Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận xã hội học Những nhân tố tác động đến chính sách xóa đói giảm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.5 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cho đến ngày nay đói
nghèo vẫn là nỗi ám ảnh
thường trực đối với cả thế giới
loài người. Thế giới đã chứng
kiến những thảm họa của chiến
tranh, thảm họa của thiên tai
dịch bệnh với bao nỗi kinh
hoàng. Thế nhưng hậu quả do
những nạn đói gây ra cũng vô
cùng khủng khiếp. Điều đáng sợ hơn nữa là: nếu như các cuộc chiến tranh dù
khốc liệt vô cùng nhưng rồi trước sau
cũng được giải quyết nếu như những thảm họa do thiên tai dịch bệnh gây ra
từng bước rồi cũng sẽ được khắc phục, thì vấn đề đói nghèo của nhân loại lại
là một vấn đề vừa cấp bách lại vừa phức tạp “lại như một căn bệnh kinh niên
khó bề cứu chữa’’.
Ở nước ta cũng vậy bước vào thế kỉ XXI nước ta đang trong thời kì xây
dựng và phát triển kinh tế, hiện đại hóa công nghiệp hóa đất nước, và lại là
một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới nhưng không vì thế
nước ta không có tình trạng đói nghèo mà ngược lại nước ta nằm trong vùng
những nước có tỉ lệ đói nghèo cao trên thế giới. Cũng chính vì lẽ đó mà
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và chú trọng về vấn đề xóa đói giảm
nghèo xem vấn đề cơ bản quan trọng nhất để xóa đói giảm nghèo là giải
phóng con người ra khỏi áp bức bất công, thực hiện công bằng xã hội.
Chúng ta hiểu ở đây công bằng xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực
để phát triển, công bằng xã hội không bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế
mà còn tất cả trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa,
1



xã hội, công bằng xã hội phải được giải quyết và chỉ có thể được giải
quyết gắn liền với phát triển sản xuất. Xây dựng một xã hội thực sự dân
chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam công bằng xã hội đòi
hỏi phải huy động mọi nguồn lực trong nhân dân, xã hội hóa nhiệm vụ đền ơn
đáp nghĩa xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch phát triển kinh tế -xã hộiTrên
cơ sở vừa vừa tăng nhanh tốc độ phát triển, vừa giảm dần sự mất cân đối giữa
các vùng, giảm dần khoảng cách về thu nhập, mức sống, hưởng thụ giáo dục,
văn hóa, bảo vệ sức khỏe của các tầng lớp dân cư ở các vùng khác nhau. Đặc
biệt công bằng xã hội đòi hỏi phải thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm
nghèo, an sinh xã hội. Trong bối cảnh Đảng và Nhà Nước và nhân dân ta
đang phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.Chính vì lẽ đó đề tài mong muốn ghóp một phần nhỏ bé
vào việc nâng cao
thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Như chúng ta đã biết chính sách xóa đói giảm nghèo là một chính sách
lớn và quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, và chính sách này được sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học, các nhà quản lý xã hội trong nước
cũng như trên thế giới. Nhưng nhìn chung đã phần nào đã vạch rõ và chỉ
ra được những nguyên nhân, thực trạng, những ưu điểm và hạn chế trong
việc thực hiện nâng cao chính sách xóa đói giảm nghèo.
Vì vậy dưới lập luận thế giới quan chủ nghĩa duy vật biện chứng bài viết
của em dưới đây sẽ góp phần làm cho người đọc hiểu thêm về thực trạng
về việc thực hiện, phương hướng giải quyết góp phần nâng cao chính
sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu:
2



đề tài nêu bật lên việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt
Nam trong giai đoạn 2011-2020. Đồng thời qua đó nêu lên quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về việc thực hiện nâng cao chính sách xóa đói
giảm nghèo. Qua đó cung cấp những nhận thức đúng đắn cho người đọc
một cách nhìn chân thực sống động nhất về công tác xóa đói giảm nghèo
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Đất nước ta khi bắt đầu đổi mới đã đạt được những thành tựu vô cùng to
lớn. Đất nước ngày càng phát triển đi lên, đời sống của nhân dân ngày càng
được cải thiện. Đó cũng là lí do để Đảng và Nhà nước ta tiến hành nâng cao
tổ chức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo trong giai đoạn 2011-2020
để góp phần cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước một cách toàn
diện nhất, giúp người đọc hiểu rõ hơn về quan điểm tổ chức thực hiện chính
sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên phạm vi ở Việt Nam và của một số nước
trong khu vực dựa trên thế giới quan chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử và dựa trên những số liệu một cách chính xác và khoa
học.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp luận
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa MácLeenin đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch, đồng
thời đứng trên lập trường tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách
chính sách của Đảng để nghiên cứu.
Phương pháp chung
- phương pháp phân tích tài liệu, song song với sử dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đề tài còn sử
dụng những phương pháp phân tích tài liệu cụ thể như phương pháp thu thập
3



tài liệu, phương pháp tổng hợp,phương pháp so sánh, phương pháp lo
gic….để tiến hành nghiên cứu
6. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài
gồm 4 chương và 10 tiết.
- Chương I: Quan điểm của CN Mác- Lênin về vấn đề đói nghèo
- Chương II: Những nhân tố tác động đến chính sách xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020
- Chương III:Định hướng chính sách xóa đói giảm nghèo giai đoạn
2011- 2020
- Chương IV: Đổi mới tư duy và phương pháp hoạch định chính sách
xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2011- 2020

4


NỘI DUNG
“Bước vào thập niên thứ hai của thế kỉ XXI. Hầu hết các nước trên thế giới
Cũng như Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức lớn có ý
nghĩa mang tính bước ngoặt. Những thay đổi ấy tạo ra cơ hội và thách thức
đối với đường lối và chính sách phát triển trong đó có chính sách xóa đói
giảm nghèo, xuất phát từ quan điểm vấn đề đói nghèo không được giải quyết
thì không có mục tiêu nào đặt ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống
nhân dân, ổn định đảm bảo các quyền con người được thực hiện. Chính sách
xóa đói giảm nghèo đã trở thành một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
ta và là một nội dung quan trọng của một “nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.”
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VỀ VẤN

ĐỀ ĐÓI NGHÈO
1.1.

