Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế thực trạng và những vấn đề cần hòan thiện ở Việt nam năm 2015 (9 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.34 KB, 13 trang )

MỤC LỤC


Mở đầu
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Do vậy, để đảm bảo nguồn thu
cho ngân sách, tạo nguồn lực tài chính đủ mạnh để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước,
đòi hỏi phải thực hiện công tác quản lý thuế một cách hiệu quả. Trong đó, thanh tra, kiểm
tra thuế và xử lý vi phạm pháp luật thuế là những nhiệm vụ trọng tâm. Muốn thực hiện tốt
nhiệm vụ đó cần có những giải pháp hỗ trợ tốt nhất nhằm giúp cho việc thanh tra, kiểm tra,
xử lý vi phạm pháp luật thuế đạt được hiệu quả cao nhất. Để có thể hiểu rõ hơn về vấn đề
này, em lựa chọn đề tài “Vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế - thực
trạng và những vấn đề cần hòan thiện ở Việt nam năm 2015”
I. Khái quát chung.
1. Khái niệm về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế.
a. Thanh tra thuế.
- Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý xã hội, là họat động kiểm tra,
xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; thường được thực hiện bởi một
cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm kết luận đúng,
sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa và xử lý các vi phạm
góp phần hòan thiện cơ chế quản lí, tăng cương pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo về lợi ích
của Nhà nước. Đối với pháp luật thuế hiện hành, công tác thanh tra thuế được định nghĩa
như sau:
“ Thanh tra thuế là kiểm tra đối tượng nộp thuế ở mức cao hơn, toàn diện hơn.
Thanh tra thuế được thực hiện theo định kì đối với người nộp thuế lớn, ngành nghề kinh
doanh đa dang, quy mô lớn và phức tạp; hoặc đối với người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm
pháp luật thuế và thanh tra để giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế hoặc theo yêu cầu
của thủ trưởng cơ quan quản lí thuế các cấp hoặc Bộ trưởng Bộ tài chính”.
b. Kiểm tra thuế
- Kiểm tra thuế hiểu theo cách khái quát nhất là việc xem xét các các chủ thể có
chấp hành đúng chính sách pháp luật về thuế hay không, kiểm tra việc thực hiện các chính
sách về thuế do Nhà nước ban hành. Vì vậy có thể hiểu khái niệm về kiểm tra thuế: “ Kiểm


tra thuế là hoạt động do cơ quan thuế tiến hành nhằm xem xét tính đầy đủ, chính xác của
thông tin, tài liệu trong hồ sơ thuế nhằm đánh giá sự tuân thủ pháp luật của người nộp
thuế. Kiểm tra thuế là công việc thường xuyên mang tính chất nghiệp vụ của cơ quan thuế.
Kiểm tra thuế được thực hiện theo hai phương thức: Kiểm tra thuế được tại trụ sở cơ quan
thuế và kiểm tra thuế được tiến hành ở trụ sở của người nộp thuế ”.
c. Xử lý vi phạm pháp luật thuế.
- Vi phạm pháp luật thuế là hành vi làm trái các qui định của pháp luật thuế, do các
tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước,
lợi ích công cộng. Xử lý vi phạm pháp luật thuế chính là việc cơ quan có thẩm quyền tiến
hành các hoạt động nhất định để áp dụng chế tài đối với các chủ thể vi phạm pháp luật
thuế. Trong thực tiễn pháp lí, các hành vi vi phạm pháp luật thuế diễn ra rất đa dạng, tinh
vi và phức tạp với nhiều dạng thức khác nhau
Qua việc phân tích các khái niệm về thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật
thuế chúng ta đã có thể thấy tuy rằng chúng là những họat động riêng biệt với nhau, nhưng
lại có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại và tạo thành một hệ thống để việc
quản lý thuế đạt được hiệu quả tốt nhất
2. Sự cần thiết của công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật
thuế
Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật thuế là những hoạt động không thể
thiếu trong quản lí nhà nước nói chung, mà còn mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
quản lí thuế nói riêng. Họat động thanh tra, kiểm tra có nghĩa là tiến hành việc nghiên cứu,
2


thu thập số liệu, đánh giá họat động quản lí và mục đích cuối cùng là tìm hiểu được kết quả
tác động của chủ thể quản lí tới đối tượng quản líQua kiểm tra giúp nâng cao công tác quản
lí của các cơ quan có chức năng, ngòai ra họat động thanh tra, kiểm tra còn là một phương
thức để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Thanh tra, kiểm tra thuế nhằm kịp thời phát
hiện và xử lí các sai phạm trong lĩnh vực thuế; ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm pháp luật
thuế; chống thất thu ngân sách nhà nước. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường

và hội nhập quốc tế nước ta đang thực hiện cải cách công tác quản lí thuế theo cơ chế tự
khai, tự nộp thuế thì công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế ngày càng
được coi trọng.
3. Mục tiêu của thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật thuế trong công
tác quản lí thuế của nước ta hiện nay.
- Phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Đây là mục
đích chủ yếu của hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Công tác thanh tra, kiểm
tra và xử lý vi phạm là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản lý thuế nhằm đảm bảo
cho các quy định về nộp thuế được chấp hành một cách đầy đủ. Chính tính chất thường
xuyên của hoạt động này đã có tính chất phòng ngừa các vi phạm pháp luật thuế. Các cuộc
thanh tra, kiểm tra thuế sẽ chỉ rõ các sai phạm của đối tượng bị thanh tra, kiểm tra và có
tính chất răn đe với những người có ý định vi phạm pháp luật thuế.
- Bảo đảm hiệu quả, hiệu lực của các chính sách thuế mà nhà nước ban hành. Bảo
đảm không bị thất thoát từ các khoản thu thuế của ngân sách nhà nước.
- Bảo đảm pháp luật thuế được thi hành nghiêm trên thực tế; bảo đảm sự cân bằng
trong nghĩa vụ nộp thuế; bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
cuat công dân thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế.
- Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý thuế mà cụ thể là cán bộ thực hiện
công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, nâng cao ý thức trách nhiệm tuân thủ các quy
định của pháp luật thuế.
II. Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật thuế ở Việt
Nam năm 2015.
1. Thực trạng về pháp luật về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật
thuế ở Việt Nam hiện nay.
a. Những thành tựu đã đạt được.
Thứ nhất, các văn bản quy phạm pháp luật chung về thanh tra.
Thời gian qua, các văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra đã có nhiều đổi mới.
Luật Thanh tra năm 2010 thay thế cho Luật Thanh tra năm 2004, đã khắc phục về cơ bản
những bất cập phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện hoạt động thanh tra của các cơ
quan nhà nước đối với các hoạt động kinh tế - xã hội. Theo đó, Luật Thanh tra năm 2010

