường.
Dù được tìm thấy ở nhiều nơi trên lãnh thổ Việt Nam nhưng cho đến nay
dược tính cũng như thành phần hóa học của Bằng lăng nước chưa thực sự được
nghiên cứu nhiều. Do đó, việc tìm hiểu về thành phần hóa học, dược tính của cây
Bằng lăng nước nói chung và lá Bằng lăng nước nói riêng là một công việc rất có
ý nghĩa. Chính vì những lý do đó mà đề tài “Nghiên cứu thành phần hóa học
của lá cây Bằng lăng nước (Lagerstroemia speciosa) thuộc chi Tử vi
(Lagerstroemia)” được chọn làm đề tài luận văn tốt nghiệp.

Đỗ Minh Kiệp

Trang i


Luận văn thạc sỹ hóa học

CHƯƠNG 1

GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Bằng Lăng nước (BLN) có tên khoa học là Lagerstroemia speciosa (L.)
Pers., là một trong số 50 loài thuộc chi Tử Vi (Lagerstroemia). BLN có rất nhiều
công dụng trong đời sống hằng ngày, kể ca trong y học thì dược tính của nó cũng
rất đáng để các nhà khoa học quan tâm.
Từ những năm 1990, sự phổ biến của loại thao dược này đã thu hút sự chú ý
của các nhà khoa học trên khắp thế giới, đã có một số nghiên cứu in vitro và in
vivo cho thấy dịch chiết từ lá Bằng lăng nước có tác dụng làm hạ đường huyết và
chống bệnh tiểu đường. Nhiều hoạt chất khác nhau, cũng như sự phân bố của
chúng theo từng bộ phận của cây đã được báo cáo. Những loại hợp chất trong cây
được quan tâm nhiều nhất, đã thử nghiệm và được xác nhận là có hoạt tính như
các tannin, triterpene, các sterol thực vật,…Ví dụ như trong vỏ BLN đã tìm được
một số chất như corosolic acid, ellagic acid, β-sitosterol và các đồng phân của nó,
…[1-2].
O
H

O
CO2H

HO
H

HO

O

HO
H3CO


HO

O

O

O

O

HO

OH
O

corosolic acid

3'-O-methyl-3,4-methylenedioxy ellagic acid

6,7-dihydroxy coumarin

OSO3H

H3C

HO
H3C
CH3
OCH3


CH3

O

H

CH3
CH3

H
H

HO

HO
OCH3

β -sitosterol

(+)-dihydrodehydrodiconiferyl alcohol 9'-O-sulfate

Hình 1.1 Một số hợp chất đã được phân lập từ cây Bằng Lăng nước

Đỗ Minh Kiệp

1


Luận văn thạc sỹ hóa học


Năm 2009, Banrun Kanti Saha và các cộng sự đã nghiên cứu anh hưởng hạ
đường huyết – chống tiểu đường của dịch chiết từ lá BLN dựa trên nghiên cứu
của Kakuda vào năm 1996 [3-4]. Theo đó đã chứng minh được dịch chiết BLN có
tác động chống tăng cân và hạ đường huyết. Ellagitannin thu được từ dịch chiết lá
BLN được xem là chất hoạt hóa sự vận chuyển glucose trong tế bào [5]. Sự đánh
giá hoạt tính kháng xơ hóa ở gan của BLN được Vinoth Prabhu xác định [6].
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu khác đã xác định BLN có chứa rất nhiều hoạt tính
khác nhau, ngoài những hoạt tính kể trên, dịch chiết từ lá BLN còn có tác dụng
bắt giữ gốc tự do, kháng viêm, giam uric acid bằng cách ức chế xanthine oxidase,
…[5-7].
Trong tất ca các hoạt tính có được thì kha năng chống tiểu đường, béo phì
là tiêu biểu nhất, với rất nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm khẳng định hoạt
chất chính trong cây BLN chịu trách nhiệm cho tác dụng đó. Đặc biệt là ở Nhật
Ban, các nghiên cứu in vivo và in vitro cho thấy các chất trong BLN có hoạt động
tương tự insulin. Trên chuột béo phì và bị tiểu đường, lá BLN làm chậm tăng cân
và kiểm soát nồng độ glucose trong máu. Nhiều nhà khoa học cho rằng corosolic
acid là hoạt chất chính có kha năng hạ đường huyết – chống tiểu đường. Một số
lại cho rằng các gallotannin mới chính là chất chịu trách nhiệm cho tác dụng đó,
trong đó Penta-O-galloyl-glucopyranose (PGG) là gallotannin tiềm năng nhất [1].
Để xác định chính xác từng tác dụng dược lý của BLN có được là do hợp
chất nào đam nhận. Việc xác định đầy đủ khách quan thành phần hóa học của cây
là một yêu cầu cấp thiết. Do đó, các nghiên cứu về thành phần hóa học của các
loại dịch chiết từ BLN đã được thực hiện. Năm 2009, S.M. Mizanur Rahman và
cộng sự đã nghiên cứu các chất có hoạt tính trong dịch chiết petroleum ether của
lá cây BLN. Họ đã xác định được hai hợp chất là octanol và một đồng phân của
β-sitosterol [8]. Gần đây nhất các nhà hóa học Trung Quốc đã công bố báo cáo về
14 hợp chất thu được từ lá BLN, bao gồm 4 triterpene, 8 ellagic acid, 1 courmarin
và 1 neolignan [2]. Việc tách chiết và xác định cấu trúc của các chất từ BLN ngày
càng mở rộng.