Đói nghèo và xóa đói giảm nghèo là vấn đề có tính toàn cầu

- Xã hội loài người đã phát triển qua nhiều nấc thang lịch sử do trình độ sản
xuất vật chất quyết định. Bằng lao động sản xuất vật chất, con người khai thác
thiên nhiên để tạo ra vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu ăn,mặc,ở và những nhu
cầu khác. Năng suất lao động ngày càng cao thì của cải ngày càng nhiều, các
nhu cầu sống được đáp ứng đầy đủ hơn; trái lại ,năng suất lao động thấp, của
cải vật chất thu được ít, con người rơi vào cảnh đối nghèo.
Trong xã hội có giai cấp, những người bị áp bức, bóc lột, phải chịu cuộc
sống cùng cực. Thêm vào đó thiên tai, chiến tranh tàn phá,gây nên bao cảnh
lầm than, tang tóc. Đói nghèo không chỉ xuất hiện và tồn tại lâu dài dưới chế
độ công xã nguyên thủy, chế độ nô lệ, chế độ phong kiến với trình độ lực
lượng sản xuất kém phát triển, mà ngay trong thời đại ngày nay, với cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, với lực lượng sản xuất cao chưa
từng thấy, trong từng quốc gia, kể cả các quốc gia đã phát triển nhất thế giới,
đói nghèo vẫn tồn tại một cách hiển nhiên. Do đó loài người đã phải luôn luôn
5


tìm mọi cách để nâng cao trình độ sản xuất của mình, chống đỡ với thiên tai,
địch hỏa và rủi ro bất hạnh để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Mỗi một phát
minh khoa học, mỗi một bước tiến của trình độ sản xuất vật chất cũng như về
quan hệ giữa con người với con người đều góp phần xóa đói giảm nghèo. Đó
là công lao của các nhà khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội
và nhân văn của các nhà sáng chế phát minh, của những người lao động sáng
tạo. Tuy nhiên ở các thời đại khác nhau cũng có nhiều cách lý giải khác nhau
về quan niêm, nguyên nhân và cách giải quyết đối với hiện tượng đói nghèo.

Điều đó phụ thuộc vào nhân sinh quan và thế giới quan của mỗi người, mỗi
trường phái. Đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân và cách tiếp
cận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chúng ta cần phải xem xét vấn đề
đói nghèo trên cơ sở chủ ngĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong di sản kinh điển macxit, C. Mác và Ph. Ăngghen, ngay từ những
năm 50 của thế kỷ XIX, khi bắt đầu sáng lập học thuyết của mình, các ông đã
viết những tác phẩm nổi tiếng nghiên cứu về tình trạng nghèo khổ của giai
cấp vô sản và những người lao động dưới ách thống trị của chủ nghĩa tư bản.
Tiêu biểu là các tác phẩm: “Bản thảo kinh tế triết học” (năm 1844) của
C.Mác; “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” (năm 1845) của Ph. Ăngghen;
“Tư bản”, tác phẩm kinh tế học và triết học đồ sộ của C. Mác được viết từ
năm 1860 cho đến khi C. Mác qua đời năm 1883 và Ph. Ăngghen hoàn thành
tốt công việc còn lại của vC. Mác ( từ năm 1883 đến năm 1895)
Trong những tác phẩm quan trọng và, cũng như hành loạt ấn phẩm khác,
các ông đã mô tả cặn kẽ, tỉ mỉ và xác thực tình cảnh đói nghèo của những
người vô sản phải bán sức lao động cho chủ tư bản để kiếm sống. Phụ nữ và
trẻ em phải làm việc đến kiệt sức trong các xưởng thợ. Nông dân bị cưỡng
đoạt ruộng đất , mất hết tư liệu sản xuất, phải chạy ra các đô thị, bổ sung vào
các đội quân thất nghiệp. Họ trở thành nạn nhân của tình trạng bị bóc lột giá
trị thặng dư tuyệt đối và tương đối của các chủ tư bản trong các thời kỳ tích
lũy nguyên thủy và thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản. Các ông đã
6


vạch ra hậu quả tai họa của chế độ bóc lột tàn bạo này. Nó đã dẫn xã hội đến
sự phân hóa hai cực: Tích lũy sự giàu có tột độ ở phía thiểu số giai cấp có của
– giai cấp tư sản và tích lũy sự bần cùng ở đa số những người lao động, làm
cho những người lao động ngày càng lún sâu vào cái hố của sự nghèo đói,
bệnh tật, thất nghiệp, thất học. Nó đẩy sự phân hóa giàu nghèo ấy thành sự
phân hóa giai cấp, đối kháng giai cấp giữa tư sản và vô sản không thể điều

hòa được. Người lao động rơi vào tình trạng tha hóa lao động và tha hóa cả
bản chất con người. Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, nguồn gốc sâu xa của tình
trang đói nghèo trên đây là ở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất, ở chế độ áp bức, bóc lột và tình trạng nô dịch con người. Do đó chỉ có
thể xóa bỏ chế độ tư hữu, bóc lột ấy mới có thể giải phóng giai cấp vô sản và
quần chúng lao động khỏi cảnh đói nghèo lầm than, làm cho họ trở thành
người lao động tự do và người làm chủ, tiến tới một xã hội công bằng, văn
minh, đạt được sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân và xã hội.
1.2. Những quan niệm về đói nghèo
Trong đời sống thực tiễn cũng như trong nghiên cứu khoa học các vấn đề
kinh tế - xã hội, chúng ta thường thấy các khái niệm sau đây: đói nghèo hoặc
nghèo khổ; giàu nghèo và phân hóa giàu nghèo; trong xã hội học còn đề cập
tới các thuật ngữ: phân tầng xã hội, phân hóa giai cấp, phân cực (hay xung
đột) xã hội. Ngay khái niệm đói nghèo nếu tách riêng ra để phân tích và nhận
dạng, cũng thấy giữa đói và nghèo, trong cặp đôi này vừa quan hệ mật thiết
với nhau, lại vừa có sự khác biệt về mức độ và cấp độ. Đã lâm vào tình trạng
đói ( mà ý nghĩa biểu hiện trực tiếp của nó là đói ăn, thiếu kuwowng thực,
thực phẩm để duy trì sự tồn tại của sinh vật và con người) thì đương nhiên là
nghèo. Theo cách tư duy của người Việt Nam, chúng ta thường nhận diện đói
ở hai dạng: đói kinh niên và đói gay gắt. Đay vẫn thuần túy là đói ăn, nằm
trọn trong phạm trù kinh tế - vật chất. Nó khác với đói thông tin, đói thụ
hưởng văn hóa thuộc phạm trù đời sống văn hóa tinh thần. Quan niệm về
nghèo thì có thể có nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Tất nhiên dù ở dạng
7


nào thì nghèo vẫn có quan hệ mật thiết với đói. Nghèo là một kiểu đói tiềm
tàng và đói là một tình trạng hiển nhiên của nghèo. Sự nghèo và nghèo khổ
kéo dài, nếu không ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của cảnh trì trệ, túng thiếu thì
chỉ cần xảy ra những biến cố đột xuất của hoàn cảnh là con người ta dễ dàng

