Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tác Động Của Tự Do Hoá Thương Mại Tới Tăng Trưởng & Nghèo Đói Ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.83 KB, 22 trang )

Đề Bài
Bush: Tự do hoá thương mại: “là con đường duy nhất nếu quốc gia
đang phát triển muốn thoát khỏi nghèo đói. Khi các quốc gia bị tách biệt
khỏi thế giới người dân phải trả giá quá đắt. Những người phê phán tự
do thương mại là kết án người nghèo vĩnh viễn nghèo đói”.
Hãy đánh giá tác động của tự do hoá thương mại tới tăng trưởng và
nghèo đói ở Việt Nam.

Bài làm.
I. Khái niệm về tự do hoá thương mại
Tự do hoá thương mại là một thuật ngữ chung chỉ sự dỡ bỏ dần dần hoặc
hoàn toàn các hàng rào hiện tại đối với thương mại hàng hoá và dịch vụ và
trong một số trường hợp cả với đầu tư. Kết quả của việc này thường được
nhắc đến là thương mại tự do và mang lại khối lượng lớn hơn cho tất cả các
nước tham gia vào các hoạt động này.
II. Làn sóng tự do hoá thương mại hiện nay ở các nước đang phát triển
Từ cuối thập kỷ 80, làn sóng tự do hoá thương mại đã được lan rộng trên
phạm vi toàn thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Sự chuyển
hướng trong chính sách thương mại ở nhóm nước này theo hướng tự do hoá là
kết quả của sự tác động tương hỗ giữa các nguyên nhân bên trong và bên
ngoài, hay nói cách khác những nguyên nhân chủ quan và khách quan là khác
nhau.

1


1. Thương mại là một trong những điều kiện cần thiết để các nước đang
phát triển phát triển kinh tế
Trong nhiều thập kỷ qua, các nước đang phát triển đã đạt được những
thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế. Do đó đời sống nhân dân các nước
này đã được nâng lên rõ rệt, tuy chưa đồng đều. Có những nước phát triển


nhanh như một số nước Đông và Đông Nam Á, Mỹ La-tinh, một số nước xuất
khẩu dầu lửa, nhưng nhiều nước khác vẫn chưa thoát ra khỏi nhóm các nước
có thu nhập thấp. Sự phát triển nhanh ở các nước nói trên một phần là do có
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhưng chủ yếu là do họ có một chế
độ thương mại tương đối mở cửa hơn - kết quả của quá trình cải cách thương
mại và kinh tế tích cực trong suốt nhiều năm.
Trong thế giới đang phát triển, một số nước đã tiến hành cải cách thương
mại theo hướng tự do hoá hơn ngay từ thập kỷ 60 như Hàn Quốc, Hồng
Kông, Singapore, Indonesia, Chilê, Colombia, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam
Tư... Đa số các nước này đã tiến hành tự do hoá thương mại trong điều kiện
nền kinh tế trong nước bị khủng hoảng. Riêng các nước Đông Nam Á là
những nước may mắn được lựa chọn đi theo hướng tự do hóa, bởi vì lúc đó
điều kiện trong nước và quốc tế đều rất thuận lợi. Chính điều kiện ổn định
kinh tế, chính trị vĩ mô là một trong các yếu tố giúp họ thành công trong các
chương trình cải cách thương mại. Nhờ đó, thương mại của họ đã rất phát
triển và là cội nguồn của quá trình tăng trưởng cao kéo dài nhiều thập kỷ
(bảng 1).

Khu vực/Nước

Thương Mại
Tăng Trưởng
Nghèo Đói
Tăng
trưởng Tăng
trưởng Tỷ lệ dân số sống
trung bình của trung bình của với thu nhập dưới
xuất khẩu hàng GDP
hoá (khối lượng) người


trên
1970

đầu 1 USD/ngày (tính
– ngang

giá

sức

2


1980 – 1994

1995

mua,

các

năm

khác nhau)
Các nền kinh tế
Đông Á
Trung Quốc

12,2


6,9

29,4 (1993)

Hồng Kông

15,4

5,7

<1

Inđonexia

9,9

4,7

4,5 (1993)

Hàn Quốc

11,9

10,0

<1

Malayxia


13,3

4,0

5,6 (1989)

Philippin

5,0

0,6

27,5 (1988)

Singapore

13,3

5,7

<1

Thái Lan

16,4

5,2

<1


Trung Bình
12,2
Các nền kinh tế

5,4

Mỹ La-tinh
Achentina

1,9

- 0,4

...

Bolivia

- 0,3

- 0,7

7,1 (1990)

Braxin

6,2

...

28,7 (1989)


Chilê

7,3

0,8

15,0 (1992)

Mexico

13,0

0,9

14,9 (1995)

Peru

2,4

- 1,1

49,4 (1994)

Urugoay

0,9

- 0,2


...

Venezuela

1,1

- 1,1

11,8 (1991)

Trung Bình

4,0

- 0,1

Nguồn: WB (1998), Annual World Bank Conference on Development in
Latin America and Caribbean 1997 “Trade: Towards Open Regionalism”,
Washington D.C,p.31.

