Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Xây dựng hệ giải pháp tin học hoá công tác quản lý các lĩnh vực hoạt động của học viện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.2 KB, 92 trang )

LUẬN VĂN:

Xây dựng hệ giải pháp tin học hoá công tác
quản lý các lĩnh vực hoạt động của Học viện
tại trung tâm Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
a, Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên tất cả các lĩnh vực,
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đang hướng đến mục tiêu "đến năm 2020, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại". Công nghệ thông tin - truyền thông đã và đang trở thành một lĩnh vực có
vị trí rất quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước.
Từ năm 1995 đến nay, Nhà nước đã quyết định nhiều chủ trương; triển khai nhiều
chương trình, đề án, dự án... công nghệ thông tin - truyền thông trong hệ thống cơ quan của
Đảng và Nhà nước nhằm ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước thực hiện tin học hoá
trong các lĩnh vực hoạt động của cơ quan Đảng, bộ máy Nhà nước và các ngành, các cấp.
Trong sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ, y tế, văn hoá, giáo dục... quá trình tin
học hoá đã diễn ra nhanh chóng, đem lại nhiều kết quả. Ở nước ta, bước đầu đã hình thành
khu vực kinh tế thông tin trong nền kinh tế. Hàng năm, khu vực này đều có chỉ số tăng trưởng
từ 30% trở lên. Các nhà đầu tư nước ngoài đã nhận thấy những tiềm năng to lớn; triển khai
nhiều dự án, trong đó có những dự án có quy mô lớn trong lĩnh vực công nghệ thông tin truyền thông ở nước ta.
Công nghệ thông tin - truyền thông đã và đang trực tiếp góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội và là chiếc chìa khoá để mở cánh cổng vào nền kinh tế tri thức. Để trở
thành một nước công nghiệp phát triển; nhanh chóng tiếp cận kinh tế tri thức, nền kinh tế
nước ta nhất định phải tiếp tục thúc đẩy nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin; thúc đẩy
quá trình tin học hoá trong tất cả các ngành sản xuất, trong các lĩnh vực đời sống xã hội và
trước hết là trong hoạt động quản lý của các cấp.
Tuy vậy, hiện nay trong hoạt động của cơ quan Đảng và Nhà nước (bao gồm các đơn vị


quản lý hành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp), việc ứng dụng công nghệ thông tin -


truyền thông còn nhiều hạn chế, bất cập. Một số đề án, dự án cấp quốc gia gần đây đã không
thực hiện được mục tiêu, không đảm bảo tiến độ, quản lý lỏng lẻo, yếu kém. Hệ quả tất yếu là
không thực hiện được yêu cầu tin học hoá trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, trước
hết là tin học hoá quản lý hành chính nhà nước; gây tổn thất về kinh tế và tác động trực tiếp
đến lòng tin của nhân dân đối với việc thực hiện các chương trình ứng dụng công nghệ thông
tin - truyền thông do Nhà nước đầu tư và chỉ đạo thực hiện.
Ngày 17/10/2000, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
đã có Chỉ thị số 58/CT-TƯ về ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Năm 2006, Quốc hội đã thông qua và công bố Luật Công
nghệ thông tin - truyền thông của nước ta. Gần đây, ngày 10/4/2007, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong
các cơ quan nhà nước. Đó là những văn kiện rất quan trọng, không chỉ có vai trò xác định
phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông ở nước ta
trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà còn là cơ sở pháp lý để các cấp
từ Trung ương đến cơ sở xác định các chủ trương, biện pháp cụ thể nhằm ứng dụng công
nghệ thông tin, thúc đẩy quá trình tin học hoá các lĩnh vực hoạt động trong các cơ quan của
Đảng và Nhà nước và trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
b, Với sự hợp nhất của Học viện Hành chính quốc gia, từ năm 2007, Học viện Chính trị
- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã trở thành một cơ sở lớn nhất, một trung tâm quốc gia
về đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận, trang bị kiến thức, kỹ năng về
quản lý nhà nước; đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Chính phủ.
Trong giai đoạn cách mạng mới, vai trò, vị thế và tầm vóc của Học viện càng có ý nghĩa quan
trọng đối với sự phát triển của đất nước.
Ngày nay, công nghệ thông tin - truyền thông - truyền thông đã trở thành công cụ,
phương tiện, giải pháp công nghệ có hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội lớn nhất trong việc
khai thác, cung cấp các nguồn tài nguyên thông tin cho mọi đối tượng. Với máy tính điện tử
và các hệ thống mạng, công nghệ thông tin - truyền thông - truyền thông cung cấp phương

tiện làm việc để mọi người có thể trao đổi dữ liệu trên phạm vi toàn cầu. Khi được ứng dụng
trong thực tế, công nghệ thông tin - truyền thông - truyền thông không chỉ nâng cao năng


suất, hiệu quả xử lý thông tin mà còn trở thành một nhân tố trực tiếp tác động đến phương
pháp tư duy, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ và tất cả mọi thành viên trong từng tổ chức...
Trong quản lý nhà nước, công nghệ thông tin - truyền thông - truyền thông có mối liên
hệ chặt chẽ và trực tiếp thúc đẩy quá trình đổi mới, cải cách nền hành chính quốc gia. Hiệu
quả đích thực của ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông, tin học hoá trong các lĩnh
vực chính là tăng năng suất lao động, hiệu quả công tác quản lý; gia tăng giá trị của các sản
phẩm, trước hết là các sản phẩm yêu cầu có hàm lượng tri thức cao.
Các chức năng cơ bản của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh là
đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học, tất yếu nhu cầu về thông tin và xử lý thông tin ngày
càng đòi hỏi phải được đáp ứng cao hơn. Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, tin học
hoá các lĩnh vực hoạt động của Học viện không chỉ là nhu cầu khách quan mà còn góp phần
đề cao vai trò, vị thế và tầm vóc của Học viện. Tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm
Học viện có vai trò và tác dụng là khâu mở đầu, có ý nghĩa quan trọng nhất của quá trình tin
học hoá các lĩnh vực hoạt động của hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh.
c, Từ giai đoạn 1995 - 1996, khi Nhà nước có chủ trương triển khai các chương trình
quốc gia về công nghệ thông tin, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã được chính
thức tham gia các chương trình, dự án này. Những kết quả bước đầu của nhiệm vụ ứng
dụng công nghệ thông tin - truyền thông, tin học hoá ở trung tâm Học viện là: đã xây dựng
được một cơ sở hạ tầng thông tin tương đối hiện đại với các hệ thống máy chủ của trung
tâm Tích hợp dữ liệu, đường truyền dữ liệu bằng cáp quang có thông lượng đường truyền
rất lớn; các đơn vị tại trung tâm Học viện đều được trang bị máy tính điện tử có kết nối
mạng để làm việc; nhiều cán bộ, nhân viên đã được đào tạo về kiến thức, kỹ năng tin học có
thể sử dụng có hiệu quả trong công tác chuyên môn; Học viện đã xây dựng được một trang
thông tin điện tử với số người truy cập, sử dụng ngày càng tăng; là một phương tiện trao đổi
thông tin có hiệu quả cao trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị...