rơi vào cảnh đói. Ở đây chúng ta xem xét hiện tượng đói nghèo ở góc độ đời
sống vật chất, góc độ kinh tế, tức là tính vật chất của nó. Chủ thể đói nghèo
được xem xét ở đây là con người, từng cá thể cũng như trong phạm vi xã hội,
tức là cộng đồng dân cư xác định quy mô lớn, nhỏ, rộng, hẹp khác nhau. Vì
thế với những cách tiếp cận khác nhau, chúng ta có thể hướng mục tiêu
nghiên cứu vào người nghèo, hộ nghèo, vùng dân cư nghèo, nước nghèo và
khu vực nghèo. Tương ứng như vậy có thể nghiên cứu các loại chủ thể trên ỏe
diện đói nghèo hoặc ở cực khác là giàu có, đứng từ góc độ lý thuyết để làn rõ
bản chất, nội dung của từng khái niệm đồng thời cần thiết phải tập trung phân
tích mối liên hệ nội tại, tức là lô gic có trong một chuỗi khái niệm, một hệ vấn
đề sau đây: đói nghèo, phân hóa giàu nghèo và xóa đói giảm nghèo.
Các khái niệm, phạm trù khác nếu được sử dụng và nhắc tới cũng chỉ vì
chúng có liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với trục khái niệm nêu trên. Hơn nữa
cần thấy rằng, tuy đói nghèo và phân hóa giàu nghèo biểu đạt nội dung kinh
tế, có nguồn gốc, căn nguyên kinh tế của nó, song với tư cách là một hiện
tượng tồn tại phổ biến ở tất cả các quốc gia, dân tộc trong tiến trình phát triển,
đói nghèo và phân hóa giàu nghèo không bao giờ là một hiện tượng kinh tế
thuần túy, mà thực chất nó là một hieenju tượng kinh tế - xã hội. Đã không có
một hiện tượng kinh tế thuần túy đứng biệt lập, đứng độc lập bên ngoài xã hội
và các quan hệ xã hội của con người trong quá trình sản xuất – trao đổi, lưu
thông – phân phối thì cũng không có một hiện tượng xã hội, một quan hệ xã
hội nào lại có thể tồn tại được mà không có nội dung vật chất, gốc rễ kinh tế ở
bên trong nó. “Cái kinh tế” và “ cái xã hội” là một sự liên kết chỉnh thể,
nương tựa, biểu hiện, tác động và chế ước lẫn nhau. Khi tổ chức nhà nước và
các thiếu chế quyền lực khác tồn tại trong xã hội thì chính trị xuất hiện. Như
8


một liên hệ tất yếu, kinh tế - xã hội còn có tính biện chứng với chính trị và xét
rộng ra còn với cả văn hóa nữa.

Như thế đói nghèo và phân hóa giàu nghèo là những khái niệm kép, vừa
có mặt kinh tế vừa có mặt xã hội trong nội dung của nó, trong sự phát sinh,
diễn biến của nó. Nhân tố chính trị và văn hóa cũng có phần tác động, gây ảnh
hưởng tới hiện trạng, xu hướng và cách thức giải quyết nó. Điều này đặc biệt
rõ trong sự vận động của kinh tế thị trường, của bước chuyển mô hình, cơ
chế, chính sách quản lý, kể cả những biến đổi của cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã
hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng cả về
lý luận và thực tiễn, bởi vì đây là cơ sở của việc tìm kiếm đồng bộ các giải
pháp, biện pháp xóa đói giảm nghèo ở nước ta. Sau nữa, trong những biện
pháp tổng quan về phương pháp luận nghiên cứu cần nhấn mạnh rằng, đói
nghèo là một khái niệm có tính động, biến đổi, di chuyển chứ không tĩnh,
không bất biến. Vậy những nhân tố nào tạo nên đặc điểm này của hiện tượng
đói – nghèo? Đó là những nhân tố: sự phát triển của sản xuất, mức tăng
trưởng kinh tế , sự tăng lên của nhu cầu con người.
Thực tế cho thấy rõ, các chỉ số xác định đói – nghèo và giàu – nghèo
luôn di động. Ở một thời điểm với một vùng, một nước nào đó thì chỉ số đo
được là đói, nghèo hoặc giàu, nhưng sang một thời điểm khác, so sánh với
một vùng khác, nước khác, cộng đồng dân cư khác thì chỉ số đo đó có thể mất
ý nghĩa. Đây là điểm giải thích vì sao các nhà nghiên cứu lý luận về vấn đề
đói nghèo và phân hóa giàu nghèo lại thường gắn nó với lý thuyết phát triể.
Điều đặc biệt quan trọng là phải có một quan niệm hiện đại về phát triển, lấy
nó làm cơ sở, làm điểm tựa cho việc nghiên cứu về đói nghèo, phân hóa giàu
nghèo cũng như xóa đói giảm nghèo.
1.3. Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo ở các nước trong khu vực
Kinh nghiệm ở Trung Quốc trong cải cách với phát triển công nghiệp nông
thôn nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế, cải tạo kinh tế thuần nông, “ly nông, bất
ly hương”. Chính vì vậy, tuy là một nước đông dân nhất thế giới nhưng
9



Trung Quốc lại là nước có tỷ lệ số người sống ở mức nghèo khổ thấp nhất .
Để có thể tác động đến một bộ phận dân cư đang ở tình trạng nghèo khổ,
ngoài sự tăng trưởng kinh tê, các quốc gia phải hình thành những chương
trình xóa đói giảm nghèo . Việc xác định này là phù hợp với điều kiện để loại
trừ tính chủ quan, nóng vội và đơn giản hóa vấn đề đói nghèo vốn là một vấn
đề hết sức phức tạp, lâu dài, phải có một chương trình, giải quyết từng bước
để giảm dần đói nghèo, không thể giải quyết ngay một lúc, thanh toán tuyệt
đối và dứt điểm
Từ kinh nghiệm thực tế, các nhà nghiên cứu đã khái quát hóa về mặt
lý luận và thống nhất một định nghĩa là: chương trình giảm bớt nghèo khổ là
một hệ thống các giải pháp xác định rõ vai trò của nhà nước, của các tổ
chức trong xã hội, trong việc phân phối hợp lý các hành động của mình để
nâng cao mức sống cho người nghèo, tạo cho họ những cơ hội phát triển
trong đời sống cộng đồng bằng chính lao động của bản thân.
Định nghĩa này thâu tóm một cách cô đọng kinh nghiệm thực tiễn giảm
bớt nghèo khổ của các nước trong khu vực và thế giới. Nó có ý nghĩa tư vấn
và chỉ đạo những sự tìm kiếm con đường và cách thức xóa đói giảm nghèo ở
nước ta.
Ngoài những kinh nghiệm của Trung Quốc còn phải nói tới mô hình
của Indonesia, Malaysia và Thái Lan. Indonesia và Thái Lan áp dụng việc
loại trừ đói nghèo ở từng vùng trọng điểm thông qua chính sách phát triển.
Từ những năm 70 chính phủ Indonesia đã dùng phần lớn số tiền từ khai thác
để tập trung phát triển kinh tế và loại trừ nghèo đói ở vùng Java. Hiện nay đất
nước này lại hướng về giải quyết đói nghèo ở các vùng khác, kết quả thu
được là khả quan. Đã giảm từ 50 triệu người nghèo khổ (43% dân số) trong
thập niên 90 xuống còn 17 triệu người nghèo đói (11% dân số) 2010. Vào
đầu thập niên 90 Malaysia giảm từ 20,7% nghèo đói năm 1986 xuống xòn
9,3% năm 2010

