Tải bản đầy đủ (.doc) (223 trang)

Quản lý nhà nước đối với khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 223 trang )

i

LỜI CẢM ƠN
Lời cảm ơn đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng PGS.TS. Nghiêm Sỹ
Thương, TS Nguyễn Văn Nghiến giảng viên Viện Kinh tế và Quản lý, Trường Đại
học Bách Khoa Hà Nội. Những người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt thời
gian thực hiện luận án, sự khuyến khích, động viên của thầy đã giúp tôi vượt qua
những khó khăn trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận án.
Tiếp theo, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo của Viện
Kinh tế và Quản lý, Đại học Bách Khoa Hà Nội và các thầy cô giáo của Đại học
Kinh tế quốc dân, những người đã giảng dạy, phản biện chuyên đề, luận án, giúp tôi
có định hướng rõ ràng hơn trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sự giúp đỡ và hỗ trợ của các thầy cô, cán bộ Viện Đào
tạo sau đại học, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội đối với tôi trong quá trình học
tập và thực hiện luận án.
Xin cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã hỗ trợ, động viên tôi trong suốt
thời gian thực hiện và hoàn thành luận án.
Xin chân thành cảm ơn !
Nghiên cứu sinh

NGUYỄN KHÁNH TƯỜNG


ii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, tài liệu, kết quả được nêu trong đề tài là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ
ràng, không trùng lắp hay sao chép bất cứ công trình khoa học nào đã công bố. Các
kết luận khoa học trong luận án là kết quả quá trình nghiên cứu của riêng tôi.


Nghiên cứu sinh

NGUYỄN KHÁNH TƯỜNG


iii

MỤC LỤC
DANH MỤC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT.......................................................iv
CHƯƠNG 1..................................................................................................................5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHU VỰC
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CAO ĐẲNG TƯ THỤC........................................................5


iv

DANH MỤC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
BGT-ĐT
CĐBC
CĐDL
CĐTT
ĐH-CĐCL
ĐH-CĐDL
ĐH-CĐNCL
GATS

Tiếng Việt

Tiếng Anh


GDĐH-CĐ
GDĐHCĐTT

Bộ Giáo dục và Đào tạo
Cao đẳng bán công
Cao đẳng dân lập
Cao đẳng tư thục
Đại học cao đẳng công lập
Đại học cao đẳng dân lập
Đại học cao đẳng ngoài công lập
Hiệp định chung về thương mại General Agreement
trong lĩnh vực dịch vụ
on Trade in Services
Giáo dục đại học cao đẳng
Giáo dục đại học cao đẳng tư thục

HDI

Chỉ số phát triển con người

HĐQT
HTĐHCĐTT
HTGDĐH-CĐ
ICT

Hội đồng quản trị
Hệ thống đại học cao đẳng tư thục
Hệ thống giáo dục đại học cao đẳng
Công nghệ thông tin và truyền Information Technology

and Communications
thông
Quỹ tiền tệ quốc tế
International
Monetary Fund
Kiểm định chất lượng giáo dục
Kinh tế thị trường
Ngân sách Nhà nước
Quản lý Nhà nước
Trung học phổ thông
Phòng Thương mại và Công nghiệp Vietnam Chamber of
Việt Nam
Commerce and Industry
Tổ chức thương mại thế giới
World Trade
Organization
Xã hội hóa giáo dục

IMF
KĐCLGD
KTTT
NSNN
QLNN
THPT
VCCI
WTO
XHH GD

Human Development
Index



v

DANH MỤC CÁC BẢNG
Số thứ tự

Tên bảng

Trang

DANH MỤC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT.......................................................iv
CHƯƠNG 1..................................................................................................................5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KHU VỰC
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CAO ĐẲNG TƯ THỤC........................................................5

DANH MỤC CÁC HÌNH
Số thứ tự
Hình 1.1.

Tên hình

Trang

Sơ đồ đào tạo nhân lực tại Việt Nam....Error: Reference source not
found

Hình 1.2

Hệ thống giáo dục Đại học – Cao đẳng của Việt Nam............Error:

Reference source not found

Hình 1.3.

Ảnh hưởng của những thay đổi trong nhu cầu về các dịch vụ giáo
dục...............................................Error: Reference source not found

Hình 1.4

Quản lý nhà nước với hệ thống các trường tư thụcError: Reference
source not found

Hình 2.1

Số lượng sinh viên đại học cao đẳng qua các năm.Error: Reference
source not found

Hình 2.2.

Số trường ĐH-CĐ giai đoạn 1981-2011.....Error: Reference source
not found

Hình 2.3

Cơ cấu các trường ĐH-CĐ năm 2008. .Error: Reference source not
found

Hình 2.4

Tổng số giảng viên giai đoạn 2000-2011....Error: Reference source

not found

Hình 2.5

Thống kê nhóm ngành nghề đào tạo.....Error: Reference source not
found


vi
Hình 2.6

Cơ cấu tổ chức trường ĐH tư thục tại Việt Nam.. .Error: Reference
source not found

Hình 2.7

Cơ cấu các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập..............Error:
Reference source not found

Hình 2.8

Thống kê số trường ĐH-CĐ giai đoạn 2000-2007.Error: Reference
source not found

Hình 2.9

Thống kê số trường ĐH-CĐ giai đoạn 2008-2011.Error: Reference
source not found

Hình 2.10


Số lượng và phân loại sinh viên cao đẳng theo loại hình 2001-2011
.....................................................Error: Reference source not found

Hình 2.11

Số lượng và phân loại sinh viên đại học theo loại hình 2001-2011
.....................................................Error: Reference source not found

Hình 2.12

Số lượng và phân loại giảng viên theo giới tính 2000-2007...Error:
Reference source not found

Hình 2.13

Số lượng và phân loại giảng viên theo giới tính 2008-2011.. .Error:
Reference source not found

Hình 2.14

Quy trình quản lý và kiểm định chất lượng Error: Reference source
not found

Hình 3.1

Xu hướng vận động của một số chỉ tiêu cần dự báo ...............Error:
Reference source not found

Hình 3.2


Sơ đồ mô hình quản lý nhà nước đối với khu vực GDĐHCĐTT
.....................................................Error: Reference source not found


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết, mục tiêu và nội dung nghiên cứu
Đối với bất kỳ nền kinh tế thị trường nào, khu vực tư nhân đóng vai trò không
thể thiếu và ngày càng quan trọng vì nó cho phép phát huy hết mọi nguồn lực trong
xã hội, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
lực của xã hội và do đó tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững trong bối cảnh
nguồn lực là hữu hạn.
Sự tham gia của khu vực tư nhân diễn ra không chỉ trong phạm vi các hoạt
động sản xuất kinh doanh đơn thuần mà còn lan truyền sang các hoạt động khác
như an ninh, văn hóa-nghệ thuật và giáo dục. Ở các quốc gia trên thế giới, trong hệ
thống giáo dục và đào tạo từ lâu đã ra đời, tồn tại và phát triển một hệ thống các
trường đại học cao đẳng tư thục, khu vực này đã đóng góp to lớn vào quá trình phát
triển của cả hệ thống đại học cao đẳng và trở thành một trong các nguồn cung cấp
nhân lực có trình độ cao cho nền kinh tế.
Ở Việt Nam hệ thống các trường đại học cao đẳng ngoài công lập được hình
thành và phát triển từ những năm 1990 và đã có những đóng góp rất quan trọng cho
sự nghiệp phát triển giáo dục nước nhà. Thực hiện chủ trương xã hội hóa sự nghiệp
giáo dục của Đảng và Nhà nước, ngành giáo dục và đào tạo đã sớm triển khai đa
dạng hóa các loại hình trường như bán công, dân lập, tư thục ở các cấp học và trình
độ đào tạo (gọi chung là cơ sở GD-ĐT ngoài công lập) nhằm đáp ứng nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, tạo điều kiện và cơ hội học tập và học tập suốt đời cho mọi người
dân. Các cơ sở GD-ĐT ngoài công lập cùng song song hoạt động với các cơ sở GDĐT công lập và có nghĩa vụ, quyền lợi bình đẳng như nhau.

