Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận cao học triết lịch sử triết học cổ điển Đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.97 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

A. Lời nói đầu:
1. Lý do chọn đề tài
2. Tài liệu tham khảo
B. Nội dung
I. Khái quát về tiền đề ra đời và đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
1.1. Tiền đề xuất hiện triết học cổ điển Đức.
1.2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
II. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của I.kant.
2.1. Thời kỳ tiền phê phán và những tư tưởng triết học khoa học tự nhiên.
2.2. Thời kỳ phê phán và những quan điểm triết học cơ bản.
2.2.1. Bước ngoặt trong quan điểm triết học và thế giới quan.
2.2.2. Bản chất, nhiệm vụ, chức năng của triết học
III. Nội dung cơ bản của triết học cantơ
3.1. Triết học nhận thức:
3.1.1. Thuyết hai thế giới và quan niệm về nhận thức.

Trang
2
2
3
4
4
4
7
9
10
12
12
13


14
14
17
17
19
21
22
23

3.1.1.1. Thuyết hai thế giới:
3.1.1.2. Quan niệm về nhận thức.Kinh nghiệm và tiên nghiệm.
3.1.2 Học thuyết về tri thức
3.1.3 Trực giác cảm tính. Khả năng phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong
toán học.
3.1.4 Giác tính phân tích (hay phân tích tiên nghiệm). Khả năng nhận thức
của khoa học tự nhiên lý thuyết.
3.1.5. Lý tính (hay biện chứng tiên nghiệm). Về khả năng của siêu hình học.
3.2 Triết học thực tiễn.
3.2.1 Đạo đức học của Cantơ.
3.2.2. Quan niệm về lịch sử, xã hội, pháp quyền.
3.2.3. Mỹ học và quan điểm triết học về con người và tương lai loài người
C. Kết luận.

1

24
24
29
31



A. LỜI NÓI ĐẦU
Vào thời mình, F.Engen đã từng nói: “ Một dân tộc đứng vững trên đỉnh cao của
khoa học thì không thể có tư duy lý luận”, nhưng tu duy lý luận ấy “ cần phải được
hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là
nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước ” vì “ triết học là sự tổng kết lịch sử tư duy ”
(Hêghen). Mặt khác vì lịch sử phát triển của tư duy được tổng kết trong lịch sử triết
học, nên chính lịch sử triết học là cơ sở để hình thành phép biện chứng.
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng
Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết
học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại triết học
cổ điển Đức vì vậy, trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành chủ nghĩa Mác –
nguồn gốc triết học (cùng với kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không
tưởng Pháp) Triết học Cantơ khởi xướng một phong trào lưu triết học mới – triết học
duy tâm phê phán tiên nghiệm để tiếp đó, Phíchtơ Seu – ing tiếp tục tìm tòi mở rộng,
đến Hêghen nó phát triển thành một hệ thống triết học duy tâm biện chứng và Phoiơ
bắc đã kết thúc triết học cổ điển Đức với chủ nghĩa duy vật nhân bản của mình. Triết
học Cantơ là một hiện tượng hết sức phức tạp. Cantơ là người đầu tiên có ý đồ và đã
được thực hiện ý đồ tổng kết toàn bộ tri thức Triết học trong lịch sử tư tưởng loài người.
Trên tinh thần phê phán, Cantơ đã phê phán các hệ thống triết học trước đó, gạn lọc kế
thừa và phát triển những yếu tố mà ông cho là đúng giá trị, từ đó xây dựng một hệ
thống triết học riêng theo một mẫu mực mới – Triết học vạn năng.
1. Lý do chọn đề tài:
Imanuen Cantơ (Imanuel Kant) là một trong những nhà triết học vĩ đại của lịch
sử tư duy phương Tây trước Mác. Triết học Cantơ “là nền tảng và điểm xuất phát của
triết học Đức hiện đại, những hạn chế trong triết học của ông không làm lu mờ công
lao đó của triết học triết học Cantơ”
Triết học Cantơ có vị trí quan trọng trong triết học cổ điển Đức. Cantơ có vị trí
quan trọng trong triết học trong triết học cổ điển Đức. Triết học Cantơ đi vào rất nhiều
vấn đề, nhiều khía cạnh, nêu lên những lý tưởng mới lạ, trừu tượng và hết sức khó hiểu.

Chính vì vậy cho đến nay dù đã nhiều công trình nghiên cứu về Cantơ, song không phải
những công trình đó đã đi sâu cặn kẽ vào hết các ý tưởng của Cantơ không phải ai cũng
hiểu nó một cách hoàn toàn giống nhau.

2


Tìm hiểu về triết học của Cantơ em muốn đi sâu nghiên cứu một cách khái quát
về hệ thống triết học của Cantơ, nghiên cứu về triết học thực tiễn, triết học nhận thức về
cuộc đời và sự nghiệp của ông.
Do quá trình làm bài còn nhiều thiếu sót, cũng như kiến thức và tài liệu chưa
được đầy đủ em mong được sự góp ý và chỉnh sửa và bổ sung của Thầy để bài viết
được thực sự hoàn chỉnh hơn.
.

3


B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC
CỔ ĐIỂN ĐỨC
1.1. Tiền đề xuất hiện triết học cổ điển Đức.
Vào cuối thế kỷ XVIII, Tây Âu đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội
mới, khẳng định phương thức sản xuất TBCN, đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống
trị.Các cuộc cách mạng xã hội thế kỷ XVII - XVIII mở đường cho sự phát triển các tư
tưởng xã hội tiến bộ, đẩy đến cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794).
Cách mạng công nghiệp Anh khẳng định sức mạnh của con người trong nhận
thức thế giới, cùng với cách mạng tư sản Pháp thể hiện khả năng cải tạo thế giới, làm
rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở đầu của cách mạng công nghiệp.
Hai cuộc cách mạng tiêu biểu đó ảnh hưởng rộng lớn đến phong trào giải phóng

ở các nước châu Âu chống chủ nghĩa phong kiến, phát triển hệ tư tưởng tư sản - hệ tư
tưởng mới và tiến bộ trong lịch sử. Các nhà tư tưởng tư sản đòi hỏi phải trả lại cho con
người những cái mà hệ tư tưởng phong kiến đang phủ nhận. Quyền tự do, bình đẳng,
quyền sở hữu riêng của mỗi cá nhân và quyền mưu cầu hạnh phúc. Hệ tư tưởng tư sản
tuyên bố: con người là thực thể tối cao, con người phải vươn tới trí tuệ và tự do, phải
thực hiện tiến bộ xã hội và hạnh phúc cho con người.
Tuy nhiên về mặt chính trị, chủ nghĩa phong kiến chưa bị tiêu vong hoàn toàn. Ở
những nước mà kinh tế TBCN chưa thể thực hiện việc cải tạo cách mạng tư sản, lực
lượng phong kiến vẫn nắm chính quyền và không chịu phân quyền cho giai cấp còn non
yếu. Sự phục hồi chế độ quân chủ nửa phong kiến Buốcbông ở Pháp, Hội nghị viên ở
Áo thống nhất các lực lượng quân chủ - phong kiến toàn châu Âu. Chứng tỏ lực lượng
phong kiến vẫn đang còn mạnh và đang chuẩn bị phản công lại giai cấp tư sản.
Giai cấp tư sản cảm nhận được khả năng thất bại của mình không chỉ từ sự phản
công của thế lực phong kiến mà cả từ phía quần chúng bị áp bức, những người mà sự
khẳng định của CNTB cang làm cho đời sống của họ tồi tệ hơn. Ngay từ những cuộc
cách mạng tư sản trước đó trong “đẳng cấp thứ ba” này xuất hiện những mâu thuẫn và
giờ đây chúng trở thành mâu thuẫn đối kháng.
Tình hình đó dẫn đến trong hệ tư tưởng tư sản khuynh hướng thoả hiệp với các
lực lượng phong kiến lại tăng lên, các thể chế phong kiến đến lượt mình lại thích nghi
với trật tự tư sản và trong phạm vi đáng kể được tưu sản hoá. Những mâu thuẫn và thoả

