Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Phân tích tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ tại công ty cổ phần thiết bị bưu điện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.94 KB, 36 trang )

lời nói đầu:
Trong nền kinh tế đóng, với cơ chế quan liêu bao cấp, các doanh nghiệp chủ yếu
thuộc sở hữu Nhà nước, vấn đề hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản
cố định nói riêng không được chú trọng làm cho hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp không
cao.
Sau quá trình chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng
XHCN với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong sản
xuất và tiêu thụ các loại sản phẩm nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của mình là lợi
nhuận và phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận thì việc sử dụng hợp lý các nguồn lực là hết sức quan trọng.
Để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về việc quản lý và phát triển nền
kinh tế. Trong những năm qua nền kinh tế nước ta đã chuyển từ chế độ quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự điều chỉnh Vĩ mô của Nhà nước. Từ đó
đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ từng bước tiếp cận với nền kinh tế Thế
giới, mở rộng giao lưu và phát triển trên tất cả các lĩnh vực. Bước sang giai đoạn mới - nền
kinh tế thị trường - là một thách thức mới đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và hàng
ngàn các Doanh nghiệp ở nước ta nói riêng. Trước những yêu cầu của nền kinh tế các Doanh
nghiệp phải tự khẳng định mình tạo cho mình một chỗ đứng vững chắc trong Xã hội và đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện 61 Trần Phú - Ba đình - Hà nội là một doanh
nghiệp nhà nước trực thuộc Tổng công ty Bưu chính viễn thông (nay là Bộ Bưu Chính Viễn Thông), trong những năm qua đã có những đóng góp tích cực vào những thành tựu
chung của toàn ngành. Hoạt động của Công ty có những nét đặc thù: là một khâu trên dây
chuyền sản xuất, kinh doanh thống nhất toàn ngành. Bởi vậy, kết quả sản xuất kinh doanh
của Công ty có liên quan trực tiếp đến kết quả hoạt động chung của hầu hết các đơn vị trực
thuộc Bộ Bưu Chính - Viễn Thông. Chính vì vậy, việc quản lý và sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn mà Bộ Bưu Chính - Viễn Thông giao cho là một vấn đề bức xúc đối với ban
lãnh đạo Công ty.
Trong quá trình thực tập tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện cùng với sự hướng
dẫn của thầy giáo TS. Nguyễn Thế Khải và các cô chú trong phòng Kế toán – Thống kê,
em đã lựa chọn đề tài: “Phân tích tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ
phần Thiết Bị Bưu Điện”.



1


Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm ra những tồn tại trong việc sử dụng TSCĐ và
trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa tình hình sử dụng
TSCĐ tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện.
Mặc dù được sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo và các cô chú trong
phòng Kế toán – Thống kê nhưng do thời gian có hạn, cùng với khả năng và thực tiễn chưa
nhiều nên bài viết của em không thể tránh khỏi những sai sót, em mong được thầy giáo có
những nhận xét và sửa đổi giúp em hoàn thiện đề tài. Em xin chân thành cảm ơn.
Đề tài: “Phân tích tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần Thiết
Bị Bưu Điện “ được chia thành ba phần:
Phần 1: Những vấn đề chung về TSCĐ và hiệu quả sử dụng TSCĐ trong các
doanh nghiệp sản xuất.
Phần 2: Tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu
Điện.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
TSCĐ tại Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện.

Phần I
Những vấn đề chung về TSCĐ và hiệu quả sử dụng TSCĐ trong các doanh nghiệp
sản xuất.
I. TSCĐ và đặc điểm của TSCĐ trong các doanh nghiệp
1.1 Khái niệm và đặc điểm của TSCĐ
Để có thể tiến hành được hoạt động sản xuất kinh doanh bất cứ doanh nghiệp nào
cũng cần có đầy đủ ba yếu tố về lao động là: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức
lao động. Khác với các đối tượng lao động (nguyên vật liệu, sản xuất dở dang, bán thành
phẩm…) thì các tư liệu lao động (như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận
tải…) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao

động biến đổi nó theo mục đích của mình. Bộ phận quan trọng nhất trong tư liệu lao động
sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là TSCĐ. Đó là các tư

2


liệu lao động chủ yếu được sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh
doanh như: máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng, các công trình kiến trúc, các
khoản đầu tư mua sắm TSCĐ hữu hình… TSCĐ của doanh nghiệp là những tài sản có giá
trị lớn, thông thường một tư liệu lao động được coi là TSCĐ phải đồng thời thảo mãn hai
tiêu chuẩn cơ bản:
- Một là, phải có thời gian sử dụng tối thiểu từ 1 năm trở lên
- Hai là, phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức cố định, tiêu chuẩn này được quy định
riêng đối với từng nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với mức giá của từng thời
kỳ.
ở nước ta hiện nay theo quy định 206/2003/QĐ - BTC của Bộ tài chính quy định.
* Tiêu chuẩn nhận biết TSCĐ hữu hình.
Mọi tư liệu lao động là tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ thống
gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ kết hợp với nhau để cùng thực hiện một hay một số
chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả hệ thống không
hoạt động được, nên nếu thoả mãn đồng thời 4 tiêu chuẩn sau thì được coi là tài sản cố
định:
- Chắc chắn thu được lợi ích trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó
- Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên
- Có giá trị từ 10.000.000 đồng trở lên
- Nguyên giá tài sản được xác định một cách tin cậy
Trong trường hợp một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau,
trong đó mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ phận
nào đó hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động chính của nó mà do yêu cầu quản
lý, sử dụng tài sản cố định đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ phận tài sản thì những bộ

phận đó được coi là TSCĐ hữu hình độc lập.
* Tiêu chuẩn nhận biết TSCĐ vô hình:
Mọi khoản chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra thoả mãn đồng thời 4 điều
kiện trên mà không hình thành TSCĐ hữu hình thì được coi là TSCĐ vô hình. Nếu khoản
chi phí này không đồng thời thoả mãn cả 4 tiêu chuẩn trên thì được hạch toán trực tiếp
hoặc được phân bổ vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ những nội dung trên có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ như sau:
Tài sản cố định trong doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị
lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất còn giá trị của nó thì được chuyển dịch dần
từng phần vào giá trị của sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất.

3


Đặc điểm chung của TSCĐ là khi sử dụng bị hao mòn dần và giá trị hao mòn dần
được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm hàng hoá và được bù đắp khi doanh nghiệp tiêu thụ
được sản phẩm hàng hoá. Trong quá trình sử dụng TSCĐ không thay đổi về hình thái vật
chất bên ngoài và đặc tính sử dụng ban đầu của nó. TSCĐ biểu hiện trình độ và năng lực
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh
nghiệp và có vai trò quyết định đến việc tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm.
Thêm vào đó, thông qua việc trích khấu hao TSCĐ đã góp phần vào việc hình thành khả
năng tự tài trợ vốn cho doanh nghiệp. Do vậy với doanh nghiệp thực hiện sản xuất vật chất,
TSCĐ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, đối với sự ra đời và tồn tại của doanh nghiệp.
1.2. Phân loại TSCĐ
Do TSCĐ có những đặc điểm khác nhau nên cần phải phân loại TSCĐ thành những
loại nhất định, phục vụ cho nhu cầu quả lý và sử dụng TSCĐ trong các doanh nghiệp. Hiện
nay TSCĐ thường được phân loại theo một số tiêu thức sau:
* Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện.
Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại:
- TSCĐ hữu hình