Tuy nhiên ngoài những thành tựu có thể thấy khu vực này còn nhiều khiếm
khuyết, chưa hoàn toàn đáp ứng được những kỳ vọng của xã hội. Hệ thống Giáo
dục & đào tạo đại học cao đẳng ngoài công lập trong đó có khu vực giáo dục đại
học cao đẳng tư thục nói (GDĐHCĐTT) chưa bắt kịp được sự phát triển của nền
kinh tế, nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Nhiều trường có quy mô nhỏ, lĩnh
vực đào tạo hẹp (chủ yếu là các ngành đào tạo về quản trị kinh doanh, tin học, ngoại
ngữ), nhiều trường còn hoạt động một cách tạm bợ với cơ sở vật chất - kỹ thuật
nghèo nàn, đội ngũ giáo viên cơ hữu mỏng dẫn đến chất lượng đào tạo chưa đạt
chuẩn. Một trong những nguyên nhân có ảnh hưởng trực tiếp và to lớn đến hệ quả
trên chính là công tác quản lý nhà nước đối với hệ thống này.
Mặc dù được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, các bộ ngành có liên quan.
Nhưng nhiều nhà quản lý và các chuyên gia đều nhận thấy công tác quản lý nhà
nước đối với khu vực GDĐHCĐTT vẫn còn nhiều bất cập khiến cho hoạt động của


2
khu vực này chưa tương xứng với mong muốn của Chính phủ, cộng đồng và của
người dân. Xuất phát từ thực tiễn này, đề tài “Quản lý nhà nước đối với khu vực
giáo dục đại học cao đẳng tư thục ở Việt Nam” đã được hình thành với mục tiêu:
phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà
nước đối với khu vực GDĐHCĐTT ở Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục tiêu này, nội dung nghiên
cứu chính của đề tài bao gồm:
- Hệ thống hóa các vấn đề cơ bản đối với hệ thống giáo dục đại học cao đẳng tư
trong một quốc gia. Nghiên cứu kinh nghiệm của thế giới để rút ra bài học kinh
nghiệm.
- Nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước đối với khu vực GDĐHCĐTT ở
Việt Nam, các nhân tố mức độ ảnh hưởng của chúng đến hoạt động của khu vực
này trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
- Kiến nghị một số đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với

khu vực GDĐHCĐTT để khu vực này có thể hoạt động xứng đáng với kỳ vọng của
xã hội, góp phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với những nội dung nghiên cứu trên, đề tài “Quản lý nhà nước đối với khu
vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục ở Việt Nam” là một công trình nghiên cứu
cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo
dục của Đảng và Nhà nước.
Thông qua việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản lý nhà
nước và đề xuất được giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước, kết quả nghiên cứu
của đề tài có thể đóng góp một phần cho các nhà hoạch định chiến lược, các nhà
hoạch định chính sách giáo dục đại học trong việc xây dựng quy hoạch phát triển
khu vực GDĐHCĐTT ở nước ta, ban hành các chính sách và văn bản pháp lý có
liên quan cho sự hoạt động nhịp nhàng của khu vực này, trên cơ sở đó giám sát hiệu
quả hoạt động của toàn khu vực.
Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng là một đóng góp hữu ích cho các trường trong
khu vực GDĐHCĐTT để xây dựng và hoàn thiện quy chế hoạt động cho trường đại
học, cao đẳng tư thục. Xây dựng mô hình phù hợp cho các trường đại học, cao đẳng tư
thục phù hợp với từng ngành nghề đào tạo.

2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà
nước đối với khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục hiện nay ở Việt Nam. Phân
tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước ở lĩnh vực này, nhận diện những
điểm mạnh, điểm yếu để tìm ra nguyên nhân trên cơ sở đó có những giải pháp đề
xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với khu vực giáo dục đại học


3
cao đẳng tư thục.


3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Dưới góc độ của chuyên ngành kinh tế học, luận án
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với khu vực giáo dục đại học cao
đẳng ngoài công lập nói chung và tư thục nói riêng về công tác quản lý nhà nước
trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Luận án nghiên cứu trên địa bàn lãnh thổ Việt Nam nhưng
được đặt trong bối cảnh chung của quá trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
và đào tạo đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
- Thời gian nghiên cứu khảo sát thực trạng từ khi hình thành khu vực giáo dục
đại học cao đẳng tư ở nước ta (giai đoạn1988 - 2012). Tính toán dự báo giai đoạn
2014 - 2020 và tầm nhìn 2030 để đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
nhà nước đối với khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục ở Việt Nam.
- Luận án nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến hoạt động của các trường tư
thục trong cả nước.

4. Phương pháp luận nghiên cứu
Để thực hiện được các nhiệm vụ đề ra, phương pháp luận nghiên cứu có thể
được mô hình hóa như sau:
Nghiên cứu
lý thuyết

Xây dựng
tổng quan về
quản lý nhà nước
đối với HTĐHCĐTT

Nghiên cứu
tại thực tiễn


Phân tích, đánh giá
trên cơ sở đối chiếu
lý luận và thực tiễn

Thu thập thông tin về
thực trạng quản lý nhà
nước đối với
HTĐHCĐTT ở VN

Nhận dạng điểm mạnh, điểm
yếu, cơ hội và thách thức
của
lý nhà
đối với
 Trong quá trình nghiênquản
cứu,
luậnnước
án còn
sử dụng một số phương pháp
HTĐHCĐTT tại Việt Nam

nghiên cứu như phương pháp phân tích thống kê suy diễn, phương pháp tổng hợp
quy nạp, phương pháp đối chiếu so sánh, các phương pháp kiểm định của thống kê
học, hỗ trợ xử lý số liệu thông qua phần mềm EVIEWS 6.0 để tìm ra được các quan
Đề xuất giải pháp hoàn thiện
hệ tương tác ảnh hưởng củaQLNN
các nhân
tố HTĐHCĐTT
đến quản lý ởnhà nước trong lĩnh vực đào

đối với
tạo đối với khu vực đại học cao đẳng Việt
ngoàiNam
công lập (tư thục).
 Sử dụng phương pháp điều tra khảo sát các nhà quản lý trong và ngoài


4
ngành giáo dục như: Bộ GD&ĐT, các trường đại học cao đẳng công lập, dân lập, tư
thục, UBND các tỉnh thành phố, các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp có sử dụng
lao động trong phạm vi cả nước. Sau đó sử dụng những công thức trong thống kê
mô tả với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS để tính toán một số chỉ tiêu nhằm tìm ra
những điểm chung của các nhà quản lý trong công tác quản lý nhà nước đối với khu
vực GDĐHCĐTT.

5. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các bảng biểu, hình vẽ, và danh mục
tài liệu tham khảo; nội dung của luận án gồm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với khu vực giáo
dục đại học cao đẳng tư thục
- Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với khu vực giáo dục đại học
cao đẳng tư thục ở Việt Nam
- Chương 3: Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với khu vực giáo dục đại học
cao đẳng tư thục ở Việt Nam.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án đã có những đóng góp nhất định về ý nghĩa khoa học và thực tiễn về
quản lý nhà nước đối với khu vực GDĐHCĐTT. Để từ đó giúp cho các nhà quản lý
giáo dục, các nhà hoạch định chính sách có thể tham khảo nhằm đưa ra những quyết
sách quản lý tốt hơn trong thời gian tới.