4


hiệp có biểu hiện rõ nhất ở nước Đức, nơi mà có sự phát triển của CNTB bị cản trở bởi
điều kiện kinh tế và chính trị của nó.
Trong thời kỳ đó, nếu nước Anh nhờ cách mạng tư sản và bước ngoặt công
nghiệp mà trở thành quốc gia tư bản lớn mạnh nhất, và ở Pháp nhờ kết quả của cách
mạng tư sản Pháp 1789, giai cấp tư sản đã tiêu diệt chủ nghĩa phong kiến, tiến nhanh
trên con đường tư bản chủ nghĩa thì ở nước Đức hãy còn là một nước nửa phong kiến bị

phân hoá cả về kinh tế lẫn chính trị. Những tàn tích của chế độ nông nô, chế độ phường
hội, chúa đất, sự tồn tại của nhiều quốc gia nhỏ bé phụ thuộc lẫn nhau với các thể chế
chính trị phản động..., không chỉ kìm hãm sự phát triển mà còn làm tăng thêm mức độ
lạc hậu của nước Đức so với các nước đã phát triển quan hệ TBCN.
F. Enghen nhận xét rằng: đó là “thời kỳ nhục nhã về mặt chính trị và xã hội”...
“Mọi thứ đều nát bét lung lay, xem chừng sắp sụp đổ, thậm chí chẳng còn tới một tia hy
vọng chuyển biến tốt lên vì dân tộc, thậm chí không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa
nát của chế độ đã chết rồi”.
Nhưng đồng thời Enghen cũng viết rằng “thời kỳ nhục nhã” đó lại mang một nét
đặc biệt rất đáng tự hào: Đó là thời kỳ vĩ đại trong lịch sử văn hoá, nghệ thuật và triết
học Đức, mỗi tác phẩm xuất chúng của thời đại đó đều thấm đượm tinh thần phê phán,
phản kháng, chống lại chế độ xã hội đương thời. Tinh thần đó tràn đầy trong các tác
phẩm văn học nghệ thuật, triết học của: G.G.Heeđe (1744 - 1803), G.F.Lêxinh (1729 1791), G.F.Sinlơ (1759 - 1805), I.F.G.Phichtơ (1762 - 1814), S.V.Selling (1775 - 1854),
G.V.F.Hêghen (1730 - 1831), Lútvích Phoiơbắc (1804 - 1872)... các đại biểu lỗi lạc của
triết học cổ điển Đức.
ở Đức cũng như ở Pháp, cách mạng đã chuẩn bị tư tưởng cho cách mạng tư sản.
Nhưng khác với các nhà tư tưởng Pháp, các nhà triết học Đức không đồng thời là các
nhà hoạt động cách mạng. Không như P.H.Hônbach (1723 - 1789), R.Điđirô và các nhà
hoạt động khác ở thời kỳ khai sáng, các nhà triết học Đức là những nhà duy tâm. Điều
đó được phản ánh trong sự bất lực tiến hành một cuộc cách mạng chống lại trật tự
phong kiến, và cuối cùng thể hiện ở sự thoả hiệp của họ. Các học thuyết triết học duy
tâm của các nhà triết học cổ điển Đức không thể làm tiền đề cho sự cải tạo tư sản nước
Đức, theo mong muốn mà tuyên ngôn của họ đã nêu, tự do, trí tuệ, hạnh phúc và quyền
con người.

5


Mác gọi triết học Cantơ là học thuyết Đức của cách mạng tư sản Pháp. Định
nghĩa đó cũng hoàn toàn đúng với triết học Phíchtơ, Sêling, Hêghen.

Học thuyết của các nhà triết học Đức về sự phát triển đã gián tiếp hoặc trực tiếp
chống lại các lực lượng phong kiến phản động. V.I.Lênin viết: “lòng tin của Hêghen
vào lý tính của con người và vào quyền lợi của con người và nguyên lý cơ bản của triết
học. Hêghen cho rằng trong thế giới luôn diễn ra một quá trình liên tiếp biến hoá và
phát triển..., ngay cả cuộc đấu tranh chống hiện trạng, cuộc đấu tranh chống bất công
đang tồn tại và chống điều ác tung hoành cũng bắt rễ từ quy luật phổ biến là sự phát
triển không ngừng”.
Song các học thuyết đó không biến thành cách mạng được, nó duy tâm và yếu
hèn. Tính chất duy tâm và tinh thần yếu hèn đó đã dẫn đến những hạn chế trong triết
học cổ điển Đức.
Hạn chế của nnó là ở chỗ, các nhà triết học Đức hiểu sự phát triển như một quá
trình tinh thần, một quá trình tự thức tỉnh và sự phát triển của lý tính. Cách hiểu đó đã
xóa nhoà bản chất vật chất của sự cải tạo xã hội hiện thực và về lý thuyết nó biện hộ
cho sự thoả hiệp chính trị với các thế lực phong kiến của giai cấp tư sản.
Vấn đề dặt ra là tại sao các nhà duy tâm tư sản yếu hèn trong điều kiện kinh tế xã hội thấp kém của nước Đức lại làm nên những thành tựu vĩ đại trong triết học.
Lịch sử tư tưởng chứng minh rằng, các học thuyết tư tưởng tiến bộ có thể nảy
sinh trong lòng một nước có trình độ kinh tế lạc hậu hơn nếu biết tiếp thu thành tựu
mọi mặt của các nước tiến bộ khác.
Ở Pháp vào thế kỷ XVIII nền kinh tế kém phát triển hơn ở Anh, song lại hình
thành chủ nghĩa duy vật: Hônbach, R.Điđro... Chính vì chủ nghĩa duy vật Pháp dựa trên
những thành tựu của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII. ở Đức tình hình cũng tương
tự. Triết học cổ điển Đức dựa trên những thành tựu triết học của các nước phát triển
châu Âu, nó tiếp thu được tư tưởng giải phóng tư tưởng cách mạng của các nhà duy vật
cách mạng Pháp.
Những tiền đề cho sự phát triển thế giới quan biện chứng đối với lịch sử nhân
loại và sự khái quát lý thuyết phép biện chứng của các nhà duy tâm Đức là: bước ngoặt
kinh tế - xã hội có tính chất thời đại của Anh, bước ngoặt tư tưởng xã hội có tính lịch sử
thế giới của cách mạng tư sản Pháp, sự kế thừa truyền thống triết học biện chứng Đức
và đặc biệt là những thành tựu của khoa học tự nhiên.


6


Những bậc tiền bối của triết học cổ điển Đức là nhà triết học - toán học Pháp
R.Điđro, nhà vật lý học Anh I.Niutơn, C.Vônphơ... Các học thuyết của họ chứa đựng
những tư tưởng biện chứng sâu sắc.
Khoa học tự nhiên lúc này với những phát minh xuất sắc đã vạch rõ tính biện
chứng của quá trình tự nhiên, thúc đẩy việc xây dựng phép biện chứng.
Những thành tựu đó phản ánh vào trong tư tưởng, trong những học thuyết của
các nhà triết học cổ điển Đức và là những tiền đề cho những tư tưởng biện chứng thiên
tài của họ. Những thành tựu đó chứng tỏ khoa học tự nhiên đã chín muồi cho sự tổng
kết biện chứng, nó cần xây dựng một phương pháp tư duy và khảo sát mới - phương
pháp biện chứng để có thể phản ánh đầy đủ những quy luật tự nhiên khách quan. Nếu ở
thế kỷ XVII những nhà khoa học bắt đầu từ Bêcơn, Galilê, xây dựng một cách tự phát
phương pháp siêu hình cho nhận thức khoa học thì ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX,
các nhà triết học Đức đã bắt đầu xây dựng phương pháp biện chứng cho khoa học.
Nhưng sự thực hiển nhiên đó trong triết học cổ điển Đức chưa tiến hành triệt để, nó vẫn
là triết học đầy mâu thuẫn trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm xa lạ với tinh thần duy vật càng
xa lạ với biện chứng duy vật khoa học.
1.2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức.
Thành tựu và cống hiến.
Tuy có những hạn chế trong lĩnh vực chính trị - xã hội nhưng thành tựu của triết
học cổ điển Đức thật là vĩ đại.
Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình
lịch sử nhân loại, nó đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người. Khắc phục triết
học truyền thống phương Tây. Nó coi con người là chủ thể hoạt động như là vấn đề nền
tảng, xuất phát điểm của một vấn đề triết học.
Kế tục tư tưởng triết học cổ đại (Xôcrat cho triết học là sự tự ý thức của con
người về chính bản thân mình) và phục hưng (coi con người là trung tâm). Cantơ lần
đầu tiên hiểu con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của

mình, khẳng định hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận. Hêghen phát triển thêm tư tưởng
này và coi bản thân lịch sử phươn thức tồn tại của con người, mỗi cá nhân hoàn tàon
làm chủ vận mệnh của mình. Ông khẳng định: con người là sản phẩm của một thời đại
lịch sử nhất là định vì vậy nó mang bản chất xã hội.