Tuy nhiên, đến nay việc ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong công tác
quản lý các lĩnh vực hoạt động của các đơn vị tại trung tâm Học viện vẫn còn nhiều vấn đề


bất cập. Nổi lên là những vấn đề sau.
- Chưa xác định được phương hướng, chủ trương, kế hoạch và các giải pháp để thực
hiện nhiệm vụ tin học hoá công tác quản lý của Học viện. Các tiến bộ về khoa học, kỹ thuật công nghệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông chưa có điều kiện ứng dụng để
phát huy hiệu quả công tác quản lý, đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học. Nhiều giải pháp
công nghệ tiên tiến trong xử lý thông tin có thể áp dụng có hiệu quả trong hệ thống thông tin
của Học viện nhưng chưa được nghiên cứu, xem xét và đề xuất ứng dụng trong thực tiễn...
- Một bộ phận trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa nhận thức đúng đắn và đầy
đủ về vai trò, tác dụng, hiệu quả của nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin, tin học hoá
công tác quản lý các lĩnh vực hoạt động ở trung tâm Học viện. Vì vậy, chưa coi trọng công
tác xử lý thông tin trên máy tính điện tử và trên môi trường mạng; chưa xây dựng được các
nguồn dữ liệu phục vụ cho công tác quản lý; chưa quan tâm đến việc nâng cao trình độ kiến
thức, kỹ năng tin học để sử dụng cho công tác chuyên môn đồng thời tích cực đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực công nghệ thông tin - truyền thông cho đơn vị v.v..
- Công tác quản lý của Học viện, trong đó có nhiều nội dung thuộc chức năng quản lý nhà
nước như quản lý cán bộ, công chức, học viên; quản lý công tác đào tạo và nghiên cứu khoa
học; quản lý tài chính, vật tư, tài sản... vẫn được tiến hành theo cách thức, nề nếp cũ, lạc hậu và
kém hiệu quả; không kịp đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý.
Nhiều công đoạn trong quy trình công tác quản lý có thể sử dụng máy tính điện tử và
các chương trình phần mềm trên máy tính để tác nghiệp nhưng kể cả khi đã có các yếu tố này
thì vẫn thực hiện bằng thao tác thủ công nên năng suất, chất lượng, hiệu quả không cao; thiếu
tính khách quan, chính xác; lãng phí thời gian và ngân sách...
Nguồn dữ liệu phục vụ cho công tác quản lý nghèo nàn, thiếu thốn; chưa được quan tâm
xây dựng, lưu trữ và bảo quản bằng các phương pháp hiện đại nhằm sẵn sàng truy xuất và
đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý.
Các tài nguyên thông tin như máy tính điện tử và các hệ thống mạng, truyền hình giảng
đường; các vật tư thiết bị công nghệ thông tin; các nguồn dữ liệu số hoá... do thiếu chủ



trương, kế hoạch và giải pháp kỹ thuật công nghệ nên chưa phát huy tác dụng; chưa được
khai thác triệt để, gây nên sự lãng phí không đáng có trong khi sự phát triển của công nghệ
thông tin - truyền thông lại rất nhanh chóng.
- Do xử lý thông tin vẫn theo phương thức thủ công, truyền thống nên hoạt động của
từng đơn vị trong hệ thống Học viện và tại trung tâm Học viện vẫn trong tình trạng phổ biến
là cục bộ, khép kín. Các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Học viện rất khó nắm bắt chính xác
tình hình cụ thể của các đơn vị. Thông tin từ trên xuống bị thất lạc hoặc chậm trễ. Báo cáo từ
dưới lên không đầy đủ, số liệu thiếu chính xác là một trong những nhân tố tác động trực tiếp
đến chất lượng và tính khả thi của các quyết định về lãnh đạo, quản lý. Công tác quản lý hành
chính nhà nước chậm được đổi mới và kém hiệu lực v.v..
Xuất phát từ những vấn đề trên, việc Giám đốc Học viện quyết định đưa vào kế hoạch
nghiên cứu khoa học năm 2009 đề tài Các giải pháp tin học hoá công tác quản lý tại trung
tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh là phù hợp với yêu cầu thực tiễn
của Học viện.
Mặc dầu trong khuôn khổ của đề tài này chưa thể có đủ điều kiện để thực hiện các nội
dung cụ thể, chi tiết về việc tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện nhưng trên cơ
sở đề xuất các giải pháp có tính hệ thống, có cơ sở lý luận, cơ sở lý thuyết và thực tiễn sẽ là
khâu mở đầu cho quá trình xác định một cách đầy đủ những vấn đề cơ bản về tin học hoá công
tác quản lý tại trung tâm Học viện; định hướng nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin; góp
phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý của Học viện. Đồng thời, các Học viện
khu vực có thể tham khảo để thực hiện nhiệm vụ tin học hoá các hoạt động của cả hệ thống
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Ở nước ta, các nghiên cứu khoa học đối với lĩnh vực tin học và công nghệ thông tin truyền thông là một trong những nội dung đã được quan tâm từ nhiều năm qua, nhất là từ
năm 1995, khi Nhà nước chính thức có chủ trương và các kế hoạch, chương trình về ứng
dụng công nghệ thông tin.



Tuy vậy, nghiên cứu về tin học hoá tức là ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông
trong từng lĩnh vực cụ thể thì các nhà nghiên cứu thường nghiêng về hướng làm thế nào để
nhanh chóng đưa công nghệ thông tin - truyền thông vào lĩnh vực đó nhằm khai thác được
những tiến bộ về kỹ thuật - công nghệ; đầu tư trang thiết bị; đào tạo người sử dụng... Việc
nghiên cứu các giải pháp có tính đồng bộ như những vấn đề về chiến lược ứng dụng và phát
triển công nghệ thông tin - truyền thông để tin học hoá, những vấn đề về cơ chế, chính sách,
về con người... thường chưa được chú ý. Gần đây, thất bại của Đề án Tin học hoá quản lý
hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2005 (thường gọi là Đề án 112) đã thể hiện rất rõ điều
đó.
Mặt khác, các chương trình, đề án về công nghệ thông tin - truyền thông của Nhà nước
như Chương trình quốc gia về công nghệ thông tin - truyền thông đến năm 2000 (IT 2000),
Đề án 112, Đề án 47 (Tin học hoá hoạt động các cơ quan của Đảng)... thực chất là thực hiện
tin học hoá các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan của Đảng. Mặc dầu trong
các chương trình này có bao gồm các hoạt động nghiên cứu khoa học nhưng xét về bản chất
thì đó là các chương trình đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt và quyết định thực hiện
trên diện rộng. Các hạng mục của những chương trình và đề án này đều được đầu tư và bắt
buộc phải thực hiện cho dù về phương diện khoa học có thể còn những vấn đề phải bàn luận
và nghiên cứu. Từ đó có thể nhận thấy, trong thực tiễn vấn đề tin học hoá có thể đã được triển
khai thực hiện trên phạm vi rộng lớn nhưng những đề tài nghiên cứu khoa học về tin học hoá
còn ít được coi trọng.
Tuy nhiên, trong các tài liệu đã công bố của đề án nêu trên nhiều nội dung về phương
diện khoa học, kỹ thuật - công nghệ vẫn có thể tham khảo và vận dụng.
Những công trình đã công bố liên quan đến vấn đề tin học hoá công tác quản lý có thể
tham khảo gồm: Quản lý thông tin và công nghệ thông tin - truyền thông của Nguyễn Khắc
Khoa, NXB Khoa học - Kỹ thuật, Hà Nội, 2000; Tin học hoá công tác văn thư, lưu trữ và thư
viện của Dương Văn Khảm, Hà Nội, 1995. Một số bài báo Tạp chí chuyên ngành công nghệ
thông tin - truyền thông (bản giành cho đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý) đã đề cập đến vấn
đề tin học hoá như Chấm công - từ thẻ giấy đến thẻ điện tử của Nhật Thanh, PC World số
tháng 6/2002; Máy tính quản lý chuyền may của Nguyễn Thanh Thi, PC World số tháng