 Ý nghĩa khoa học của luận án:
Thứ nhất: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ, bổ sung thêm vào
hệ thống cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với khu vực giáo dục đại học cao
đẳng tư thục.
Thứ hai: Sử dụng các phương pháp thống kê với sự hỗ trợ của phần mền
SPSS để tính toán kết quả khảo sát, phục vụ cho công tác quản lý nhà nước đối với
khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục.
Thứ ba: Xây dựng hàm hồi quy bằng phương pháp OLS với sự hỗ trợ của
phần mềm EVIEWS 6.0 để tính toán một chỉ tiêu chủ yếu, kết hợp với kết quả khảo
sát làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp.
 Ý nghĩa thực tiễn của luận án:
Thứ nhất: Đánh giá thực trạng tình hình hoạt động của khu vực giáo dục tư
thục. Chỉ ra được những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong quản
lý nhà nước đối với khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục.
Thứ hai: Xây dựng mô hình quản lý nhà nước đối với khu vực giáo dục đại


5
học cao đẳng tư thục mang đặc thù của Việt Nam, có tham khảo mô hình của một số
quốc gia phát triển trên thế giới.
Thứ ba: Đề xuất những giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về giáo dục đại
học, cao đẳng tư thục trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa. Có những khuyến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống này ở nước ta trong thời
gian tới.

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI KHU VỰC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CAO ĐẲNG TƯ
THỤC
1.1 HỆ THỐNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TƯ THỤC VÀ CÁC NHÂN TỐ

TÁC ĐỘNG


6
1.1.1 Sự hình thành và phát triển hệ thống trường đại học cao đẳng tư thục
1.1.1.1 Khái niệm Trường Đại học tư thục
Bất kỳ quốc gia nào cũng cần có nguồn nhân lực được đào tạo để thực hiện
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu mọi mặt ngày càng
cao của người dân. Hệ thống giáo dục quốc gia được hình thành nhằm đào tạo, huấn
luyện và cung cấp cho xã hội các chuyên gia, nhà quản lý và thợ lành nghề cho các
ngành và các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Xét theo bậc đào tạo, hệ thống giáo dục quốc gia bao gồm từ giáo dục mầm
non, giáo dục tiểu học, trung học đến giáo dục đại học - cao đẳng và dạy nghề. Nhìn
chung một cách chính thống, hệ thống giáo dục ban đầu được hình thành và vận
hành bởi các chính phủ. Tuy nhiên, mầm mống ban đầu của hệ thống giáo dục này
là giáo dục tư nhân tự phát, trong các gia đình, các cộng đồng nhỏ. Điều này xuất
phát từ yêu cầu sống còn của cuộc đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn và phát
triển của con người.
NHÂN LỰC ĐƯỢC ĐÀO TẠO

Giáo dục đại học và cao đẳng

Giáo dục nghề

Giáo dục trung học cơ sở và phổ thông

Giáo dục tiểu học
Giáo dục mầm non

NGƯỜI HỌC


Hình 1.1. Sơ đồ đào tạo nhân lực tại Việt Nam
Cùng với sự ra đời của nhà nước và sự phát triển của kinh tế xã hội, nhu cầu
nhân lực ngày càng cao cả về mặt số lượng và chất lượng, giáo dục tư nhân tự phát
không còn thích hợp và nhà nước cần phải nhận lãnh trách nhiệm hình thành và vận
hành hệ thống giáo dục quốc gia để đáp ứng nhu cầu này. Tuy nhiên do nguồn lực
của các chính phủ là hữu hạn và nhu cầu nhân lực lại rất lớn nên sự tham gia chính
thức của khu vực tư nhân là một tất yếu khách quan, kết quả là hệ thống giáo dục
quốc gia ngày nay được quản lý bởi chính phủ nhưng bao gồm cả khu vực nhà nước
và cả khu vực tư nhân.


7
Trên thế giới hiện nay, căn cứ vào tiêu chí quyền sở hữu, sự góp vốn và vai trò
của các sáng lập viên, người ta chia các trường đại học trên thế giới thành ba loại:
trường đại học công lập, trường đại học tư thục và trường đại học do các tổ chức tôn
giáo thành lập và quản lý. Tại các quốc gia khác nhau, tùy thuộc điều kiện kinh tế,
xã hội và lịch sử của mỗi nước, tầm quan trọng của mỗi loại trường này trong hệ
thống đào tạo quốc gia là rất khác nhau. Tại nhiều quốc gia Châu Âu như Áo, Đức,
Pháp, Thụy Sỹ hay Anh Quốc, các trường đại học tổng hợp hầu hết là công lập,
song được hưởng một chế độ tự trị, tự quản rất cao. Ngược lại, ở Hàn Quốc, Nhật
Bản hay Hoa Kỳ, các trường đại học tư thục chiếm vai trò và tỷ trọng lớn hơn,
nhiều trường đại học tư thục trong các quốc gia này có chất lượng hàng đầu thế
giới. Ở Hoa Kỳ, Châu Mỹ La tinh, và Philipines có những trường đại học được
thành lập và quản lý bởi các tổ chức tôn giáo. Ở các quốc gia khác, trong đó có cả
các quốc gia đang phát triển, từ gần ba thập kỷ nay người ta đã cho phép thành lập
các trường đại học tư thục.
Ở nước ta, trường đại học tư thục là cơ sở giáo dục đại học thuộc hệ thống
giáo dục quốc gia, do cá nhân hoặc một nhóm cá nhân là công dân Việt Nam xin
phép thành lập và tự đầu tư. Trường đại học tư thục có tư cách pháp nhân, có con

dấu và được mở tài khoản tại các ngân hàng hoặc kho bạc nhà nước để giao dịch.
Trường đại học tư thục bình đẳng với trường đại học công lập, bán công, dân lập về
nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường, của giảng viên và người học trong việc thực
hiện mục tiêu, nội dung, chương trình, tổ chức quá trình đào tạo, bao gồm tuyển
sinh, dạy và học, thi, kiểm tra công nhận tốt nghiệp, cấp văn bằng, chứng chỉ.
Theo quan điểm của Đảng và nhà nước được quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật có nêu “Trường đại học tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn huy động từ ngoài nguồn ngân
sách Nhà nước”. [49, tr.1]
Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, trường tư thục là trường do cá nhân,
nhóm cá nhân, tổ chức kinh tế xã hội đầu tư xây dựng và nuôi dưỡng nó để hoạt
động, nếu làm tường minh, tài sản của một trường tư thục thường thuộc nhiều dạng
sở hữu như: sở hữu tư nhân, sở hữu của cả cộng đồng nhà trường, sở hữu nhà nước
(nếu có), ví dụ như là sở hữu tài sản do nhà nước đầu tư qua các chương trình xây
dựng phòng thí nghiệm chuyên đề…
Ở các nước, các trường đại học tư thục lại chia thành hai loại, trường đại học
tư thục vì lợi nhuận - được tổ chức và hoạt động không khác các công ty đối vốn và
các trường đại học tư thục phi lợi nhuận, không được tổ chức như các công ty cổ
phần. Tại các quốc gia có hệ thống đào tạo đại học tiên tiến như Hoa Kỳ, các trường


8
đại học tư thục tuy được tổ chức và có tên gọi như các công ty, song là các công ty
hay tổ chức bất vụ lợi, không vì mục đích lợi nhuận, không được chia lãi, vì thế
trong điều lệ các trường tư thục loại đó không có khái niệm cổ đông, không chia cổ
tức cho người góp vốn như tại các công ty cổ phần. Sở dĩ có điều đó bởi pháp luật
các quốc gia này chia công ty thành hai loại, có những công ty vì lợi nhuận (doanh
nghiệp) và những công ty bất vụ lợi, hoạt động không vì lợi nhuận. Cách thức tổ
chức và chế độ thuế áp dụng cho hai loại công ty này rất khác nhau.