7


Trước những thành tựu khổng lồ của kinh tế - xã hội, khoa học - văn hoá. Các
nhà triết học cổ điển Đức từ Cantơ đến Hêghen đều đề cao sức mạnh trí tuệ và khả năng
hoạt động cảu con người. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh sức mạnh của con người họ đã rơi
vào cực đoan, họ đã thần thánh hoá con người, coi con người là chúa tể tự nhiên, bản
thân giới tự nhiên nhiều chỗ cũng được họ luận giải như kết quả hoạt động của con
người.
Tuy vậy phải thấy một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển Đức là
nó khẳng định rằng tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực con người
nhận thức và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của toàn bộ nền
văn minh do chính mình tạo ra, nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân loại cũng như toàn bộ
mối quan hệ con người - tự nhiên như một quá trình phát triển biện chứng.
Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên các hệ
thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, lôgic biện chứng, học thuyết
về các quá trình phát triển, mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả cá tìm tòi của họ đó là phép
biện chứng.
Với cách nhìn tổng quát và phương pháp biện chứng, các nhà triết học cổ điển
Đức có ý đồ hệ thống hoá toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại đã đạt được. Tiếp
thu tinh hoa của siêu hình học thế kỷ XVIII trong việc phát triển tư duy lý luận và hệ
thống hoá toàn bộ tri thức loài người, Cantơ và Hêghen có ý đồ xây dựng một hệ thống
triết học vạn năng làm nền tảng cho thế giới quan của con người, khôi phục lại các quan
niệm coi triết học là khoa học của các khoa học.
Phải nói rằng: triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch

sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của
thời kỳ triết học cổ điển ở phương Tây, đồng thời nó ảnh hưởng to lớn đến triết học
hiện đại.
Mặt hạn chế:
Hạn chế chung nhất trong thế giới quan của các nhà triết học cổ điển Đức thể
hiện rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng - khoa học về tư tưởng với tính bảo thủ về lập
trường chính trị - xã hội hầu hết các nhà triết học thời kỳ này đều xây dựng được hệ
thống triết học chứa đựng những tư tưởng khoa học lớn có tính vạch thời đại, đặc biệt là
triết học Cantơ và Hêghen. Nhưng họ lại không dám tiến hành, thực hiện những cuộc
cải cách, bảo vệ chính thể Nhà nước Phổ phong kiến.

8


Chủ nghĩa duy tâm thần bí, phía trước và bên cạnh các nhà triết học cổ điển Đức
là một dòng triết học duy vật, đặc biệt là tư tưởng duy vật của các nhà triết học khai
sáng. Song các nhà triết học cổ điển Đức thấy rằng: từ quan điểm duy vật, người ta
không thể giải thích được thế giới. Bản chất của thế giới theo họ là tinh thần, do vậy chỉ
có thể giải quyết được những vấn đề cảu thế giới bằng tinh thần. Họ đã từ thế giới tinh
thần xây dựng nên những hệ thống triết học duy tâm, thần bí.
Triết học trừu tượng tách rời hiện thực, triết học cổ điển Đức đưa ra được những
tư tưởng tiến bộ, chống chế độ xã hội cũ nhưng đó chỉ là những tư tưởng, nó không đi
vào chính trị xã hội và hoạt động cách mạng mà chỉ là những hệ thống triết lý trừu
tượng ở bên trên.
Nếu các nhà tư tưởng pháp tiến hành cách mạng trong thực tiễn, công khai chống
lại Nhà nước và giáo hội thì các nhà triết học cổ điển Đức chỉ suy nghĩ về nó trong tư
tưởng, không giám công khai chống lại thực tại đó. Họ là các giáo sư chính thức trong
các trường Đại học của vương quốc Phổ, do sợ hãi hiện thực cách mạng, thoả hiệp với
giai cấp tư sản, tư tưởng cách mạng của họ đã phải phủ ngoài triết học cảu mình một
lớp vỏ thần bí duy tâm tự biện, nặng nề, xa rời hiện thực.

II. VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA IMANUEN CANTO.
I.kant là người sáng lập ra triết học cổ điển Đức. Ông sinh ngày 22 - 04 - 1724
và lớn lên trong một gia đình trung lưu gốc Scốtlen tại Kenítbec, một thành phố cổ
vùng Đông - Bắc nước Phổ trước đây. Mùa thu năm 1740 ông vào học khoa triết học
trường đại học Kenítbec. Ở đây ông được trang bị không chỉ triết học mà cả khoa học tự
nhiên. Ngay từ những năm trong trường đại học ông đã rất quan tâm và có năng khiếu
về các môn toán học và vật lý học và cơ học, vũ trụ học...
Năm 1770, ông trở thành giáo sư và là Giám đốc trường Đại học Kennitbéc.
Năm 1775, ông nhận học viện Tiến sỹ triết học với luận văn: “Lịch sử tự nhiên và lý
thuyết về thiên hà”.
Cantơ không hề ra khỏi thành phố quê hương quá 60 dặm và suốt đời độc thân.
ông mất ngày 12 tháng 4 năm 1804.
Ở trường đại học Kenitbéc, Cantơ giảng một loạt các môn học: Siêu hình học
(triết học) và lôgíc học, toán học và cơ học, vật lý học và địa chất học, nhân loại học và
lịch sử tự nhiên đại cương. Ông còn giảng cả vũ trụ học, địa vật lý, nhân chủng học.
Cũng ở đây, Cantơ đã tập trung toàn bộ sức lực và thời gian để thực hiện nhiệm vụ mà

9


cả cuộc đời ông đã dặt ra cho mình là xây dựng một hệ thống triết học mới. Nhiều công
trình khao học tự nhiên và triết học của ông đã ra đời, nâng ông lên vị trí một trong
những học giả uyên bác nhất thời đó. Những học thuyết của ông thống trị tư tưởng khao
học và triết học tư sản TK XIX. Ông đã để lại cho nhân loại một trong những hệ thống
triết học độc đáo và sâu sắc nhất.
Quá trình phát triển triết học của Cantơ diễn ra qua hai thời kỳ.
Thời kỳ 1: Từ năm 1770 trở về trước.
Thời kỳ 2: Từ năm 1770 đến cuối đời.
Bởi nhiệm vụ triết học trong thời kỳ 2 do Cantơ đặt ra là phê phán (các hệ thống
triết học trước đó) nên thời kỳ này được gọi là thời kỳ phê phán. Còn thời kỳ 1, tư

tưởng phê phán chưa rõ ràng nên được gọi là thời kỳ tiền phê phán.
2.1. Thời kỳ tiền phê phán và những tư tưởng triết học khoa học tự nhiên.
Thời kỳ 1, Cantơ đã quan tâm đến nhiều lĩnh vực mà ông đang giảng dạy và
nghiên cứu trong trường Đại học nhưng chủ yếu tập trung vào triết học tự nhiên.
Nghiên cứu những vấn đề trong lĩnh vực triết học tự nhiên. Cantơ xuất phát từ niềm tin
cho rằng: Triết học với tư cách là một khoa học lý thuyết tự biện có thể lý giải được mà
không cần đến kinh nghiệm.Thời kỳ này, với những thành công trong khoa học ông là
người lạc quan, tin tưởng vào khả năng nhận thức thế giới của con người. Trong thời kỳ
này Cantơ viết một khối lượng lớn các công trình về triết học, khoa học tự nhiên. Đặc
điểm rõ rệt trong các công trình này là những tư tưởng triết học và khoa học tự nhiên
gắn bó chặt chẽ với nhau. Ở nhiều ngành khoa học tự nhiên, nơi mà Cantơ bỏ công
nghiên cứu, ông đều đề xuất được những ý tưởng có giá trị.
Trong vật lý học, khi phát triển các tư tưởng về sự vận động, về lực hấp dẫn của
các nhà toán học, vật lý học và cơ học, Cantơ đã luận giải sâu hơn lý thuyết về sự vận
động và đứng im.
Trong sinh học, Cantơ đã đề xuất tư tưởng phân loại động vật theo nguồn gốc
riêng của từng loại, cơ sở của sự phân loại là dựa vào các nhóm gen của chúng.
Trong nhân loại hoc, Cantơ đề xuất tư tưởng về lịch sử tự nhiên của loài người. ở
đây ông lý giải sự hình thành và sự phát triển của loài người qua các giai đoạn mông
muội, văn minh và hiện đại.