10



Từ những năm 80 và hiện nay, Thái Lan áp dụng mô hình gắn liền
chính sách phát triển quốc gia với chính sách phát triển nông thôn thông qua
hình thức phát triển xí nghiệp ở làng quê nghèo, phát triển doanh nghiệp nhỏ,
mở rộng các trung tâm dạy nghề ở nông thôn để giảm bớt nghèo khổ. Nhờ
hoạt động của ban phát triển nông thôn (IBI RD) và tổ chức Hiệp hội dân số
và phát triển cộng đồng (PDA) theo mô hình trên, tỷ lệ người nghèo ở Thái
Lan từ 23 % dân số trong thập niên 90 đã giảm xuống còn 13% dân số năm
2010 ( 7.3 triệu người).
Nghiên cứu kinh tế giảm bớt đói nghèo của các nước trong khu vực, nhiều
nhà nghiên cứu nhấn mạnh tới yêu cầu công bằng và giảm nghèo, coi đó là
những chuẩn mực, những tiêu chuẩn hướng đích mà các chính sách phát triển
xã hội phải đạt tới, nhất là sự kết hợp giữa các chính sách dài hạn và ngắn
hạn phục vụ trực tiếp cho chiến lược xóa đói giảm nghèo.
Có thể tóm tắt chương trình xóa đói giảm nghèo của các nước quanh
vùng gần giống điều kiện nước ta ( các chính sách mang tính chiến lược) như
sau:
- Đẩy mạnh việc phát triển nông nghiệp và nông thôn, coi đây là khu vực
và đối tượng ưu tiên, trọng điểm.
Vì đại đa số người nghèo sống ở nông thôn, do đó đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp và nông thôn có tác dụng giảm nghèo rõ rệt. Thực tế cho thấy nông
nghiệp đóng một vai trò to lớn trong việc đẩy mạnh tăng trưởng thời kỳ đầu
của sự phát triển. Ngoài ra nông thôn và nông nghiệp lại là nguồn và thị
trường cho công nghiệp hóa.
Phát triển nông thôn không những phải nâng cao năng suất nông nghiệp,
tăng nhanh lương thực, thực phẩm để đảm bảo cho xã hội có lương thực giá
rẻ mà còn phải nâng cao được thu nhập cho nông dân. Nhiều nước chú trọng
cải cách ruộng đất, coi đó là tiền đề quyết định để phân phối vốn cố định cho
người nghèo, giúp họ thoát khỏi nghèo đói, tham gia vảo sản xuất hành hóa,

tăng thặng dư cho nông nghiệp phục vụ cho công nghiệp hóa. Đầu tư cơ sở
11


hạ tầng ở nông thôn cũng có tác dụng không nhỏ để giải quyết việc làm, tăng
thu nhập cho nông dân.
-Tạo việc làm và tăng thu nhập ở thành thị. Việc làm và mức thu nhập ở thành
thị có ảnh hưởng lớn đến việc giảm nghèo ở thành thị và chuyển dịch lao
động ở nông thôn. Một vấn đề đáng lưu ý là ảnh hưởng của việc lựa chọn
công nghệ, công việc đến tạo việc làm khu vực không kết cấu. Vấn đề này cần
phải được khuyến khích phát triển, cho nó một hành lang để vận động và thu
hút nhiều lao động (bằng cách khuyến khích ủng hộ, cổ vũ và sự nhất quán
trong chính sách, sự chỉ dẫn của pháp luật. Không nên chỉ dùng công nghệ đòi
hỏi nhiều vốn làm giảm việc làm).
-Đâù tư vào con người và phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để
phát triển nhanh và bền vững. Đầu tư vào con người là đầu tư theo chiều sâu
cho phát triển, đồng thời cũng là đầu tư và khai thác ngay trong hiện tại. Con
người ở đây là con người có kiến thức, có tay nghề, có đạo đức, có sức khỏe.
Coi nhẹ đầu tư vào con người hoặc chỉ thấy đầu tư cho khai thác ngay, khai
thác nhanh một cách thiển cận sẽ là một sai lầm lớn trong phát triển.
Đầu tư vào con người là tạo cho mỗi người một cơ hội ngang nhau
về giáo dục, đào tạo để có việc làm và thu nhập cao.
Đây là nhân tố quan trọng nhất của công bằng xã hội. Các nước
Đông Á đã từng nêu kinh nghiệm tốt về đầu tư vào con người. Người nghèo
thường không đủ thu nhập để đi học và chăm lo sức khỏe, thường thiếu dinh
dưỡng và đông con. Do vậy, Nhà nước cần sử dụng quỹ phúc lợi xã hội để
giải quyết vấn đề này. Không nên quan niệm đây chỉ là phúc lợi xã hội, mà
chính là đầu tư vào sản xuất với hiệu quả cao.
Ngoài ra, các chính sách dài hạn, có tính chiến lược nêu trên, còn có
những chính sách ngắn hạn như những biện pháp trước mắt để giảm nghèo.

Các nước Đông Á và khu vực Đông Nam Á đã chú trọng những biện pháp
sau:

12


- Tăng tài sản do người nghèo sở hữu ruộng đất, hạn chế bóc lột bằng cách tổ
chức hợp tác xã, trợ giá đầu vào, cho vay tín dụng với lãi suất thấp, đầu tư vào
giáo dục, sức khỏe.
- Tăng giá hàng hóa và dịch vụ cho người nghèo, cung cấp hỗ trợ người
nghèo về mặt kỹ thuật để tăng năng suất, tổ chức hợp tác xã cung cấp đầu vào
và tiêu thụ đầu ra, tạo thị trường sức lao động để tạo việc làm, tăng thu
nhập…
-