đã bổ sung những quy định pháp luật mới để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình thanh tra mà Luật Thanh tra năm 2004 chưa quy định. Luật Thanh tra năm 2010 cũng
sửa đổi những quy định không còn phù hợp với thực tiễn của Luật Thanh tra năm 2004.
Đặc biệt, việc sửa đổi và bổ sung quy định về thanh tra chuyên ngành chi phối trực
tiếp đến tổ chức hoạt động của thanh tra thuế theo hướng bao quát đầy đủ hơn những vấn
đề pháp lý cần có của hoạt động thanh tra chuyên ngành. Theo đó, đã quy định rõ hơn thẩm
quyền ra quyết định thanh tra chuyên ngành, nhiệm vụ và quyền hạn của người ra quyết
định thanh tra chuyên ngành, các tiêu chuẩn của thanh tra viên, cộng tác viên thanh tra
chuyên ngành, trình tự và thủ tục thanh tra…
Thứ hai, các văn bản quy phạm pháp luật riêng về thanh tra, kiểm tra thuế.
Điểm cải cách nổi bật trong quy phạm pháp luật riêng về thanh tra, kiểm tra thuế
thời gian qua gắn liền với sự ra đời của Luật Quản lý thuế năm 2006. Theo đó, lần đầu tiên
ở Việt Nam pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế được quy định riêng trong văn bản luật về
quản lý thuế. Trước đó, quy định pháp luật riêng về thanh tra, kiểm tra thuế chưa thống

3


nhất và thiếu tính hệ thống do được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Luật
Quản lý thuế năm 2006 cũng đã dành một chương (Chương X) quy định riêng về kiểm tra,
thanh tra thuế. Với sự ra đời của Luật Quản lý thuế năm 2006, các nghị định và thông tư
quy định chi tiết Luật Quản lý thuế, hành lang pháp lý của hoạt động thanh tra, kiểm tra
thuế đã được hoàn thiện hơn. Cụ thể:
(i) Đã đảm bảo tính hệ thống, thống nhất của các quy định pháp luật về thanh tra,
kiểm tra thuế;
(ii) Lần đầu tiên ở Việt Nam các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục, hồ sơ, thời
hạn thanh tra, kiểm tra thuế được thể hiện rõ trong văn bản luật và hướng dẫn luật về quản
lý thuế. Điều này đảm bảo tính công khai, minh bạch của quy định pháp luật về thanh tra,
kiểm tra thuế; giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra, kiểm tra thuế; góp phần phòng
ngừa các hành vi nhũng nhiễu của công chức thuế trong thanh tra, kiểm tra thuế;

(iii) Làm rõ và công khai quyền và trách nhiệm của cơ quan thuế và công chức thuế
trong thanh tra, kiểm tra thuế để người nộp thuế giám sát việc thực thi pháp luật của người
thi hành công vụ;
(iv) Quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế trong thanh tra, kiểm tra
thuế. Qua đó, giúp cơ quan thuế thực hiện tốt nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra thuế; nâng cao
hiệu lực thanh tra, kiểm tra thuế.
Những hạn chế, bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện Luật Quản lý thuế năm
2006, đã được hoàn thiện hơn trong Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý
thuế năm 2012.
Ngoài những điểm mới về quản lý thuế, một số bất cập về thanh tra, kiểm tra thuế
đã được khắc phục. Đó là:
(i) Một số thời hạn giải quyết thủ tục hành chính về thanh tra, kiểm tra thuế đã
được rút ngắn so với trước đây. Qua đó, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ thực hiện các cuộc
thanh tra, kiểm tra;
(ii) Bổ sung một số thủ tục phải thực hiện trong quá trình thanh tra thuế để đảm bảo
quá trình thanh tra được chặt chẽ và minh bạch, đó là: Thủ tục giới thiệu thành viên đoàn
thanh tra, thông báo thời gian thanh tra; thủ tục yêu cầu người nộp thuế giải trình khi tài
liệu cung cấp chưa rõ; thủ tục niêm phong tài liệu, kiểm kê tài sản; thủ tục và cách thức xử
lý trong trường hợp đã hết thời hạn thanh tra mà vẫn chưa nhận được kết quả giám định;
thủ tục báo cáo tiến độ thực hiện nhiệm vụ thanh tra thuế;
(iii) Bổ sung cách thức xử lý và thủ tục để giải quyết những vướng mắc trong quá
trình tổ chức thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế nhưng không có quy định pháp luật để giải
quyết. Đó là: Quy định rõ các trường hợp và thủ tục bãi bỏ hoặc hoãn quyết định thanh tra,
kiểm tra thuế; trường hợp và thủ tục thay đổi trưởng đoàn hoặc thành viên đoàn thanh tra;
thủ tục chuyển giao hồ sơ cho cơ quan điều tra trong trường hợp quá trình thanh tra thuế
phát hiện hành vi trốn thuế đến mức phải xử lý hình sự;
(iv) Bổ sung nguyên tắc áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế (trong đó có
thanh tra, kiểm tra thuế). Điều này tạo cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan thuế tập trung
nguồn lực vào thanh tra, kiểm tra những trường hợp có rủi ro lớn về thuế mà thông thường
đây là các trường hợp có dấu hiệu gian lận, trốn thuế.

Như vậy, có thể thấy, các văn bản quy phạm pháp luật riêng trong lĩnh vực thanh
tra, kiểm tra thuế đã hướng đến các yêu cầu thiết yếu của hoạt động thanh tra thuế là: Công
khai, minh bạch, chặt chẽ và toàn diện. Qua đó, vừa tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao
hiệu lực và hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế, vừa đảm bảo để người nộp
thuế giám sát hoạt động thực thi công vụ của cơ quan thuế và góp phần ngăn ngừa hành vi
nhũng nhiễu của người thi hành công vụ trong hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế.
Thứ ba, các văn bản quy phạm pháp luật xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế.