3


Thành tích trong phát triển kinh tế của các nước Châu Á đã hấp dẫn các
nước đang phát triển còn lại, giúp họ có thêm sức mạnh để tiến bước trên con
đường tự do hoá thượng mại của mình . Hơn thế nữa, sự phát triển của thương
mại thế giới đòi hỏi các nước này phải có chế độ thương mại tự do hơn để sao
cho tranh thủ được tối đa các cơ hội phát triển mà thương mại mang lại. Hay
nói cách khác, có nhiều yếu tố đang tồn tại trong quá trình phát triển của

thương mại thế giới đã làm cho thương mại tự do không những hấp dẫn, mà
còn là cần thiết đối với các nước đang phát triển để phát triển. Đó là:
Thứ nhất, trong suốt nhiều thập kỷ qua, khối lượng trao đổi mậu dịch
giữa các nước trên thế giới không ngừng tăng lên. Nó lớn gấp 15 lần so với
thời điểm sau đại chiến thế giới lần thứ hai. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của
nó luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng sản lượng thế giới, thậm chí trong thập kỷ
vừa qua nó còn gấp đôi. Điều đặc biệt hơn là, trong những năm cuối thập kỷ
80 và đầu 90, tốc độ tăng trưởng của nhóm các nước đang phát triển, tuy vẫn
mang tính không đều giữa các khu vực. Sự phát triển này đã góp phần thúc
đẩy tăng trưởng và giải quyết nhiều vấn đề khác của kinh tế vĩ mô như việc
làm, mức sống v.v...
Thứ hai, sự thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế cũng là một yếu tố thúc
đẩy làn sóng tự do hoá thương mại ở các nước đang phát triển. Tuy buôn bán
hàng hoá vẫn chiếm phần chủ yếu, nhưng vai trò của buôn bán dịch vụ trong
thương mại quốc tế đang dần tăng lên. Nó đã trở thành một lĩnh vực không
thể thiếu trong các cuộc đàm phán về tự do hoá của các tổ chức thương mại
quốc tế.
Yêu cầu đối với các nước đang phát triển trong việc tiến hành tự do hoá
thương mại dịch vụ được bắt nguồn từ đặc điểm đặc trưng của dịch vụ (tức là
sản xuất và tiêu dùng cùng đồng thời xảy ra theo không gian và thời gian) và
nhu cầu phát triển của nền kinh tế hiện đại. Trên quy mô toàn cầu, các nước
xuất khẩu dịch vụ nhiều thường là các nước phát triển và một số NIC, còn đại

4


bộ phận các nước khác đều có nhu cầu nhập khẩu chúng. Trong điều kiện có
nhiều hạn chế quốc gia từ phía các nước nhập khẩu, việc tiến hành tháo giỡ
chúng dần dần là một nhu cầu cần thiết và trước mắt. Bên cạnh đó, sự phát
triển hiện nay của khoa học và công nghệ đòi hỏi các nước muốn phát triển

thì phải tham gia tích cực vào lĩnh vực trao đổi dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ
viễn thông. Nhờ trao đổi này, trong một thời gian ngắn, ngành viễn thông của
nhiều nước đang phát triển đã trở thành khu vực tăng trưởng nhanh nhất như
ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Malayxia.
Bảng 2: Tỷ trọng của mậu dịch hàng hoá trong tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) về hàng hoá (%).
Tên nước hoặc nhóm nước
1986
Nhóm các nước thu nhập thấp 46,1
và trung bình
Đông Á và Thái Bình Dương
48,1
Châu Âu và Trung Á
57,2
Mỹ La-tinh và Caribê
40,6
Trung Đông và Bắc Phi
52,1
Nam Á
22,1
Châu Phi Tiểu Sahara
70,3
Nhóm các nước thu nhập cao
70,4
Số liệu về một số nước đang phát triển riêng lẻ
Achentina
23,1
Brasil
26,0
Cămpuchia

4,3
Hồng Kông
513,0
Cộng hoà Công-Gô
162,4
Ethiopia
32,7
Ghana
44,6
Honduras
80,1
Indonexia
55,0
Jamaica
146,3
Malayxia
163,5
Mexico
51,2

1996
76,8

1997
79,6

127,3
79,7
61,7
78,4

39,2
102,5
178,8

89,9
89
66,3
72,0
39,6
94,4
78,7

44,0
24,9
95,2
1227,0
323,1
41,2
126,6
234,7
69,7
299,3
269,0
143,8

33,8
28,9
86,8
...
51,0

...
118,4
238,2
75,9
330,2
271,4
144,8

5


Panama
Philippin
Singapore
Thái Lan

119,1
57,4
697,4
85,8

1069,3
98,8
763,6
138,2

254,4
190,7
753,9
153,2


Nguồn:
- WB (1998), World Development Indicators 1998, p.310 – 312.
- WB (1999), World Development Indicators !999, P.324 -328
Thứ ba, sự phát triển nền kinh tế của các nước đang phát triển ngày càng
phụ thuộc vào sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Trong hơn một
thập kỷ gần đây, tất cả các nước đều có xu hướng muốn liên kết sâu hơn vào
nền kinh tế thế giới với hy vọng nắm bắt được những cơ hội để phát triển kinh
tế. Hay nói cách khác, vai trò của quan hệ kinh tế đối ngoại đối với sự phát
triển kinh tế ngày càng trở nên quan trọng. Điều này có thể chứng minh bằng
giá trị xuất khẩu hàng hóa so với tổng sản phẩm về quốc nội về hàng hoá.
Theo số liệu ở bảng 2, xuất khẩu hàng hoá của tất cả các nước trên thế giới,
đều có xu hướng tăng lên. Đáng tiếc là sự gia tăng này lại không động đều,
đặc biệt ở nhóm các nước đang phát triển. Có những nước, kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa so với GDP hàng hoá năm 1996 đã tăng so với năm 1986 gấp
20 lần như cămpuchia, 9 lần như panama. Có một vài nước khác, thì chỉ gấp 2
hoặc 3 lần như Jamaica, Honduras, Ghana, Mexico và cộng hoà Công gô. Thế
nhưng, cũng có những nước mà mức tăng không đáng kể như Brasil,
Ethiopia, Achentina. Cũng cần ghi nhận rằng sự gia tăng này càng lớn có
nghĩa là sự phát triển kinh tế của các nước sẽ càng phụ thuộc nhiều hơn vào
sự thăng trầm của nền kinh tế thế giới.
Thứ tư, thực trạng chính sách thương mại của các nước đang phát triển có
mức bảo hộ cao, đặc biệt đối với ngành chế tạo, với độ phân tán lớn. Bên
cạnh đó, đa số các nước trong nhóm này chưa đạt được sự nhất quán giữa
chính sách thương mại và các chính sách kinh tế vĩ mô. Trong điều kiện đó,