Từ kết qua của nhiều nghiên cứu trên thế giới, giá trị của cây BLN đã được
biết đến nhiều hơn ở Việt Nam. Các công dụng của nó cũng đã được nhiều y
dược sĩ biết đến, thành phần hóa học của dịch chiết từ các bộ phận của cây BLN
cũng đã được nói nhiều trên sách báo. Việc sử dụng BLN như một loại dược liệu
không còn gì xa lạ. Tuy nhiên, giống như trên thế giới, để xác định tác dụng dược
lý của BLN là do hoạt chất nào đam nhận, nó phân bố ở bộ phận nào trong cây rất
Đỗ Minh Kiệp

2


Luận văn thạc sỹ hóa học

khó khăn. Vấn đề đó đòi hỏi phai có nhiều nghiên cứu chuyên sâu, có sự kết hợp
giữa hóa học, sinh học, y học,…mà tiên phong phai là các nghiên cứu về thành
phần hóa học của BLN.
Ở một số nước trên thế giới như: Hoa Kỳ, Nhật Ban, Philippines,… các chế
phẩm từ lá Bằng Lăng nước đã có mặt trên thị trường. Ở Việt Nam, với lợi thế là
điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng rất thích hợp cho cây Bằng Lăng nước, do đó, số
lượng cây phân bố trong các cánh rừng cũng như mọc hoang dại rất lớn. Mặc
khác, do được trồng làm canh rất nhiều, hằng năm phai tỉa cành, số lượng cành lá
sau khi tỉa đa số được bỏ đi. Việc làm đó vô tình đã đánh mất đi một lượng dược
liệu vô cùng lớn.
Đáp ứng những thực trạng trên, các nghiên cứu về cây Bằng Lăng nước ở
nước ta cũng đã manh nha trong những năm gần đây. Ví dụ như nghiên cứu sơ bộ
về thành phần hóa học của cây BLN của Nguyễn Quyết Tiến [9], tuy nhiên vẫn
chưa có nghiên cứu nào cho kết qua đầy đủ và khách quan và số lượng cũng rất
hạn chế, chưa được lặp lại. Việc mở rộng nghiên cứu về cây Bằng Lăng nước là
cần thiết, do đó, trong khuôn khổ một luận văn đại học, đề tài: “Góp phần khao
sát thành phần hóa học cao petroleum ether của lá cây Bằng Lăng nước

Lagerstroemia speciosa (L.) Pers.” đã được chọn làm mục tiêu nghiên cứu chính.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu về loài Bằng Lăng nước Lagerstroemia speciosa (L.) Pers., họ
Lythraceae.
Phân lập và xác định cấu trúc chất thu được từ lá cây Bằng Lăng nước
Lagerstroemia speciosa (L.) Pers., họ Lythraceae.
1.3 Nội dung nghiên cứu
-

Thu hái và xử lý nguyên liệu lá Bằng Lăng nước, nghiền lấy bột lá
Tiến hành chiết cao methanol (cao tổng)
Thực hiện chiết các cao phân đoạn
Phân lập chất từ cao petroleum ether bằng sắc ký cột và sắc ký lớp mỏng
Xác định cấu trúc hợp chất tinh khiết từ dữ liệu phổ thu được