Là những tư liệu lao động chủ yếu được biểu hiện bằng hình thái vật chất cụ thể có
giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh mà
vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như: nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện
vận tải, vật kiến trúc…Trong đó TSCĐ hữu hình có thể là từng đơn vị tài sản có kết cấu
độc lập hoặc một hệ thống bao gồm nhiều tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay
nhiều chức năng nhất định. Trong quá trình sản xuất kinh doanh mà thiếu bất kỳ một bộ
phận nào trong hệ thống đó thì cả hệ thống không hoạt động được.
- TSCĐ vô hình
Là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã
được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như chi
phí thành lập doanh nghiệp , chi phí sử dụng đất…
ý nghĩa: Cách phân loại này cho ta thấy được cơ cấu đầu tư vào TSCĐ hữu hình và vô
hình từ đó lựa chọn các quyết định đầu tư hoặc cơ cấu dầu tư cho phù hợp và hiệu quả
nhất.
* Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng
- TSCĐ đang ding: Là những TSCĐ của doanh nghiệp đang sử dụng cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, hoặc các hoạt động phúcc lợi, sự nghiệp hay an ninh quốc phòng của
doanh nghiệp.

4


- TSCĐ chưa dùng: Là những tài sản cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay
các hoạt động khác của doanh nghiệp, song hiện tại chưa cần dùng còn dự trữ để sử dụng
sau này.
- TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: Là những TSCĐ đã hết thời hạn sử dụng hay
những TSCĐ không cần thiết, không phù hợp với nhiệm vụ sản xuát kinh doanh của doanh
nghiệp cần thanh lý, nghượng bán để thu hồi vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.
ý nghĩa: Cách phân loại này giúp các nhà quản lý biết được tình hình tổng quát về số
lượng, chất lượng TSCĐ hiện có, VCĐ tiềm tàng, hoặc ứ đọng, từ đó tạo đIũu kiện cho

phân tích, kiểm tra, đánh giá tiềm lực sản xuất cần khai thác và tìm cách thu hồi.
* Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng.
- TSCĐ định thco mục đích sản xuất kinh doanh: Là những TSCĐ hữu hình và vô
hình trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp.
- TSCĐ phục vụ cho sự nghiệp phúc lợi, an ninh quốc phòng
- TSCĐ bảo quản giữ hộ, cất hộ: Là những TSCĐ doanh nghiệp bảo quản, giữ hộ
doanh nghiệp khác hoặc nhà nước theo quy định của cơ quan nhà nước có them quyền.
ý nghĩa: Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp they được cơ cấu TSCĐ của mình
theo mục đích sử dụng của nó, từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo mục đích sử dụng
sao cho có hiệu quả.
* Phân loại TSCĐ theo quyền sở hữu
- TSCĐ tự có: Là các TSCĐ mua sẵm và hình thành từ nguốn vốn ngân sách nhà
nước cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay, nguốn vốn liên doanh, các quỹ của doanh
nghiệp và các TSCĐ được tặng, biếu…
- TSCĐ thuê ngoài: Là TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời gian nhất định theo
hợp đồng đã ký. Tuỳ theo điều khoản của hợp đồng mà TSCĐ đi thuê được chia thành
TSCĐ thuê tài chính và TSCĐ thuê hoạt động.
ý nghĩa: Phân loại TSCĐ theo phương pháp này giúp cho việc quản lý và tổ chức
hạch toán TSCĐ được chặt chẽ, chính xác, và sử dụng TSCĐ có hiệu quả cao nhất.
* Phân loại TSCĐ theo đặc trưng kỹ thuật
TSCĐ hữu hình được chia thành các loại sau: Nhà cửa vật kiến trúc, máy móc thiết
bị, phương tiện vận tải, thiết bị dụng cụ quản lý…
TSCĐ vô hình được chia thành các loại sau: Quyền sử dụng đất, chi phí thành lập và
chuẩn bị sản xuất, bằng phát minh sáng chế, chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí về lưọi
thế thương mại và các TSCĐ vô hình khác.