6


các nguồn lực khan hiếm được sử dụng không có hiệu quả. Vì vậy cải cách

thương mại theo hướng mở cửa không những tạo điều kiện sử dụng các nguồn
lực có hiệu quả hơn, mà còn cho các nước này có cơ hội tranh thủ được kinh
nghiệm phát triển kinh tế và thành tựu khoa học công nghệ của các nước đi
trước.
Đến đây có thể nhận định rằng từ nhận thức truyền thống về những lợi ích
mà thương mại đem lại, trên cơ sở thực tiễn của quá trình phát triển quan hệ
mậu dịch quốc tế. Tự bản thân các nước đang phát triển thấy cần thiết phải
tích cực thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại mở cửa hơn nữa vì sự phát
triển của nền kinh tế quốc gia. Sự hiện diện của nhu cầu nội tại về một nền
kinh tế mở cửa hơn là điều kiện cần thiết nhưng chưa là điều kiện đủ cho sự
phát triển của làn sóng tự do hoá thương mại hiện nay ở các nước đang phát
triển. Vậy cái gì đã thúc đẩy sự vận động của nhu cầu nội tại này? Đó chính là
một số nhân tố quốc tế được đề cập đến sau đây.
2. Toàn cầu hoá, khu vực hoá đã trở thành xu thế của nền kinh tế thế giới,
trong đó tự do hoá thương mại là một mũi nhọn
Một nền kinh tế toàn cầu không phải là một hiện tượng hoàn toàn mới mẻ,
nó đã được người ta nói đến cách đây khoảng một thế kỷ, khi liên kết kinh tế
được bắt đầu phát triển. Lúc này, tính toàn cầu chỉ được thể hiện thông qua
việc giảm các hàng rào thương mại và được nảy sinh từ khả năng cắt giảm chi
phí vận chuyển do sự phát triển của đường sắt và đường thuỷ.
Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày nay không chỉ bó hẹp
trong lĩnh vực thương mại quốc tế, mà nó còn bao gồm nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Đó là kết quả của quá trình quốc tế hoá
trong mọi lĩnh vực sản xuất, lưu thông, tư bản, tài chính - tiền tệ, kỹ thuật
v.v... dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Ở đây, sẽ
không đề cập một cách chi tiết đến các nhân tố thúc đẩy quá trình toàn cầu
hoá hiện nay cũng như các tác động khác nhau của nó đối với các nước trên

7



thế giới, khi trình độ phát triển kinh tế của họ quá là không đồng đều. Điều
cần nhấn mạnh là toàn cầu hoá không còn là một xu thế mà đã trở thành một
thực tiễn trong nền kinh tế thế giới. Do đó, để phát triển, mọi nước trên thế
giới cần phải chấp nhận nó và cố gắng cải cách nền kinh tế của mình sao cho
có thể tranh thủ được tối đa các lợi ích mà quá trình này mang lại.
Trong những năm gần đây, quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá được
tăng cường mạnh trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Các nước thành viên
WTO đang cố gắng thực hiện các cam kết về tự do hoá thương mại trong
vòng đàm phán Urugoay, đồng thời tích cực chuẩn bị cho một vòng đàm phán
mới – Vòng thiên niên kỷ. Tuy vậy, vì nhiều lý do, triển vọng của việc xây
dựng thương mại đa phương còn nhiều hạn chế
Bên cạnh đó, các chương trình tự do hoá thương mại khu vực đang được
phát triển rất rầm rộ. Thông qua việc ký kết các hiệp định thương mại đa bên,
nhiều khối thương mại tự do đã được thành lập (bảng 3). Cho đến nay, đã có
trên 100 liên minh thương mại được ra đời, tập trung chủ yếu ở Châu Âu và
Châu Mỹ. Ở Châu Á, tuy các hiệp định thương mại tự do không nhiều (theo
số liệu của JESTRO thì có 3 liên minh, nhưng theo WTO thì nó có 10 vì nó
bao hàm cả các liên minh chỉ mới ký kết trên giấy tờ chứ chưa được thực
hiện), nhưng chúng được đánh giá là thực hiện rất tích cực và đạt kết quả ban
đầu đáng khích lệ. Các khối thương mại tự do này có thể là do các nước phát
triển và các nước đang phát triển cùng thành lập nên như NAFTA, APEC,
hoặc cũng có thể chỉ do các nước đang phát triển thành lập như MERCOSUR,
SAFTA. Cần ghi nhận thêm rằng các khối thương mại tự do mới thành lập
đều được định hướng ra thị trường thế giới rộng lớn, chứ không mang tính
hướng nội như các khối thương mại được thành lập trước đây.
Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến sự phát triển thương mại khu
vực là:

8



a/ Sự gần gũi về địa lý: Do có sự gần gũi về địa lý, các nước thành viên
của các khối thương mại tự do hy vọng trao đổi thương mại giữa họ sẽ được
tăng cường hơn vì chi phí vận tải và viễn thông thấp hơn, đồng thời lại đáp
ứng được yêu cầu muốn vươn ra thị trường thế giới của các nhà sản xuất địa
phương.
b/ Do những nhu cầu chính trị của các nước thành viên: Các hiệp định
thương mại khu vực sẽ góp phần tích cực trong việc ổn định bầu không khí
chính trị trong vùng và chống lại những mối đe doạ từ bên ngoài. Có thể
chứng minh điều này qua những ví dụ về thực tế. Việc tham gia vào liên minh
Châu Âu đã làm giảm đến mức tối thiểu nguy cơ bùng nổ chiến tranh dưới bất
kỳ dạng nào giữa Pháp và Đức. Mối hiềm khích giữa Achentina và Brasil đã
được xoá bỏ khi họ tham gia vào MERCOSUR. Mối quan hệ giữa các nước
lớn ở vùng Châu Á – Thái Bình Dương đã được cải thiện đáng kể nhờ sự ra
đời và hoạt động của APEC.
Bảng 3: Một số hiệp định thương mại khu vực với sự tham gia của các nước
đang phát triển (Tính đến năm 1997)
Tên hiệp định
Viết Tắt
Hiệp ước Lome ACP

Thành Viên
70 nước, gồm các nước đang phát triển

lần thứ tư

ở Châu Phi, Caribe và Thái Bình Dương

Thị


với cộng đồng Châu Âu.
Bolivia, Colombia, Ecuador,

trường ANCOM

chung

Anđơ

Peru,

Venezuela.

(hay hiệp ước
Anđơ)
Tổ chức hợp tác APEC

Australia, Brunei, Canada, Chile, Trung

kinh tế Châu Á

Quốc,



Indonexia, Hàn Quốc, Malayxia, Niu

Thái


Dương

Bình

Hồng

Kông,

Nhật

Bản,

Dilân, Mêxico, Papua New Guine,

9


Philippin, Singapore, Đài Loan, Thái
Hiệp

hội các ASEAN

Lan, Mỹ, Nga, Peru và Việt Nam.
Indonesia,
Malaysia,
Philippin,

quốc gia Đông

Singapore, Thái Lan, Lào, Brunei,


Nam Á
Khu vự

Myanma, Cămpuchia và Việt Nam.
Indonesia,
Malaysia,
Philippin,

dịch

mậu AFTA

tự

do

Singapore, Thái Lan, Lào, Brunei,

ASEAN
Cộng đồng hợp Caricom

Myanma, Cămpuchia, Việt Nam.
Antigua và
Barbuda, Bahamas,

tác kinh tế và

Barbados, Belize, Dominaca, Grenada,


thị

Guyana, Jamaica, Montserrat, St.Kitt và

trường

chung Caribe

Nevi,

St.Lucia,

Grenadina,

St.

Vincent



Surinam,

Trinidad



Liên minh kinh UDEAC

Tobago.
Cameroom, Chad, Gabon, Công-Gô,


tế và thuế quan

Cộng hoà Trung Phi

trung phi
Thị
trường CACM

Costa Rica, El Salvador,

chung

Honduras, Nicaragoa.

Trung

guatemala,

Mỹ
Khu vực mậu CEFTA

Cộng hoà Séc, Hungry, Ba lan, Cộng

dịch

hoà Slovac, Slovenia, Rumania.

tự


do

Trung Âu
Cộng đồng kinh CEAO

Benin, Burkina Faso, Cabe Verde, Cote

tế Tây Phi

dlvoire, Nhóm đảo Gambia, Mali, Ni-

Cộng

ghê, Senegal, Togo.
Kenya, Tanzania, Uganda.

đồng EAC

Đông Phi
Hiệp hội kinh tế EAEG

Brunei, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn

Đông Á

Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Philippin,

10



Indonexia, Malayxia, Singapore, Nhật
Hiệp hội hợp GCC

Bản.
Bahrain, Co-oet, Oman, Quata, Ả rập

tác

Xê-ut, Các tiểu vương quốc Ả rập thống

các

vùng

vịnh
Khu vực mậu LAFTA

nhất.
Achentina,

Boliavia,

dịch tự do Mỹ

Colombia,

Peru,

Latinh
Hiệp hội liên LAIA


Paraguay, Urugoay, Vennezuale.
Achentina, Bolivia, Brasil, Chile,

kết tự do Mỹ

Colombia,

Latinh
Thị

Paraguay, Uruguay, Vennezuela.
Achentina, Brasil, Paraguay, Uruguay.

trường MERCOSUR

Peru,

Brasil,

Ecuador,

Ecuador,

Chile,
Mexico,

Mexico,

chung Nam Mỹ

Hiệp định tự do NAFTA

Mỹ, Canada, Mexico

Bắc Mỹ
Khu vực mậu SAFTA

Băng-la-đét, Bu tan, Ấn Độ, Mandivơ,

dịch tự do Nam

Nêpal, Pakistan, Srilanka.