Đỗ Minh Kiệp

3


Luận văn thạc sỹ hóa học

CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Tổng quan về thực vật
2.1.1 Khái quát về chi Tử Vi
Chi Tử Vi hay chi Bằng Lăng (Lagerstroemia) là một chi có khoang 50 loài
cây, riêng ở Việt Nam đã thống kê được khoang 20 loài thuộc chi này. Các loài
trong chi này có đặc tính rụng lá sớm vào mùa đông, thân gỗ hay cây bụi lớn, có
nguồn gốc ở vùng Đông Á và Australia.

Cấu trúc thân cây Bằng Lăng có gân tạo nếp máng, hàng năm đều lột vỏ,
bên trong là phần gỗ cứng. Lá mọc đối, đơn, mép lá có răng cưa và dao động từ 5
– 20 cm theo chiều dài. Hoa có 6 hay 7 cánh, mép cánh có ngấn nhăn nhỏ trên các
cuống hoa, phình ra giữa các đài hoa. Hoa mọc thành cụm dài dạng bông và có
thể có màu trắng, hồng, tía hay tím. Qua dạng nang, ban đầu có màu xanh lục, khi
chín chuyển thành màu đen, được mở dọc theo 6 hay 7 đường, dạng răng giống
như của đài hoa, và giai phóng nhiều hạt nhỏ.

 Một số loài thuộc chi Tử Vi :
Ở Việt Nam có nhiều loài thuộc chi Tử Vi, có thể kể đến một số loài như
sau:
- Lagerstroemia speciosa (L.) Pers. (Bằng Lăng nước): cây gỗ lớn, hoa đỏ tím,
phiến lá hình bầu dục, cứng, không lông
- Lagerstroemia calyculata Kurz. (Bằng Lăng ổi hay Bằng Lăng vỏ nhẵn): cây
gỗ lớn, hoa trắng, phiến lá thon, có lông dày mặt dưới
- Lagerstroemia floribunda Jack. (Bằng Lăng nhiều hoa): cây gỗ lớn, cao 10 –
15 m, hoa trắng và hoa tím trộn nhau, phiến lá bầu dục, không lông
- Lagerstroemia indica Linn. (Tử Vi hay Bằng Lăng sẻ): cây gỗ, hoa màu
hường, lá có phiến xoan, không lông
- Lagerstroemia tomentosa Presl. (Bằng Lăng lông hay Săng lẻ): cây gỗ lớn,
cao khoang 15 m, lá có phiến to, mặt dưới đầy lông hình sao vàng
- Lagerstroemia lecomtei Gagn. (Bằng Lăng lùn hay Bằng Lăng lá nhỏ): cây
gỗ, cao 4 – 6 m, lá có phiến tương đối nhỏ, không lông
- Lagerstroemia reginae Roxb. (Bằng Lăng tiên): cây gỗ lớn, cao khoang 10 m,
hoa màu tím, phiến lá tròn dài, không lông
- Lagerstroemia macrocarpa Wall. (Bằng lăng trái to): cây gỗ, cao 10 – 13 m,

Đỗ Minh Kiệp

4



Luận văn thạc sỹ hóa học

hoa màu lam, lá có phiến to, không lông [10]
2.1.2 Giới thiệu về Bằng Lăng nước
2.1.2.1 Thực vật học, hình thái và phân bố
Bằng Lăng nước là một trong số khoang 50 loài thuộc chi Tử Vi. Bằng Lăng
nước còn có nhiều tên gọi khác nhau như: Tử Vi tàu, Bàng Lang tiên, Giant
Crape-myrtle, Queen’s Crape-myrtle, Banabá Plant (Philippines), Pride of India.
Phân loại thực vật:
Giới: Plantae (Thực vật)

Ngành: Magnoliophyta (Thực vật có
hoa)
Lớp: Magnoliopsida (Thực vật 2 lá
mầm)
Bộ: Myrtales (Đào kim nương)

Họ: Lythraceae (Bằng Lăng)

Chi: Lagerstroemia (Tử Vi)