Tăng khối lượng hàng hóa do người nghèo bán ra, thực chất là giúp cho

nông dân nghèo đi vào sản suất hàng hóa. Vốn, kỹ thuật , thị trường là những
tác động để thực hiện chính sách này.
- Áp dụng nhóm các biện pháp xã hội nhằm phân phối lại thun nhập và bảo
hiểm xã hội . Các biện pháp này có tính chất ưu đãi cho đối tượng người
nghèo không có khả năng Lao động. Trợ giúp lương thực, cung cấp lương
thực để làm công trình công cộng, cứu tế trong trường hợp đặc biệt.
CHƯƠNG 2: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2011 -2020
- Để chủ động sáng tạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách
xóa đói giảm nghèo trong giai đoạn mới, trước hết cần làm rõ những
nhân tố tác động đến chính sách này có quan hệ trực tiếp đến sự phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế nhất là
thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh.” Làm rõ những nhân tố tác động đến chính sách và góp phần khắc phục
bệnh chủ quan, duy ý chí một cách tập thể, và bệnh thành tích đã lan rộng
trong các cấp quản lí.
Trong thập niên 2011- 2020 chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta
chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau đây:

13


2.1 Tăng trưởng phiến diện
- vấn đề đói nghèo hiện nay, về
khách quan là sản phẩm tất yếu
của một mô hình kinh tế nhất
định. Khi một mô hình kinh tế đã
cạn kiệt tiềm năng phát triển, thì
dù cố gắng của chính quyền cũng
không thể giải quyết tốt vấn đề
đói nghèo.
- Hiện nay nước ta đã chuyển sang mô hình công nghiệp hóa từ nhiều năm
nay. Đó chính là mô hình kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và
nguồn lao động giá rẻ có sẵn, dựa vào tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao
động giá rẻ dựa vào vốn đầu tư của nước ngoài để xuất khẩu nhằm tăng
trưởng nhanh, ở một nước nông nghiệp lạc hậu mô hình ấy sẽ có vai trò nhất
định ở giai đoạn khởi động nền kinh tế. Nhưng kéo dài thời gian thực hiện mô
hình ấy thì chỉ lo tăng
trưởng số lượng thì những vấn đề xã hội sẽ phát sinh những mặt trái của nó,
và tăng lên với tốc độ chóng mặt thể hiện ở vấn đề đói nghèovà vấn đề đói
nghèo trở nên nghiêm trọng hơn khi sự phân hóa giàu nghèo ngày càng trầm
trọng hơn khi đời sống của người dân ngày càng chênh lệch xã hội xuất hiện
nhiều vấn nạn kéo theo.

-Trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường trên Thế giới thì mô hình công
nghiệp hóa này đã diễn ra hơn hai trăm năm trước đây trong hình thái kinh
tế tư bản chủ nghĩa. Trong thế kỉ XX mô hình này đã biến đổi dần dưới hình
thức “khủng hoảng – phát triển” đã lỗi thời đã kết thúc vào nửa sau thế kỉ
XX. Khi mô hình này phát triển bền vững, dựa trên nền kinh tế trí thức ra
đời và phát triển mạnh mẽ. Đây là bối cảnh thế giới khi mà nước ta đã
chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế .- Do kéo dài
14


mô hình công nghiệp hóa chạy theo tăng trưởng số lượng Nên hiện nay
nước ta tuy thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo đã đạt những kết quả
nhất định, nhưng vấn đề đói nghèo ở đây trên thực tế ở cả khu vực chính
thức lẫn khu vực phi chính thức vẫn còn nhiều bất cập vẫn còn nhiều điểm
cần quan tâm và nghiên cứu.
- Ở khu vực chính thức (khu vực nhà nước) thì vấn đề đói nghèo nằm ở đây
là ở trong bối cảnh tiền lương thấp. Theo điều tra của Viện nghiên cứu quản
lý kinh tế trung ương, lương tối thiểu hiện nay mới chỉ đáp ứng được từ 60%65% nhu cầu cần thiết, dù mức lương này đã được tăng lên nhưng vẫn không
bảo đảm bù đắp sức lao động giản đơn, chưa thể nói đến tái tạo sức lao động
và nâng cao năng lực lao động. So với các nước trong khu vực lương tối thiểu
ở Việt Nam hiện nay thấp hơn khoảng 40%. Ưu điểm của một mô hình kinh
tế không chỉ ở năng suất lao động mà còn là mức sống của người lao động.
-

Chính sách tiền lương hiện nay còn được các doanh nghiệp trong nước

lấy đó làm căn cứ để trả tiền lương cho người lao động, chứ không phải dựa
vào năng suất, chất lượng và hiệu quả của công việc.Những nhược điểm trong
quản lý nhà nước, đã bị các doanh nghiệp khai thác làm cho đời sống của
người lao động ngày càng đói nghèo. Ngoài ra theo cam kết quốc tế tới năm

2012 sự bình đẳng trong trả lương giữa các thành phần kinh tế phải được thực
hiện, trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước
phải có chung mức lương tối thiểu ( khác với mức lương tối thiểu trong bộ
máy nhà nước)tế còn các yêu cầu an sinh xã hội chưa thực sự được quan tâm,
nhất là trong giải phóng mặt bằng, trong tái định cư đã để lại nhiều hậu quả về
mất việc làm và đói nghèo tăng lên.
Vấn đề đói nghèo hiện nay khác với đói nghèo trước đây, ở thôn quê do
nhịp độ phát triển các dự án chỉ nhằm thu hút đầu tư cho tăng trưởng kinh tế
- Nhìn tổng quát, tác động của tăng trưởng kinh tế một cách phiến diện đến
15


đói nghèo có nguyên nhân sâu xa từ việc duy trì quá lâu mô hình công nghiệp
hóa đã lỗi thời ở thời đại hiện nay.Còn nguyên nhân trực tiếp là do bệnh thành
tích theo nhiệm kì của bộ máy quản lý.Thực tiễn đã cho thấy giải quyết vấn đề
đói nghèo phải gắn liền với mô hình kinh tế với đổi mới tư duy và phương
pháp quản lý.
2.2 Môi trường bị tàn phá.
- Ở nước ta mức độ tàn phá môi trường ngày càng nghiêm trọng là một
nhântố trực tiếp làm tăng mức độ và vi phạm của đói nghèo ở đây chỉ
nêu mấy mặt chủ yếu
- Trước hết là tình trạng ô nhiễm môi trường của các khu công nghiệp.Mà
tiêu biểu là vụ công ty VeDan xả nước thải xuống sông Thị Vải đã làm ô
nhiễm nặng nề môi trường sông xung
quanh và ảnh hưởng nặng nề tới đời
sống sinh hoạt của những người dân
sống xung quanh con sông này’’.
Các công ty đã làm hàng loạt sông
ngòi, kênh rạch nguồn nước ngầm bị ô
nhiễm do không giải quyết các vấn đề