Như vậy, từ các quan điểm và thông tin trên, một cách chung nhất có thể hiểu:
“Trường đại học tư thục là cơ sở đào tạo do các tổ chức hay cá nhân đứng ra
thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất với nguồn kinh phí được huy động từ
nhiều nguồn khác nhau, hoạt động trong khuôn khổ luật pháp, nhằm đào tạo nhân
lực cho nhu cầu của xã hội với mục tiêu lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận”.
1.1.1.2 Các đặc điểm nổi bật của trường tư thục
Khái niệm về trường tư thục thường được sử dụng một cách lỏng lẻo, các nhà
nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách, các nhà giáo dục cũng như người dân
đôi khi sử dụng khái niệm này một cách không đồng nhất. Tuy nhiên, nhìn chung,
chúng ta có thể phân biệt khái niệm trường tư và trường công theo các tiêu chí sau
đây: (1) Quyền sở hữu (Vốn bằng tiền và bằng hiện vật ban đầu khi thành lập
trường); (2) Nguồn kinh phí hỗ trợ từ Nhà nước (Có hay không có sự hỗ trợ về vốn
của nhà nước); (3) Vì mục tiêu lợi nhuận hay phi lợi nhuận; và (4) Địa vị pháp lý
(theo văn bản pháp lý nào) và tư cách pháp nhân. Phần sau đây sẽ làm rõ hơn các
tiêu chí này.
(1) Quyền sở hữu
Chúng ta đều biết rằng cốt lõi của kinh tế thị trường là quyền sở hữu. Quyền
được hưởng trực tiếp lợi tức từ vốn đầu tư sẽ thúc đẩy việc đầu tư vào các nhà máy
hay cơ sở kinh doanh thương mại hoặc trường học, bệnh viện. Quyền được hưởng
thành quả lao động của bản thân sẽ thúc đẩy thị trường lao động và phân phối lợi
nhuận. Quyền chuyển nhượng tài sản là điều cần thiết cho việc sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực. Chỉ có thông qua sự chuyển nhượng này mọi loại quyền sở hữu mới
có thể đạt được giá trị sử dụng cao nhất của nó.
Cơ sở pháp luật cho các loại hình khác nhau của quyền sở hữu bắt nguồn từ
Hiến pháp. Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới từ lâu đã thừa nhận quyền sở
hữu tư nhân trên mọi phương diện của đời sống xã hội. Ở nước ta trước năm 1992,
Hiến pháp chỉ quy định hai thành phần cơ bản trong nền kinh tế quốc dân: (1) Kinh
tế quốc doanh đại diện cho quyền sở hữu toàn dân, và (2) Kinh tế tập thể. Thời đó,
cùng tồn tại với thành phần kinh tế tập thể là các hoạt động hạn chế của thành phần
kinh tế tư nhân trong lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Một



9
bước ngoặt đã diễn ra trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, tháng 4/1992
Quốc hội nước ta đã thông qua Hiến pháp mới cho phép quyền sở hữu tư nhân,
đồng thời tăng cường sự bảo hộ của nhà nước đối với sở hữu đó. Hiến pháp đã xác
lập ba hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân (sở hữu nhà nước), sở hữu tập thể
và sở hữu tư nhân.
Trên thực tế, quyền sở hữu tư nhân đối với các cơ sở dạy nghề đã bắt đầu rất
lâu trước khi sửa đổi Hiến pháp 1992. Bằng chứng của hoạt động dạy nghề tư nhân
là từ nhiều năm trước đó hàng loạt cơ sở dạy nghề đã ra đời và hoạt động tại thành
phố Hồ Chí Minh (khoảng hơn 200 cơ sở dạy nghề), Hà Nội, và Đà Nẵng. Mặc dù
vậy, cơ sở pháp luật rõ ràng cho quyền sở hữu và quyền chuyển nhượng tài sản tư
nhân vẫn chưa được khẳng định và thiết lập một cách rõ ràng. Điều này là cực kỳ
quan trọng vì:
- Thứ nhất: Sự công nhận chính thức của cơ quan luật pháp là tín hiệu cho các
chủ cơ sở dạy nghề và đầu tư tư nhân biết rằng hoạt động kinh tế thông qua phương
pháp dạy nghề được chính thức thừa nhận.
- Thứ hai: Trên cơ sở của sự thừa nhận chính thức này, các cá nhân, tập thể
muốn thành lập trường tư trong GDĐH-CĐ có thể dựa vào sự bảo vệ của luật pháp
đối với các hoạt động giáo dục đào tạo.
(2) Nguồn kinh phí hỗ trợ từ nhà nước
Thông thường các nước chỉ quy định hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu
nhà nước và sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, do sự cần thiết phải phục hồi và củng cố
các quyền sở hữu tư nhân nên quyền sở hữu tư nhân đã được mở rộng có thể là một
hộ gia đình, một tổ chức xã hội, một tổ chức tôn giáo, một tổ chức đoàn thể. Cũng
từ đó, tương ứng với hai hình thức sở hữu cơ bản này, trong giáo dục có hai khái
niệm trường công và trường tư.
Trường công được hỗ trợ hàng năm từ nguồn kinh phí của nhà nước, còn đối
với trường tư việc hỗ trợ kinh phí từ ngân sách hầu như không có, nếu có chỉ thông

qua các dự án, các chương trình theo đơn đặt hàng của nhà nước.
Sự cần thiết của loại hình trường công, hay nói cách khác, sự cần thiết tài trợ
của xã hội dưới danh nghĩa nhà nước đối với giáo dục đào tạo, xuất phát từ các đặc
tính quan trọng sau đây của giáo dục trong nền kinh tế thị trường:
- Đặc tính phương tiện sản xuất có tính chất vô hình. Trong giáo dục đào tạo
phương tiện sản xuất có tính vô hình, chứ không phải hàng hóa dùng thỏa mãn nhu
cầu tiêu dùng. Điều này buộc người được giáo dục đào tạo phải có ý thức đầu tư.
- Đặc tính của hàng hóa chung (hàng hóa công cộng) hay lợi ích tỏa ra. Lợi
ích của giáo dục đào tạo không chỉ thu gọn vào thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của
người được giáo dục đào tạo, mà còn thỏa mãn lợi ích của toàn xã hội hay ít nhất


10
một số người khác kể cả những người không muốn được giáo dục đào tạo (không
chịu đi học).
- Đặc tính không thể tăng năng suất lao động của người làm thầy giáo như
tăng năng suất lao động sản xuất các loại hàng hóa thông thường khác.
Tuy nhiên, sự cần thiết của loại hình trường tư, tức là sự tham gia của khu vực
tư nhân trong giáo dục đào tạo cũng là một tất yếu khách quan vì:
- Nhà nước không thể có đủ mọi nguồn lực để trực tiếp đảm đương việc cung
cấp tất cả các hàng hóa công cộng (trong đó có giáo dục đào tạo), trong khi khu vực
tư nhân lại có sẵn những nguồn lực nhất định cần được khai thác.
- Ngoài ra, mức độ hiệu quả của khu vực tư nhân trong nhiều trường hợp
được coi là cao do các động lực cá nhân về lợi nhuận, danh tiếng cũng như lòng tự
trọng, và cả ý thức tuân thủ pháp luật [37].
(3) Trường tư vì lợi nhuận và phi lợi nhuận
Trong nền kinh tế thị trường, trường tư là một thực thể trên thị trường, nó phải
đầu tư vốn và tài sản để hoạt động giáo dục đào tạo nhằm mục đích sinh lợi. Vì vậy
điều kiện cơ bản đầu tiên của việc thành lập trường tư là người hay tập thể lập
trường tư phải có tài sản. Tài sản đưa vào để lập trường tư có thể là: (1) Vốn bằng