7/2002...
Trên tạp chí chuyên ngành này cũng đăng tải một số bài giới thiệu kinh nghiệm tin học
hoá của các cơ quan, đơn vị cả trong và ngoài nước như Lotus Domino và bài học kinh
nghiệm của NewYork của Trung Hải, PC World số tháng 8/2002 hoặc gần đây có bài Ủy
ban huyện điều hành trực tuyến của Phi Quân, PC World số tháng 2/2008; Điều hành sản
xuất với MES của Việt Dũng, PC World số tháng 4/2008; Hội họp từ xa với Tele Presence
của Như Dũng PC World số tháng 5/2008 v.v..
Tuy vậy, số công trình nghiên cứu về tin học hoá trong công tác quản lý còn còn rất
mỏng và thưa thớt. Trên các tạp chí chuyên ngành công nghệ thông tin, chưa thấy các tác
giả đề xuất và luận chứng một cách toàn diện đến vấn đề tin học hoá công tác quản lý trong
một mô hình tổ chức nhất định nào đó của cơ quan nhà nước. Đến năm 2008, các luận văn,
luận án thạc sĩ, tiến sĩ về chủ đề này đều chưa thấy công bố.
Ở Học viện CTQG Hồ Chí Minh, từ giai đoạn 1995 - 1996, Bộ môn Tin học của Học viện
đã chủ trì thực hiện đề tài cấp cơ sở "Ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong công
tác quản lý"; năm 2002, Giám đốc Học viện CTQG Hồ Chí Minh đã quyết định triển khai đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ "Các giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông
tin - truyền thông trong hệ thống Học viện CTQG Hồ Chí Minh" và đã nghiệm thu, đạt kết quả
tốt. Tiếp đến, năm 2005, Văn phòng Học viện tổ chức nghiên cứu đề tài "Thực trạng về ứng
dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong công tác quản lý tại Học viện CTQG Hồ Chí
Minh" (loại đề tài Giám đốc giao nhiệm vụ)...
Khái quát chung là các đề tài nghiên cứu khoa học về tin học hoá công tác quản lý
hiện nay chưa nhiều, nhất là những đề tài nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề liên
quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn; xác định phương hướng, giải pháp và đề xuất, luận
chứng về các mô hình tin học hoá trong công tác quản lý. Các công trình nghiên cứu thường
chỉ mới đề cập đến một số khía cạnh về tin học hoá trong một vấn đề cụ thể cần phải quản
lý mà chưa hướng đến lý giải những vấn đề có tính hệ thống, có cơ sở khoa học và thực tiễn
để từ đó có thể đề xuất các giải pháp đồng bộ có tính khả thi đối với nhiệm vụ tin học hoá
trong một mô hình tổ chức nhất định.



3. Mục tiêu của đề tài:
Xây dựng hệ giải pháp tin học hoá công tác quản lý các lĩnh vực hoạt động của Học viện
tại trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
4. Các nội dung nghiên cứu chủ yếu:
4.1 Các vấn đề lý thuyết về tin học hoá, bao gồm: Tin học hoá và tin học hoá công tác
quản lý; các lý thuyết và mô hình tin học hoá công tác quản lý; những vấn đề lý thuyết về quản
lý trực tuyến.
4.2 Các vấn đề về thực trạng tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, gồm: Tin học hoá công tác quản lý với vai trò, tầm
vóc của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; thực trạng về tin học hoá
công tác quản lý tại trung tâm Học viện.
4.3 Các giải pháp tin học hóa công tác quản lý tại trung tâm Học viện, gồm: giải pháp
về cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy quá trình tin học hoá công tác quản lý; nâng cao nhận
thức về ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông; quản lý nhà nước đối với lĩnh vực công
nghệ thông tin - truyền thông trong hệ thống Học viện.
4.4 Các giải pháp về kỹ thuật - công nghệ nhằm thúc đẩy quá trình tin học hoá công tác
quản lý tại trung tâm Học viện, gồm: về xây dựng hạ tầng kỹ thuật thông tin; cơ sở lý thuyết, tính
khả thi và mô hình quản lý trực tuyến nhằm mục tiêu tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; các biện pháp cụ thể về về kỹ thuật công nghệ nhằm thúc đẩy quá trình tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện trong giai
đoạn trước mắt (2010 - 2015) và các giai đoạn tiếp theo.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm
Học viện. Những vấn đề đặt ra cho nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài không chỉ thuần tuý về
chuyên môn kỹ thuật, công nghệ thông tin - truyền thông mà còn liên quan đến các hoạt động
trong công tác quản lý; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và các hoạt động chung của Học
viện. Các phương pháp nghiên cứu sẽ được áp dụng là:


- Nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu, phân tích các tài liệu liên quan về chủ trương,

chính sách công nghệ thông tin - truyền thông của Đảng, Nhà nước; các tài liệu về kỹ thuật,
công nghệ thông tin - truyền thông để hệ thống hoá những vấn đề cơ bản, chủ yếu liên quan
đến nhiệm vụ tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện.
- Xây dựng mô hình và đặt giả thuyết để chứng minh đối với các mô hình tin học hoá
công tác quản lý tại trung tâm Học viện.
- Kết hợp các phương pháp logic - lịch sử, phân tích, so sánh... và căn cứ tình hình thực
tế của Học viện để xác định những vấn đề về định hướng ứng dụng, phát triển công nghệ
thông tin, tin học hoá công tác quản lý của Học viện
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
Đề tài "Các giải pháp tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh" sẽ tập trung nghiên cứu trên các vấn đề chủ yếu: một là,
mối quan hệ giữa công nghệ thông tin, tin học hoá với công tác lãnh đạo, quản lý tại Học
viện; hai là, các giải pháp công nghệ hiện đại về quản lý trực tuyến để ứng dụng vào tin học
hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; ba
là, xây dựng và đề xuất các mô hình ứng dụng cụ thể cho nhiệm vụ tin học hoá công tác quản
lý tại trung tâm Học viện.
Khi thực hiện thành công, đề tài sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý; cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực công nghệ thông tin truyền thông trên các phương diện sau.
- Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống các vấn đề về mối quan hệ giữa lãnh đạo, quản lý
và ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin, đề tài góp phần hệ thống hoá các kiến thức cơ
bản về mảng vấn đề này nhằm cung cấp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tại Học viện
cũng như những người liên quan đến loại hình hoạt động này. Khối kiến thức này có thể làm
tài liệu nghiên cứu, phục vụ giảng dạy cho đối tượng đào tạo là cán bộ lãnh đạo, quản lý tại
Học viện và các cơ sở đào tạo cán bộ ở nước ta hiện nay.
- Các sản phẩm của đề tài sẽ là một tập hợp các tài liệu về giải pháp kỹ thuật - công nghệ


hiện đại liên quan trực tiếp đến vấn đề quản lý trực tuyến. Hiện nay, đây là một trong những
công nghệ tiên tiến không chỉ được áp dụng ở các nước công nghiệp phát triển mà có ý nghĩa
thiết thực đối với việc tin học hoá hoạt động của cơ quan nhà nước ở nước ta. Trước hết, các
đơn vị trong hệ thống Học viện có thể tham khảo để ứng dụng nhằm tiến đến tin học hoá công

tác quản lý trong cả hệ thống Học viện.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là một hệ giải pháp có tính hệ thống cả về cơ chế,
chính sách và kỹ thuật - công nghệ; các mô hình ứng dụng công nghệ thông tin - truyền
thông để tin học hoá công tác quản lý tại trung tâm Học viện. Trên cơ sở xem xét để thực
hiện các giải pháp này, về phương diện thực tiễn đề tài sẽ góp phần mang lại hiệu quả kinh
tế và hiệu quả xã hội cho nhiệm vụ đổi mới và ngày càng hoàn thiện hơn công tác quản lý
đối với các lĩnh vực hoạt động tại trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh.
7. Sản phẩm của đề tài:
- Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu của đề tài theo quy định của Học viện.
- Kiến nghị của Chủ nhiệm đề tài về ứng dụng công nghệ thông tin, tin học hoá công tác
quản lý tại trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Kỷ yếu khoa học
- Đĩa CD lưu trữ toàn bộ kết quả của đề tài.