về chất thải kết quả là làm bệnh tật
gia tăng đối với công nhân và dân cư trong vùng. Những chi phí tốn kém
để chữa trị bệnh tật có thể khiến người lao động nghèo thêm.
Thứ hai tác động của biến đỏi khí hậu toàn cầu hiện nay đã không những
đã làm cho mực nước biển dâng cao chiếm nhiều diện tích đất đai để sinh
sống (Việt Nam là một trong năm nước chịu tác động trước tiên) mà còn
gây ra những trận hạn hán, lũ lụt trầm trọng, xói mòn bờ biển, ven sông,
phèn hóa đất đai nông nghiệp. Bộ tài nguyên và môi trường Việt Nam dự
báo nếu nước biển dâng thêm một mét thì khoảng 20% châu thổ và 10%
16


diện tích TPHCM có thể bị nhấn chìm.Những tai họa gần đây sẽ làm tăng
sự đói nghèo về mức độ phạm vi.
Thứ ba là vấn đề môi trường tác động xấu đến phát triển kinh tế và đói
nghèo
Ở nước ta đã trở nên cấp bách con sông Mê-Kông rơi vào tình trạng lâm
nguy. Sông Mê-Kông dài 5400km chảy qua Trung Quốc, Myanma, Lào,
Thái Lan, Cam-pu-chia và Việt Nam cung cấp nước cho trồng trọt, cho
vận chuyển hàng hóa ảnh hưởng trực tiếp lên đời sống của 65 triệu
người. Riêng nhu cầu nguồn nước cho khu vực này tăng nhanh từ( 43
700m3 tăng lên 56 700m3 vào cuối 2010)
- Mối đe dọa chính đối với sông Mê-Kông là việc xây dựng đập thủy điện
Trung Quốc đã có 5 đập hoạt động dự định xây dựng thêm 15 đập cỡ lớn và
cực lớn ở thượng nguồn.Các nước Đông Nam Á có kế hoạch xây dựng 11 con
đập ở hạ nguồn.Những con đập này sẽ làm biến đổi sự điều hòa tự nhiên và
lưulượng dòng chảy theo mùa (tính thủy học)làm giảm lượng phù sa ở hạ
nguồn, đe dọa

những khu vực trồng lúa nước năng suất cao nhất Thế


giới( như đồng bằng sông Cửu Long) đe dọa luồng cá di chuyển sinh sản ở
một con sông đang là ngư trường cá nước ngọt lớn nhất Thế giới, ảnh hưởng
nặng nề đến đời sống của nông dân và ngư dân. Mối đe dọa sông Mê-Kông
còn do tác động của biến đổikhí hậu, gây ra những trận lũ lụt và hạn hán trầm
trọng, xói mòn bờ, nước biển dâng cao ở khu vực châu thổ con sông này.
Như vậy vấn đề môi trường bị tàn phá đang và sẽ là một trong những nguy cơ
rất lớn về đói nghèo đối với cả ba miền Bắc Trung Nam trong thập niên tới.
Chính sách xóa đói giảm nghèo từ 2011 trở đi phải được xây dựng trên
những
cơ sở hiện thực mới nói trên khác hẳn cách làm chắp vá và dựa trên “tư duy hỗ
trợ và ban ơn” chỉ nhằm ổn định xã hội ngắn hạn không có khả năng phát triển.
Khi xem xét tác động của môi trường đến phát triển kinh tế và xã hội còn phải
tính đến giá trị địa – kinh tế của Việt Nam. Đó là giá trị địa – kinh tế ven biển,
17


với chiều dài 3260km bờ biển, hơn 3000 hòn đảo: diện tích mặt biển lớn gấp
3 lần diện tích đất liền. Đó là lợi thế để tăng trưởng kinh tế gắn chặt với thu hẹp
diện đói nghèo. Bằng cách khai thác khả năng biển gắn với bảo vệ môi trường
của một nền kinh tế sinh thái thông qua hiện đại hóa 4 trung tâm vùng biển: Hạ
Long, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Phú Quốc và xây dựng lực lượng hiện
đại bảo vệ vùng biển.Mặt khác phải chấm dứt những hoạt động kinh tế trái
với đòi hỏi trên, như khai thác cát để bán cho Xingapo. Theo Bộ Tài Nguyên
và Môi Trường mỗi năm hoạt động khai thác cát đã làm mất một khối lượng
tương đương một hòn đảo rộng15km2.
2.3. Sự hạn chế về năng lực tổ chức, quản lý của bộ máy nhà nước các cấp.
Đây là nhân tố tác động không nhỏ đến mức độ đói nghèo nhưng thường bị bỏ
qua và chậm đổi mới. Xét trên toàn cảnh tác động của nhân tố tổ chức, quản lý
của các cấp đến đói nghèo có mức độ khác nhau ở những thời gian khác nhau

được thể hiện tập trung ở mấy mặt sau đây:
Thứ nhất: Tính chất và mức độ “hành chính quan liêu” trong các cấp đã ảnh
hưởng đến giải quyết vấn đề đói nghèo, thực hiện những chủ trương chính sách
xóa đói giảm nghèo trong thời gian qua biểu hiện ở các hoạt động:
Cứu trợ dân nghèo trong các đợt thiên tai bão lụt ở một số nơi rất chậm trễ làm
diện đói nghèo kéo dài và lan rộng.
Việc xác định diện hộ nghèo theo quy định có những lệch lạc, dựa vào quan hệ
thân quen đưa vào diện đói nghèo những hộ không nằm trong tiêu chí nghèo,
thậm chí bớt xén tiền bạc mà đáng lẽ hộ nghèo được hưởng. Những sai lầm này
thường ở cấp chính quyền cơ sở và cấp huyện.
Chất lượng xây dựng các luật kinh tế , xã hội còn thấp so với thực tiễn nên dễ
thông qua nhưng khó thi hành ở cấp vĩ mô. Quy trình làm luật hiện nay chỉ coi
trọng mặt chính sách, giải thích nội dung chính sách hay luật mà không đòi hỏi
giải trình về mặt kỹ thuật, tổ chức thực hiện, nhất là về mặt thanh tra, kiểm soát.
Vì vậy có những trường hợp bất khả thi hoặc dễ lách luật và lạm dụng, đây là
hạn chế của cấp vĩ mô.
18