Á
c/ Đáp ứng nhu cầu của các nước về một thể chế thương mại đa phương
trong điều kiện các vòng đàm phán của GATT/WTO chưa đạt kết quả mong
đợi: Sau khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, mức thuế trung bình trên thế
giới đã giảm đáng kể và các nước bắt đầu chuyển sang đàm phán về việc xoá
bỏ các rào cản phi thuế cũng như các vấn đề liên quan đến hoạt động của các
thị trường mở cửa như quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp và thương
mại dịch vụ. Thế nhưng, đàm phán các vấn đề này không những đòi hỏi nhiều
thời gian mà trong nhiều trường hợp không đạt được hiệu quả mong muốn.
Trước thực tại đó, các nước hy vọng thông qua các hiệp định thương mại khu
vực, các vấn đề mà WTO đang cần giải quyết sẽ được giải quyết nhanh chóng
hơn, do số lượng thành viên ít hơn. Không dừng lại ở đó, đa số các hiệp định

11


thương mại khu vực được hình thành hiện nay đều cố gắng đáp ứng những

yêu cầu pháp lý của WTO đến mức tối đa có thể. Để được coi là có tính pháp
lý theo WTO, các hiệp định khu vực cần đáp ứng ba tiêu chuẩn sau: cần phải
bao hàm lớn thương mại của các nước thành viên, phải hạn chế tối đa khả
năng xuất hiện các trở lực thương mại mới đối với các nước không phải là
thành viên và phải đạt được chế độ thương mại tự do sau một thời hạn nhất
định (thường là không quá 10 năm). Các liên minh khu vực quan trọng như
EU và NAFTA đã đáp ứng rất tốt các chỉ tiêu này và chúng sẽ là nền tảng của
hệ thống thương mại đa phương sau này. Chính vì vậy, có thể nói rằng các
khối thương mại tự do khu vực giữ vai trò bổ sung, chứ không phải là thay thế
hệ thống thương mại toàn cầu.
d/ Là bước thử nghiệm để tham gia tự do hóa thương mại toàn cầu: Trong
điều kiện thế giới chưa sẵn sàng cho tự do hoá thương mại toàn cầu, khi tham
gia một hiệp định thương mại khu vực nào đó, các nước thành viên sẽ có cơ
hội để làm quen với tự do hoá ở cấp cao hơn và từ đó có kinh nghiệm để tham
gia vào hợp tác đa phương. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu còn cho rằng
trong phạm vi tổ chức thương mại khu vực, các nước thành viên sẽ có cơ hội
khảo cứu và thử nghiệm các giải pháp cho các vấn đề thương mại phức tạp
hơn mà hệ thống thương mại toàn cầu chưa thể đề cập đến.
Khi tham gia vào WTO, cũng như các tổ chức thương mại khu vực, các
nước đang phát triển có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá thương
mại. Hiện tại, vị thế của các nước đang phát triển trong các tổ chức quốc tế
nói chung và các tổ chức thương mại nói riêng đã tăng lên rõ rệt. Ngày nay,
không chỉ các nước Châu Âu và Mỹ được lợi từ cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO, mà các nước đang phát triển cũng bắt đầu thu lợi từ cơ chế này.
Đây là một trong những lý do làm cho tự do hoá thương mại khu vực trở
thành làn sóng được phát triển mạnh mẽ trên phạm vi thế giới trong những
năm gần đây.

12



3. Sự thất bại của cơ chế kế hoạch hoá tập trung
Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa được hình
thành như là một mô hình đối lập với thế giới CNTB. Ở các nước này, nhà
`nước can thiệp sâu vào hoạt động kinh tế thông qua kế hoạch hóa tập trung.
Cho đến cuối thập kỷ 70, sự can thiệp này tỏ rõ hữu hiệu, nền kinh tế các
nước xã hội chủ nghĩa đã có những bước chuyển biến khá rõ rệt. Đồng thời,
người ta cũng nhận thấy những hạn chế của nó: tính mệnh lệnh của các kế
hoạch đã làm cho chúng mang tính chủ quan và từ đó làm cho sản xuất không
đáp ứng nhu cầu của tiêu dùng - một bất hợp lý cơ bản bắt nguồn từ sự can
thiệp, cùng với hàng loạt các khuyết tật khác, đã buộc các nước XHCN phải
cải cách.
Trung Quốc là nước đi đầu trong sự thay đổi này. Từ thập kỷ 70, nhiều lực
lượng thị trường đã được thực hiện rộng rãi ở đây, rồi sau đó lan rộng sang
các nước khác. Sang thập kỷ 80, các chương trình cải cách, đổi mới,
perestroika... đã lan rộng và góp phần lớn vào sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống
vào năm 1989. Đây là một nhân tố gây tác động mạnh lên các nước đang phát
triển, giúp họ quyết tâm từ bỏ con đường phát triển kinh tế với sự can thiệp
sâu của nhà nước.
Tình hình đó đã làm nảy sinh câu hỏi: tại sao các nước đang phát triển lại
lựa chọn chiến lược phát triển theo hướng thị trường và liệu họ có từ bỏ ngay
được sự can thiệp của nhà nước hay không. Có ba lý do chính để các nước
này chấp nhận điều tiết nền kinh tế bằng cơ chế thị trường. Đó là:
- Thị trường sẽ khuyến khích hoạt động của kinh tế tư nhân, tạo điều kiện
thuận lợi cho một nền kinh tế đa thành phần
- Thị trường có thể đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng của tiêu dùng và sản xuất
lại ít tốn kém hơn
- Thị trường linh hoạt hơn và mềm dẻo hơn các cơ quan nhà nước nên nó
dễ thich nghi hơn với những thay đổi nhanh chóng trên thực tế.