4


Điểm cải cách nổi bật trong quy phạm pháp luật riêng về thanh tra, kiểm tra thuế
thời gian qua gắn liền với sự ra đời của Luật Quản lý thuế năm 2006. Theo đó, lần đầu tiên
ở Việt Nam pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế được quy định riêng trong văn bản luật về
quản lý thuế.
Các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế
tuy đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng ngày càng đầy đủ chặt chẽ và có tính răn đe. Cụ
thể là:
- Sau khi Luật Quản lý thuế ra đời, trên cơ sở các quy định của luật này và Pháp
lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Chính phủ đã ban hành Nghị định 98/2007/NĐ-CP quy
định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư
61/2007/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định này. Những văn bản pháp luật này đã
sửa đổi, bổ sung nhiều điểm chưa hợp lý hoặc không còn phù hợp với thực tiễn khách quan
của các quy định xử lý vi phạm hành chính thuế đã ban hành trước đó. Đáng chú ý là
những vấn đề sau: (i) Bổ sung các quy định về các hành vi vi phạm và hình thức xử phạt
trước đây chưa quy định những đã phát sinh trong thực tiễn, đó là hành vi khai thiếu thuế
và một số hành vi vi phạm về thủ tục thuế; (ii) Sửa đổi thẩm quyền xử lý vi phạm hành
chính thuế cho phù hợp với Luật Quản lý thuế; (iii) Quy định rõ mức xử phạt trong trường
hợp không có tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ để tránh sự vận dụng tùy tiện của người thực
thi công vụ; (iv) Sửa đổi quy định về xử lý hành vi trốn thuế khi quá thời hiệu xử phạt,

theo đó, hành vi trốn thuế bị phát hiện khi đã quá thời hiệu xử phạt thì không xử phạt hành
chính nhưng vẫn bị truy thu thuế (trước đây không truy thu và không xử phạt khi quá thời
hiệu).
- Để giải quyết những vướng mắc và bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện
Luật Quản lý thuế, Nghị định 98/2007/NĐ-CP Chính phủ đã ban hành Nghị định
129/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính thuế và cưỡng chế thi hành
quyết định hành chính thuế thay thế cho các Nghị định 98/2007/NĐ-CP và 13/2009/NĐCP. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 166/2013/TT-BTC quy định chi tiết
về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế. Các quy định pháp luật này đã tiếp tục
sửa đổi, bổ sung những điểm bất hợp lý hoặc không còn phù hợp với thực tiễn quản lý
thuế, trong đó có những điểm đáng chú ý sau đây:
(i) Hành vi trốn thuế bị phát hiện khi hết thời hiệu thì bị truy thu trong thời hạn tối
đa 10 năm, trừ trường hợp kinh doanh mà không đăng ký thuế. Trước đây không giới hạn
thời hạn truy thu nên rất không khả thi trong tổ chức thực hiện.
(ii) Bổ sung quy định mức xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân bằng một
nửa so với tổ chức.
(iii) Nâng mức xử phạt khai thiếu thuế từ 10% lên 20%.
(iv) Áp dụng cách tính tiền chậm nộp thuế lũy tiến theo số ngày chậm nộp: trong 90
ngày đầu tiên tỷ lệ tính tiền chậm nộp thuế là 0,05%/ngày; quá 90 ngày, tỷ lệ này là
0,07%/ngày. Đồng thời, bổ sung quy định tính tiền phạt chậm nộp trên cả số tiền chậm
nộp.
(v) Bổ sung hình thức xử phạt đối với một số hành vi vi phạm thủ tục trước đây
chưa xử phạt.
(vi) Bổ sung quy định về thi hành quyết định xử phạt hành chính thuế trong trường
hợp cá nhân bị xử phạt bị chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự; tổ chức bị xử
phạt bị phá sản, giải thể.
(vii) Bổ sung quy định cho phép người bị xử phạt hành chính có thể được nộp phạt
làm nhiều lần.
Thứ tư, các văn bản quy phạm pháp luật về các sắc thuế.
Thanh tra, kiểm tra thuế thực chất là hoạt động của cơ quan thuế và cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về việc chấp hành pháp luật thuế của ngcười nộp thuế. Do vậy, các


5


văn bản quy phạm pháp luật về các sắc thuế thuộc hệ thống thuế của một quốc gia cũng
thuộc hành lang pháp lý của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế.
Những năm qua, các luật thuế cũng dần được hoàn thiện. Xét riêng những nội dung
liên quan đến thanh tra, kiểm tra thuế, các luật thuế và văn bản hướng dẫn thi hành các luật
thuế đã được sửa đổi, bổ sung theo các hướng sau: (i) Quy định rõ hơn các căn cứ tính thuế
để người nộp thuế có thể hiểu và dễ dàng tự tính thuế và cơ quan thuế có cơ sở kết luận
đúng đắn về tính tuân thủ của người nộp thuế qua hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế; (ii)
Các quy định pháp luật về thuế chặt chẽ, rõ ràng và minh bạch hơn, qua đó, đảm bảo tính
nhất quán trong thực thi pháp luật, ngăn ngừa hành vi nhũng nhiễu của công chức thuế và
ngăn ngừa hành vi gian lận, trốn thuế của người nộp thuế.
b. Một số hạn chế, bất cập
Bên cạnh những thành tựu quan trọng như đã nêu trên, quy định pháp luật về thanh
tra, kiểm tra thuế vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định thể hiện trên các phương diện
chủ yếu sau:
Thứ nhất, thẩm quyền của cơ quan thuế trong thanh tra, kiểm tra thuế còn bị hạn
chế. Theo quy định pháp luật hiện hành về thanh tra thuế, cơ quan thuế đã được trao một
số quyền quan trọng để đảm bảo hiệu quả thanh tra thuế như quyền khám nơi cất giấu tài
liệu, tang vật liên quan đến trốn thuế, gian lận thuế (Điều 94 Luật Quản lý thuế); các quyền
tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép (Điều 90 Luật Quản lý thuế và Điều 69 Thông tư
156/2013/TT-BTC), niêm phong tài liệu, kiểm kê tài sản (Khoản 3 và 4 Điều 69 Thông tư
156/2013/TT-BTC). Tuy nhiên, quyền kiểm kê tài sản chỉ được thực hiện trong thanh tra
thuế tại trụ sở DN. Điều này hàm ý rằng, việc kê khai tài sản đã được báo trước vì khi có
quyết định thanh tra, người nộp thuế có thể biết rằng họ có khả năng bị kiểm kê tài sản.
Tức là, theo quy định pháp luật hiện hành, cơ quan thuế không có quyền kiểm kê đột xuất
tài sản của người nộp thuế khi phát hiện có dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế. Điều này đã
phần nào làm hạn chế khả năng chứng minh hành vi trốn thuế của người nộp thuế, đặc biệt