10


Khác với Niutơn, Cantơ đã thử ứng dụng các nguyên tắc của khoa học tự nhiên
hiện đại vào việc giải thích không chỉ kết cấu của hệ thống Mặt trời cho giai đoạn hiện
tại, mà còn giải thích sự nảy sinh của hệ thống đó.
2.2. Thời kỳ phê phán và những quan điểm triết học cơ bản.
Nếu ở thời kỳ tiền phê phán, Cantơ nghiên cứu triết học khoa học tự nhiên thì
sang thời kỳ phê phán ông chú ý những vấn đề xã hội con người, nếu trước đây ông

thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới thì bây giờ ông lại cho rằng con
người không nhận thức được thế giới, trước đây ông là người đề cao trí tuệ thì nay ông
lại đề cao tín ngưỡng.
Về nhận thức luận,Cantơ luôn luôn bác lại những nhà duy vật kinh nghiệm chủ
nghĩa, những nhà cho rằng trí tuệ của chúng ta có được là nhờ kinh nghiệm, nhờ kinh
nghiệm mà ta nhận thức đuợc thế giới.Ngược lại,Cantơ cho rằng, trí tuệ là một cơ quan
năng động có sẵn khả năng hiểu biết -trí tuệ tiên nghiệm, chúng ta nhận thức thế giới có
hiệu quả chính là bằng trí tuệ tiên nghiệm đó
Từ năm 1770 về sau, Cantơ đã đặt ra nhiệm vụ cho bản thân mình là phải xây
dựng một hệ thống triết học theo quan điểm duy tâm phê phán tiên nghiệm,Hệ thống
triết học đó được Cantơ trình bày chủ yếu trong bộ ba tác phẩm :
Phê phán lý tính thuần tuý (1781)
Phê phán lý tính thực tiễn (1788)
Phê phán năng lực phán đoán (1790)
III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC CANTƠ
3.1. Triết học lý luận:
Triết học lý luận của Cantơ đề cập đến những vấn đề nhận thức luận và logíc
học với mục đích xây dựng một nền tảngthế giới quan mới cho con người,xác định giới
hạn và đối tượng của tri thức con người,hay theo cách đặt vấn đè của cantơ là giải đáp
vấn đề tôi có thể biết được cái gì?
Triết học nhận thức chủ yếu là xây dựng lý thuyết tiên nghiệm; tri thức và khả
năng (giới hạn) của các loại tri thức.
3.1.1. Thuyết hai thế giới và quan niệm về nhận thức.

11


Tiền đề cho bộ ba tác phẩm “triết học phê phán ” của Cantơ là thuyết hai thế
giới : Thế giới vật tự nó (Ding and Sich) và thế giới hiện tượng (fonomen).
3.1.1.1. Thuyết hai thế giới:

Cơ sở tư tưởng của sự hình thành quan niệm “vật tư do”.
a) Vấn đề quan hệ giữa tư tưởng và hiện thực vẫn luôn là vấn đề phức tạp, nó
như một câu hỏi treo trước nhà triết học.Trong khi các nhà khoa học và triết học chưa
có ý kiến thống nhất,khoa học và thần họpc đối lập nhau trong việc giải quyết vấn đề đó
thì Cantơ nghiêng về phía cho rằng hiện thực và tư tưởng là hai lĩnh vực khác nhau,
không liên quan đến nhau.
b) “Do hạn chế về khoa học, Engen nhận định sự hiểu biết của loài người về thế
giới cho đến nay vẫn còn quá vụn vặt, mơ hồ,đến nới đằng sau mỗi sự vật tự nhiên
ấy,người ta vẫn có thể cho rằng có một “vật” tự do bí ẩn đặc biệt nữa”.Chưa vượt qua
tầm nhìn đương đại,Cantơ cũng quan niệm như vậy.Cantơ coi “cái vật tự do bí ẩn đặc
biệt” ở đằng sau mỗi sự vật đó là “cái cân nguyên”, “cái tồn tại thực sự”, là “bản chất”
của vật chất,-bản chất cua thế giới.
c) Dựa vào Thuyết động lưc học Cantơ cho rằng chính cái vật tự do bí ẩn ở đằng
sau sự vật chính là cái tao ra “lực vận động” như là một nguyên nhân đầu tiên của vật
chất,của vận động-cái tinh thần của tinh thần,-cái đó,tự nó,tồn tại. Và cantơ đi đến kếtl
luận: rõ ràng là có vật tự do.
Cantơ viết: “tôi gọi vật tự nó là khái niệm đang nghi ngờ nhưng nó tồn tại
khách quan và không thể nhận thức được bằng mọi cách.Khái niêm vật tự nó nghĩa vật
cần phải được nhận thức không phải như đói tượng cảm tính mà như vật tồn tại tự nó”.
Thế giới vật tự nó.
Vật tự nó theo quan niệm cua Cantơ có thể hiểu theo ba nghĩa sau:
1. Là vật khách quan, tự nó tồn tại, ở bên ngoài con người, con người không
biết gì về nó.
2. Vật tự nó là căn nguyên của thế giới, là cái tồn tại thức sự, là bản chất của
thế giới, tinh thần của tinh thần.
3. Vật tự nó còn ám chỉ những những chuẩn mực, những lý tưởng của mọi sự
hoàn thiện tuyệt đối mà con người không thể đạt tới được, nhưng nó là những điều mà
con người hằng mong ước: Tự do, linh hồn bất tử, Thượng Đế. Đây là lĩnh vực thuộc
đối tượng của tín ngưỡng, của niềm tin.


12


Thế giới hiện tượng
Thế giới hiện thực trong lĩnh vực muôn màu muôn vẻ của nó như đất nước,
sông núi, cỏ cây,…và những quy luật dẫn dắt mọi quá trình của thế giới đó,…theo
Cantơ, là những cái đang tộn tại dưới dạng hình thức (hiện tượng) của thể giới vật tự
nó. Thế giới đó biểu hiện ra như chúng ta thấy là do “tác động”thế giới vật tự nó đến
khả năng cảm giác tiên nghiệm của chúng ta, gây nên những biểu tượng, những biểu
tượng đó qua kinh nghiệm của chủ thể nhận thức mà xây dựng nên những hình dạng
như chúng đang tồn tại trong hiện thực. Cantơ viết rằng, “giác tính, bằng khả năng tổng
hợp của mình, thông qua các khái niệm hay các phạm trù mà sáng tạo ra giới tự nhiên
với các hiện tượng đa dạng, phong phú như nó đang tồn tại. Mọi hiện tượng của giới tự
nhiên phải chịu sự chi phối của các phạm trù lý tính”. Nói cách khác, thế giới hiện
tượng này chính là thế giới bề ngoài của thế giới vật tự nó, là phần biểu hiện “ vật chất”
của thế giới tinh thần.
Lý do vật tự nó là không thể nhận thức được.
a) Vào thời đại của Cantơ, nhiều nhà tư tưởng thừa nhận sự tồn tại của Thượng
Đế, song họ không xác định được một cách thống nhất bản chất và vai trò của Thượng
Đế trong thế giới hiện thực. Đó là chổ yếu của cả thần học và triết học duy tâm nói
chung để các nhà vô thầm phủ nhận sự tồn tại của Thượng Đế. Để cứu vãn tinh thần
duy tâm, Cantơ đã coi Thượng Đế không phải cái gì khác mà, đó là cái tự do, là linh
hồn bất tử, là vật tự nó - nghĩa là Thượng Đế cái tự nó tồn tại, con người không giải
thích được và cũng không thể biết được.
b) Cantơ đòi hỏi ở tri thức khoa học và triết học sự hoàn thiện tuyệt đôí: coi đó
là tri thức lý tưởng của con người. Song, cũg như Hium và Lépnhít, một mặt Camtơ cho
rằng, để khoa thực sự ;là khoa học thì nó phải dựa trên tri thức tiến nghiệm., nghĩa là tri
thức mang tính phổ quát và tất yếu (chân lý). Mặt khác, do chua thoát khỏi quan niệm
siêu hình -sự nhìn nhận thế giới một cách tách rời- Cantơ cho rằng mọi sự vận động
trong thế giới bên ngoài chúng ta chỉ là sự tồn tại dưới dạng đơn giản nhất, ngẫu

nhiên.Vậy là ở đây có khả năng mà phải chọn một:
1. Nếu khẳng định,mọi tri thức đều là sự phản ánhcác sự vật của khách quan
thì phải thì phải thừa nhận mọi khoa học đều chỉ dựa trên nhưỡng tri thức đơn nhất,
ngẫu nhiên