13


Tuy nhiên, các nước đang phát triển, cũng như các nước XHCN trước đây,
chưa thể từ bỏ ngay sự can thiệp của nhà nước. Đối với họ, nhiệm vụ trước
mắt là phải tìm kiếm một sự can thiệp có hiệu quả hơn và chỉ ở những nơi cần
thiết. Nhà nước thông qua các chính sách của mình, vẫn giữ vai trò quan trọng
trong việc giúp đỡ các nền kinh tế chưa phát triển nâng cấp và hiện đại hoá cơ
sở hạ tầng, bảo vệ những ngành công nghiệp non trẻ và hoàn thiện xã hội theo
hướng công bằng hơn. Điều đó hàm ý rằng nhiệm vụ chính của quá trình tự
do hoá thương mại hiện nay trong các nước này là tìm kiếm một sự can thiệp
có hiệu quả của nhà nước theo hướng thị trường và vì mục tiêu phát triển.
4. Những thay đổi trong ưu thế cạnh tranh dưới tác động của cách mạng
khoa học công nghệ
Nhờ có những thành tựu to lớn của khoa học và công nghệ, nền kinh tế thế
giới đang chuyển dần sang một cơ sở công nghệ mới về chất và mang tính
toàn cầu. Những công nghệ dựa trên kỹ thuật cơ khi , sử dụng nhiều tài
nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường đang dần bị loại bỏ. Nó đã để lại
cho chúng ta hàng loạt các vấn đề xã hội nan giải, mà việc giải quyết chúng
đòi hỏi phải tốn kém nhiều tiền của và sức lực với sự phối hợp chặt chẽ của
tất cả các nước trên thế giới. Thay thế vào đó là một cơ sở công nghệ mới
đang hình thành theo xu hướng tự động hoá ở mức cao, trình độ thông tin hiện
đại, tiết kiệm nhiên liệu và không gây ô nhiễm môi trường. Tuy mới chỉ đang
ở điểm khởi đầu, nhưng những gì đạt được trên thực thực tế của sự dịch
chuyển này cho thấy một triển vọng tốt đẹp.
Trước tình hình đó, nền kinh tế thế giới đã phải có những thay đổi nhất
định. Ngoài tính nhạy cảm và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn, cuộc cạnh
tranh giữa các nước cũng trở nên gay gắt hơn. Trong lĩnh vực kinh tế, không
chỉ có các công ty cạnh tranh nhau giành thị trường và các vùng ảnh hưởng,
mà các chính phủ cũng là các chủ thể tích cực. Người thắng thế trong cuộc

cạnh tranh gay gắt này không thể chỉ dựa vào giá cả hay giảm chi phí, mà

14


phần lớn dựa vào chất lượng sản phẩm của họ thể hiện thông qua mức độ thoả
mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Để đạt được điều này, các chính phủ và các
công ty phải rất nỗ lực trong hoạt động nghiên cứu và triển khai để đưa ra
những sản phẩm thoả mãn tốt nhất nhu cầu người tiêu dùng. Như vậy, có thể
nói một cách tổng quát rằng ngày nay, cạnh tranh dựa trên ưu thế về tài
nguyên thiên nhiên như các nguyên liệu và nguồn nhân lực, với tư cách là các
đầu vào, đang giảm dần ý nghĩa và dần được thay thế bằng những ưu thế về
trình độ trí tuệ.
Trên thực tế, các nước phát triển hơn trên thế giới có được một nền tảng
khoa học cao hơn, rộng hơn và do đó họ có ưu thế hơn về các sản phẩm có
hàm lượng khoa học cao. Sự phân bố sản xuất không đồng đều này làm nảy
sinh nhu cầu trao đổi. Vì vậy, một chế độ thương mại tư do hơn ở các nước
đang phát triển sẽ hấp dẫn các nước khác chuyển giao công nghệ mới cho họ.
Mặt khác, chuyển giao công nghệ còn là con đường để các nước phát triển mở
rộng thị trường và vùng ảnh hưởng của mình. Do vậy, bằng cách nào đó họ sẽ
ép các nước kém phát triển hơn mở cửa cho công nghệ của họ nói riêng và
sản phẩm của họ nói chung.
III. Tác động của tự do hoá thương mại đến tăng trưởng và nghèo đói ở
Việt Nam
1. Tác động của tự do hoá thương mại đến tăng trưởng
Khi bàn về những yếu tố thành công trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội sau gần hai thập kỷ “đổi mới”, các nhà nghiên cứu luôn đánh giá cao vai
trò của các quan hệ kinh tế đối ngoại. Bằng việc mở rộng quan hệ ngoại
thương với nhiều nước trên thế giới (hiện với khoảng trên 120 quốc gia và
lãnh thổ), và áp dụng các biện pháp khuyến khích xuất khẩu, tốc độ tăng