tiền; (2) Tài sản bằng hiện vật dùng để đầu tư ban đầu khi lập trường. Đương nhiên
các tài sản đó phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đứng ra lập trường tư.
Như vậy với tư cách là một người kinh doanh, người lập trường tư phải đầu tư một
số tài sản, thuê mướn, sử dụng sức lao động để tiến hành hoạt động giáo dục đào
tạo, đồng thời thực hiện việc thu học phí nhằm thu hồi vốn đã đầu tư, trang trải các
chi phí đào tạo và có lãi.
Tuy nhiên trên thực tế nhiều khi mục tiêu của đầu tư giáo dục không hẳn là
sinh lợi. Nhiều cá nhân, đặc biệt là các hiệp hội, thành lập trường tư không nhằm
mục đích “kiếm lời” mà nhằm mục đích nhân đạo, với mong muốn đơn thuần là
truyền thụ sự giáo dục cho mọi người. Đối với các loại hình trường tư không kinh
doanh này, thông thường người ta thêm thuật ngữ “phi lợi nhuận” (non-profit) hoặc
“không vụ lợi” (not-for-profit). Đương nhiên không vụ lợi không có nghĩa là không
có lợi nhuận. Loại hình trường tư này hoạt động không lấy mục tiêu lợi nhuận làm
trọng và số chênh lệch giữa toàn bộ nguồn thu trừ đi chi phí cần thiết của giáo dục
đào tạo, được nhập vào “quỹ hội” (quỹ chung của trường). Toàn bộ quỹ này chỉ
dùng để phát triển giáo dục đào tạo của trường mà thôi [37].
Một cách tiếp cận khác để phân biệt trường công và trường tư là dựa vào cách
tính thuế thu nhập. Nếu một trường do một người hoặc một gia đình thành lập và
thu lợi, thì nó giống như một doanh nghiệp tư nhân, nếu một trường do một nhóm
người thành lập và thu lợi thì đây chính là một công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo
chính sách Nhà nước thì loại trường theo đuổi mục tiêu lợi nhuận phải nộp thuế thu


11
nhập doanh nghiệp trước khi chia lãi cho nhà đầu tư. Loại thứ hai là loại trường phi
lợi nhuận, loại trường này "lợi nhuận" nếu có không phân phối cho người góp vốn,
mà được dùng để tái đầu tư mở rộng giáo dục đào tạo. Và theo chính sách Nhà nước
thì loại trường này không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
(4) Địa vị pháp lý của trường tư thục
ĐH-CĐTT ở bất cứ một quốc gia nào cũng là một chủ thể pháp luật độc lập.

Muốn tham gia vào các quan hệ xã hội, trường phải có một địa vị pháp lý nhất
định để xác định ranh giới của nó trong mối quan hệ với các chủ thể pháp luật
khác. “Địa vị pháp lý của một chủ thể pháp luật là tổng thể các quyền và nghĩa
vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể
trong hoạt động của mình”.
Như vậy, địa vị pháp lý của một chủ thể pháp luật chính là “áo khoác pháp lý”
cho nó, giúp khách hàng, đối tác của chủ thể đó nhận dạng được mình sẽ, đang quan
hệ với loại chủ thể nào, quyền, nghĩa vụ của chủ thể đó ra sao để rồi họ quyết định
có tiếp tục có quan hệ với chủ thể đó hay không. Việc thiết kế một “áo khoác pháp
lý” cho tất cả các chủ thể pháp luật trong đó có ĐH-CĐTT khi họ tham gia vào
quan hệ pháp luật là hết sức cần thiết.
“Áo khoác pháp lý” của trường đại học cho phép sinh viên, đối tượng quan
trọng nhất của bất cứ một trường đại học nào biết được nơi mà họ sắp ghi danh có
quy chế pháp lý thế như nào, đây là cơ sở đào tạo vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận;
quyền lợi của họ được bảo vệ ra sao; để từ đó họ có thể lựa chọn cơ sở đào tạo thích
hợp. Tương tự như vậy, đối với bản thân những người chủ sở hữu của ĐH-CĐTT,
họ cũng cần biết nếu theo mô hình lợi nhuận hay phi lợi nhuận thì trường đại học
của họ có những lợi thế hoặc bất lợi gì. Đối với các cơ quan quản lý hay đối tác của
trường tư thục, việc biết đại học này khoác “áo khoác pháp lý” nào cũng rất cần
thiết. Nếu là mô hình phi lợi nhuận thì chính sách thuế của Nhà nước sẽ khác với
mô hình lợi nhuận ở chỗ nào? Nếu là mô hình lợi nhuận thì cơ chế kiểm soát tài
chính, cơ chế kiểm toán có khác gì không so với mô hình phi lợi nhuận? Cơ chế vay
vốn của các ngân hàng có khác hay không đối với hai mô hình này…
Địa vị pháp lý của các trường ĐH-CĐTT bao gồm tất cả những quy định của
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của trường. Đây là vấn đề rộng được quy định ở
nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Các nghiên cứu cho thấy địa vị pháp lý của
trường ĐH-CĐTT thể hiện ở hai mặt cơ bản sau:
- Trường ĐH-CĐTT có địa vị pháp lý như trường đại học công lập. Trong
hệ thống giáo dục của một quốc gia ĐH-CĐTT là một thành viên có tư cách pháp
nhân, có con dấu và được mở tài khoản tại các ngân hàng, kho bạc nhà nước.

Trường có địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, nghĩa vụ và quyền lợi như các


12
trường đại học công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân. Điều này khẳng đinh
trường ĐH-CĐTT có đầy đủ quyền và nghĩa vụ như các trường đại học công lập.
Những quy định đó thể hiện chính sách công bằng, bình đẳng trước pháp luật, Nhà
nước khuyến khích và bảo hộ những quyền và lợi ích hợp pháp của các trường tư
thục, đề cao tính tự chủ nhưng phải tuân thủ pháp luật, nhằm tạo điều kiện cho
trường ĐH-CĐTT phát triển, phát huy vai trò trong sự nghiệp xã hội hóa.
- Trường ĐH-CĐTT có địa vị pháp lý của một công ty cổ phần. Trường
ĐHTT do các cá nhân, tổ chức thành lập, đầu tư xây dựng cơ cở vật chất và bảo
đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước; hoạt động theo nguyên
tắc tự nguyện góp vốn, tự chủ về tài chính, tự cân đối thu chi, thực hiện các quy
định của pháp luật về chế độ kế toán, thống kê, nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.
Từ đó cho thấy trường ĐH-CĐTT có địa vị pháp lý như là một doanh nghiệp, có
hình thức tổ chức và hoạt động giống công ty cổ phần.
Vấn đề đặt ra ở đây là nếu xác định là một doanh nghiệp thì mục đích là
kinh doanh sinh lợi, theo Khoản 1, Điều 4 Luật doanh nghiệp: Kinh doanh là
việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu
tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi. Trong điều kiện kinh tế thị trường và chủ trương xã hội
hóa giáo dục chúng ta cần chấp nhận việc cho phép trường ĐH-CĐTT hoạt động
theo mục đích sinh lợi. Khi các tư nhân bỏ tiền vào đầu tư trong lĩnh vực giáo
dục, thì họ phải thu được hưởng lợi từ đầu tư đó. Vấn đề là Nhà nước sẽ quản lý
chặt chẽ về nội dung, chất lượng, chương trình đào tạo, những trường ĐH-CĐTT
không đáp ứng được yêu cầu chất lượng và giá cả cạnh tranh (học phí) thì sẽ bị
xã hội đào thải theo quy luật thị trường.
1.1.1.2 Tính tất yếu của sự hình thành và phát triển khu vực giáo dục đại
học cao đẳng tư thục

Có thể nói sự hình thành và phát triển của khu vực GDĐHCĐTT tại Việt Nam
cũng như hầu thế các quốc gia khác trên thế giới là một thực tế tất yếu nhằm phát
huy tối đa mọi nguồn lực trong xã hội, giảm bớt gánh nặng về ngân sách nhà nước
cho GDĐT để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đối với nguồn nhân lực
và thỏa mãn nhu cầu được đào tạo của người học để tìm kiếm việc làm trên thị
trường lao động.
Với số lượng sinh viên đại học và cao đẳng là rất lớn, hầu như không có quốc
gia nào trên thế giới đủ ngân sách để bao cấp hoàn toàn cho giáo dục và đào tạo,
nên việc huy động các nguồn kinh phí ngoài nhà nước cho GDĐH-CĐ trở thành
chủ trương phổ biến của nhiều quốc gia trên thế giới, và công cuộc tư nhân hóa
GDĐH-CĐ đã phản ánh xu hướng đó.