là trường hợp trốn thuế qua hành vi bán hàng không phản ánh vào sổ sách kế toán.
Theo quy định pháp luật hiện hành, cơ quan thuế không có quyền kiểm kê đột xuất
tài sản của người nộp thuế khi phát hiện có dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế. Điều này đã
phần nào làm hạn chế khả năng chứng minh hành vi trốn thuế của người nộp thuế, đặc biệt
là trường hợp trốn thuế qua hành vi bán hàng không phản ánh vào sổ sách kế toán.
Thứ hai, một số quy định trong các văn bản pháp luật về các sắc thuế cụ thể còn
chưa rõ ràng, chưa minh bạch và có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, gây khó khăn cho
hoạt động thực thi pháp luật. Ví dụ: Khoản chi không được trừ tại Điểm 2.18, Khoản 2,
Điều 6, Thông tư 78/2015/TT-BTC được quy định như sau “Phần chi trả tiền vay vốn
tương ứng với phần vốn điều lệ (đối với DN tư nhân là vốn đầu tư) đã đăng ký còn thiếu
theo tiến độ góp vốn ghi trong điều lệ của DN kể cả trường hợp DN đã đi vào sản xuất,
kinh doanh”.
Như vậy, để loại bỏ chi phí lãi vay trong trường hợp các thành viên góp vốn vào
DN chưa góp đủ vốn điều lệ theo tiến độ góp vốn thì cần sử dụng một lãi suất nào đó để
tính toán. Tuy nhiên, một DN có thể vay nhiều khoản vay từ nhiều ngân hàng khác nhau
với các kỳ hạn khác nhau và đương nhiên những khoản vay này sẽ có các lãi suất khác
nhau.
Vậy vấn đề đặt ra là: Sử dụng lãi suất nào để loại bỏ chi phí lãi vay trong trường
hợp này? Vấn đề này chưa được hướng dẫn cụ thể cho nên trong thực tế khi thanh tra,
kiểm tra thuế sẽ rất khó thống nhất cách xử lý hoặc xử lý tùy thích. Có thể tìm thấy không
ít ví dụ tương tự như trên trong văn bản pháp luật về thuế hiện hành. Đặc biệt, một hiện
tượng khá phổ biến là việc sử dụng các câu ghép và câu phức trong diễn đạt các quy định
pháp luật thuế dẫn đến những cách hiểu khác nhau. Những ý khác nhau trong các câu ghép
và câu phức này thường nằm liên tục trong một đoạn văn và cách nhau bởi rất nhiều dấu

6


chấm phẩy hoặc dấy phẩy làm cho ý nghĩa của cụm từ bổ nghĩa sau cùng không rõ là dùng
cho cụm từ gần nhất hay dùng cho cả đoạn văn. Điển hình cho rắc rối này là trường hợp

quy định về đối tượng không chịu thuế đối với hoạt động cho vay vốn quy định tại Thông
tư 129/2008/ TT-BTC đã làm dấy lên cuộc tranh cãi dài ngày giữa cơ quan thuế và DN về
việc DN (không phải tổ chức tín dụng) cho nhau vay vốn thì có thuộc đối tượng chịu thuế
giá trị gia tăng không. Cụ thể là, Khoản 8 Mục II Phần A Thông tư 129/2008/TT-BTC quy
định “Dịch vụ cấp tín dụng gồm các hình thức: cho vay; chiết khấu và tái chiết khấu công
cụ chuyển nhượng và các giấy tờ có giá khác; bảo lãnh; cho thuê tài chính và các hình thức
cấp tín dụng khác theo quy định của pháp luật do các tổ chức tài chính, tín dụng tại Việt
Nam cung ứng”. Khi đó, có thể hiểu cụm từ “do các tổ chức tài chính, tín dụng tại Việt
Nam cung ứng” chỉ áp dụng đối với “các hình thức cấp tín dụng khác” mà cũng có thể hiểu
áp dụng đối với cả đoạn văn trên. Tất nhiên, rắc rối này đã được giải quyết, song những
trường hợp tương tự như vậy còn ở một số văn bản pháp luật thuế cần được khắc phục triệt
để.
Thứ ba, các thủ tục cần thiết phải thực hiện trong thanh tra, kiểm tra thuế, mặc dù
đã được bổ sung, song vẫn chưa được quy định đầy đủ trong các văn bản quy phạm pháp
luật về quản lý thuế và quy phạm pháp luật chuyên biệt về thanh tra tài chính. Đó là các
quy định về cách thức và thời hạn yêu cầu người nộp thuế cung cấp thông tin trước khi tiến
hành thanh tra (có nhất thiết phải bằng văn bản không, trong thời hạn bao lâu); thời hạn
tạm dừng thanh tra, kiểm tra thuế trong quá trình thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở người
nộp thuế; thời hạn bãi bỏ quyết định kiểm tra trong những trường hợp được bãi bỏ quyết
định kiểm tra thuế theo quy định của pháp luật; quy định về trình tự, thủ tục kiểm tra lại
các kết luận kiểm tra thuế (đã có quy định về thanh tra lại kết luận thanh tra thuế.
2. Thực tiễn triển khai và áp dụng vấn đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
pháp luật thuế ở Việt Nam năm 2015.
Năm 2015, ngành Thuế ưu tiên đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra chống các
hành vi gian lận, trốn thuế, kiểm soát chặt chẽ việc hoàn thuế giá trị gia tăng, chống các
hoạt động chuyển giá thông qua giao dịch liên kết để khai thác nguồn thu ngân sách nhà
nước. Toàn ngành Thuế đã thực hiện thanh tra, kiểm tra tại 20.708 doanh nghiệp và kiểm
tra 732.578 hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế. Số thuế xử lý tăng thu qua thanh tra, kiểm tra
là 4.089,04 tỷ đồng, trong đó: truy thu, truy hoàn là 2.594,6 tỷ đồng; tiền phạt là 909,8 tỷ
đồng; tiền thuế điều chỉnh qua kiểm tra hồ sơ tại cơ quan thuế là 584,7 tỷ đồng. Số tiền