Thứ hai: Tình trạng lãng phí ngày càng tăng trong quá trình triển khai các dự án
kinh tế - xã hội. Do chất lượng thấp trong xây dựng và thực hiện dự án nên các
dự án không có khả năng hoàn vốn, rủi ro cao, thời gian thực hiện kéo dài. Hiện
nay chỉ số “ICOR” quá cao tiềm ẩn nhiều nguy cơ về tăng trưởng đói nghèo.
Tính chất hành chính quan liêu trong quản lý vĩ mô gây lãng phí ở tầm quốc gia
cao do nôn nóng muốn làm tất cả không có ưu tiên và bước đi phù hợp. Cách
làm nặng về số lượng(người ta nói do bệnh thành tích theo tư duy nhiệm kỳ)
không chỉ gây lãng phí lớn mà còn đẻ lại nhiều vấn nạn về kinh tế và xã hội
Thứ ba: Tình trạng tham nhũng tác
động không chỉ đến chất lượng và
hiệu quả

phát triển mà còn trực tiếp đến đời
sống nhân dân. Hiện tượng tham
nhũng xuất hiện cả trong lĩnh vực
giáo dục, lĩnh vực y tế, thậm chí cả
trong các dự án xóa đói giảm nghèo cùng với những tác động tiêu cực của các
dự án xây dựng, nhất
là các dự án sử dụng nhiều đất đai làm cho vấn đề xóa đói giảm nghèo và ổn
định xã hội khó giải quyết. Nguy cơ và hậu quả nghiêm trọng của tệ nạn tham
nhũng là những người này đang trở thành lực lượng nội xâm coi thường luật
pháp và vô trách nhiệm .Trong thời gian qua thực hiện chương trình 135,
chương trình 30a cũng như hỗ trợ giải quyết đói nghèo ở đồng bằng sông Cửu
Long đã góp phần giảm tỷ lệ nghèo nhưng con số nghèo ở nông thôn và đô thị vẫn
còn cao. Nếu về mặt tổ chức quản lý nhà nước không khắc phục tình trạng hành
chính quan liêu lãng phí tham nhũng thì các mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 20112020 khó có triển vọng.
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
19


GIAI ĐOẠN 2011-2020.
3.1. Tính tất yếu, cấp bách thay đổi định hướng chính sách:
Thực tiễn kinh tế xã hội nước ta trong những năm qua cho thấy không thể giải
quyết vấn đề đói nghèo, theo tư duy truyền thống chỉ nhằm ổn định xã hội
trước mắt, tách rời giữa tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo. Về
khách quan tư duy ấy vốn là sản phẩm của mô hình công nghiệp hóa truyền
thống đã lỗi thời từ thế kỷ XX.
Về chủ quan tư duy ấy còn là di sản của nền kinh tế tập trung bao cấp với
quan hệ “ban ơn” và “chịu ơn” giữa nhà nước với nhân dân trước đổi
mới.Tính đổi mới của việc đổi mới tư duy kinh tế chính trị về tăng trưởng và
đói nghèo còn thể hiện ở nguy cơ Việt Nam rơi vào cái bẫy thu nhập trung
bình của một quốc gia thoát nghèo và gia nhập vào nhóm nước có thu nhập

trung bình rồi mất nhiều thập niên vẫn không trở thành nước phát triển. Từ
năm 2009 Ngân hàng thế giới (WB) đã đưa Việt Nam vào nhóm nước có thu
nhập trung bình (1000 USD/người). Hiện nay nước ta buộc phải vượt qua thử
thách của cái bẫy này.
3.2. Định hướng chính sách xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2011-2020.
Thứ nhất: Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế.
Đây là định hướng chung của sự nghiệp đổi mới, là bước chuyển giai đoạn từ
tăng trưởng số lượng lên tăng trưởng cả số lượng và chất lượng, là giai
đoạn lấy chất lượng làm động lực tăng trưởng kinh tế:
Hơn một thập niên qua, mô hình tăng trưởng số lượng dựa trên khai thác tài
nguyên và lao động gia công dựa trên thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã tới
giới hạn và đang phát sinh nhiều tiêu cựu cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Do đó nhu cầu cấp bách về kinh tế và chính trị là chuyển sang mô hình phát
triển bền vững như các đại hội của Đảng đã nêu là: “Tăng trưởng kinh tế đi
20


đôi với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. Như vậy vấn đề chính sách
xóa
đói giảm nghèo phải đặt trong tiến trình chuyển sang mô hình phát triển bền
vững. Vấn đề đói nghèo được giải quyết từ ba hướng gắn bó với nhau: Tăng
trưởng kinh tế bền vững tự nó đã hạn chế phát sinh đói nghèo, tiến bộ xã hội
(thể hiện ở trình độ giáo dục dân trí) là điều kiện trực tiếp để giải quyết đói
nghèo, bảo vệ môi trường đang trở thành vấn đề quan trọng tác động trực
tiếpđến tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội.
Sự chuyển đổi mô hình kinh tế không chỉ là nhu cầu của nước ta mà là xu thế
của thời đại hiện nay đang thách thức cả các nước phát triển. Nhìn tự sự
nghiệp đổi mới thì chuyển đổi mô hình kinh tế là lần đổi mới thứ hai sau lần
đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường từ năm 1986, đây là cơ hội lớn và
thách thức lớn.

Thứ hai: tạo lập những tiền đề, điều kiện để giải quyết vấn đề đói nghèo trong
mô hình mới.
Đây là những tiền đề vừa để xây dựng mô hình kinh tế mới, vừa giải quyết có
hiệu quả vấn đề đói nghèo.Xây dựng các hình thức liên kết các ngành khoa
học và công nghệ với sản xuất và xây dựng nhất là khu vực nông nghiệp,
nông thôn. Thúc đẩy hình thức lan tỏa liên kết bốn nhà (nhà nông, nhà khoa
học, nhà doanh nghiệp và nhà nước) trong các dự án nông lâm thủy sản và
dịch vụ.Phát triển các hình thức giáo dục miễn phí phổ cập về nghề nghiệp
cho những người trong diện đói nghèo. Nên dựa vào các tổ chức xã hội nghề
nghiệp, các tổ chức phi chính phủ(NGO) nước ngoài thực hiện các dự án về
giáo dục, y tế, xã hội. Hướng hoạt động là nâng cao năng lực, ý thức chủ động
vượt đói nghèo của người dân nông thôn, miền núi. Cách làm này hoàn toàn
khác với cách làm phong trào để ban ơn, lấy thành tích.
Về mặt quản lý nhà nước. cần có quy định về tư vấn, phản biện và giám định
xã hội của các dự án sản xuất, xây dựng các dự án xóa đói giảm nghèo trước
khi thực hiện nhằm thể hiện được định hướng phát triển bền vững.
21


Nhà nước chỉ phê duyệt các dự án đầu tư nhất là đầu tư nước ngoài đảm bảo
việc thực hiện mô hình phát triển bền vững đồng thời phải rà soát, thanh tra,
các khu công nghiệp các dự án đã và đang sản xuất và xây dựng, quy định
thời gian chuyển đổi sang mô hình mới, bởi vì càng kéo dài kiểu sản xuất
kinh doanh cũ thì càng tạo ra nguy cơ về đói nghèo.
Thứ ba: Đổi mới tổ chức và thể chế quản lý hiện nay xét cho cùng là sản
phẩm của mô hình tăng trưởng cũ. Khi mô hình tăng trưởng kinh tế đã lỗi
thời mà kéo dài kiểu tổ chức, quản lý cũ thì càng làm cho tình hình kinh tế xã
hội phát sinh nhiều vấn đề nghiêm trọng.
Về khách quan: Mô hình phát triển bền vững đòi hỏi và quy định mô hình tổ
chức, thể chế quản lý là nhà nước pháp quyền của dân ta được đề ra từ đại hội