trưởng kim ngạch xuất khẩu trong suốt thập kỷ 90 đạt khoảng 20%/ năm, làm

15


cho tổng kim ngạch ngoại thương gia tăng đáng kể - trước đây chỉ bằng 20%
GDP nay đã tăng lên bằng 80% GDP. Hoạt động ngoại thương hiện đang có ý
nghĩa then chốt trong một số ngành như dầu khí, dệt, và may mặc. Ngoài ra,
có một số ngành trước đổi mới hầu như chưa có quan hệ với bên ngoài, thì
nay cũng đã có nhiều sản phẩm xuất khẩu, như ngành nông nghiệp. Việt Nam
hàng năm đã xuất khẩu khoảng 3-4 triệu tấn gạo , sau Thái Lan và đã vượt
qua Mỹ. Khả năng xuất khẩu của ngành nông nghiệp còn rất lơn, mà hiện tại
chưa khai thác hết. Trong tương lai, với chương trình phát triển nông nghiệp
và nông thôn đã được đề ra. Việt Nam có triển vọng là sẽ xuất khẩu các sản
phẩm nông sản chế biến, các loại hoa quả tươi. Như vây, có thể nói rằng mọi
ngành, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế của nước ta hiện nay, để đảm bảo hoạt
động có hiệu quả, đều cần phải tham gia tích cực vào trao đổi quốc tế.
Phát triển song song với lĩnh vực ngoại thương là lĩnh vực đầu tư quốc tế.
Cho đến nay, rất nhiều nước đã đầu tư vào Việt Nam. Nhiều chính phủ và các
tổ chức quốc tế đã tài trợ cho Việt Nam dưới dạng vốn ODA. Kể từ khi ban
hành luật đầu tư nước ngoài vào cuối năm 1987, Việt Nam thu hút hàng tỷ đô
la vốn nước ngoài dưới dạng FDI và ODA. Các nguồn vốn đã góp phần làm
gia tăng nguồn dự trữ ngoại tệ, đồng thời là động lực quan trọng để phát triển
kinh tế.
Bảng 4: FDI vào Việt Nam 1988-2001
1988-

1996

1997


1998

1999

2000

2001

1995

Tổng
số

Số dự
án đầu
tư:

1543

325

345

275

312

332


463

3250

Vốn
đầu tư

16


đăng

(triệu
$):

4649
18477

8497

3897

1568

1926

1385

40399


Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư.
Khu vự kinh tế đầu tư có vốn nước ngoài đang trở thành bộ phận quan
trọng thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển. Doanh thu xuất khẩu của khu
vực có vốn FDI (không kể dầu lửa) thời kỳ 1988-1991 là 52 triệu USD, năm
1995 đã đạt 495 triệu, năm 1997 đã tăng lên đến 1,79 tỷ đô la, năm 2000 và
2001 mỗi năm đạt trên 3,2 tỷ USD. Đồng thời, FDI cũng góp phần đẩy mạnh
sự phát triển của các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như du lịch, hàng
không. Điều đáng nói hơn cả là tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn FDI vào
GDP ngày một tăng, từ 2% năm 1992 lên 6,3% năm 1995 và lên 13,3% năm
2000. Tỷ lệ đóng góp của nó trong tổng sản lượng công nghiệp cũng có xu
hướng gia tăng tương tự - từ 25,1% năm 1995 lên 35,5% năm 2000. Bên cạnh
đó, khu vực kinh tế có FDI đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách, tạo
ra gần nửa chỗ làm việc mới và hàng ngàn chỗ làm việc trong các ngành có
liên quan, tạo ra một số năng lực sản xuất mơi, ngành sản xuất mới như khai
thác dầu thô, sản xuất và lắp ráp ô tô, xe máy, mang đến một phương thức
kinh doanh mới.
Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển
kinh tế của Việt Nam còn được nhân lên, bởi nó luôn được gắn với việc
chuyển giao công nghệ. Nhờ thu hút được lượng vốn đầu tư nước ngoài khá
lớn và chủ yếu đước chuyển giao dưới dạng máy móc, thiết bị, nên trình độ
công nghệ của nước ta đã được nâng lên đáng kể, nổi bật nhất là trong ngành

17


bưu chính viễn thông. Tóm lại, vốn đầu tư nước ngoài đã có tác động tích cực
ngày càng rõ rệt đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.
So với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đóng góp của ngoại thương
Việt Nam vào tăng trưởng GDP có phần hạn chế hơn. Một số công trình
nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, trong suốt thập kỷ 90, sự đóng góp vào

xuất khẩu ròng vào tăng trưởng GDP là không đáng kể, thậm chí còn tác động
ngược chiều. Điều này một phần là do Việt Nam chưa dựa vào khu vực công
nghiệp chế biến có giá trị gia tăng cao (năm 1998, tỷ trọng của khu vực này
trong GDP chỉ khoảng 17,7%) và trong thời gian qua đã chú trọng đến phát
triển các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu so với đẩy mạnh xuất khẩu
( thể hiện sự gia tăng thâm hụt trong cán cân thương mại).
Việc chú trọng hơn đến các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu, từ
kinh nghiệm của các nước ASEAN, đã dẫn đến thực trạng rằng mức độ bảo
hộ các ngành công nghiệp non trẻ của nước ta không thể là thấp. Nhiều công
trình nghiên cứu đã chứng minh rằng nền kinh tế Việt Nam đang được bảo hộ
rất mạnh (xét cả về mức bảo hộ danh nghĩa, lẫn hiệu quả), mức bảo hộ lại
phân tán giữa các ngành, từ đó tạo nên những méo mó rất lớn trong phân bổ
các nguồn lực.Trong điều kiện đó, một chế độ thương mại tự do hơn sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế.
Một chế độ tự do thương mại hơn không chỉ tác động tích cực lên việc
phân bổ các nguồn lực trong nước, mà còn làm tăng tác động của lượng FDI
thu hút được lên tăng trưởng năng suất toàn bộ các yếu tố và xuất khẩu các
sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Đây là mối quan hệ thuận chiều, tức
là tác động lên tăng trưởng kinh tế của FDI sẽ tăng lên khi có một chế độ
thương mại mở của hơn. Trong báo cáo phát triển thế giới năm 1994 của ngân
hàng đã chỉ rõ rằng trong các nước đang phát triển có chế độ thương mại
tương đối khép kín, tác động của FDI lên tăng trưởng năng suất toàn bộ các
yếu tố không những yếu hơn, mà thậm chí đôi khi còn mang tính tiêu cực.