thuế đã nộp ngân sách nhà nước là 2.532,8 tỷ đồng.
Qua công tác thanh tra, kiểm tra đã phát hiện các đối tượng nộp thuế có hành vi vi
phạm về thuế GTGT như: ghi nhận doanh thu không đúng trong kỳ tính thuế; Kê khai
doanh thu và thuế GTGT đầu ra theo tỷ giá quy đổi thấp hơn tỷ giá liên ngân hàng tại thời
điểm phát sinh doanh thu; không xuất hóa đơn, không kê khai thuế GTGT đầu ra đối với
khối lượng công việc xây dựng, lắp đặt đã hoàn thành, nghiệm thu, bàn giao; không xuất
hóa đơn, không kê khai thuế GTGT đầu ra đối với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, biếu
tặng; Không hạch toán doanh thu vào sổ sách kế toán để trốn thế (khai thác tài nguyên,
kinh doanh ăn uống, kinh doanh vận tải,...Nhiều đối tượng đã lợi dụng kẽ hở của pháp luật
như quy định cho phép các doanh nghiệp được tự in, sử dụng hóa đơn; điều kiện thành lập
doanh nghiệp thông thoáng...để thành lập nhiều "doanh nghiệp ma" mà chủ doanh nghiệp
là những người cùng gia đình, họ hàng đứng tên thành lập, mua bán hóa đơn lòng vòng với
nhau nhằm kê khai khấu trừ, chiếm đoạt tiền hoàn thuế của nhà nước.
Công tác thanh tra chống chuyển giá trong 6 tháng đầu năm 2015 được tăng cường,
cơ quan thuế đã tiến hành thanh tra, kiểm tra 361 doanh nghiệp lỗ, có dấu hiệu chuyển giá
và doanh nghiệp có hoạt động liên kết. Qua đó đã truy thu, truy hoàn và xử phạt 287,2 tỷ
đồng, giảm khấu trừ là 17,6 tỷ đồng, giảm lỗ là 1.232,5 tỷ đồng.

7


Sáu tháng đầu năm 2015, cơ quan Hải quan tập trung thanh tra việc chấp hành pháp
luật về hải quan, pháp luật về thuế đối với hoạt động kinh doanh nhập nguyên liệu để sản
xuất hàng xuất khẩu và gia công cho thương nhân nước ngoài, loại hình ưu đãi đầu tư;
hàng xuất nhập khẩu là thuốc tân dược và thiết bị y tế; việc phân loại, áp mã, thuế suất đối
với hàng nhập khẩu là thực phẩm dinh dưỡng, sữa bột Ensure, vani...Trong 6 tháng đầu
năm 2015, đã triển khai thực hiện 17 cuộc thanh tra chuyên ngành. Tổng số tiền kiến nghị
truy thu là 2.500 triệu đồng, đã thu nộp ngân sách nhà nước 11.899 triệu đồng (bao gồm
thu từ số kiến nghị của năm trước).
Bên cạnh công tác thanh tra chuyên ngành, Tổng cục Hải quan đã quan tâm, chỉ

đạo các đơn vị thực hiện tốt công tác kiểm tra sau thông quan (KTSTQ) và đã được một số
kết quả đáng ghi nhận. Tổng số cuộc đã kết thúc KTSTQ là 660 cuộc, truy thu 210,3 tỷ
đồng (bằng 69% cùng kỳ năm 2013), trong đó bao gồm 17,1 tỷ đồng tiền phạt vi phạm
hành chính, phạt chậm nộp; đã thực thu vào NSNN (bao gồm cả thu nợ từ những năm
trước) 184,1 tỷ đồng (bằng 72% cùng kỳ năm 2013), trong đó bao gồm 32,6 tỷ đồng tiền
phạt vi phạm hành chính, phạt chậm nộp. Riêng Cục Kiểm tra sau thông quan đã kiểm tra
22 cuộc, quyết định truy thu 41,2 tỷ đồng, đã thực thu vào NSNN (bao gồm cả thu nợ từ
những năm trước) 39,4 tỷ đồng.
Phát huy những kết quả đạt được trong công tác điều tra chống buôn lậu, các Cục
Hải quan địa phương, Cục Điều tra chống buôn lậu tiếp tục thực hiện các kế hoạch, xác lập
chuyên án đấu tranh có qui mô lớn, liên tỉnh như: kế hoạch chống buôn lậu rượu ngoại; kế
hoạch chống buôn lậu, vận chuyển trái phép xăng dầu qua biên giới; vận chuyển trái phép
khoáng sản ra nước ngoài; chuyên đề xe ôtô tạm nhập tái xuất. Tính đến ngày 15/5/2015,
các đơn vị nghiệp vụ thuộc Cục đã trực tiếp, phối hợp phát hiện, bắt giữ, xử lý 65 vụ, trị
giá hàng vi phạm khoảng 87 tỷ 845 triệu đồng, thu NSNN ước đạt 4 tỷ 436 triệu đồng; đã
ban hành 03 Quyết định khởi tố. Một số vụ việc điển hình như: đã phối hợp chặt chẽ với
các đơn vị trong và ngoài Ngành đấu tranh thành công 4 vụ, thu giữ 75 bánh heroin; 5.8 kg
ma tuý đá ICE; 9.600 viên ma tuý tổng hợp; 300 gam ma tuý tổng hợp dạng viên, 9.752
gam búp lá cần sa khô; Tại cửa khẩu sông Bắc Luân – Móng Cái - Quảng Ninh, đã kiểm
tra, khám xét 06 tàu phương tiện vận tải thuỷ vận chuyển hàng hoá không có hoá đơn
chứng từ thu giữ khoảng 120 tấn thịt trâu, bò và nội tạng trâu, bò đông lạnh trị giá ước tính
khoảng 6 tỷ đồng; khám xét đối với xe ô tô BKS 14C-05013 vận chuyển 150 thùng rượu
Chivas 18 (900 chai 750ml) không có hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc nhập khẩu
(trị giá khoảng 1 tỷ đồng).
Những thủ đoạn gian lận thuế điển hình
Qua thực tế công tác thanh tra, kiểm tra thuế, ngành Thuế đã phát hiện nhiều thủ
đoạn gian lận thuế của các DN, có thể liệt kê những thủ tục, cách thức điển hình như:
- Lợi dụng cơ chế thông thoáng về thủ tục thành lập DN, thủ tục tự in hóa đơn, một
số cá nhân ở Đồng Nai, Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh đã thành lập một chuỗi DN để
cung cấp hóa đơn giá trị gia tăng (GTGT) cho các DN “đen” tại Tây Nguyên làm thất thoát