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC, THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ TIN HỌC HOÁ
CÔNG TÁC QUẢN LÝ TẠI TRUNG TÂM HỌC VIỆN
CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
1.1 Một số vấn đề lý thuyết về tin học hoá công tác quản lý và ứng dụng vào điều kiện thực
tiễn của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
1.1.1 Quan niệm về tin học hoá
- Khái niệm Tin học hoá
Với sự ra đời của máy tính điện tử, công nghệ thông tin - truyền thông; của ngành điều
khiển học và nhiều thành tựu khoa học - công nghệ khác... ngày nay, một nền tảng kỹ thuật
- công nghệ mới trong hoạt động sản xuất và đời sống xã hội đã và đang dần thay thế nền
tảng kỹ thuật cơ điện. Đó là, nền tảng kỹ thuật - công nghệ tự động hoá, điều khiển học.
Với tự động hóa, nhiều thao tác của con người trong quy trình tác nghiệp để tạo ra các
sản phẩm đã được thay thế bằng máy móc. Thậm chí, nhiều công đoạn trong các quy trình tác

nghiệp ấy, con người có thể tin cậy giao cho máy móc đảm nhiệm. Tự động hóa không chỉ
thay thế lao động bằng cơ bắp của con người mà còn nâng cao năng suất lao động gấp nhiều
lần so với lao động thủ công; đảm bảo độ chính xác cao; khắc phục và hạn chế tối đa những
rủi ro đối với con người khi tác nghiệp trong những điều kiện khó khăn, phức tạp.
Trong quá trình chuyển sang tự động hóa, máy tính điện tử và công nghệ thông tin có
vai trò đặc biệt quan trọng. Với máy tính điện tử và các chương trình phần mềm - thực chất là
chương trình hóa các thao tác của con người trong tất cả các hoạt động sản xuất, nhờ đó, con
người có thể tính toán và điều khiển quá trình sản xuất; làm ra các sản phẩm hàng hoá với
khối lượng lớn, năng suất, chất lượng cao.
Không chỉ trong lĩnh vực sản xuất ra các sản phẩm vật chất, hàng hoá đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của xã hội, hoạt động của con người trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế;


trong việc tổ chức và quản lý xã hội; an ninh, quốc phòng; nghiên cứu khoa học... cũng đều
có thể nhận được sự hỗ trợ của máy tính điện tử, của công nghệ thông tin - truyền thông. Thế
giới đã và đang tiếp tục diễn ra quá trình tin học hoá trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
Vậy, tin học hóa là gì ?
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của đề tài, các tác giả đã khai thác, thu thập nhiều
dữ liệu thuộc một số công trình nghiên cứu khoa học trong nước và thế giới để tìm hiểu sâu
hơn về tin học hóa. Một số tác giả cho rằng, với sự phát triển của chuyên ngành Tin học là
tích hợp nhiều thành tựu của khoa học hiện đại và nhanh chóng được áp dụng trong thực tiễn
mà trước hết là công việc xử lý tự động thông tin với khối lượng dữ liệu lớn và với nhiều
phép tính khác nhau. Từ kết quả của việc xử lý thông tin tự động, ứng dụng của Tin học vào
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội cũng được lan tỏa mạnh mẽ. Lý do của sự phát
triển, lan tỏa mạnh mẽ ứng dụng đặc trưng này có người đã khái quát đó là một tính qui luật
trong sự phát triển của Tin học. Điều này cho thấy, sự phát triển của chuyên ngành Tin học là
quá trình tác động lẫn nhau giữa các yếu tố khoa học, công nghệ và ứng dụng. Và chính đặc
trưng ứng dụng cao trong khoa học, nên đưa đến quá trình tin học hóa. Như vậy, khái niệm
Tin học hóa có các nội hàm là, nghiên cứu ứng dụng các lý thuyết, qui trình và thủ tục xử lý
tự động thông tin trên máy tính để giải quyết các nhiệm vụ đa dạng phong phú trong thực

tiễn1.
Một số báo cáo chuyên đề khác của đề tài cũng đã đưa ra các khái niệm về tin học hóa.
Tuy nhiên, trên phương diện tổng thể và hướng đến mục tiêu nghiên cứu của đề tài, Chủ
nhiệm đề tài xác định khái niệm Tin học hóa như sau:
Tin học hoá là quá trình chuyển đổi, thay thế việc thực hiện một quy trình tác nghiệp
với các thao tác thủ công bằng các thiết bị, công cụ có sự tham gia của máy tính điện tử và
công nghệ thông tin - truyền thông.
Khái niệm này bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
+ Tin học hóa là một quá trình diễn ra từ thấp đến cao; từ đơn giản đến phức tạp; từ một
hoặc một số công đoạn đến toàn bộ quy trình tác nghiệp. Mức độ phát triển cao nhất của quá
1

Xem chuyên đề Tin học hóa và tin học hóa công tác quản lý của tác giả Nguyễn Văn Tuấn, Kỷ yếu của đề tài


trình tin học hóa là các quy trình tác nghiệp trong sản xuất và đời sống được chuyển sang tự
động hóa, điều khiển học.
+ Trong quá trình tin học hóa, máy tính điện tử, công nghệ thông tin - truyền thông có
vai trò quyết định nhất nhưng tin học hóa là kết quả của sự kết hợp giữa máy tính điện tử,
công nghệ thông tin - truyền thông với những tiến bộ của các ngành khoa học - công nghệ
khác như công nghệ điện tử, công nghệ vật liệu mới, công nghệ xây dựng, công nghệ sinh
học; công nghệ quản lý; công nghệ đào tạo v.v..
+ Tin học hóa là quá trình mô phỏng và chương trình hóa các hoạt động của con người,
giao cho thiết bị, máy móc thực hiện. Điều đó đòi hỏi, các quy trình tác nghiệp của con người
phải được hợp lý hóa ở mức độ cao nhất khi tin học hóa quy trình tác nghiệp.
Từ khái niệm trên cho thấy, tin học hoá thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và lực lượng
sản xuất. Tin học hoá thúc đẩy nền sản xuất đang được thực hiện trên các nền tảng kỹ thuật
hiện có từng bước chuyển dần sang thực hiện trên nền tảng kỹ thuật - công nghệ tự động hoá,
điều khiển học. Tin học hóa không chỉ có thể thực hiện trong hoạt động sản xuất của con
người mà nó cũng có thể được thực hiện trong các lĩnh vực hoạt động khác như trong quá