5


ý nghĩa: Cách phân loại này cho they công dụng cụ thể của tong loại TSCĐ trong

doanh nghiệp, tạo đIều kiện thuận lợi cho việc sử dụng TSCĐ và trích khấu hao TSCĐ
một cách chính xác.
1.3. Vai trò của TSCĐ trong doanh nghiệp
* Đối với nền kinh tế
TSCĐ là cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung và của doanh nghiệp nói
riêng. Đó là một yếu tố không thể thiếu được đối với sự tồn tại của bất cứ một quốc gia
nào, một doanh nghiệp nào. Vì nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đó là những tư liệu lao
động chủ yếu được ví như “hệ thống xương cốt bắp thịt của quá trình SXKD”. TSCĐ là
khí quan để con người thông qua đó tác động vào đối tượng lao động biến noa, bắt nó phục
vụ cho con người.
* Đối với con người
Con người được hưởng thành quả cuối cùng của một hệ thống TSCĐ tiên tiến. Nhờ có
TSCĐ hiện đại mà quá trình sản xuất sẽ rút ngắn, lao động của con người thuận lợi hơn, đỡ
nặng nhọc hơn và có năng suất lao động cao hơn, kết quả sản xuất lớn hơn, do đó mà điều kiện
làm việc và đời sống được nâng cao.
* Đối với doanh nghiệp
Trình độ trang thiết bị TSCĐ quyết định năng lực sản xuất lao động, chi phí giá thành,
chất lượng sản phẩm cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.
Nếu doanh nghiệp nào trang bị máy móc, thiết bị hiện đại, áp dụng quy trình công nghệ tiên
tiến sẽ giảm được mức tiêu hao nguyên vật liệu và cho ra những sản phẩm chất lượng tốt và
có sức hút cao đối với khách hàng.
* Đối với xã hội
Trình độ công nghệ sản xuất ở mức độ nào thì nói lên trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất ở mức độ tương ứng và là căn cứ phân biệt thời đại này với thời đại khác. Phương
thức sản xuất cổ truyền khác phương thức sản xuất hiện đại ở chỗ sản xuất như thế nào và sản
xuất bằng cái gì. Chính lực lưọng sản xuất đã thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển và làm thay
đổi phương thức sản xuất.
Từ những phân tích trên ta càng thấy rõ được vai trò quan trọng của TSCĐ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy mà TSCĐ phải luôn được duy trì, kéo dài tuổi thọ
và đầu tư đổi mới công nghệ.

1.4. Kết cấu TSCĐ
Với mỗi cách phân loại trên có ý nghĩa khác nhau nhưng ở chúng có ý nghĩa chung
quan trọng đó là cho phép đánh giá, xem xét kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp theo các tiêu
thức khác nhau giúp cho nhà quản lý tính toán chính xác số tiền trích lập quỹ khấu hao. Do

6


vậy kết cấu TSCĐ là tỷ trọng giữa nguyên giá của một loại TSCĐ nào đó chiếm trong tổng
nguyên giá toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định.
Trong các ngành kinh tế khác nhau hay trong cùng một ngành kinh tế thì kết cấu của
TSCĐ đều không giống nhau. Sự khác nhau về kết cấu trong trong ngành và trong doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh là do đặc điểm riêng biệt về hoạt động sản xuất kinh doanh của
chúng quyết định.
1.5. Đánh giá TSCĐ
Đánh giá TSCĐ là biểu hiện giá trị TSCĐ bằng tiền theo những nguyên tắc nhất
định, là điều kiện cần thiết để hạch toán TSCĐ, trích khấu hao và phân tích hiệu quả sử
dụng TSCĐ trong doanh nghiệp
Xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu quản lý TSCĐ trong quá trình sử dụng TSCĐ
được đánh giá theo nguyên giá và giá trị còn lại.
- Đánh giá TSCĐ theo nguyên giá
Là toàn bộ các chi phí mà các doanh nghiệp đã chi ra để có được TSCĐ cho đến khi
đưa TSCĐ vào hoạt động bình thường, bao gồm: giá mua thực tế, lãi vay, đầu tư TSCĐ khi
chưa bàn giao đưa vào sử dụng, thuế, lệ phí trước bạ. Tuỳ theo từng loại TSCĐ mà nguyên
giá của nó được xác định khác nhau.
Cách đánh giá này có thể cho doanh nghiệp thấy được số vốn đầu tư, mua sắm
TSCĐ ở thời điểm ban đầu, là căn cứ để xác định số tiền phải trả khách hàng để tái sản
xuất giản đơn.
- Đánh giá TSCĐ theo giá trị còn lại
Giá trị còn lại của TSCĐ là phần giá trị chưa chuyển vào giá trị sản phẩm. Giá trị