tiền hoàn thuế GTGT, gây thất thu NSNN.
- Lợi dụng cơ chế xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới đất liền, chính sách thanh toán
biên mậu Việt Nam – Campuchia (thanh toán bằng đồng Việt Nam thông qua tài khoản
vãng lai mở tại các chi nhánh ngân hàng thương mại Việt Nam sát biên giới), cơ chế miễn
kiểm tra Hải quan hoặc kiểm tra theo tỷ lệ (phân luồng xanh) đối với hàng hóa xuất khẩu
tiểu ngạch, mua hóa đơn của các DN "ma", siêu thị… hợp thức hóa đầu vào để lập hồ sơ
xuất khẩu khống một phần hoặc toàn bộ hàng hóa nhằm chiếm đoạt tiền hoàn thuế từ
NSNN.
- Lợi dụng sự thông thoáng về thủ tục thành lập DN của Luật DN, một số cá nhân
sử dụng chứng minh thư nhân dân thất lạc, hoặc thuê, mua chứng minh nhân dân rồi báo

8


mất sau đó thuê người làm giám đốc để thành lập DN nhằm kinh doanh mua bán bất hợp
pháp hóa đơn, tiếp tay cho việc chiếm đoạt tiền hoàn thuế từ NSNN.
- Tạo chứng từ thanh toán qua ngân hàng cho hàng hóa mua vào từ 20 triệu đồng
trở lên để được khấu trừ thuế đầu vào (hoàn thuế) thông qua phương thức nộp tiền mặt vào
tài khoản của người mua hóa đơn, sau đó người mua hóa đơn chuyển trả vào tài khoản cho
người bán hóa đơn; Hoặc sau khi người mua chuyển khoản thanh toán cho người bán thì
lập tức người bán chuyển trả cho người mua qua một tài khoản khác. Hành vi này diễn ra
khá phổ biến và song trùng với hành vi mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp đã phát
hiện tại một số địa phương như: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Lâm Đồng, Đắc
Lắk…
- Tạo chứng từ thanh toán qua ngân hàng cho hàng hóa xuất khẩu qua biên giới đất
liền để đủ điều kiện được hoàn thuế xuất khẩu thông qua phương thức quay vòng tiền
thanh toán hàng hóa nhập khẩu (của người nước ngoài) nộp vào tài khoản vãng lai, để hợp
thức hóa thủ tục thanh toán qua ngân hàng đối với doanh thu hàng xuất khẩu nhằm gian lận
tiền hoàn thuế. Hành vi này khá phổ biến và song trùng với hành vi xuất khẩu khống một
phần hoặc toàn bộ hàng hóa, hoặc khai không đúng mặt hàng xuất khẩu đã được phát hiện

được tại các tỉnh Tây Nam Bộ, TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Sử dụng hóa đơn bất hợp pháp cùng với ủy nhiệm chi giả để chiếm đoạt tiền thuế:
Trường hợp này cơ quan thuế đã phối hợp với công an điều tra vụ trốn thuế xảy ra tại một
số công ty về sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để kê khai thuế GTGT đầu vào nhằm chiếm
đoạt tiền thuế GTGT.
- Một số DN nhập lậu các mặt hàng nhập khẩu thuế nhập khẩu cao, sau đó mua hóa
đơn của DN "ma" để hợp thức hóa đầu vào và hợp thức hóa thủ tục thanh toán qua ngân
hàng, gây thất thu thuế GTGT khâu nhập khẩu, thuế nhập khẩu và các khoản nộp NSNN.
- Tổ chức hệ thống DN mà nhân thân trong gia đình làm giám đốc, kế toán trưởng,
thủ kho… các DN này thường có lãi lớn nhưng lại thực hiện 2 hệ thống sổ sách kế toán với
mục đích kê khai nộp thuế thấp để trốn thuế.
Một số tồn tại trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế
Những tồn tại chủ yếu bao gồm: Tiến độ triển khai công tác thanh tra, kiểm tra thuế
còn chậm so với kế hoạch đề ra, hiệu quả thanh tra, kiểm tra chưa cao; Số thuế xử lý sau
thanh tra, kiểm tra chưa được DN nộp kịp thời vào NSNN; Tính ngăn ngừa và dự báo các
hành vi vi phạm mới còn chưa có kết quả nổi bật…
Trong 6 tháng đầu năm 2015, ngành Thuế đã thu được 17.500 tỷ đồng, chiếm 29%
số nợ thuế tại thời điểm 31/12/2013 chuyển sang, trong đó thu và xử lý nợ thuế bằng biện
pháp quản lý nợ chiếm 82,7%; bằng biện pháp cưỡng chế nợ thuế là 17,3%.
Nguyên nhân là do chính sách thuế còn một số nội dung chưa được đồng nhất với
các chính sách quy định theo ngành, lĩnh vực; Quy trình thanh tra mới số 74/QĐ-TCT đã
bước đầu hỗ trợ cho công tác thanh tra thuế nhưng vẫn còn một số điểm chưa phù hợp giữa
Luật Thanh tra và chức năng thanh tra chuyên ngành; Chưa có chế tài xử phạt nghiêm khắc
cho các trường hợp cố tình không cung cấp tài liệu hoặc kéo dài thời gian cung cấp tài liệu
phục vụ cho công tác thanh tra; Việc khai thác thông tin từ cơ sở dữ liệu còn nhiều vướng
mắc do sự phân quyền quản lý, không khai thác được thông tin, dữ liệu kê khai thuế của
các DN thuộc các cơ quan thuế quản lý. Chưa kể, trong quá trình tiến hành thanh tra, kiểm
tra thuế, kế toán đơn vị đặc biệt là kế toán làm thuê cho nhiều DN chưa hợp tác cung cấp
và giải trình số liệu với đoàn kiểm tra, cá biệt có trường hợp có hành vi đối phó với đoàn
thanh tra, kiểm tra; Một số DN đầu tư nước ngoài sử dụng phần mềm kế toán quốc tế

không theo chuẩn mực kế toán Việt Nam, toàn bộ sổ sách kế toán bằng tiếng Anh…, dẫn
đến, có cuộc thanh tra, kiểm tra còn kéo dài, xử lý chưa dứt điểm….
Kết luận:

9


Các cuộc thanh tra, kiểm tra được thực hiện đúng, rõ trọng tâm, trọng điểm, tập
trung vào những lĩnh vực dễ nảy sinh sai phạm. Nhiều nội dung thanh tra được lồng ghép
một cách khoa học trong mỗi cuộc thanh tra, góp phần tiết kiệm chi phí và nhân lực. Các
kết luận, kiến nghị thanh tra, kiểm tra đầy đủ chứng lý, đảm bảo tính thực tiễn, tính khả thi
cao nên được các đơn vị, đối tượng thanh tra nghiêm túc tiếp thu, thực hiện. Qua thanh tra
đã phát hiện, kiến nghị xử lý nhiều sai phạm, thu hồi cho ngân sách hàng nghìn tỷ đồng,
đồng thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều văn bản quản lý nhà nước, góp
phần quan trọng vào thực hiện tốt các quy định của pháp luật về tài chính ngân sách, giữ
gìn kỷ cương, kỷ luật tài chính.
Có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các đơn vị trong và ngoài ngành trong việc
xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch và các nhiệm vụ đột xuất được giao nên
đảm bảo tránh trùng chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm tra; chất lượng các cuộc thanh
tra được nâng cao, những kiến nghị đề xuất mang tính thiết thực, phục vụ trực tiếp cho
công tác quản lý của Bộ Tài chính cũng như công tác quản lý của các đơn vị được thanh
tra.
Tuy nhiên, các quy định pháp luật về thanh tra chuyên ngành mới được ban hành
nên một số đơn vị cấp Cục, Tổng cục có chức năng thanh tra chuyên ngành trong quá trình
triển khai thực hiện còn lúng túng. Một số đoàn thanh tra nội dung còn dàn trải, thiếu trọng
tâm, trọng điểm, kết quả thấp.Kế hoạch sẽ chú trọng vào chất lượng để công tác thanh tra
ngày càng chuyên nghiệp hơn.
III. Định hướng hoàn thiện những vấn đề về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi
phạm pháp luật thuế năm 2015 ở Việt Nam.
1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật về quản lý thuế.

Để hành lang pháp lý về thanh tra, kiểm tra thuế thực sự là khuôn khổ, nền tảng cho
hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế, cần khắc phục những hạn chế, bất cập đã nêu. Cụ thể
như sau:
Một là, cần nghiên cứu bổ sung cho cơ quan thuế quyền kiểm kê tài sản đột xuất.
Quyền kiểm kê tài sản đột xuất giúp đấu tranh có hiệu quả hành vi bán hàng không phản
ánh vào sổ sách kế toán để trốn thuế - một hành vi trốn thuế phổ biến của người nộp thuế
hiện nay, bởi lẽ nếu người nộp thuế bán hàng không phản ánh vào sổ sách kế toán thì chắc
chắn sẽ có chênh lệch giữa tồn kho trên sổ sách kế toán với tồn kho thực tế. Nếu được báo
trước, việc kê khai tài sản sẽ giảm tác dụng rất nhiều do người nộp thuế có thể tìm cách đối
phó để đảm bảo sự thống nhất giữa số liệu trên sổ kế toán với thực tế tồn kho tài sản. Để
vừa đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động thanh tra thuế, vừa không gây cản trở quá trình
sản xuất, kinh doanh của người nộp thuế, cần quy định rõ các trường hợp cơ quan thuế
được kiểm kê tài sản đột xuất, thủ tục pháp lý để kiểm kê đột xuất…
Hai là, cần rà soát lại toàn bộ các văn bản luật và hướng dẫn thi hành các luật thuế
để sửa đổi những nội dung không rõ ràng, có thể hiểu nhiều cách khác nhau. Đặc biệt, cần
sửa đổi cách diễn đạt văn bản theo hướng tránh sử dụng những câu phức và câu ghép với
những cụm từ liệt kê liên tiếp gắn với những mệnh đề bổ nghĩa không rõ áp dụng cho
trường hợp nào. Trong những trường hợp cần liệt kê nhiều nội dung quy định pháp luật thì
nên áp dụng cách liệt kê tách biệt thành những đoạn văn riêng biệt. Việc minh bạch hóa
các văn bản pháp luật thuế giúp hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế có căn cứ pháp lý vững
chắc để kết luận đúng sai.
Ba là, tiếp tục và thường xuyên rà soát để bổ sung cho đầy đủ các thủ tục cần thiết
phải thực hiện trong quá trình thanh tra, kiểm tra thuế để tránh sự vận dụng tùy tiện của
người thực thi pháp luật.
Bốn là, việc xử lý vi phạm về thuế cần phải xây dựng xuất phát trên cơ sở mang
tính răn đe, sau đó là bù đắp chi phí, vì công tác thanh kiểm tra, điều tra hành vi vi phạm
thuế cần huy động nhiều người với sự hỗ trợ nhiều tổ chức, cơ quan, cá nhân và tốn chi