13


2. Nếu đòi hỏi mọi tri thức khoa học đạt đến tính phổ quát và tất yếu thì
phải thừa nhận, nguồn gốc của khoa học( triết học) không phải là sự phản ánh thế giới
khách quan ; tri thức đó chính là kết quả của sự sáng tạo của riêng trí tuệ con người.
Đứng trước sự lựa chọn trên, Cantơ lập luận: Từ trước tới nay người ta cho
rằng, “mọi tri thức của chúng ta đều phải phù hợp với các sự vật( quan điểm nhận thức
luận duy vật-N.V.H). Tuy nhiên, trên thực tế mọi ý đồ thông qua khái niệm để xác lập
một cái gì đó tiên nghiệm về các sự vật thì đều thất bại. Vì thế, có lẽ, giải quyết nhiệm
vụ cơ bản của triết học sẽ hiệu quả hơn nếu chúng ta xuất phát từ luận điểm:” Các sự
vật phải phù hợp với nhận thức của chúng ta” (nhận thức tiên nghiệm duy tâm-N.V.H).
Điều này sẽ đáp ứng tốt hơn cái việc mà triết học đòi hỏi là phải có được tri thức tiên
nghiệm về vật tự nó”.
Như vậy, với ý đồ xây dựng nền tảng tri thức tiên nghiệm của khoa
học( triết học), cũng như quan niệm cho rằng mọi tri thức của con người không phải là
sự phản ánh thế giới khách quan, Can tơ đi đến khẳng định vật tự nó là không thể nhận
thức được.
3.1.1.2. Quan niệm về nhận thức.Kinh nghiệm và tiên nghiệm.
Theo Cantơ, con người nhận thức là nhờ kinh nghiệm (“mọi kiến thức đều bắt
đầu từ kinh nghiệm “). Cantơ phân biệt hai loại kinh nghiệm: Kinh nghiệm thông
thườngvà kinh nghiệm khoa học.
Kinh nghiệm thông thườnglà kinh nghiệm được hình thành từ những”sự trải
qua” trong cuộc sốngcũng như trong nhận thức nói chung của cá nhân.
Kinh nghiệm nhận thức khoa học là kinh nghiệm bậc cao: Kinh nghiệm của tri

thức với tư cách là” cơ quan năng động có sẵn khẳ năng nhận thức” –tức là ở đó đã có
sẵn yếu tố tiên nghiệm. Như vậy, đây làkinh nghiệm tiên nghiệm; nó là công cụđể phát
hiện cái tiên nghiệm mới.
Tiên nghiệm có hai mức độ:
a) Cái có trước kinh nghiệm-ap rio ri
b) Cái siêu nghiệm-tứclà tiên nghiệm đích thực, tiên nghiệm bậc cao. Trong
siêu nghiệm có tiên nghiệm và hậu nghiệm vứi tư cách là phán đoán tiên nghiệm.
Đối tượng của triết học không phải là nghiên cứu bản thân kinh nghiệm mà
chủ yếu là nghiên cứu cái tiên nghiệm và hậu nghiệm – siêu nghiệm,( tức nghiên cứu
cái có truớc và có sau kinh nghiệm).

14


Siêu nghiệm xuất phát từ kinh nghiệm nhưng không phải là kinh nghiệm. Nó
là sự vượt qua kinh nghiệm thông thường, vượt qua những hiện tượng mà con người
nhận biết được bằng các giác quan. Những hình ảnh mà giác quan thu được chỉ là
những kinh nghiệm thông thường, ít có ý nghĩa trong nhận thức, chúng chỉ có ý sau khi
có được yếu tố tiên thiên.
Tiên thiên là cái vốn có của tự nhiên mà thực chất, đó là cái tự do, cái bản chất
của thế giới.ở con người ( vì con người là một bộ phận của tự nhiên) thì tiên thiên
chính là các yếu tố bẩm sinh.
Cái tiên nghiệm, siêu nghiệm, tiên thiên như đã phân tích, do còn là kết quả
của sự chuyển hoá trong chủ thể nhận thức, cho nên nó có tính xã hội.Tuy nhiên về
nguồn gốc, về bản chất, nó thuộc tự nhiên.Bản tính thiện, bản tính sáng tạo, bản tính
vươn tới.Tự do của con người là những cái thuộc tiên thiên, chúng không phải đợi đến
lúc cá nhân có đầy đủ kinh nghiệm mới xuất hiện.Những tư chất ở mỗi cá nhân, năng
khiếu, thiên chức mỗi người, nòi giống đều là những cái thuộc tự nhiên, chúng được
phát huy ngay cả khi cá nhân chưa có nhiều kinh nghiệm.Các cảm giác, các hoài cảm,
các dục vọng,…cũng không cần chờ có kinh nghiệm rồi mới có.

Nhận thức và khả năng của nhận thức
Con người với tư cách là chủ thể nhận thức có vốn có tri thức tiên nghiệm nhận
thức là việc chủ thể dùng tri thức tiên nghiệm để xem xét sự vật. Nguyên tắc nhận thức:
Không phải là tri thức của chủ thể phải phù hợp với sự vật, mà sự vật phải phù hợp với
tri thức của chủ thể nhận thức.
Nhận thức bắt đầu từ khi các sự vật hiện tượng khách quan tác động các giác
quan của con người, gây nên những cảm giác. từ toàn bộ những cảm giác đó, thông qua
kinh nghiệm mà chủ thể nhận thức xây dựng nên những hình ảnh, những khái niệm,
những phạm trù, những quy luật …Về hiện tượng nói riêng và về thế giới hiện tượng
nói chung.
Cantơ viết: Nhận thức là do những năng lực nhận thức tạo ra, do hoạt động
sáng tạo của chủ thể tạo ra tri thức, tri thức đó tạo ra thế giới hiện tượng và chính nó lại
trở lại nhận thức cái do chính mình tạo ra đó.
Vậy là thế giới hiện tượng, nói đến cùng, là do kinh nghiệm con người “ xây
dựng” – thế giới nằm trong phạm vi của cái chủ quan do chính tri thức của chủ thể nhận

15


thức tạo ra. Đến luợt mình con người nhận thức là thế giới hiện tượng này. Cho nên
Cantơ còn gọi triết học của mình là Hiện tượng luận.
Rõ ràng là, giữa thế giới vật tự nó và thế giới hiện tuợng có một hố sâu ngăn
cách mà nhận thức của con người không thể vuợt qua.Trong quá trình nhận thức, tri
thức con người ngày càng phong phú, ngày càng sâu sắc. Nhưng đó chỉ là tri thức
phong phú và sâu sắc về thế giới hiện tượng. Về nguyên tắc nhận thức chỉ là nhận thức
thế giới hiện tượng. Cho nên, tri thức dù có phong phú đến đâu cũng không thể tiếp cận
với thế giới vật tự nó. Trong khi đó, bản chất của sự vật nói riêng và của thế giới nói
chung là ở vật tự nó, ở thế giới vật tự nó. Vậy là, đối với thế giới thì nhận thức là bất
khả tri
Trong luận đề về sự tồn tại của vật tự nó thì Cantơ là nhà duy vật, ở đây tính thứ

nhất không phải là ý thức mà là “ vật tự nó”. Song vật tự nó là bản tính tinh thần, cho
nên ông lại là nhà duy tâm. Khi nghiên cứu các hình thức và giới hạn của nhận thức,
ông cho rằng vật tự nó là siêu nghiệm, không nhận thức được cảm giác là cơ sở của tri
thức, nhưng không một loại tri thức nào, dù cao nhất, có thể tiếp cận tới vật tự nó, ông
là nhà bất khả tri.
3.1.2. Học thuyết về tri thức
Học thuyết về tri thức được Cantơ xây dựng trên cơ sở lý thuyết phán đoán.
Theo Cantơ, tri thức bao giờ cũng được thể hiện và sinh ra dưới các hình thức phán
đoán. Phán đoán luôn luôn diễn ra trong một quan hệ nào đó giữa hai khái niệm đóng
vai trò của chủ ngữ và tân ngữ. Có hai loại quan hệ phán đoán phân tích và phán đoán
tổng hợp.
Phán đoán phân tích : Trong một số phán đoán, tân ngữ chưa đưa ra được một tri
thức mới nào về đối tượng so với tri thức đựoc chứa đựng ở chủ ngữ. Thí dụ: “ Chó là
động vật có 4 chân”. Đây là mệnh đề phân tích. Vì theo Cantơ, bản thân khái niệm “
chó” đã bao hàm đặc tính của một động vật có 4 chân rồi. ở đây, tân ngữ “4 chân” chỉ
có tác dụng làm rõ nghĩa cho chủ ngữ “ chó ’’. Phán đoán có tính kinh nghiệm và có
tính giải thích.
Phán đoán tổng hợp là loại phán đoán mà tân ngữ đã gia tăng cho chủ ngữ một
nội dung mới. Thí dụ : “ mọi vật đều có quảng tính’’. Phán đoán này là kết quả của sự
khái quát tư duy lý luận. Tân ngữ “ quảng tính ’’ là kết quả được khái quát tổng hợp, rút
ra từ thực tế của chủ ngữ “ vật’’. Nó chứng minh rằng mọi vật đều nằm trong không