Loài: L. speciosa (Bằng Lăng nước)
Hình 2.1 Vị trí của Bằng Lăng nước trong hệ thống phân loại thực vật
Bằng Lăng nước là loại cây thân gỗ lớn cao khoang 12 đến 18 m, đường
kính từ 20 – 40 cm. Tán hình trứng rộng, dày, xanh thẫm. Thân không thật thẳng,
phân cành sớm, cành mọc ngang với rất nhiều cành nhỏ mang lá. Vỏ nâu xám, ít
nứt, thịt vỏ mỏng, màu vàng nhạt, dày 1 – 1,2 cm. Lá đơn, mọc cách hay gần đối,
màu xanh lục khi non, màu đỏ khi già. Phiến lá hình bầu dục, cứng, không lông,

dài đến 20 cm, cuống to. Cụm hoa chùm, mọc ở đỉnh cành, hình tháp, mang nhiều
Đỗ Minh Kiệp

5


Luận văn thạc sỹ hóa học

hoa. Nụ hoa hình cầu, màu tím hồng. Hoa lớn có 6 cánh, nhăn nheo trong nụ và
khi mới nở, có cựa ngắn, màu đỏ tím hay tím hồng [10-11].

Hình 2.2 Cây Bằng Lăng nước

Hình 2.3 Lá và thân cây Bằng Lăng nước
Bằng Lăng nước ra hoa vào giữa mùa hè, thường nở rộ vào khoang tháng 6.
Qua nang, hình trứng, qua mọc thành chùm, kích thước 20×18 mm, nằm trong đài
tồn tại, mở theo 6 manh. Khi tươi qua có màu xanh, lúc già có màu xám, khi chín
màu đen bung ra để hạt phát tán. Hạt có cánh mềm [11].

Đỗ Minh Kiệp

6


Luận văn thạc sỹ hóa học

Hình 2.4 Hoa và qua Bằng Lăng nước
Mặc dù có nguồn gốc từ Ấn Độ, Bằng Lăng nước đã nhanh chóng được du
nhập và phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Cây sinh trưởng tốt ở những nơi khí
hậu ấm áp, như khu vực Đông Á, Ý, miền nam nước Pháp và bán đao Iberia.

Ngoài ra, chúng cũng phát triển mạnh ở vùng khí hậu ôn đới nhưng độ ẩm tương
đối thấp như miền nam Texas và California, ở các nước vùng Nam và Đông Nam
Á như: Mianma, Malaysia, Thái Lan, Lào, Campuchia, Philippines. Ở Nam
Trung Quốc, Ấn Độ và Australia cũng gặp loài này.
Ở Việt Nam, cây được gọi đơn gian là Bằng Lăng, mọc rất nhiều ở khu vực
miền Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Cây phát triển mạnh và mọc
thành rừng. Gần đây, cây được trồng phổ biến ở các đô thị hoặc khu dân cư để tạo
canh quan đẹp, tiêu biểu là các đô thị vùng Đồng bằng sông Cửu Long như thành
phố Cần Thơ, thị xã Sa Đéc, Trà Vinh...Do đó, BLN từ lâu đã trở thành loài cây
quen thuộc và gần gũi với mọi người.
2.1.2.2 Đặc điểm sinh học
Ở Việt Nam, Bằng Lăng nước là loài cây phân bố trong các kiểu rừng nửa
rụng lá và rừng khô rụng lá cùng với loài Bằng Lăng vỏ nhẵn (Lagerstroemia
calyculata Kurz.), nhưng không phổ biến bằng loài này vì BLN đòi hỏi đất sâu,
dày và ẩm hơn. Cây có biên độ sinh thái rộng. Độ cao phân bố của BLN không
quá 700 m so với mặt nước biển, thường mọc trên đất feralit đỏ vàng phát triển
trên sa thạch hoặc phiến thạch sét, ở vùng có khí hậu nhiệt đới với hai mùa mưa
và khô rõ rệt. BLN thường mọc xen với các loài cây rụng lá khác [10].
BLN là cây ưa sáng khi trưởng thành, nhưng khi còn non hơi ưa bóng, vì
Đỗ Minh Kiệp

7


Luận văn thạc sỹ hóa học

vậy nên nó phát triển tốt dưới tán rừng có tàn che nhẹ. Cây tái sinh bằng chồi tốt,
tái sinh tự nhiên bằng hạt kém, thường tái sinh tự nhiên tốt nơi quang trống,
nhưng kha năng cạnh tranh với cỏ dại kém, nên quanh cây mẹ thường ít gặp cây
con [11].