18


Cũng theo kết quả nghiên cứu của công trình này, nếu lượng FDI được đổ vào
các nước đang phát triển với chế độ thương mại mở cửa hơn, sẽ có tác động
mạnh hơn lên tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao

trong tổng xuất khẩu của họ.
Tự do hoá thương mại thường bị trì hoãn bởi sự lo lắng rằng nó sẽ có
ảnh hưởng tiêu cực tới nguồn thu ngân sách và góp phần vào sự bất ổn định
kinh tế vĩ mô. Trên thực tế, tác động của tự do hoá thương mại tới nguồn thu
là không rõ ràng và phụ thuộc vào các cải cách được thực hiện.
2. Tác động của tự do hoá thương mại tới nghèo đói
Cho dù được định nghĩa như thế nào thì nghèo đói cũng không phải là kết
quả trực tiếp của thương mại quốc tế. Đúng hơn, đói nghèo phản ánh thu nhập
thấp, ít tài sản, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực công cộng, sức khoẻ và
giáo dục thấp, không có quyền lực, và dễ bị tổn thương. Điều quan trọng
không phải là cái gì gây ra những vấn đề này chừng nào chúng còn tồn tại,
cũng như làm gì có thể giải quyết được chúng nếu những yếu tố đó có thể
được giải quyết. Chính sách thương mại chỉ quan trọng trong chừng mực (a)
nó ảnh hưởng đến những yếu tố trực tiếp quyết định đói nghèo, (b) cùng với
toàn bộ chính sách có thể có khác, chính sách thương mại đưa ra một công cụ
chính sách hiệu quả cho việc giảm đói nghèo (càng đói nghèo thì càng mất
nhiều cơ hội).
Tự do hoá thương mại có thể gây ra những hậu quả có hại đối với một số
người – bao gồm cả một số người nghèo - điều này cần tránh hoặc cải thiện
càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, tự do hoá thương mại sẽ hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế, đến lượt mình, tăng trưởng kinh tế sẽ hỗ trợ giảm nghèo đói. Thông
qua quá trình tự do hoá thương mại, nước ta đã có quan hệ ngoại thương với
nhiều nước trên thế giới, và áp dụng các biện pháp khuyến khích xuất khẩu,
tốc độ tăng trưởng trung bình kim ngạch xuất khẩu trong suốt thập kỷ 90 đạt
khoảng 20%/năm, làm cho tổng kim ngạch ngoại thương gia tăng đáng kể -

19


trước đây chỉ bằng 20% GDP nay đã tăng lên bằng 80% GDP, điều này dẫn

đến sự gia tăng thu nhập của người lao động. Bên cạnh đó thông qua quá trình
tự do hoá thương mại Việt Nam đã thu hút được sự đầu tư của nước ngoài
điều này đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách, tạo ra gần nửa triệu
chỗ làm việc mới và hàng ngàn chỗ làm việc trong các ngành có liên quan.
Việc can thiệp vào thương mại nhìn chung là không hiệu quả và lãng phí,
sự không hiệu quả chủ yếu là do hiệu ứng tái phân phối. Điều đó có nghĩa, nói
chung những thiệt hại ròng do sự can thiệp thể hiện ở việc có những tác động
tích cực to lớn cho một số người và hộ gia đình và những ảnh hưởng tiêu cực
lớn đối với những người khác. Tương tự như vậy, mặc dù việc dỡ bỏ hết can
thiệp thương mại nói chung sẽ củng cố thu nhập, nhưng điều này có khả năng
tạo ra cả người được lẫn kẻ mất. Ví dụ, tự do hoá lĩnh vực nhập khẩu sẽ tái
phân phối thu nhập thực tế của nhà sản xuất sang cho người tiêu dùng do mức
giá giảm xuống, cũng như giữa các yếu tố sản xuất theo hướng một số yếu tố
được lợi trong khi những yếu tố khác lại bị thiệt dưới mức trung bình.

20


21


MỤC LỤC
Trang
I. Khái niệm về tự do hoá thương mại
II. Làn sóng tự do hoá thương mại hiện nay ở các nước đang phát

1

triển
1. Thương mại là một trong những điều kiện cần thiết để các nước


1

đang phát triển phát triển kinh tế
2. Toàn cầu hoá, khu vực hoá đã trở thành xu thế của nền kinh tế

1

thế giới, trong đó tự do hoá thương mại là một mũi nhọn
3. Sự thất bại của cơ chế kế hoạch hoá tập trung
4. Những thay đổi trong ưu thế cạnh tranh dưới tác động của cách

6
11

mạng khoa học công nghệ
III. Tác động của tự do hóa thương mại đến tăng trưởng và nghèo

13
14

đói
1. Tác động của tự do hoá thương mại đến tăng trưởng
2. Tác động của tự do hoá thương mại tới nghèo đói

14
17

22




×