16


gian. Phán đoán này đúng đối với mọi thời điểm, nó có tính tiên nghiệm. Cantơ còn gọi
loại phán đoán naỳ là phán đoán này là phán đoán mở rộng, vì tân ngữ gia tăng cho chủ
ngữ một nội dung mới mà trước đó bản thân chủ ngữ chưa có.
Cantơ quan niệm phán đoán tổng hợp tiên nghiệm là loại phán đoán cao nhất
của sự nhận thức. Và, vì là loại phán đoán cao nhất, cho nên phán đoán tổng hợp tiên

nghiệm có ý nghĩa quyết định trong quá trình nhận thức. Do đó, vấn đề cơ bản đối với
nhiệm vụ Cantơ đặt ra cho triết học lý thuyết của mình như vấn đề cội nguồn của tri
thức, các loại tri thức và khả năng của các loại tri thức được tập trung vào vấn đề về khả
năng của phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong từng loại tri thức đó. Nghĩa là ông đặt
vấn đề phải nghiên cứu xem sự phán đoán tổng hợp tiên nghiệm cókhả năng đến đâu
trong các loại tri thức và trong nhận thức nói chung.
Cantơ đối lập hai loại tri thức : tri thức hạn chế và tri thức khoa học.Tri thức
hạn chế xuất phát từ kinh nghiệm, nó không chính xác, chưa hoàn thiện. Tri thức khoa
học là tri thức trên kinh nghiệm, có trứơc kinh nghiệm, nó hoàn toàn chính xác và hoàn
thiện. Đó là tri thức trong toán học, trong khoa học tự nhiên lý thuyết, và trong siêu
hình học.
Trong tri thức khoa học, Cantơ chỉ quan tâm ba lĩnh vực : Toán học, khoa học tự
nhiên lý thuyết và siêu hình học. Vì vậy ông đặt vấn đề nghiên cứu những phán đoán
tổng hợp tiên nghiệm trong một tổng thể ba lĩnh vực thể hiện ba cấp độ từ thấp đến cao:
a) Phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong toán học có khả năng đến đâu?
b) Phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong khoa học tự nhiên lý thuyết có khả
năng đến đâu?
c) Phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong siêu hình học có khả năng đến
đâu?
Nghiên cứu khả năng phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong tổng thể tri thức
khoa học và triết học đó, Cantơ gọi là “ nghiên cứu tiên nghiệm ’’, còn học thuyết mà
Cantơ xây dựng nên nhằm giải đáp cho sự nghiên cứu đó, ông gọi là chủ nghĩa duy tâm
tiên nghiệm.Nhiệm vụ của triết học Cantơ là phê phán các triết học cũ, xây dựng một
triết học mới, cho nên triết học của ông là “ Triết học duy tâm tiên nghiệm phê phán”.
Ba lĩnh vực thể hiện trong ba cấp độ tri thức nói trên,theo Cantơ, là tương ứng
với ba cấp độ hay ba năng lực nhận thức cơ bản của con người là trực giác cảm tính,
giác tính phân tích, và lý tính.

17



3.1.3 Trực giác cảm tính. Khả năng phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong
toán học.
Cấp độ đầu tiên của quá trình nhận thức, theo Cantơ, gắn liền với lý thuyết về
không gian và thời gian.
Không phải là sự vật hiện tượng tồn tại một các khách qua trong không gian và
thời gian, khái niệm không gian và thời gian được hình thành nhờ cảm tính chủ quan
xác định khi có sự vật tồn tại và được lĩnh hội.
Như vậy – thời gian xuất hiện là do cảm giác chủ quan. Nhưng cái gây nên cảm
giác chủ quan và chính cảm giác đó lại ở bên ngoài, cho nên không gian và là cái có
trước kinh nghiệm, là điều kiện cho mọi kinh nghiệm có thể xảy ra chúng là những khái
niệm tiên thiên. Không gian là hình thức bên ngoài của kinh nghiệm cảm tính tiên
nghiệm.
Hình thức nhận thức cảm tính theo Cantơ chính là cấp độ phán đoán tổng hợp
tiên nghiệm trong toán học, không gian thời gian là nền tảng cho toán học. Theo Cantơ,
các biểu tuợng không gian là cơ sở của tri thức hình học : Thời gian là biểu tượng của
tri thức số học và đại số.
3.1.4 Giác tính phân tích (hay phân tích tiên nghiệm). Khả năng nhận thức
của khoa học tự nhiên lý thuyết.
Trong cấp độ thứ nhất của nhận thức, theo Cantơ, do những sự vật khách quan
tác động đến giác quan của chúng ta mà xuất hiện những cảm giác lộn xộn. Những cảm
giác lộn xộn đó được trực giác cảm tính đưa vào trật tự không gian thời gian, trở thành
các tri giác. Những tri giác đó còn mang tính chủ quan của cá thể. Để chúng trở thành
kinh nghiệm tức trở thành một cái gì đó khách quan hơn thì nhận thức phải bước lên
hình thức cao hơn – giác tính.
Tư duy sử dụng khái niệm phạm trù là tư duy của giác tính phân tích. Đây là loại
hoạt động tư duy khoa học, nó có nhiệm vụ quy tụ các tri giác đa dạng biến các tri giác
cảm tính thành những tri thức khách quan được mọi người thừa nhận
Để làm được điều đó, trước hết giác tính phải xây dựng một hệ thống các phạm
trù.

Cantơ nêu lên 12 phạm trù, chia thành bốn nhóm, mỗi nhóm 3 phạm trù, Những
phạm trù đó là :

18


Các phạm trù Lượng : thống nhất, đa dạng chỉh thể.
Các phạm trù Chất : hiện thực, phủ định, giới hạn.
Các phạm trù Quan hệ : cố định và tồn tại độc lập. Quan hệ nhân quả và phụ
thuộc, tiếp xúc.
Các phạm trù tình thái: khả năng, tồn tại, tất yếu.
Ở hệ thống phạm trù đó, trong mỗi nhóm và giữa các nhóm phạm trù dù chưa có
sư tương tác biện chứng thực sự, song về hình thức đã có được các tố của các mối quan
hệ, ràng buộc có tính biên chứng. Mỗi nhóm được sắp xếp theo trình tự : chính đề –
phản đề – hợp đề. Giữa 4 khối có mối liên hệ bên ngoài bên trong, chiều hướng cách
thức.
Cantơ cho đây là những phạm trù cơ bản để từ đó triển khai ra những phạm trù
mới, đáp ứng đòi hỏi của khoa học và hoạt động của con người. Bởi vì, Cantơ viết : “
đối với tôi, điều quan trọng khong phảilà đưa ra một hệ thống đầy đủ các phạm trù, mà
chỉ là sự đầy đủ có tính nguyên lý của hệ thống”.
Nhưng các phạm trù mới chỉ đơn thuần lànhững hình thức của tư tưởng chưa bao
chứa một nội dung nào cả. Vì thế, để có nội dung và trở thành tri thức các phạm trù phải
được vận dụng vào kinh nghiệm cảm tính. Cantơ coi nhiệm vụ cơ bản ở đây là dùng
phép phán đoán tiên nghiệm các phạm trù, tức vận dụng chúng vào kinh nghiệm quy tụ
các tư liệu cảm tính đa dạng dưới sự thống nhất của khái niệm, và bằng cách khắc phục
những hạn chế của chủ nghĩa duy cảm và duy lý trước đây.
Cantơ kết luận : Không một hình thức cảm tính trực giác nào, không một phạm
trù khoa học nào, thậm chí không một loại tri thức nào dù cao đến đâu, lại có thể xác
định được, với tới được thế giới khách quan. Giới tự nhiên với tư cách là đối tượng của
tri thức phổ biến và tất yếu từ phía các hình thức của tri thức được xây dựng nên bằng

chính tri thức của chúng ta. Chúng ta chỉ nhận thức thế giới đó. Nhận thức của khoa
học tự nhiên lý thuyết cũng chỉ nằm trong khuôn khổ tri thức đó mà thôi.
3.1.5 Lý tính ( hay biện chứng tiên nghiệm ). Về khả năng của siêu hình học.
Vấn đề cơ bản thứ ba trong triết học phê phán của Cantơ là vấn đề khả năng
phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong siêu hình học, tức là trong triết học tự biện. Đây
cũng chính là vấn đề về năng lực biện chứng tiên nghiệm.
Luật tương phản ( antinomi)

19


Lý tính con người luôn khao khát vươn tới lĩnh vực vật tự nó để đạt tới tri thức
tuyệt đối. Song quá trình vươn tới tri thức đó luôn luôn nẩy sinh những mâu thuẫn,
những nghịch lý( antinomi).
Cantơ khẳng định có 4 antinomi cơ bản của lý tính. Mỗi antinomi đuợc kết cấu
từ 2 luận đề đối lập : Dĩ nhiên, học thuyết antinomi của Cantơ có nhiều hạn chế. Ông
chỉ thừa nhận mâu thuẫn trong tư tưởng của con người, chưa thấy mâu thuẫn luôn luôn
tồn tại trong thế giới tự nhiên. Các atinomi đó chưa hoàn toàn là những mâu thuẫn biện
chứng, vì giữa các chính đề và phản đề của chúng chưa có sự thống nhất và chuyển hoá
lẫ nhau. Giải quyết mâu thuẫn cũng không phải chỉ dừng lại ở việc phân tích từng mặt
đối lập rồi kết luận đúng sai như ông đã làm. Trên thực tế, quá trình nẩy sinh và giả
quyết mâu thuẫn là động lực thúc đẩy sự vật phát triển.
Tuy nhiên, học thuyết biện chứng tiên nghiệm bao hàm nhiều tư tưởng tích cực.
Ông thấy antinomi là bản chất của lý tính con nguời chứ không phải những lỗi lôgic
thông thường. Cantơ là người đầu tiên tìm cách bao quat toàn bộ những nguyên lý tư
duy đối lập nhau của thời đại trên quan niệm thống nhất, vạch ra những vấn đề còn bỏ
ngỏ trong các vấn đề về bản chất của tư duy. Hêghen đánh giá rằng “ việc tìm ra các
antinnomi cần đươc xem như một thành tựu rất quan trọng của nhận thức, bởi bằng việc
đó..vận động biện chứng của tư duy đựơc đề cao’’.
3.2 Triết học thực tiễn.