trình tổ chức, quản lý xã hội; trong giáo dục - đào tạo; trong kinh doanh và các ngành dịch
vụ...
Nói cách khác, trong bất cứ lĩnh vực nào mà hoạt động của con người nhằm tạo ra sản
phẩm và dịch vụ mà có thể chương trình hóa được thì đều có thể tin học hóa ở các mức độ
nhất định tùy theo điều kiện và nhu cầu tin học hóa của con người. Đó cũng chính là một đặc
trưng cơ bản của Tin học hóa.
Ngày nay, tin học hoá là một xu hướng phát triển tất yếu của tất cả các quốc gia, các
nền kinh tế nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, từng bước đáp ứng và tiến đến thoả
mãn mọi nhu cầu trong đời sống của xã hội loài người. Tin học hóa và tự động hóa là những
biểu tượng chủ yếu của các nền kinh tế phát triển đến trình độ kinh tế tri thức.
- Tin học hoá công tác quản lý
Bàn về tin học hóa công tác quản lý sẽ liên quan đến các khái niệm về quản lý. Trong
một mức độ nhất định nào đó, khi lãnh đạo và quản lý có mối liên hệ chặt chẽ với nhau thì


khi bàn về quản lý, tất yếu còn phải phân định được sự khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý.
Trước hết, quản lý là một quá trình hoạt động của các chủ thể và khách thể liên quan
đến việc thực hiện một mục tiêu nhất định nào đó trong thực tiễn. Bàn về quản lý là bàn về
vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức và cá nhân có trách nhiệm thực hiện một hoặc một
số mục tiêu nhất định của tổ chức. Không thể nói đến quản lý mà không gắn với một mô hình
tổ chức nhất định trong đời sống xã hội. Trong quá trình thực hiện vai trò và chức năng quản
lý, các chủ thể quản lý phải căn cứ vào các quy định của pháp luật và nhiệm vụ của tổ chức
cấp trên giao cho để tổ chức, điều hành mọi thành viên trong tổ chức thực hiện cho được mục
tiêu, nhiệm vụ của mình. Đặc trưng cơ bản của hoạt động quản lý là gắn liền với pháp luật.
Nói cách khác là khi chưa có chính quyền nhà nước thì chưa có đủ điều kiện để bàn về quản
lý.
Một đặc trưng khác của hoạt động quản lý là trên cơ sở tuân thủ pháp luật hiện hành,
các chủ thể và khách thể của hoạt động quản lý phải hướng đến thực hiện những mục tiêu đã
được xác định trong hiện tại. Trong quá trình thực hiện vai trò, chức năng quản lý, nếu có sự
trái ngược giữa quy định pháp luật và yêu cầu thực tiễn thì vẫn phải tuân theo pháp luật. Nếu

các chủ thể quản lý thấy phải thực hiện mà không đúng với quy định của pháp luật thì nhất
định phải báo cáo với các cấp có thẩm quyền; thực hiện theo quyết định của cấp có thẩm
quyền đó.
Các tác giả của đề tài khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động quản lý trong đời sống
xã hội. Chỉ với vai trò, sự tác động của hoạt động quản lý, con người mới có thể thực hiện được
những mục đích, mục tiêu nhất định trong hoạt động sản xuất và các lĩnh vực hoạt động khác.
Quản lý tạo nên những điều kiện cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và đời sống.
Quản lý là điều kiện cần thiết cho sự ổn định và phát triển của xã hội. Xã hội càng hiện đại,
hoạt động quản lý càng có vai trò, ý nghĩa to lớn và quan trọng.
Về mối liên hệ giữa lãnh đạo và quản lý, hiện nay, vẫn còn không ít người có sự nhầm
lẫn giữa hai khái niệm này. Trong hoạt động lãnh đạo và quản lý có một điểm chung là, mối
liên hệ giữa các chủ thể với khách thể trong hoạt động lãnh đạo, hoạt động quản lý đều được
thể hiện ở việc ban hành và thực hiện các quyết định. Các quyết định là sản phẩm trực tiếp
của chủ thể lãnh đạo, quản lý. Từ các quyết định đến hiện thực đời sống xã hội là sản phẩm


của quá trình thực hiện hoạt động lãnh đạo, quản lý.
Do đặc trưng cơ bản của hoạt động lãnh đạo, quản lý là đưa ra các quyết định và tổ
chức thực hiện các quyết định ấy nên trong hoạt động lãnh đạo, quản lý thông tin và xử lý
thông tin có vai trò rất quan trọng. Nó là điều kiện tiền đề cơ bản nhất quyết định chất
lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý. Thiếu thông tin và năng lực xử lý thông tin, một
nhà lãnh đạo, quản lý tài giỏi nhất cũng khó có thể đưa ra được những quyết định đúng đắn
và chính xác. Một xã hội thiếu thông tin không chỉ dẫn đến sự lạc hậu, trì trệ, bảo thủ cả về
phương diện sản xuất mà còn tác động tiêu cực đến văn hóa và lối sống của con người.
Thông tin là tri thức, là giá đỡ, là sức mạnh thúc đẩy và quyết định sự phát triển của đời
sống xã hội.
Tuy vậy, với hai khái niệm lãnh đạo và quản lý thì mỗi khái niệm đều có những điểm
riêng biệt. Nếu hoạt động quản lý phải gắn liền với pháp luật thì lãnh đạo không nhất thiết
gắn liền với pháp luật vì thực chất pháp luật là các quy định của một chính quyền nhà nước
nhất định. Lãnh đạo là việc xác định phương hướng, mục tiêu, cách thức thực hiện các mục

tiêu và tác động vào các đối tượng để các đối tượng này có thể thực hiện được các mục tiếu
ấy. Khi chưa giành được chính quyền, các Đảng Cộng sản đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh
giành chính quyền từ tay các giai cấp thống trị cũ. Khi đã giành được chính quyền, các Đảng
Cộng sản vẫn phải tiếp tục lãnh đạo nhân dân không chỉ thực hiện nhiệm vụ của nhà nước
(tức là chính quyền do Đảng lãnh đạo) mà còn lãnh đạo nhà nước và lãnh đạo nhân dân
hướng đến các mục tiêu lâu dài hơn.
Như vậy là, trong khi hoạt động quản lý hướng vào thực hiện các mục tiêu hiện tại thì
lãnh đạo là hướng đến tương lai. Trong hoạt động lãnh đạo không thể sử dụng các biện pháp
có tính bắt buộc, cưỡng bức mà chủ yếu là tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục...
làm cho đối tượng của hoạt động lãnh đạo nhận thức được và tự giác thực hiện các mục tiêu
của hoạt động lãnh đạo.
Một đảng chính trị cầm quyền, lãnh đạo chính quyền nhà nước hay giành ưu thế trong
bộ máy chính quyền nhà nước, khi tồn tại trong mối liên hệ với các cộng đồng xã hội phải
thực hiện đúng pháp luật. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức đầy đủ vế thứ hai của vấn đề
này là một đảng chính trị khi đã trở thành đảng cầm quyền thì có vai trò rất to lớn, thậm chí


có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật.
Lãnh đạo không phải là khái niệm chỉ dành riêng cho các đảng chính trị. Trong các
cộng đồng xã hội, người ta có thể nói đến sự lãnh đạo của một người, một nhóm người nào
đó. Tuy vậy, khi còn tồn tại trong một chế độ xã hội nhất định, do một đảng chính trị cầm
quyền thì người hoặc nhóm người đó vẫn phải tuân theo pháp luật của nhà nước. Nếu mục
tiêu hướng đến của người đó hoặc nhóm người đó phù hợp với mục tiêu của đảng cầm
quyền và chính quyền nhà nước thì có thể hoạt động hợp pháp. Nếu ngược lại, sẽ trở thành
bất hợp pháp và chỉ có thể thực hiện sự lãnh đạo bên ngoài sự kiểm soát của pháp luật.
Vì hoạt động lãnh đạo, quản lý có đặc điểm chung là ban hành và thực hiện các quyết
định nên tất yếu trong các hoạt động lãnh đạo, quản lý sẽ xuất hiện các hệ thống thông tin.
Các hệ thống thông tin là điều kiện nhất thiết để duy trì mối liên hệ giữa chủ thể với khách
thể; giữa chủ thể với các chủ thể khác và giữa các khách thể với nhau trong hoạt động lãnh
đạo, quản lý. Thiếu hệ thống thông tin nhất định không thể thực hiện được các mục tiêu của