10



phí. Nếu mức xử phạt hành vi trốn thuế, gian lận thuế từ 1-3 lần số tiền thuế trốn thì quá
nhẹ, nên chăng nâng mức xử phạt lên tối thiểu 5 lần, và một phần khoản tiền phạt này sẽ
được dùng cho hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế. Mức xử phạt phải đủ mạnh để người nộp
thuế luôn phải nghĩ đến việc có bị vi phạm hay không, từ đó ý thức được lợi ích tuân thủ
pháp luật thuế. Còn đối với việc chậm nộp thuế có thể xử phạt giống như mức xử phạt
trong trường hợp nợ chậm trả theo quy định của Bộ luật Dân sự. Trường hợp, người nộp
thuế không đồng ý với số thuế cơ quan hải quan ấn định thuế đối với hành hóa nhập khẩu
thì có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện, pháp luật không thể bắc buộc người nộp thuế nộp số
thuế ấn định.
Tóm lại, trong thời gian vừa qua hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra,
kiểm tra ở Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn
quản lý thuế. Nếu một vài hạn chế, bất cập đã nêu được khắc phục thì sẽ có hành lang pháp
lý tốt cho hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế ở Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm thanh tra, kiểm tra thuế của các nước có thể
đưa ra một số bài học kinh nghiệm hữu ích cho Việt Nam, để xây dựng nền tảng vững chắc
trong quá trình thanh tra, kiểm tra thuế trong thời gian tới.
Thứ nhất, cơ quan thuế cần nghiên cứu xem xét và đánh giá lại về sự tuân thủ pháp
luật của NNT, sự thay đổi bất thường trong việc kê khai thuế theo năm, giai đoạn cũng như
hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN.
Thứ hai, để tránh hiện tượng gian lận và trốn thuế của NNT, cơ quan thuế cần phân
loại đối tượng nộp thuế theo các tiêu chí: quy mô sản xuất, doanh thu và số thuế phát sinh
hàng năm.
Thứ ba, cán bộ thuế và cơ quan thuế cần thường xuyên theo dõi và tiến hành thanh
tra, kiểm tra đối với các lĩnh vực có dấu hiệu trốn thuế, chuyển giá như: bất động sản,
chứng khoán, hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ…
Thứ tư, cơ quan thuế cần phối hợp với các cơ quan chức năng theo dõi thường
xuyên về sự thay đổi giữa tỷ lệ thuế TNDN và thuế GTGT phát sinh trên doanh thu (doanh
thu tăng nhưng thuế phát sinh giảm đột ngột so với các năm trước, kết quả thuế không phù
hợp với mục đích chính sách pháp luật thuế…)

Thứ năm, cần tăng cường và đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách thuế cũng
như nghĩa vụ tuân thủ quy trình nộp thuế của NNT, để sớm khắc phục các tình trạng như:
không đăng ký mã số thuế, chậm nộp tờ khai, không khai thuế, chậm nộp thuế...
2. Giải pháp nâng cao công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật
thuế.
- Tổ chức sắp xếp, bổ sung nguồn nhân lực tối đa cho công tác thanh tra, kiểm tra;
Triển khai giao nhiệm vụ cụ thể đến từng đoàn, đội gắn với động viên, thi đua, khen
thưởng, phấn đấu hoàn thành thu NSNN năm 2015.
- Tổ chức hội nghị tổng kết công tác thanh tra, kiểm tra năm 2015 và triển khai
công tác năm 2015; Trong đó, chú trọng đúc rút, nhân rộng các mô hình thanh tra, kiểm tra
thuế có hiệu quả.
- Tham mưu cho ủy ban và chính quyền cùng cấp chỉ đạo các cơ quan ban ngành
địa phương phối hợp chặt chẽ với cơ quan Thuế đưa ra các giải pháp đề phòng, xử lý, ngăn
chặn kịp thời đối với các hành vi trốn thuế, gian lận thuế.
- Tập trung triển khai công tác “chống các hành vi vi phạm về hóa đơn” qua ứng
dụng “đối chiếu bảng kê hóa đơn” trong toàn Ngành nhằm phát hiện ngăn chặn, xử lý kịp
thời hành vi kinh doanh mua bán hóa đơn bất hợp pháp, trốn thuế.
- Bộ phận thanh tra, kiểm tra phối hợp chặt chẽ với bộ phận kê khai, tin học thường
xuyên rà soát, quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế; Phân loại, giám sát chặt chẽ các đối
tượng có dấu hiệu kinh doanh mua bán hóa đơn bất hợp pháp, đồng thời có giải pháp ngăn
chặn kịp thời các hành vi vi phạm, chống thất thu cho NSNN.

11


- Tập trung triển khai hoàn thành chiến lược cải cách, hiện đại hóa công tác thanh
tra, kiểm tra của Ngành; Đẩy mạnh ứng dụng tin học cho hoạt động thanh tra, kiểm tra
thuế…
- Tăng cường kiểm soát tuân thủ đối với hoạt động công vụ của các đoàn, đội và
cán bộ thực thi nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra DN để đề phòng, ngăn chặn, xử lý kịp thời vi

phạm.
- Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, trao đổi nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra thuế
nâng cao năng lực và kỹ năng cho công chức làm công tác thanh tra, kiểm tra thuế; Xây
dựng tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ và kỹ năng thanh tra chống chuyển giá, thanh tra
chuyên ngành dược, thanh tra chuyên ngành ngân hàng…
Kết luận
Qua những phân tích ở trên, chúng ta đã có thể thấy được những thực trạng của vấn
đề thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế của Việt Nam năm 2015. Tuy vẫn
còn những bất cập, hạn chế còn tồn tại nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều những thành tựu
đáng được biểu dương. Chúng ta có thể đạt được những thành tựu đó một phần nhờ những
sửa đổi ngày càng hợp lý hơn của pháp luật về quản lý thuế, ngoài ra cũng nhờ chính vào
những chủ thể nộp thuế đã có ý thức tự giác chấp hành những quy định của pháp luật và
cuối cùng đó chính là chất lượng của đội ngũ cán bộ, nhân viên ngày thuế ngày càng được
cải thiện. Từ đó đã đem đến một năm 2015 là một năm thắng lới đối với ngành Thuế, đặc
biệt là công tác thanh tra, kiểm tra thuế.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Ngân sách Nhà nước – Trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Bài viết “ Pháp luật về thanh tra và kiểm tra thuế ở Việt Nam” (Thạc sĩ Vũ
Ngọc Hà, Thạc sĩ Vũ Văn Cương ) ( Tạp chí Luật học năm 2009 )\
3. Bài viết “ Thanh tra và kiểm tra thuế ở một số nước và kinh nghiệm cho Việt
Nam” />4. Bài viết “Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế ở
Việt Nam” />5. Bài viết “Kết quả công tác thanh tra của đơn vị Thuế - Hải quan”
/>
13




×