Nếu triết học lý thuyết nghiên cứu khả năng nhận thức của con người, thì triết
học thực tiễn nghiên cứu các hoạt động thực tiễn của con người nhằm giải đáp vấn đề “
tôi cần phải làm gì? ’’.
Nếu nhận thức của con người chỉ dừng lại ở giới hạn hiện tượng luận, thừa nhận
vật tự nó là bất khả tri, thì trong hoạt động thực tiễn của mình, con người vẫn thường
xuyên tác động đến các sự vật xung quanh ta, không chỉ nhận thức thế giới hiện tượng
mà còn luôn hướng tới, vươn tới thế giới vật tự nó như là đối tượng hoạt động của
mình.
Chính điều đó làm cho Cantơ thấy quan hệ giữa triết học lý thuyết và triết học
thực tiễn trở nên hết sức phức tạp. Một mặt, ông muốn xây dựng một hệ thống triết học
thực tiễn thực sự khoa học. Mặt khác, “ thực tiễn’’ theo Cantơ, về cơ bản độc lập với
quá trình nhận thức của con người. Bản thân thực tiễn cũng được Cantơ hiểu theo hiều
nghĩa. Theo nghĩa hẹp, đó là toàn bộ các hoạt động chính trị, pháp quyền, văn hoá của

20


con người. Mặc dầu thiếu xót của Cantơ trong lĩnh vực này là ở chỗ, hoạt động thực
tiễn sản xuất vật chất hầu như chưa được ông quan tâm.
3.2.1 Đạo đức học của Cantơ.
Xuất phát từ tư tưởng khẳng định sự độc lập của nhân cách đạo đức với học thức
và giáo dục của Rutxo, Cantơ cho rằng, các nguyên lý đạo đức là độc lập với mọi lĩnh
vực hoạt động khác của con nguời. Nếu trong triết học lý thuyết, cảm giác là nguồn gốc
duy nhất của tri thức, của giác tính với các phạm trù và quy luật của hiện tượng luận, thì
ở đây, lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức.
Trong lĩnh vực này, “ các nguyên lý cảm tính nói chung không thích hợp để có thể từ đó
người ta xây dựng nên các quy luật đạo đức ’’.
Nguyên lý đạo đức cơ bản của nhà sáng lập ra triết học cổ điển Đức là làm theo
yêu cầu của lý trí, cái mà Cantơ gọi là “ mệnh lệnh tuyệt đối ’’. Mệnh lệnh tuyệt đối đòi
hỏi người ta phải hành động như thế nào đó để những hành vicủa mình phù hợp với một

pháp chế – phổ biến : Mỗi người hãy hành động tới mức tối đa sao cho điều đó được
đưa vào cơ sở pháp chế phổ biến’’.
Theo Cantơ, chỉ có hành động nào của con người phù hợp với mệnh lệnh tuyệt
đối nói trên mới được coi là hành động có đạo đức. Cụ thể,một mệnh lệnh tuyệt đối đòi
hỏi hoạt động của con người phải tuân theo các quy tắc sau:
-

Mỗi ngưòi đều có quyền và cần phải hành động theo điều kiện và ý muốn

sao cho ai cũng lam được như thế.
-

Mỗi người đều có quyền và cần cho phép người khác cũng có được quyền

như thế, đồng thời tạo điều kiện để họ thực hiện được quyền đó.
-

Mỗi người điều có quyền và cần phải ngăn chặn những người khác hành

động trái với mệnh lệnh tuyệt đối trong khả năng có thể làm được.
Phạm trù trung tâm của đạo đức học của Cantơ là Tự do. Hai mạt mâu thuẫn
trong con người của đạo đức theo quan niệm của Rútxô được Cantơ giải quyết bằng
cách ông chuyển cái đạo đức trong tình cảm, lương tâm thành mệnh lệnh của lý trí. Cái
lý trí mà ông hiểu là có sức mạnh từ bên ngoài. Thực chât, sự vươn tới đạo đức của cpn
người đối với Cantơ chính là khát vọng vươn tới Tự do – hiểu theo con người vươn tới
các ý niệm phổ quát và tất yếu cũng như theo nghĩa con người vươn tới lý tưởng cao
đẹp của mình.

21



Ngay từ cuối thời kỳ Tiền phê phán, Cantơ đã hình thành tư tưởng chia lý tính
ra những thành tố khác nhau, tư đó hình thành các bộ phận khác nhau trong triết học.
Bất kỳ một triết học nào theo ông cũng hoặc là triết học lý thuyết hoặc là triết học thực
tiễn. Triết học lý thuyết là ly luận về nhận thức và từ đó tim ra nguyên tắc nhận thức.
Triết học thực tiễn là lý luận về phẩm hạnh và tim ra nguyên tắc vươn tới phẩm hạnh –
sự lựa chọn Tự do. Sự khác nhau giữa hai loại triết học đó là do ở đối tượng của chúng.
Đối tượng của triết học lý thuyết chủ yếu là thế giới hiện tượng, của triết học thực tiễn
là hành vi tự do và phẩm hạnh tự do – vươn tới vật tự nó.
Tự do như vậy có thể hiểu theo ba cấp độ:
1. là khả năng tiên nghiệm đặc biệt cho phép giới tính hoạt động độc lập đối với
các quy luật tất yếu của tự nhiên trong lĩnh vực hiện luận.
2. Là cái tồn tại một cách tương đối trong lĩnh vực hiện tượng luận, nơi ma mọi
cái điều diễn ra một cách tất yếu.
3. Tự do với tư cách là cái thuộc lĩnh vực vật tự nó. Nếu trong lĩnh vực hiện
tượng luận, tự do chỉ là tương đối thì trong lĩnh vực vật tự nó tự do là tuyệt đối.
Tóm lại, đạo đức học của Cantơ tuy có nhiều điểm duy tâm, không mang vì tính
phi lịch sử phi giai cấp cũng như thiếu cơ sở thực nghiệm nhưng nó chữa đựng nhiều
tang nhân đạo sâu sắc. Đối lập với những quan niệm ích kỷ, thực dụng, hẹp hòi, nó là
sự kết tinh những giá trị đạo đức chugcủa loài người trong lịch sử, đồng thời thể hiện
những khát vọng của giai cấp tư sản ở Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX nhằm giải
phóng con người khỏi gông cùm của chế độ phong kiến, xây dựng một xã hội mới, đem
lại tự do và hạnh phúc cho loài người.
3.2.2. Quan niệm về lịch sử, xã hội, pháp quyền.
Các lĩnh vực lịch sử, xã hội pháp quyền của con người được Cantơ coi lĩnh
vực đạo đức học ứng dụng ; vì theo ông, con người vơi tư cách là chủ thể đạo đức tích
cực được thể hiện trong lĩnh vực đó.
Các quan niệm về lịch sử, xã hôi, pháp quyền của Cantơ, một mặt có ý nghĩa
triết học và xã hội to lớn, mặt khác nó mang tinh hai mặt và mâu thuẫn.
Chịu ảnh hưởng của các nhà cách mạng tư sả pháp, Cantơ cụ thể hoá mệnh

lệnh tuyệt đối trong đạo đức học thành theo yêu cầu chung ở mọi lĩnh vực thực tiễn:
chính tri, xã hôi. Mỗi người hãy hành đông sao cho tự do của bạn phải tồn tại cùng với
tự do của tất cả mọi người.