hoạt động lãnh đạo, quản lý. Các hệ thống thông tin trong hoạt động lãnh đạo, quản lý luôn
phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản, thô sơ đến hiện đại, tùy thuộc vào sự phát triển của
khoa học, kỹ thuật - công nghệ; vào điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường xã hội đang diễn ra
các hoạt động lãnh đạo, quản lý.
Như vậy, khi so sánh với hoạt động quản lý, hoạt động lãnh đạo có tầm cao hơn và rộng
lớn hơn. Hiệu quả lãnh đạo trước hết phụ thuộc vào năng lực nhận thức quy luật vận động
của thực tiễn bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy; năng lực vận dụng quy luật vào điều kiện
thực tiễn và năng lực thu hút, lôi cuốn đối tượng vào thực hiện mục tiêu do chủ thể lãnh đạo
đã xác định.
Từ những đặc điểm nêu trên của hoạt động lãnh đạo, quản lý; sự khác nhau về nội hàm
của hai khái niệm này; về vai trò tác dụng của các hệ thống thông tin và nhất là từ những đặc
điểm của quá trình tin học hóa, các tác giả nghiên cứu đề tài đã đưa ra một số cách định nghĩa
về tin học hóa công tác quản lý. Trong đó, có thể nêu lên các định nghĩa như: tin học hóa
công tác quản lý là ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động quản lý.
Nếu xem xét công tác quản lý trong mối liên hệ với các hệ thống thông tin thì tin học hóa
công tác quản lý là xây dựng, vận hành và khai thác các hệ thống thông tin tin học hóa để


thực hiện chức năng quản lý.
Tuy vậy, theo Chủ nhiệm đề tài thì khái niệm tin học hóa công tác quản lý cần được thể
hiện một cách đầy đủ, có tính khái quát hơn. Đó là:
Tin học hóa công tác quản lý là quá trình chuyển đổi các thao tác thủ công trong quy
trình tác nghiệp công tác quản lý sang thực hiện bằng các thiết bị, công cụ; trong đó chủ yếu
là máy tính điện tử và công nghệ thông tin - truyền thông.
Tuy giữa lãnh đạo và quản lý có một đặc điểm chung là xử lý thông tin để ra quyết định
nhưng phương thức chủ yếu để thực hiện mục tiêu trong hoạt động lãnh đạo là tuyên truyền,
giáo dục, thuyết phục, vận động, không thể bắt buộc đối tượng phải thực hiện theo một quy
trình nhất định. Vì vậy, nếu bàn về tin học hóa hoạt động lãnh đạo thì có thể thấy, còn thiếu
những yếu tố nhất định để có thể hiểu một cách đầy đủ, trọn vẹn như tin học hóa công tác
quản lý.

Tin học hóa công tác quản lý đặt ra những yêu cầu cơ bản sau:
Một là, công tác quản lý phải được tiến hành khoa học, theo một quy trình tác nghiệp
nhất định. Ngày nay, ở nhiều nước phát triển đã nói nhiều đến công nghệ quản lý. Công nghệ
quản lý hiện đại không chỉ tuân theo các quy trình nhất định trong hệ thống quản lý mà còn
xác định các tiêu chuẩn nhất định đối với đối tượng của công tác quản lý.
Ví dụ: tiêu chuẩn ISO 9000 hay ISO 9001 là tiêu chuẩn quốc tế về hệ thống quản lý chất
lượng; ISO 14000 là tiêu chuẩn quốc tế về hệ thống quản lý môi trường v.v..
Hai là, phải xây dựng được các hệ thống thông tin tin học hóa, tạo nên môi trường
mạng thông tin thông suốt; coi các hệ thống này là cơ sở hạ tầng thông tin của công tác quản
lý. Chủ thể và khách thể của công tác quản lý phải từng bước chuyển dần các thao tác thủ
công trong hoạt động quản lý sang thao tác trên máy tính điện tử và các hệ thống mạng máy
tính đã được xây dựng. Mục tiêu lâu dài của các hệ thống này là đáp ứng nhu cầu của công
tác quản lý ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào.
Ba là, phải xây dựng được các hệ thống dữ liệu đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý.
Các hệ thống dữ liệu này phải được quản trị đáp ứng được các nhu cầu về khai thác, trao đổi


và đảm bảo an toàn dữ liệu.
Bốn là, chủ thể và đối tượng của công tác quản lý phải nắm được những kiến thức và kỹ
năng nhất định để có thể tác nghiệp trên môi trường mạng.
Ở nước ta, từ năm 2001, Chính phủ đã có chủ trương tin học hóa công tác quản lý hành
chính nhà nước (Đề án 112). Tuy vậy, do nhận thức chưa đúng về mục tiêu; phương thức
triển khai không phù hợp, tổ chức và quản lý lỏng lẻo nên đề án này đã có nhiều sai phạm.
Tuy vậy, tin học hóa quản lý nhà nước vẫn là một nhiệm vụ, một yêu cầu tất yếu khách
quan, nhất định phải được thực hiện trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
- Quản lý trực tuyến
Quản lý trực tuyến là một thuật ngữ mới được sử dụng trong những năm gần đây khi
công nghệ thông tin - truyền thông đã có bước phát triển mới, cho phép mọi người có thể dễ
dàng trao đổi dữ liệu trên các hệ thống mạng máy tính và Internet. Điều đó cho thấy sự phát

triển về công nghệ trong ngành công nghệ máy tính điện tử và công nghệ thông tin - truyền
thông là điều kiện cơ bản nhất để con người có thể nâng cao năng lực xử lý thông tin, không
chỉ trong phạm vi riêng lẻ của từng người, trên từng máy tính độc lập, tách biệt mà còn tạo
nên một môi trường xử lý thông tin rộng lớn, vươn đến phạm vi toàn cầu. Theo đó, sự phát
triển của công nghệ thông tin - truyền thông cũng đã tác động trực tiếp đến hoạt động quản lý
- một lĩnh vực hoạt động đã và đang tồn tại ở bất cứ nơi nào khi con người vẫn sống và làm
việc với tư cách là những thành viên của gia đình, của tổ chức và của xã hội.
Kết quả nghiên cứu của các tác giả đề tài cho rằng, khi hoạt động xử lý thông tin của
các chủ thể và khách thể công tác quản lý được thực hiện trên môi trường mạng, bao gồm các
hệ thống thông tin tin học hóa và mạng toàn cầu Internet thì sẽ không còn bị giới hạn bởi sự
gián cách về địa lý và sự cản trở của yếu tố thời gian. Ngày nay, với công nghệ thông tin truyền thông, con người có thể trao đổi dữ liệu và khai thác thông tin ở bất cứ đâu và bất cứ
khi nào, bất kể là nhằm phục vụ cho mục đích của cá nhân hay của một tổ chức. Người ta gọi
đó là phương pháp trực tuyến (online). Khi tất cả các thao tác nghiệp vụ về hoạt động quản
lý; các công đoạn của quy trình tác nghiệp trong công tác quản lý đều được xử lý bằng máy