Cây rụng lá vào đầu mùa đông, ra lá non vào tháng 3 – 4. Mùa hoa vào
tháng 5 – 6, mùa qua từ tháng 8 – 10.
2.1.2.3 Một số ứng dụng và dược lý của Bằng Lăng nước
Bằng Lăng nước là cây gỗ có kích thước trung bình, thân cây thường không
thẳng nhưng cứng và bền nên được dùng làm cột, các vật dụng gia đình, đồ gỗ,
khung cửa...Đôi khi, gỗ của nó còn được dùng để san xuất bột giấy.
Vì cây có dáng đẹp: thân xù xì, cành nhiều, tán lá rộng, hoa đẹp với màu tím
đặc trưng được nhiều người ưa thích nên ứng dụng phổ biến và quen thuộc nhất
của BLN là trồng để tạo bóng mát và canh quan cho công viên, trường học, công
sở. Mặc khác, BLN có chiều cao trung bình, không vượt quá tầm cao dây điện
nên cũng thường được trồng dọc theo các con đường tạo canh quan đô thị.
Cây mọc khỏe, nay chồi mạnh nên thích hợp để trồng làm bonsai, cây thế,
hoặc làm gốc ghép cho các chồi cây có hoa đẹp khác thuộc chi Bằng Lăng
(Lagerstroemia).
Hoa chứa tinh dầu có mùi thơm nên có thể dùng để điều chế nước hoa [11].
Lá Bằng Lăng từ xưa đã được người Philippines sử dụng như một loại đông
dược để trị bệnh tiểu đường và béo phì. Họ dùng lá BLN sắc lấy nước uống hoặc
dùng lá non làm trà uống hằng ngày.
Ngoài ra, một số vùng còn sử dụng vỏ cây BLN sắc với nước uống để trị
đau và loét dạ dày, rễ trị sốt, trái đắp trị lở miệng, hạt trị mất ngủ. Mặc dù phân
bố rộng và nhiều với rất nhiều công dụng khác nhau nhưng cho đến nay, dược
tính và thành phần hóa học của BLN chưa được nghiên cứu sâu và ứng dụng ở
Việt Nam [11].

Đỗ Minh Kiệp

8


Luận văn thạc sỹ hóa học


2.2 Một số hợp chất được cô lập từ lá cây Bằng lăng nước


Stigmassterol
Kết tinh trong chloroform, tinh thể hình kim
Nhiệt độ nóng chay: 169 – 170oC
Công thức phân tử: C29H48O
Công thức cấu tạo:

HO

Stigmasterol


Campesterol
Kết tinh trong chloroform, tinh thể hình kim
Nhiệt độ nóng chay: 156 – 160oC
Công thức phân tử: C28H48O
Công thức cấu tạo:

H
H

HH

HO

Campesterol


Đỗ Minh Kiệp

9


Luận văn thạc sỹ hóa học



β – sitosterol
Kết tinh trong chloroform, tinh thể hình kim
Nhiệt độ nóng chay: 139 – 142oC
Công thức phân tử: C29H50O
Công thức cấu tạo:

HO

β – sitosterol



Ursolic acid
Kết tinh trong hỗn hợp chloroform và methanol, tinh thể màu trắng
Nhiệt độ nóng chay: 283 – 285oC
Công thức phân tử: C30H48O3
Công thức cấu tạo:

OH
O
HO


Ursolic acid

Đỗ Minh Kiệp

10


Luận văn thạc sỹ hóa học

 Oleanolic acid
Kết tinh trong hỗn hợp chloroform và methanol, tinh thể màu trắng
Nhiệt độ nóng chay: 308 – 310oC
Công thức phân tử: C30H48O3
Công thức cấu tạo:

OH

O
HO

Oleanolic acid


Corosolic acid
Kết tinh trong hỗn hợp chloroform và methanol, tinh thể màu trắng
Nhiệt độ nóng chay: 277 – 278oC
Công thức phân tử: C30H48O4
Công thức cấu tạo:


OH
H

HO

O

HO

Corosolic acid

Đỗ Minh Kiệp

11


Luận văn thạc sỹ hóa học



β-sitosterol-3-O-glucopyranoside
Kết tinh trong methanol, tinh thể màu trắng
Nhiệt độ nóng chay: 269 – 270oC
Công thức phân tử: C35H60O6
Công thức cấu tạo:

HOH
HO
HO
HO O

H OH
HH

β-sitosterol-3-O-glucopyranoside


3,7,8-tri-O-methylellagic acid
Kết tinh trong methanol, tinh thể dạng bột màu trắng
Nhiệt độ nóng chay: 289 – 290oC
Công thức phân tử: C17H12O8
Công thức cấu tạo:

O
O

O
O

O
O

HO
O

3,7,8-tri-O-methylellagic acid

Đỗ Minh Kiệp

12



Luận văn thạc sỹ hóa học

CHƯƠNG 3
PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1 Phương tiện
3.1.1 Hóa chất
Bang 3.1: Bang liệt kê hóa chất sử dụng
Hóa chất

Nhà sản xuất

Xuất xứ

Petroleum 60 – 90

Chemsol

Việt Nam

Chloroform

Chemsol

Việt Nam

Ethyl acetate

Chemsol


Việt Nam

Acetone

Xilong

Trung Quốc

Ethanol

Chemsol

Việt Nam

Methanol

Chemsol

Việt Nam

Na2SO4 khan

Xilong

Trung Quốc

Lớp mỏng silica gel 60 F254

Merck


Đức

Silica gel F254

Scharlau

Tây Ban Nha

Silica gel F254

Merck

Đức

3.1.2 Dụng cụ, thiết bị
-

Tủ sấy Ecocell, đèn UV
Đèn cồn, ống mao quan
Cột sắc ký, giá đỡ
Bếp điện ALMA
Bình lóng, phễu chiết
Máy cô quay Heidolph
Cốc thủy tinh, bình cầu, ống nhỏ giọt, pipet, ống đong, lọ thủy tinh….
3.1.3 Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài
Từ 9/2013 đến 12/2013

Địa điểm: Phòng Thí nghiệm Hóa Hữu Cơ 1 và Phòng Thí Nghiệm Hóa
Dược, Khoa Khoa học Tự Nhiên, trường Đại học Cần Thơ


Đỗ Minh Kiệp

13


Luận văn thạc sỹ hóa học

3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Phương pháp chiết tách hợp chất hữu cơ ra khỏi cây


Sắc ký cột.

- Sắc ký lớp mỏng.
- Kỹ thuật chiết ngâm dầm và chiết lỏng – lỏng.
3.2.2 Phương pháp xử lý làm sạch hợp chất hữu cơ
Các hợp chất sau quá trình sắc ký cột, dù đôi khi quan sát bằng mắt thường
thấy hợp chất ở dạng bột trắng, sắc ký lớp mỏng sử dụng nhiều loại hệ dung môi
khác nhau vẫn chỉ cho một vết gọn đẹp, những hợp chất này chỉ đạt độ tinh khiết
90 – 95% mà thôi. Sở dĩ như thế là vì một tinh thể của hợp chất nếu có thể quan
sát được bằng mắt thường là gồm rất nhiều phân tử của hợp chất đó kết hợp với
nhau, trong quá trình kết hợp này, chúng cũng gom luôn một ít các phân tử tạp
bẩn từ môi trường bên ngoài vào và lượng này khá ít nên không thể nhìn thấy
bằng mắt thường. Do đó, cần phai kết tinh lại để hợp chất đạt độ tinh khiết cao
hơn, thuận lợi cho quá trình xác định cấu trúc của hợp chất sau này. Thông
thường có thể kết tinh nhờ nhiệt độ lạnh hoặc kết tinh phân đoạn – tức là dựa vào
độ hòa tan khác nhau của chúng trong một dung môi thích hợp.
3.2.3 Phương pháp thủy giải các ceramide và cerebroside
Đối với các hợp chất béo có chứa các dây carbon dài như các hợp chất

ceramide và cerebroside thì rất khó để xác định cấu trúc hóa học bằng phương
pháp phổ nghiệm. Vì thế, người ta thường tiến hành thủy giai để khao sát riêng
phần đường và dây béo.
Thủy giai bằng dung dịch acid trong methanol để cắt đứt nối amide của dây
béo đồng thời cắt đứt nối của phần đường gắn vào phần aglycon qua nhóm −OH.
3.3 Thực nghiệm
3.3.1 Thu hái và xử lý nguyên liệu
- Thu hái nguyên liệu
Lá Bằng Lăng nước được thu hái từ những cành cần tỉa trong đợt tỉa cành,
dọn dẹp khuôn viên ở trường Đại học Cần Thơ.
- Xử lý nguyên liệu
Đỗ Minh Kiệp

14


Luận văn thạc sỹ hóa học

Lá Bằng Lăng nước sau khi thu hái được rửa sạch bằng nước, để ráo tự
nhiên trong mát, cắt nhỏ, phơi gió, sau đó đem sấy ở 55ºC đến khi khối lượng
không đổi.