22


Quan niệm về lịch sử, xã hội:Lịch sử, theo Cantơ là phương thức tồn tại của loài
người mà cụ thể là của từng cá nhân như một chủ thể. lịch sử chính vì vậy tập trung cao
ở lịch sử xã hội. Một mặt, lịch sử là quá trình mà ở đó, bằng hoạt động của chính mình,
con người ngay càng phát triển bản chấtvà khả năng của mình ; mặt khác, đây là lĩnh
vực để con người thể hiện mục đích và lý tang đạo đức. Cho nên, tiến trình lịch sử nhân
loại là sự tiếp tục cho quá trình phát triển của lịch sử tự nhiên, nó diễn ra theo
hướngngày càng tiến bộ và hoàn thiện, nó gạt bỏ dần những cản trở và đi ngược lại nó.
Cách mạng tư sản pháp là môt bằng chứng điển hình về điều đó : Nó tiêu diệt ché độ
chuyên chế bất công mở đường cho xã hội tiến lên một bước mới.
Quan niệm về nhà nước, pháp quyền: Theo Cantơ, nhà nước là công cụ liên kết
mọi thành viên của nó vào khuôn khổ pháp luật, nhằm giám sát và bảo đảm sự tự do và
bình đẳng cho mọi công dân. Sự hình thành nhà nước một mặt là do khế ước mặt khác
đó là sự hình thành có tính tất yếu, do yêu cầu xã hội yêu cầu – con người đòi hỏi. Theo
Cantơ nói đến nhà nước là nói đến nhà nước pháp quyền nhân dân tập hợp lại để thực
hiện tự do và bình đẳng Cantơ con cho rằng: Chế độ cộg hoà là chế độ phù hợp nhất với
nhu cầu phát triể của xã hội, nhằm mục đích vì hạnh phúc con người
Quan niệm về quyền sở hữu và bình đẳng: Phát triển quan điểm tư sản về xã hội,
Cantơ bảo vệ chế độ tư hữu và cố gắng củng cố nó bằng những lập luận theo kiểu tư sản
: Sự tồn tại của xã hội tư sản là có tính tiên thiên, tính tự nhiên và do đó nó có tính bất
khả xâm phạm. Ông chứng minh rằng, quyền tư hữu tài sản là có nguồn gốc tiên thiên
do đó nó là vĩnh cửu, phổ biến và tuyệt đối câng thiết.
Cantơ cũng nêu lên tư tưởng độc đáo và sâu sắc về quyền bình đẳng của con
người. Bình đẳng không phải là về tài năng mà là về cơ hội để phát triển và áp dụng tài

năng ông cũng xác định là có quyền độc lập của người công dân. Nhưng quyền độc lập
đó được ông hiểu theo kiểu cá nhân chủ nghĩa vốn có trong xã hội tư sản.
Cantơ chia nhân dân trong xã hội ra hai loại nguời: Người công dân và người chỉ
có quốc tịch. Người chỉ có quốc tịch không hề có một quyền thông thường nào trong xã
hội. Người lao động thuộc loại người này.
Quan niện về hoà bình về chiến tranh : Trong cuốn “Về hoà bình vĩnh viễn
’’1975 Cantơ kêu gọi tất cả các dân tộc hãy thiết lập mối quan hệ hoà bình hữu nghị.
Ông phê phán các thế lực phản động ở Tây âu cuối thế kỷ XVIII đang liên kết chống
cách mạng tư sản Pháp. Theo Cantơ, các cuộc chiến tranh nhiều khi phá hoại chuẩn

23


mực đạo đức con người. Ông khẳng định “không cần có bất kỳ một cuộc chiến tranh
nào cả.’’ cho nên ông kêu gọi tất cả các quốc gia trên hành tinh hãy đoàn kết xây dựng
một “liên bang’’ tất cả các dân tộc trong khi vẫn đảm bảo cho mỗi dân tộc được độc lập
và tự do về chính trị. Xây dựng một thế giới hoà bình và hữu nghị theo những lý tang
nhân đạo cao cả phải được coi là mục đích cap đẹp nhất.Song ông lại thấy rằng việc
thực hiện mục đích đó trong tình hình hiện tại có tính chất là một nghĩa vụ luân lý luôn
là một nghĩa vụ lịch sử cụ thể
Với những tư tang nêu trên Cantơ thự sự là người đặt nền móng cho nhiều quan
niệm duy vật lịch sử sau này của Mác –Engen
3.2.3. Mỹ học và quan điểm triết học về con người và tương lai loài người
Mặc dù có mâu thuẫn, có tính chủ quan và tính hình thức của nó, mỹ học của
Cantơ vẫn là một sự đề xuất mới với những ý tưởng sâu sắc và độc đáo, là một bước
tiến rất quan trong trong sự phat triển tư tưởng thẩm mỹ. Lý thuyết về thiên tài nghệ
thuật mặc dù dựa trên cơ sở duy tâm chủ nghĩa, nhưng về mặt nhận thức luận lại quan
trọng ở chỗ nó bác bỏ xu hướng tĩnh quan đặc tính của lý thuyết sao chép tự nhiên. Xu
hướng chủ yếu trong phếp phân tích cái đẹp thuần khiết là xu hướng hình thức, nhưng
phép phân tích ấy cũng vạch rõ chỗ khác nhau giữa chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm nói

về timnhs tất yếu và tính phổ biến của phê phán thẩm mỹ – với xu hướng tương đối chủ
nghĩa của cảm giác luận duy tâm chủ quan. Với lý thuyết về cái đẹp nương tựa –cái cao
cả chứng tỏ trong chừng mực nào đó, Cantơ đã tiến sát tới quan niệm biện chứng và
những phạm trù thẩm mỹ và mối liên hệ lẫn nhau giữa những yếu tố khách quan và cgủ
quan trong những khái niệm thẩm mỹ.
Cũng như các nhà tư tưởng khác Cantơ muốn trả lời câu hỏi: Con người từ đâu
đến và nó sẽ đi về đâu? cái gì đang đợi nó?và nó sẽ đi tơi tương lai như nthế nào.
Đối với chúng ta khog ai chờ đón chỉ ở một cá nhân lại có thể trả lời được câu
hỏi lớn lao của cả loài người. Điều quan trọng là những vấn đề đã được nhà triết học
nêu lên Cantơ đã đi sâu vào các quan hệ con ngưòi không chỉ từ khía cạnh nhận thức
luận mà cả khiá cạnh bản thể luận, làm rã quan hệ tác động qua lại giữa cái sinh học và
cái xã hộ trong con người. Nếu Cantơ chưa giải quyết được những vấn đề đó tì chỉ là vì
ông chưa giải quyết được chúng trên cơ sở lý luận nhận thức duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử một cách triệt để.

24


Ý nghĩa to lớn của việc nghiên cứu con người của Cantơ là ở chỗ, Cantơ đã:
Thứ nhất, quan tâm đặc biệt tới những điều kiện tự nhiên – vật chất của sự nảy sinh và
sự phát triển xã hội ; Thứ hai, Xây dựng học thuyết về vai trò của tính mâu thuẫn xã
hộivà tính đối kháng như là động lực của tiến trình lịch sử;Thứ ba, tin vào tiến bộ xã
hội và thắng lợi của các yếu tố đạo đức trong con người; thứ tư, xem mục đích của lịch
sử là xây dựng một xã hội công bằng và con người phát triển hài hoà.
Các qua điểm của Cantơ về tiến trình lịch sử là một trong những bứoc tiến lớn
lao trên con đường loài người xây dựng lý thuyết duy vật –Biện chúng về sự phát triể
C. KẾT LUẬN
Giá trị lớn lao trước hết của triết học Cantơ là nó đã đặt ra một loạt vấn đề căn
bản của nhận thức luận, về phương pháp biện chứng,về nguồn gốc của những khái niện
và các phạm trù lôgíc chủ yếu và vị trí của chúng trong tư duy khoa học cũng như trong

quá trình nhận thức.
Cantơ cũng đã đề xuất nhiều tư tưởng có ý nghĩa quan trong trong các lĩnh vực
chính trị, xã hội, pháp quyền, những vấn đề tôn giáo, chiến tranh và hoà bình…Trên
con đường tim tòi đó Cantơ đã đư ra nhiều tư tưởg mới mẻ có ý nghĩa vạch thời đại
Đóng góp quan trọng của Cantơ là đã phát ra được bức tranh của quá trình nhận
thức qua ba giai đoạn từ thấp đến cao. Công lao của Cantơ là đã khẳng định tính phổ
biến của các cặp phạm trù tìm ra những yếu tố của mối liên hệ biện chứng giữa các cặp
phạm trù đó, Cantơ là một trong những người đầu tiên trong lịch sử triết học đặt ra ván
đề mâu thuẫn trong nhận thức luận giải vân đề đó theo tinh thần biện chứng.
Ý tưởng nhân đạo của triết học Cantơ cho đến hôm nay vẫn còn nguyên tính
chất thời sự. No cho ta phương pháp nhìn nhận t ương lai để đấu tranh chống lại chủ
nghĩa phi nhân đạo của thuyết vị khoa học-kỹ thuật hiện đại: chống lại quan niệm tách
biệt mâu thuẫn và đối lập giữa tiến bộ khoa học –công nghệ với tiến bộ xã hội loài
người; và ý ghĩa lớn lao nhất có tính quyết định có tính nhân loại bao trùm nhất là nó
cho ta thấy rằng, ý nghĩa cuộc sống con người không phải là cái gì trừu tượng mà là
thực tiễn cụ thể ; hơn nữa, không chỉ là cụ thể của hiện tại mà còn của tương lai, của
những khả năng.

2. Tài liệu tham khảo:

25


×