13
Thực tế chỉ rõ rằng các cơ sở đào tạo tư nhân có năng lực tiềm tàng to lớn để
góp phần hiện thực hóa các mục tiêu nhiệm vụ của nhà nước giao cho họ. Các cơ sở
tư thục có thể tăng nguồn lực cho giáo dục bằng cách huy động các đóng góp tư
nhân (kể cả người học) bổ sung thêm cho nguồn tài chính do nhà nước cung cấp.
Các cơ sở này có thể tăng cường tính đa dạng cho cả hệ thống và vì vậy tăng khả
năng lựa chọn và đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Ngoài ra, khu vực
GDĐHCĐTT còn có khả năng thích ứng tương đối nhanh với những thay đổi và do
đó tăng cường tính đáp ứng của toàn bộ hệ thống. Nghiên cứu của ngân hàng thế
giới cũng chỉ ra rằng các HTĐH-CĐ tư là nguồn bổ sung quan trọng cho HTĐHCĐ công, có thể đáp ứng những nhu cầu của sinh viên và người thuê nhân công một
cách có hiệu quả và mềm dẻo.
Như vậy cả HTĐH-CĐ ngoài công lập và công lập đều cung cấp học vấn đại
học, nghề nghiệp cho người học và người sử dụng, nhưng mỗi khu vực thực hiện
một số công việc có sự khác biệt nhất định và việc đáp ứng nhu cầu người học,
người sử dụng cũng có sự khác biệt. Sự xuất hiện và phát triển của khu vực tư thục
trong hệ thống giáo dục nhằm bổ trợ những khiếm khuyết cho khu vực công lập. Về
mặt kinh tế xã hội, đóng góp của khu vực tư thục giúp xã hội đạt được bốn mục tiêu

sau đây:
- Giảm bớt gánh nặng cho công quỹ, giải phóng nguồn lực để phát triển số
lượng hay nâng cao chất lượng của các cơ sở đào tạo.
- Tăng cường hiệu quả trong các trường công lập bằng cách khuyến khích ý
thức về phí tổn và sử dụng tốt hơn các nguồn lực.
- Tăng cường trách nhiệm của các cơ sở đào tạo bằng các mối liên kết hệ
thống giáo dục ĐH-CĐ với các ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ….
- Tăng tính công bằng vì những người được hưởng giáo dục phải đóng góp
vào những chi phí đó.
1.1.2. Vị trí và đặc điểm của đại học, cao đẳng tư thục trong hệ thống
giáo dục của một quốc gia
1.1.2.1. Vị trí của ĐH-CĐTT trong hệ thống giáo dục
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có hệ thống giáo dục tư nhân tồn tại
song song với hệ thống giáo dục công lập. Nhưng do sự khác biệt về chế độ chính
trị, chính sách của nhà nước, và mức quan tâm của cộng đồng xã hội nên vị trí của
hệ thống giáo dục tư thục trong tổng thể hệ thống giáo dục quốc gia sẽ có sự khác
nhau nhất định. Ở các quốc gia thuộc Trung Đông và một số quốc gia ở Châu Á, hệ
thống đại học tư đã phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực đào tạo nghề. Đối với
Nhật và Hàn Quốc, sự phát triển gần đây của hệ thống giáo dục đại học chủ yếu


14
nằm ở khu vực tư nhân. Ba Lan cũng là một ví dụ điển hình ở Châu Âu về sự phát
triển hệ thống đại học tư.
Hệ thống giáo dục
Đại học – Cao đẳng

Cơ sở giáo dục ĐH –
CĐ công lập


Đại học
quốc gia –
Đại học
vùng

TrườngĐH
-CĐ Trực
thuộc Bộ
GDĐT

Trường
ĐH-CĐ,
Học viện
ngành

Cơ sở giáo dục ĐH –
CĐ ngoài công lập

Trường
ĐH-CĐ
cộng đồng

Trường
ĐH-CĐ
dân lập

Trường
ĐH-CĐ tư
thục


Các trường
ĐH-CĐ
bán công

Nguồn: Tác giả phục vụ cho nghiên cứu
Hình 1.2 Hệ thống giáo dục Đại học – Cao đẳng của Việt Nam
Ở nước ta hiện nay, hệ thống giáo dục đại học cao đẳng cũng bao gồm các
trường công và trường tư. Điểm khác biệt là trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường là thời gian đầu, nhà nước đã
cho phép tồn tại các loại hình trường công lập và ngoài công lập, tuy nhiên, hiện
nay đang tiến dần đến mô hình chỉ gồm hai loại hình trường là công lập và tư thục
để phù hợp với xu hướng chung ở các nước.
1.1.2.2. Đặc điểm khu vực GDĐHCĐTT
Hệ thống đại học cao đẳng tư thục là một bộ phận của hệ thống giáo dục ĐHCĐ, nó là bậc học đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, bao gồm các nhà khoa
học, các chuyên gia, kỹ sư và những cán bộ chuyên môn kỹ thuật ở các trình
độ khác nhau. Giáo dục không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và vì vậy,
không trực tiếp tạo ra các sản phẩm vật chất. Tuy nhiên, theo phân công lao động
xã hội, GĐĐH-CĐ là nơi duy nhất có đủ điều kiện và đủ khả năng cung cấp nguồn
nhân lực kỹ thuật chất lượng và trình độ chuyên môn cao cho nền kinh tế, làm gia
tăng giá trị cho mỗi cá nhân thông qua việc trang bị cho họ tài khéo léo, sự hiểu
biết để làm ra nhiều của cải vật chất hơn cho bản thân và cho xã hội, gắn liền với
sự bảo đảm quyền được sống và được làm việc với năng suất lao động cao hơn
của mỗi người. Có thể tổng kết một số đặc điểm chính của hệ thống giáo dục đại
học - cao đẳng tư thục như sau.
Chức năng của giáo dục đại học - cao đẳng. GĐĐH-CĐ có ba chức năng quan


15
trọng. Trước hết, nó bảo tồn các nền văn hóa và tri thức nhân loại, tái tạo hoặc
phản biện ý thức hệ chi phối của quốc gia. Thứ hai, lựa chọn những người ưu tú