IX. Những vấn đề nóng trong kỳ họp quốc hội đầu năm 2010 cho thấy những
khó khăn và chậm trễ trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở một nước
kém phát triển, đang phát triển. Vấn đề đói nghèo từng tồn tại lâu dài trong
lịch sử, sự tăng hay giảm đói nghèo gắn liền với trình độ phát triển của nhà
nước và phản ánh bản chất nhà nước. Như vậy đói nghèo ở phạm vi một nước
là một vấn đề chính trị, cuộc khủng hoảng xã hội và những biến động về
chính trị đều phát sinh từ tình hình đói nghèo và bất bình đẳng xã hội.
CHƯƠNG 4: ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ PHƯƠNG PHÁP HOẠCH ĐỊNH
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO.
4.1. Đổi mới tư duy và chính sách xóa đói giảm nghèo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng vạch ra ba thứ giặc đe dọa sự tồn vong của
chính quyền nhân dân sau cách mạng tháng tám 1945 đó là: giặc đói, giặc
dốt, giặc ngoại xâm. Sau 30 năm kháng chiến chúng ta đã giải quyết được vấn
đề giặc ngoại xâm, giành được độc lập dân tộc, còn giải quyết vấn đề giặc
đói, giặc dốt thì sau 35 năm chúng ta vẫn chưa có nhiều bước tiến về chất
lượng phát triển. Đây là thách thức bên trong lớn nhất khi bước vào thập niên
2011-2020. Với những biến đổi có tính bước ngoặt khi giải quyết vấn đề giặc
22


đói, giặc dốt, nó đang đòi hỏi đảng cầm quyền phải có tư duy mới và năng lực
mới trong xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển. Tư duy mới về
chính sách xóa đói giảm nghèo, trước hết là tư duy hệ thống tức là đặt vấn
đề đói nghèo trong chiến lược chuyển sang mô hình phát triển bền vững,
trongđó giải quyết vấn đề giặc đói giặc dốt phải đồng thời tạo điều kiện cho
nhau làm cho chính sách xóa đói giảm nghèo mang ý nghĩa là nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân được coi là trách nhiệm và mục tiêu của
Đảng.
4.2. Tư duy mới phải đi đôi với năng lực mới và phương pháp của
Đảng.

Trong tình hình hiện nay có những vấn đề lớn sau đây:
Thứ nhất tạo ra một bước phát triển chất lượng trong xây dựng nhà nước pháp
quyền với ba nội dung cơ bản: Mô hình tổ chức nhà nước, thể chế hoạt động,
vấn đề cán bộ, nhất là cấp trưởng. Muốn vật cần nhận thức đúng và đổi mới
mối quan hệ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, phân định rõ và công khai
về quyền hạn và trách nhiệm mỗi nhóm quyền lực.
Thứ hai: Nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp bằng cách thu hút tinh hoa
của dân tộc . Chức năng của quốc hội không chỉ lập pháp mà đặc biệt phải
giám sát cơ quan hành pháp bằng một tổ chức giám sát có quyền hạn rõ ràng,
trước hết nhằm chống tham nhũng lãng phí, một nguyên nhân gây ra đói
nghèo.
Thứ ba nâng cao và thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động
của nhà nước, kể cả trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo Đảng cần phải tăng
cường sự lãnh đạo của mình bằng cách phát huy vai trò tư vấn, phản biện và
giám định xã hội của các đoàn thể tổ chức xã hội, nhờ đó Đảng tăng thêm gấp
bội sức mạnh trí tuệ của mình, khác với phương thức chỉ sử dụng hoạt động
nội bộ cấp ủy để giải quyết vấn đề của toàn xã hội. Sự tổng kết của các thế hệ
trước về sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp dân tộc vẫn rất đúng cho
hiện nay “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
23


Đây chính là nguồn gốc của những giá trị có ảnh hưởng lâu dài của tư tưởng
Hồ Chí Minh, cách làm dựa vào dân vốn là kinh nghiệm thành công của Đảng
nay đang bị cản trở khá nhiều bởi cách làm hành chính quan liêu đã thành thói
quen của nhiều cán bộ công chức. Xây dựng và thực hiện chính sách xóa đói
giảm nghèo giai đoạn 2011- 2020 cũng không ngoài bài học ấy.

24



KẾT LUẬN
Đói nghèo là hiện tượng xã hội có tính lịch sử và phổ biến đối với mọi
quốc gia, dân tộc. Vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX như hiện nay,
trên hành tinh chúng ta vẫn còn hơn 1,5 tỷ người sống trong tình trạng đói
nghèo. Đó là một trong những trở ngại trầm trọng nhất, một thách thức gay
gắt đối với phát triển của thế giới hiện đại. Khắc phục hiện tượng này đang là
mối lo toan thường xuyên của các quốc gia ở mọi khu vực khác nhau trên trái
đất. Nó cũng đòi hỏi cộng đồng quốc tế nâng cao hơn nữa những nổ lực
chung của các chính phủ, thúc đẩy hoạt động hợp tác phối hợp nhiều lĩnh vực,
trước hết là lĩnh vực kinh tế - xã hội để cùng nhau giải quyết có hiệu quả vấn
đề có tính toàn cầu này.
Đối với nước ta xóa đói giảm nghèo, hướng tới xã hội phồn vinh về kinh
tế, lành mạnh về xã hội, kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, là
một vấn đề thời sự, búc xúc hiện nay. Xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là xóa đói
giảm nghèo về kinh tế ở nông thôn đối với các hộ nông dân, các vùng và vệt
nghèo là tiền đề kinh tế cần thiết để giữ vững ổn định chính trị và ổn định xã
hội, đảm bảo cho công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp
tục thực hiện và phát triển sâu r ộng trong phạm vi cả nước và mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Mục tiêu dân giàu nước mạnh,xã hội công bằng và văn minh, tự nó đã nói
lên tính tất yếu của xóa đói giảm nghèo. Phong trào xóa đói giảm nghèo trong
vài năm trở lại đây từ sự đi đầu của Thành Phố Hồ Chí Minh đã nhanh chóng
trở thành một phong trào quần chúng có ý nghĩa kinh tế - xã hội sâu rộng
trong cả nước. Đảng ta đặc biệt quan tâm tới xóa đói giảm nghèo không chỉ
đối với cộng đồng dân cư nông dân, nông thôn và trong khu vực kinh tế nông
nghiệp mà còn đối với các cộng đồng dân cư đô thị và mọi vùng, mọi miền
trên cả nước, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, các cơ sở cách mạng, các đối
tượng ưu tiên xã hội. Với đường lối đổi mới, chủ trương hòa nhập và mở cửa
25



×