Hình 3.1 Lá Bằng Lăng nước sau khi thu hái và rửa sạch

Hình 3.2 Lá Bằng Lăng nước sau khi cắt nhỏ và phơi khô
Mẫu khô được nghiền bằng máy đến kích thước thích hợp, khối lượng bột lá
thu được là 3 kg, tiếp đến cho mẫu vào các túi vai đã chuẩn bị sẵn.
3.3.2 Tách chiết và thu cao
Mẫu bột cây được chiết với methanol bằng phương pháp ngâm dầm mỗi lần
ngâm khoang 24 giờ để thu được dịch chiết. Dịch chiết của các lần được gom lại

cô quay đuổi dung môi thu được cao methanol (cao tổng).

Đỗ Minh Kiệp

15


Luận văn thạc sỹ hóa học

Điều chế cao Petroleum ether, cao Chloroform, cao Ethyl acetate bằng
phương pháp chiết lỏng – lỏng, sơ đồ tổng quát (Hình 3.4) bên dưới.

Lá cây tươi
Loại bỏ các lá hư, có sâu bọ
Rửa sạch, phơi gió
Sấy ở 55ºC
Nghiền mịn
Bột lá cây
Ngâm dầm với methanol
Cô quay dịch chiết đuổi dung môi
Cao methanol
Chiết lỏng – lỏng với PE

Cao PE

Dịch chiết còn lại
Chiết lỏng – lỏng
với chloroform
Dịch chiết còn lại


Cao chloroform

Chiết lỏng lỏng với Ea

Cao Ea

Dịch chiết còn lại (không khao sát)

Hình 3.3 Sơ đồ tổng quát điều chế các cao phân đoạn


Quá trình điều chế thu cao methanol (cao tổng)

Đặt các túi mẫu vào trong các bình thủy tinh 10 lít, đổ dung môi methanol
vào bình đến vừa ngập các túi mẫu.
Sau khi ngâm các túi mẫu trong methanol khoang 24 giờ, dịch chiết trong
bình được thu lại, sau đó tiếp tục cho các túi mẫu lại vào bình thủy tinh, cho tiếp
methanol vào bình và ngâm trong 24 giờ nữa. Quá trình này được lặp lại 4 lần,

Đỗ Minh Kiệp

16


Luận văn thạc sỹ hóa học

đến lần thứ 4 thì dịch chiết trong bình đã rất nhạt màu, đồng thời tiến hành SKLM
dịch chiết này thấy không còn vết nên không tiến hành chiết nữa. Tất ca dịch
chiết được gom lại đem đi lọc để loại bỏ các bột cây mịn mà túi vai không giữ lại
được.

Dịch chiết sau khi lọc được đem đi cô quay, thu hồi dung môi, thu được cao
methanol ở dạng sệt, đậm màu, chủ yếu là vật chất khô và nước, có khối lượng là
80 g.
Hiệu suất điều chế cao tổng:
H=

80 * 100
= 2,67%
3 * 1000

Cao methanol thu được được cho thêm một lượng methanol vào, bịt kín lại
vào cho vào tủ lạnh tránh sự xâm hại của các vi sinh vật để sử dụng cho các mục
đích tiếp theo.