giới thiệu cho xã hội và cuối cùng là sáng tạo ra kho tàng tri thức mới. GĐĐHCĐ không chỉ cải thiện những lựa chọn cá nhân sẵn có cho tất cả mọi người, mà
còn tạo ra một lực lượng lao động có năng lực sáng tạo, biết chắt lọc và áp
dụng các tri thức thu được từ kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học vào
sản xuất và đời sống, góp phần làm tăng năng suất lao động và nâng cao mức sống
cho toàn bộ các thành viên trong xã hội, góp phần xóa bỏ khoảng cách thu nhập
giữa người giàu và người nghèo thông qua việc trang bị cho người học những tri
thức và kỹ năng cần thiết để làm việc.
Giáo dục đại học - cao đẳng với tư cách là phương tiện . GĐĐH-CĐ nói
chung và khu vực GDĐHCĐTT nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự
phồn thịnh của một nền kinh tế hiện đại, đó là nền “kinh tế tri thức”, nó ngày
càng có ý nghĩa quyết định đến sự thịnh vượng của nhân loại trong tương lai [ 17,
tr.227-237]; là phương tiện phát triển riêng của mỗi cá nhân, phương tiện xây
dựng nền văn hóa, chia sẻ truyền thống và cung cấp sức mạnh cho xã hội nói
chung. Là một phương tiện tích lũy tài sản và khả năng cạnh tranh của cá nhân
và xã hội.
Lợi ích lan tỏa hay lợi ích tràn xã hội của giáo dục đại học-cao đẳng. Một đặc
trưng riêng có của sản phẩm dịch vụ GDĐH-CĐ là lợi ích lan tỏa (hay còn gọi là lợi
ích tràn xã hội) không chỉ bản thân cho người học mà cho cả cộng đồng, do vậy khu
vực GDĐHCĐTT cũng không loại trừ hiệu ứng đó. Bởi vì những sản phẩm dịch vụ
GDĐH-CĐ với trình độ cao này có thể sẽ đem lại những thành tựu khoa học công
nghệ vượt bậc, đưa năng suất lao động tăng cao một cách đột biến hoặc tạo ra
những sản phẩm tiêu dùng có hàm lượng chất xám cao. Ngoài ra, loại sản phẩm của
dịch vụ này là những người công dân có ích với chính mình, có trách nhiệm với
gia đình, xã hội và quốc gia. Những sản phẩm như vậy được gọi là loại hàng hóa
có ngoại biên thuận. Nó không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân mà còn cho cả
xã hội và lợi ích xã hội luôn luôn lớn hơn lợi ích cá nhân. Tổng lợi ích xã hội sẽ
tăng lên nếu như loại sản phẩm này được sản xuất nhiều hơn. Đối với các lợi ích
của xã hội có được từ giáo dục đại học, ngoài cá nhân và gia đình, xã hội phải nhận
được những lợi ích này. Rất khó để xác định, định lượng và tính toán những lợi ích
đó. Do đó có rất nhiều tranh luận và sự phỏng đoán về việc chúng có tồn tại không

và tại sao chúng tồn tại trong giáo dục đại học [1, tr 86]
Giáo dục đại học - cao đẳng với tư cách là một quan hệ sản xuất xã hội.
GĐĐH-CĐ nói chung và khu vực GDĐHCĐTT nói riêng có nội dung của quan hệ
sản xuất xã hội, bởi vì giá cả dịch vụ này trong KTTT không hoàn toàn phản ánh
sự khan hiếm mà nó phụ thuộc vào một số yếu tố sau:


16
- Trước hết, cung và cầu của nó thường phụ thuộc vào sự khác biệt về mức
lương hay thu nhập (giữa người có và không có văn bằng đại học).
- Tiếp theo là khả năng thành công trong việc tìm kiếm công ăn việc làm
trong khu vực công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, thương mại hoặc một loại dịch
vụ nào đó (tỷ lệ thất nghiệp của người có hoặc không có văn bằng đại học).
- Sau nữa là các chi phí trực tiếp liên quan đến giáo dục (chẳng hạn như học
phí và lệ phí).
- Cuối cùng là chi phí cơ hội hay chi phí gián tiếp liên quan đến giáo dục
(số tiền người sinh viên có thể thu được nếu không đi học).
Giáo dục đại học - cao đẳng với tư cách là một hàng hóa đặc biệt. GĐĐH-CĐ
nói chung và khu vực GDĐHCĐTT nói riêng còn là một loại hàng hóa đặc biệt vì
có những đặc tính của hàng hóa (lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích cá nhân, có tính bền
vững đi theo suốt cuộc đời con người và người mua cuối cùng cũng là người tiêu
thụ). Trong KTTT có thể xảy ra các tình huống sau: (1) Vì mục tiêu lợi nhuận
ngắn hạn, một số cơ sở đào tạo có thể cung cấp những người tốt nghiệp thiếu chất
lượng; (2) KTTT có thể sẽ làm cho một bộ phận người trở lên nghèo hơn nên
không có khả năng chi trả học phí, mặc đù có năng lực học tập. Cho dù trường hợp
nào đi nữa xảy ra, để vừa hạn chế các tổn phí giao dịch trong thị trường lao động
do chất lượng đào tạo thấp, vừa bảo đảm cơ hội học tập đại học ngang nhau
cho mọi cá nhân trong xã hội, hệ thống giáo dục phải có sự can thiệp của nhà
nước. Nói khác đi, xét dưới ý niệm công bằng xã hội, sản phẩm giáo dục là một
hàng hóa mà chính phủ phải can thiệp mạnh mẽ vào thị trường thông qua các biện

pháp như: Tài trợ trực tiếp cho đào tạo, nghiên cứu khoa học; khuyến khích tư nhân
(kể cả tư nhân nước ngoài) đầu tư phát triển GĐĐH-CĐ, nhất là đưới hình thức
không vụ lợi và điều tiết chất lượng kể cả lĩnh vực công cũng như tư.
Giáo dục đại học - cao đẳng với tư cách là một dịch vụ. Trong nền KTTT,
GĐĐH-CĐ nói chung và GDĐH-CĐ tư thục nói riêng được thực hiện dưới hình thức
cung cấp sức lao động của các giáo sư, giảng viên cho người học và người học mua
lao động của người dạy bằng phí, học phí, hoặc đóng thuế để nhà nước trả công, trả
lương cho họ. Dưới góc độ phân công lao động xã hội trong nền sản xuất hàng hóa,
loại lao động giảng dạy của các giáo sư, giảng viên không sản xuất ra tư bản. Theo
K.Marx, đó là loại lao động phi sản xuất và khi trao đổi, nó được mua-bán như một
dịch vụ và hàng hoá thông thường. Như vậy, sản phẩm GĐĐH-CĐ là một loại dịch
vụ và nó có đầy đủ tính chất kinh tế như các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ khác.
Thị trường dịch vụ GĐĐH-CĐ có một số ưu điểm chính sau:
- Một là, cơ chế thị trường làm cho dịch vụ GĐĐH-CĐ đáp ứng tốt hơn nhu
cầu của phát triển kinh tế - xã hội. Sự ra đời của thị trường dịch vụ GĐĐH-CĐ từng
bước giảm bớt sự tham gia trực tiếp của chính phủ trong hoạt động điều hành


17
trường đại học; chuyển quyền ra quyết định từ bộ, trường và khoa sang sinh viên và
gia đình; gắn kết các trường đại học với nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp
thông qua cơ chế đặt hàng đào tạo, thành lập trường đại học trong các công ty lớn
hay lập các công ty dịch vụ hoặc kinh doanh bên trong trường đại học, đồng thời
các giáo sư, giảng viên đại học có thể làm việc bán thời gian ở các doanh nghiệp...
- Hai là, cơ chế thị trường làm cho hệ thống giáo dục có khả năng thích nghi
và sáng tạo hơn. Một phần tài chính đại học được chia sẻ từ cha mẹ sinh viên hoặc
sinh viên những người được hưởng lợi cuối cùng của loại hình dịch vụ này.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, thị trường dịch vụ sản phẩm GĐĐH-CĐ cũng đầy
rẫy những rủi ro và bất trắc. Nó có thể làm xói mòn trách nhiệm xã hội, văn hóa và
các mục tiêu của nó. Vì nó chỉ đáp ứng các lợi ích và chi phí mà thực tế xuất