tính điện tử và thực hiện trên môi trường mạng thì hoạt động quản lý ấy được gọi là quản lý
trực tuyến.
Quản lý trực tuyến có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ: quản lý
trực tuyến là tin học hóa công tác quản lý; quản lý trực tuyến là thực hiện các công đoạn của
quy trình tác nghiệp về công tác quản lý trên môi trường mạng v.v.. Tuy nhiên, một cách khái
quát nhất, Chủ nhiệm đề tài đưa ra định nghĩa quản lý trực tuyến là ứng dụng công nghệ
thông tin - truyền thông, thực hiện các thao tác nghiệp vụ của quy trình tác nghiệp về công
tác quản lý trên môi trường mạng.
Trong khái niệm này, cần lưu ý một số khía cạnh:
+ Quản lý trực tuyến phải được đáp ứng về cơ sở hạ tầng thông tin. Đó là các hệ thống
thông tin tin học hóa, bao gồm các hệ thống mạng nội bộ có các cổng kết nối Internet, đảm
bảo thông lượng đường truyền và hoạt động thông suốt, liên tục; mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị
phải từng bước xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu về công tác quản lý.
+ Quản lý trực tuyến không phải và không thể tự động hóa hoàn toàn, tuyệt đối vì trong

quá trình thực hiện công tác quản lý, việc ra quyết định chỉ có con người chứ máy móc, thiết
bị không thể làm thay, cho dù nó có thể hỗ trợ ngày càng nhiều hơn việc ra quyết định của
các chủ thể công tác quản lý.
+ Quản lý trực tuyến là một mô hình, một phương thức quản lý hiện đại. Quản lý trực
tuyến chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi nào các chủ thể và khách thể của hoạt động quản lý
nhận thức được đầy đủ, thấu đáo mục tiêu, yêu cầu của công tác quản lý; tự mình vươn lên
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao hơn của phương thức quản lý trực tuyến nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác quản lý.
Từ khái niệm quản lý trực tuyến, các tác giả của đề tài đã bàn sâu thêm về công nghệ
quản lý trực tuyến. Hiện nay, các tài liệu về công nghệ quản lý trực tuyến được công bố chưa
nhiều, nhất là trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Tuy vậy, bước đầu, có thể định
nghĩa công nghệ quản lý trực tuyến là ngành công nghệ nghiên cứu, phát minh, phát triển các
giải pháp kỹ thuật - công nghệ nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của phương thức quản
lý trực tuyến. Từ các công nghệ quản lý trước đây chuyển sang công nghệ quản lý trực tuyến


sẽ là một bước nhảy vọt lớn về cách thức tổ chức, quản lý trong hoạt động sản xuất cũng như
tất cả cả các lĩnh vực khác của xã hội.
Liên quan trực tiếp đến công nghệ quản lý trực tuyến gồm có các nhân tố chủ yếu sau:
cơ sở hạ tầng thông tin của tổ chức; các chương trình phần mềm thực hiện chức năng quản lý
trực tuyến và công nghệ quản lý.
Nhân tố đầu tiên để phát triển mô hình quản lý trực tuyến là nền tảng vật chất, cơ sở
hạ tầng của các hệ thống thông tin. Đến nay, ở nước ta cũng như các nước phát triển, mạng
máy tính đã phát triển rất mạnh mẽ. Hầu hết các cơ quan nhà nước; các cơ sở hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ; các viện nghiên cứu, trường học, bệnh viện... đều đã thiết kế và
xây dựng các hệ thống mạng nội bộ. Các mạng nội bộ này đều có cổng kết nối Internet.
Như vậy, với máy tính điện tử và các hệ thống mạng này, mọi tổ chức, cá nhân đã có thể
trao đổi dữ liệu trên phạm vi toàn cầu.
Nhân tố thứ hai liên quan đến công nghệ quản lý trực tuyến là các chương trình phần
mềm thực hiện chức năng quản lý có thể vận hành thông suốt trên môi trường mạng. Việc

xây dựng và phát triển các chương trình phần mềm này không khó nhưng đang gặp trở ngại
từ chính con người. Đó là, người làm công tác quản lý thì chưa quan tâm ứng dụng công nghệ
thông tin - truyền thông; ngược lại những người làm kỹ thuật - công nghệ thì ít am hiểu về
quản lý và chưa tìm được cách thuyết phục những người quản lý ứng dụng công nghệ thông
tin - truyền thông.
Các hệ thống quản lý trực tuyến không như các chương trình máy tính sử dụng cho từng
cá nhân. Vì vậy, với một mô hình tổ chức nhất định nào đó khi áp dụng giải pháp quản lý trực
tuyến đều phải xây dựng các chương trình phần mềm đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu, đặc
điểm hoạt động của tổ chức đó. Tuy vậy, vấn đề này không phức tạp. Với những thành tựu
hiện có của công nghệ phần mềm; với các công cụ đã và đang được sử dụng rộng rãi trong
lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông; với trình độ của các kỹ sư và lập trình viên trong
nước... bất cứ cơ quan, đơn vị nào cũng đều có thể xây dựng cho mình một chương trình, một
hệ thống quản lý trực tuyến có thể đáp ứng và thỏa mãn các điều kiện do cơ quan, đơn vị đề
ra.


Nhân tố thứ ba trong công nghệ quản lý trực tuyến là sự kết hợp giữa công nghệ thông
tin - truyền thông với những tiến bộ về khoa học - công nghệ để tin học hóa công tác quản
lý. Ở đây là công nghệ quản lý. Thực chất, các hệ thống quản lý trực tuyến là sự thể hiện
của một công nghệ quản lý được thực hiện trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông.
Tuy nhiên, với trình độ của một nền sản xuất còn lạc hậu và thấp kém, hoạt động quản
lý không chỉ thường xuyên bị chi phối bởi những hạn chế của điều kiện vật chất mà kể cả
khi các điều kiện vật chất đã được đáp ứng thì sự lạc hậu trong nhận thức về quản lý và
phương thức quản lý vẫn là lực cản lớn nhất đối với quá trình tin học hóa công tác quản lý.
Thực tiễn công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia và tin học hóa quản lý hành chính ở
nước ta trong hàng chục năm qua đã khẳng định điều đó.
1.1.2 Chủ thể, đối tượng của công tác quản lý trong hệ thống Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh và vấn đề tin học hoá công tác quản lý
- Chủ thể, đối tượng, chức năng của công tác quản lý.
Bàn về công tác quản lý và tiến đến tin học hóa công tác quản lý tại trung tâm Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, trước hết phải xác định rõ chủ thể, đối tượng
và chức năng của hoạt động quản lý.
Với đặc điểm của một cơ quan vừa trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng vừa trực
thuộc Chính phủ, hoạt động quản lý trong hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh tất yếu phải tuân theo những quy định của Nhà nước về công tác quản lý. Các tác
giả của đề tài xác định, chủ thể công tác quản lý trong hệ thống Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh gồm Giám đốc Học viện; các cơ quan thực hiện chức năng quản
lý nhà nước được Giám đốc Học viện giao nhiệm vụ quản lý các lĩnh vực hoạt động của Học
viện. Ở các cơ quan này, thủ trưởng, người đứng đầu cơ quan được giao những quyền hạn nhất
định và có trách nhiệm thực hiện hoạt động quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực hoạt động
của Học viện trong khuôn khổ của pháp luật.
Như vậy, xét trên phương diện tổng thể, hoạt động quản lý của Giám đốc Học viện và
các cơ quan chức năng quản lý nhà nước được thực hiện trong toàn hệ thống Học viện theo