Điều chế các cao phân đoạn từ cao methanol

Các cao phân đoạn được điều chế từ cao methanol qua phương pháp chiết
lỏng – lỏng. Ở đây, thực hiện chiết cao tổng với PE, chloroform, và Ea. Phần dịch
chiết còn lại sau khi chiết với ba dung môi trên được lưu trữ lại, không khao sát.
Cao petroleum ether sau đó được lựa chọn để tiếp tục khao sát trước tiên.
a) Quá trình điều chế thu cao petroleum ether
Sử dụng bình lóng loại 500 mL, lấy mỗi lần khoang 40 g cao methanol. Cho
nước vào bình lóng trước, thể tích nước cho vào tương đương với thể tích 40 g
cao trên theo tỉ lệ 1 : 1. Thêm tiếp khoang 200 – 300 mL PE vào, lắc đều bình
lóng, sau đó để yên khoang 15 phút cho dung dịch phân lớp. Lấy lớp PE ở trên,
lớp nước ở dưới tiếp tục được chiết với PE, quá trình được lặp lại nhiều lần. Cho
đến khi quan sát thấy lớp PE ở trên không màu, đồng thời kiểm tra lại bằng
SKLM không thấy hiện vết nữa thì dừng việc chiết.
Quá trình trên được lặp lại tương tự với 40 g cao tổng còn lại. Lớp PE của

các lần chiết được gom lại, làm khan nước, đem cô quay thu hồi dung môi. Sau
khi cao khô hoàn toàn, đem đi cân, thu được khoang 50 g cao PE.
Hiệu suất chiết cao PE từ cao methanol là:
H=

Đỗ Minh Kiệp

50 * 100
= 62,5%
80

17


Luận văn thạc sỹ hóa học

b) Quá trình điều chế cao chloroform
Lớp nước còn lại sau khi chiết với dung môi PE tiếp tục được chiết với
chloroform. Quá trình chiết với chloroform cũng tương tự như với PE, nhưng do
chloroform nặng hơn nước nên trong phân đoạn này sẽ thu lấy lớp chloroform ở
dưới, lớp nước sẽ ở phía trên. Khi lớp dung môi ở dưới hết màu, đồng thời SKLM
không còn thấy vết thì dừng lại. Gom lớp chloroform của tất ca lần chiết lại, cô
quay thu hồi dung môi. Sau khi khô, khối lượng cao chloroform thu được là 6 g.
Hiệu suất chiết cao chloroform từ cao tổng là:
H=

6 *100
= 7,5%
80


c) Quá trình điều chế cao Ea
Sau khi chiết với chloroform, dịch chiết còn lại tiếp tục được chiết với Ea.
Quá trình chiết cao tương tự như chiết với PE, vẫn lấy lớp dung dịch phía trên do
Ea nhẹ hơn nước. Các công đoạn sau thực hiện như khi lắc cao PE, sau khi cô
quay thu hồi dung môi, khối lượng cao Ea thu được là 6 g.
Dịch chiết còn lại sau khi chiết với Ea được lưu trữ lại, không khao sát.
Hiệu suất chiết cao ethyl acetate từ cao tổng là:
H=

6 *100
= 7,5%
80

 Nhận xét: Qua quá trình điều chế các cao cho thấy cao ether dầu hỏa cho
hiệu suất cao nhất (khối lượng 50 g) nên cao này được chọn để tiến hành khao
sát.
3.3.3 Phân lập và tinh chế
Sử dụng SKC để tách và tinh chế các chất.
Dò tìm hệ dung môi giai ly cột, kiểm tra quá trình SKC và mức độ tinh sạch
của hợp chất bằng SKLM.
Cao chloroform và ethyl acetate được lưu trữ lại, cao PE được tiến hành
khao sát tiếp tục.

Đỗ Minh Kiệp

18


Luận văn thạc sỹ hóa học




Sắc ký cột cao petroleum ether

Sử dụng phương pháp sắc ký cột thường để phân tích cao PE có khối lượng
50 g, sử dụng 1000 g silica gel loại F 254, cột sắc ký có đường kính 10 cm. Từ kết
qua SKLM cao PE thu được bên trên, thực hiện sắc ký cột với dung môi giai ly
đầu tiên là PE (100%), sau đó tăng dần độ phân cực của dung môi giai ly bằng
cách tăng dần tỉ lệ Ea. Dung dịch ra khỏi cột được cho vào các lọ thủy tinh với
thể tích mỗi lần hứng là 100 mL.
CHCl3 : CH3OH
(9 : 1)

Hình 3.4 SKLM và SKC của cao PE
Theo dõi quá trình SKC bằng SKLM, các lọ dung dịch có vết giống nhau
được gom lại một phân đoạn. Kết qua SKC cao PE được trình bày trong Bang 3.1
và Hình 3.5.

Đỗ Minh Kiệp

19


×