hiện trong quan hệ cung - cầu của người mua và người bán nên trong ngắn hạn, với
việc tập trung vào hướng nghiệp và nghiên cứu ứng dụng, nó có thể phá hỏng
các mục tiêu và giá trị của giáo dục tự do và những tìm tòi lý thuyết cơ bản. Cơ
chế giá trong thị trường dịch vụ GĐĐH-CĐ có thể dễ bị bóp méo.
Các loại hình dịch vụ giáo dục đại học - cao đẳng. Mong đợi của chúng ta có
thực tế với các loại hình dịch vụ mà giáo dục đại học cần cung cấp không, tất nhiên
là đúng. Một nền công nghiệp có thể sản xuất ra bất cứ loại hình dịch vụ hỗn hợp
nào mà xã hội chúng ta muốn sản xuất. Vấn đề kinh tế quan trọng có liên quan đến
việc các cơ sở đào tạo này đáp ứng mong muốn và nhu cầu của xã hội về dịch vụ
này như thế nào. Phân tích kinh tế đưa ra câu hỏi là cơ cấu hiện tại của các trường
đại học cho phép họ đáp ứng các yêu cầu xã hội như thế nào. Nhìn chung, thông
qua hệ thống kinh tế, người sử dụng đăng ký nhu cầu hàng hóa dịch vụ của họ theo
cách mà họ sử dụng khả năng mua hàng của họ. Những nhà cung cấp dịch vụ phản
ứng lại các mức giá. Đây không phải là cách mà sự kết hợp giữa các chương trình
do các trường đại học và cao đẳng cung cấp được xác định.
Các trường đại học và cao đẳng ít khi hoặc không sử dụng hệ thống giá hoặc
các lực lượng thị trường trong việc xác định những chương trình mà họ sẽ cung cấp.
Họ thường cố gắng cung cấp những gì họ cho rằng xã hội có nhu cầu – kinh doanh,
cơ khí, tin học, v.v…Tất nhiên, mong muốn của sinh viên và gia đình họ phải được
xem xét; nếu không sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ nhập học. Ngoài ra, những đề nghị của
cơ quan lập pháp cũng rất quan trọng. Cơ quan này có thế cắt các khoản hỗ trợ để
mở rộng những chương trình mà đa số các thành viên không thông qua. Trong các
trường tư, những nhà tài trợ chính có ảnh hưởng tới việc lựa chọn chương trình, tuy
nhiên, lợi ích của sinh viên và gia đình có con theo học được coi là quan trọng nhất,
vì đó chính là nguồn thu chủ yếu của nhà trường [1, tr.98].
Hệ thống giá trị bỏ qua hoàn toàn hoặc không được tính đến trong việc xác


18
định những ưu tiên của chương trình vì hầu hết các trường đại học và cao đẳng áp

dụng mức giá (học phí) giống nhau đối với tất cả sinh viên, bất kể là chương trình
gì. Những người quản lý và các khoa trong trường đại học và cao đẳng, nhà lập
pháp, và bản thân sinh viên tin rằng đây chính là cách hợp lý để vận hành hệ thống.
Tuy nhiên một sự phản ánh nhỏ sẽ bộc lộ sự thiếu hiệu quả của nó.
Sự khác biệt về giá dựa trên sự khác biệt trong nhu cầu ví dụ xét hai
chương trình đào tạo đại học, quản trị kinh doanh và nông nghiệp. Giả sử ban đầu
sinh viên có nhu cầu về chương trình nông nghiệp được thể hiện bằng D a1Da1 trong
Hình 1.3. Chi phí cho một người một năm bao gồm tất cả các chi phí trừ các chi phí
vô hình đối với sinh viên cho một năm của chương trình. Đường cầu cho chương
trình nông nghiệp sẽ dốc xuống dưới về phía bên phải giống như hầu hết các đường
cầu – giá của chương trình càng thấp, thì sinh viên sẽ có nhu cầu nhiều năm hơn.
Đường cung Sa1Sa1 của chương trình nông nghiệp sẽ dốc lên trên về bên phải.
Trường đại học thu được càng nhiều tiền một năm từ việc bán các chương trình, thì
họ càng thu hút được nhiều nguồn lực hơn và sử dụng để mở rộng chương trình.
Đường cầu Db1Db1, và đường cung Sb1Sb1, đối với chương trình quản trị kinh doanh
về mặt lý thuyết giống như đối với chương trình nông nghiệp. Bây giờ tạm bỏ qua
đường Db2 Db2. Giả sử rằng do một sự trùng lắp, thì đường cung và đường cầu ban
đầu cho cả hai chương trình có các mức giá giống nhau; đó là P a1 tương đương với
Pb1. Mức độ của chương trình lần lượt là sa1 và sb1.
Bây giờ, để nhu cầu sinh viên trong chương trình quản trị kinh doanh tăng
ngang bằng với chương trình nông nghiệp, đường cầu quản trị kinh doanh di chuyển
tới Db2Db2, và đường cầu nông nghiệp di chuyển tới Da2Da2. Những tác động của việc
duy trì giá cân bằng cho hai chương trình là gì? Tại mức giá P b1, các trường đại học
không thể mở rộng chương trình quản trị kinh doanh và không có khả năng chi trả
các chi phí để làm như vậy. Việc thiếu cán bộ và cơ sở vật chất để giảng dạy quản
trị kinh doanh sẽ xảy ra. Các lớp học sẽ lớn hơn và phòng học sẽ chật chội hơn.
Chất lượng giáo dục sẽ bị giảm. Trong chương trình nông nghiệp, tại mức giá P a1
quy mô lớp học sẽ giảm xuống và các cơ sở vật chất sẽ ít bị sử dụng tối đa hơn. Có
sự dư thừa về cán bộ và thiết bị giảng dạy. Việc thiếu hoặc thừa những loại hình
này là phổ biến trong các trường đại học và cao đẳng hiện nay. Chúng thể hiện sự

thiếu hiệu quả trong việc cung cấp các dịch vụ giáo dục do nhà trường không để hệ
thống đánh giá phân chia các nguồn lực một cách có hiệu quả.


19

Hình 1.3. Ảnh hưởng của những thay đổi trong nhu cầu về các dịch vụ giáo dục
(Da1 Da1 và Sa1 Sa1 là đường cầu và đường cung ban đầu theo năm giáo dục
nông nghiệp, ngược lại trong chương trình quản trị kinh doanh chúng là D b1 Db1 và
Sb1 Sb1. Bây giờ, giả định rằng nhu cầu cho quản trị kinh doanh tăng từ D b2 Db2 và
nhu cầu cho nông nghiệp giảm xuống D a2 Da2. Duy trì các chi phí hữu hình (học phí
và lệ phí) tại điểm Pb1 và Pa1 dẫn tới sự dư thừa của khả năng giáo dục nông nghiệp
và sự thiếu của khả năng giáo dục quản trị kinh doanh. Nếu để học phí và lệ phí của
chương trình quản trị kinh doanh tăng tới pb2 và của nông nghiệp giảm xuống pa2 sẽ
làm tăng hiệu quả mà cả hai được sử dụng.) [1, tr.99]
Nếu các trường đại học sử dụng mức giá khác nhau cho các chương trình khác
nhau, họ có thể tăng cả hiệu quả và trách nhiệm đối với khách hàng. Hãy để học phí
và chi phí trong quản trị kinh doanh tăng lên mức p b2. Phần doanh thu tăng thêm đạt
được để mở rộng đến sb2, có tính đến nhu cầu tăng lên. Sự tăng giá cũng giúp giảm
áp lực vào cơ sở vật chất bằng cách giảm tỷ lệ nhập học từ s b3 xuống sb2. Bây giờ để
học phí và lệ phí của môn nông nghiệp giảm xuống P a3, các trường đại học được
khuyến khích cắt giảm một số chương trình trở về điểm s a2, tại điểm này mới chỉ đủ
chi trả các khoản kinh phí. Ngoài ra, việc giảm giá trong nông nghiệp từ P a1 xuống
Pa2 sẽ tăng tỷ lệ nhập học từ sa3 lên sa2. [1, Tr.100]
Để làm cho những phân tích kinh tế trước đây tổng quan hơn, giả định rằng
trong trường đại học nhu cầu về một chương trình mới tăng lên, ví dụ nghiên cứu
sinh thái học. Chi phí cung cấp số năm của chương trình có thể được xác định và
đường cung sau đó có thể gặp đường cầu. Mức giá cân bằng sẽ phản ánh chi phí của
chương trình đối với sinh viên. Nó cũng tạo ra khả năng chương trình chính xác mà
không xảy ra dư thừa hoặc thiếu hụt. Qua đó cho thấy các loại hình dịch vụ giáo dục

tương đối đa dạng và phong phú.


×