nguyên tắc cấp dưới phải phục tùng cấp trên. Đối tượng của công tác quản lý là toàn thể đội
ngũ cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống Học viện và tất cả các lĩnh vực hoạt động của
Học viện. Mô hình tổ chức của các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong hệ
thống Học viện là các cơ quan cấp vụ và cấp phòng.
Tuy vậy, do đặc điểm của Học viện còn là một đơn vị đào tạo và nghiên cứu khoa học,
tức là hoạt động sự nghiệp thì hoạt động quản lý ở các đơn vị trực thuộc Giám đốc Học viện
như các viện, khoa, bộ môn... chỉ giới hạn trong từng đơn vị ở Học viện trung tâm hay Học
viện khu vực. Các viện, khoa, bộ môn... ở trung tâm Học viện và ở các Học viện khu vực
không có mối liên hệ giữa đơn vị cấp trên với đơn vị cấp dưới. Công tác quản lý ở các đơn vị
này do người đứng đầu đơn vị thực hiện theo sự chỉ đạo của Giám đốc Học viện và Giám đốc
các Học viện khu vực. Ở các đơn vị sự nghiệp này, đối tượng của công tác quản lý là đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức trong từng đơn vị và tất cả các lĩnh vực hoạt động của các đơn
vị ấy.
Về chức năng của công tác quản lý, trước hết là trên cơ sở các quy định của pháp luật,
công tác quản lý trong hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh phải

tác động vào đối tượng để thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao
cho Học viện. Căn cứ phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ công tác đào tạo cán bộ và nghiên
cứu khoa học đã được xác định, các chủ thể và đối tượng của công tác quản lý phải thực hiện
đúng các nguyên tắc, chế độ, quy định, quy trình tác nghiệp... nhằm không ngừng nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học. Hoạt động quản lý
trong hệ thống Học viện còn phải thực hiện các nhiệm vụ khác liên quan với việc thực hiện
chức năng quản lý như thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức và người lao
động; các quy định về tài chính, kế toán; về xây dựng cơ bản; về quản lý công sản; về an
toàn, bảo mật v.v..
Trong lịch sử phát triển của Học viện, có một giai đoạn tương đối dài, theo truyền
thống, Học viện là một đơn vị chỉ trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đến ngày
22/6/1993 Chính phủ mới ban hành Nghị định số 44/CP quy định Học viện vừa trực thuộc
Ban Chấp hành Trung ương Đảng vừa trực thuộc Chính phủ. Đặc điểm này đã chi phối rất
nhiều đến công tác quản lý, hoạt động quản lý nhà nước ở Học viện. Không ít cán bộ, công


chức phải trải qua một thời gian dài mới quen với phương thức làm việc theo kênh quản lý
nhà nước. Khi chưa quen với phương thức này, công tác quản lý rất dễ bỏ qua những vấn đề
liên quan đến quy trình tác nghiệp trong hoạt động quản lý. Các vấn đề về nguyên tắc, chế độ,
quy định, quy trình, tiêu chuẩn... khi vận dụng rất dễ sai lệch. Đến nay, hoạt động quản lý
trong hệ thống Học viện đã và đang chuyển mạnh theo hướng quản lý nhà nước. Đó là một sự
chuyển biến tích cực.
- Vấn đề tin học hoá công tác quản lý trong hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh
Chuyển sang giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoạt động quản lý trong
hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, tất yếu không có sự lựa
chọn nào khác hơn là tin học hóa công tác quản lý.
Vấn đề tin học hóa công tác quản lý trong hệ thống Học viện đã được các tác giả nghiên
cứu đề tài xem xét ở các khía cạnh chủ yếu như tính tất yếu khách quan và nhu cầu thực tiễn
của vấn đề tin học hóa công tác quản lý trong hệ thống Học viện; mục tiêu, phương thức, lộ

trình, tính khả thi... của vấn đề tin học hóa công tác quản lý; các lĩnh vực hoạt động trong hệ
thống Học viện cần thiết phải đẩy nhanh quá trình tin học hóa công tác quản lý v.v..
Các tác giả nghiên cứu đề tài đều khẳng định rằng, tin học hóa công tác quản lý các lĩnh
vực hoạt động trong hệ thống Học viện là một yêu cầu bức thiết, phù hợp xu thế vận động,
phát triển của nước ta trong thời kỳ hội nhập với kinh tế thế giới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Đó là một trong những giải pháp quan trọng nhất để nâng cao vai trò, vị thế,
tầm vóc của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới của
cách mạng nước ta.
Mục tiêu của tin học hóa công tác quản lý là nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả
công tác quản lý. Nhìn xa hơn là nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo cán bộ lãnh
đạo, quản lý; chất lượng, hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận mà đó
là những chức năng cơ bản nhất của Học viện.
Học viện đã xây dựng được cơ sở hạ tầng thông tin mạnh thì cần phải tiếp tục khai thác
sức mạnh của nền tảng hạ tầng này để phuc vụ và đáp ứng yêu cầu của tất cả các lĩnh vực


hoạt động trong hệ thống Học viện. Không thúc đẩy tiến hành tin học hóa công tác quản lý thì
cũng đồng nghĩa với việc chưa thực hiện đúng đắn mục tiêu ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông. Công nghệ thông tin - truyền thông chỉ có thể đem lại hiệu quả lớn nhất trong
hoạt động thực tiễn của các cơ quan, đơn vị, các loại hình tổ chức khi hoạt động của các cơ
quan, đơn vị, các loại hình tổ chức này được tin học hóa.
Tất nhiên, quá trình tin học hóa công tác quản lý nhất định phải xác định được mục tiêu
rõ ràng, có bước đi cụ thể. Theo các tác giả của đề tài, trước mắt là cần thúc đẩy triển khai
các giải pháp tin học hóa công tác quản lý tại trung tâm Học viện. Sau đó, sẽ chỉ đạo các
Học viện khu vực tiến hành tin học hóa công tác quản lý theo một mô hình thống nhất trong
hệ thống Học viện.
Nhìn chung, tất cả các lĩnh vực hoạt động trong hệ thống Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh đều có thể tiến đến tin học hóa. Tuy vậy, quá trình tin học hóa
công tác quản lý tại trung tâm Học viện nên được bắt đầu từ tin học hóa công tác quản lý đào
tạo và tin học hóa công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học. Đây là hai lĩnh vực hoạt
động chủ yếu, thường xuyên của Học viện. Quá trình tin học hóa các lĩnh vực hoạt động này

tại trung tâm Học viện sẽ tạo điều kiện tiền đề để mở rộng đến các Học viện khu vực trong cả
nước một cách nhanh chóng, đem lại hiệu quả thiết thực.
Trong quá trình tin học hóa công tác quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học, Học viện
có thể đồng thời tiến hành tin học hóa công tác quản lý trong các mảng công tác khác như
quản lý nguồn nhân lực (bao gồm đội ngũ cán bộ, công chức, giảng viên, nghiên cứu viên,
đảng viên của Đảng bộ Học viện... ); quản lý vật tư, tài sản; quản lý tài chính, ngân sách v.v..
Tuy vậy, nếu trong các mảng công tác này, quá trình tin học hóa còn gặp những trở ngại nhất
định (ví dụ, về quy trình tác nghiệp, về cơ sở hạ tầng thông tin, về nhân lực... ) thì chỉ nên tập
trung các nguồn lực cho quá trình tin học hóa công tác quản lý đào tạo và quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học. Trong quá trình tin học hóa công tác quản lý, tập trung vào những vấn
đề trọng điểm, không đầu tư dàn trải là những vấn đề cần được chỉ đạo chặt chẽ.
Về quản lý công tác đào tạo và quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, các tác giả
nghiên cứu đề tài cũng đã giành nhiều thời gian bàn sâu hơn những vấn đề liên quan đến quá


×