còn lại có thể tính theo giá trị ban đầu.
Mỗi cách đánh giá đều có ý nghĩa tác dụng riêng, cho phép chúng ta thấy mức độ thu
hồi vốn đầu tư đến thời điểm đánh giá, từ đó đưa ra chính sách khấu hao thu hồi số vốn đầu
tư còn lại để bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ đó ta có công thức sau:
Giá trị còn lại TSCĐ = Nguyên giá - Giá trị hao mòn luỹ kế
Giá trị hao mòn luỹ kế là tổng giá trị hao mòn TSCĐ tính từ lúc bắt đầu sử dụng cho
đến thời điểm nghiên cứu.
Giá trị còn lại của TSCĐ trên
Đánh giá lại TSCĐ =

*

Hệ số giá

sổ sách trước khi đánh giá

Hệ số giá

=

Giá thị trường của TSCĐtại thời để
i m đánh giá
Giá trị còn lại của TSCĐtrên sổ sách
7


1.6. Khấu hao TSCĐ
Khấu hao TSCĐ nhằm để bù đắp giá trị TSCĐ hao mòn trong quá trình sản xuất
kinh doanh, doanh nghiệp phải dịch chuyển dần dần giá trị hao mòn đó vào giá trị sản

phẩm sản xuất trong kỳ.
Việc khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp có thể được thực hiện theo nhiều phương
pháp khác nhau, mỗi phương pháp có ưu nhược điểm riêng. Việc lựa chọn phương pháp
khấu hao đúng đắn là nội dung quan trọng trong việc quản lý TSCĐ trong doanh nghiệp.
Thông thường có những phương pháp tính khấu hao sau:
* Phương pháp khấu hao tuyến tính (khấu hao đường thẳng)
Đây là phương pháp khấu hao bình quân theo thời gian sử dụng. Theo phương pháp
này mức khấu hao cơ bản hàng năm của TSCĐ được tính theo công thức:

Mức khấu hao trung bình hàng năm của TSCĐ =

Nguyên giá TSCĐ
Thời gian sử dụng

- Ưu nhược điểm:
+ Ưu điểm: Phương pháp này đơn giảm, dễ tính, dễ hiểu. Doanh nghiệp có thể ổn định chi
phí kinh doanh và giá thành sản phẩm do mức khấu hao được phân bổ đều qua các năm.
+ Nhược điểm: Do TSCĐ phải chịu nhiều các yếu tố tác động tới nên trong những thời kỳ
khác nhau TSCĐ có những hao mòn khác nhau. Vì vậy phương pháp này không đem lại
cho người quản lý những thông tin chính xác về mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ trong
các thời kỳ sử dụng khác nhau.
- Điều kiện áp dụng: Các TSCđ tham gia vào hoạt động kinh doanh đều được trích khấu
hao theo phương pháp này. Đây là phương pháp khấu hao khá đơn giản và được áp dụng
hầu hết cho các TSCĐ trong doanh nghiệp.
* Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần.
Theo phương pháp này số tiền khấu hao từng năm của TSCĐ được xác định bằng
cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ đầu năm tính khấu hao nhân với một tỷ lệ khấu hao cố
định hàng năm, có thể được xác định qua công thức:
Công thức:
Trong đó:


Mki = Gđi * Tkh
Tkh = Tk * Hs

Mki : Số tiền khấu hao TSCĐ năm i
Gđi : Giá trị còn lại của TSCĐ năm thứ i
Tkh : Tỷ lệ khấu hao hàng năm của TSCĐ
Tk

: Tỷ lệ khấu hao theo phương pháp tuyến tính

8


Hs

: Hệ số điều chỉnh

Hệ số: + 1,5 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng từ 3 đến 4 năm
+ 2,0 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng từ 5 đến 6 năm
+ 2,5 đối với TSCĐ có thời gian sử dụng từ 6 năm trở lên
* Phương pháp khấu hao theo tổng số: Theo phương pháp này, số khấu hao của từng năm
được xác định bằng cách lấy nguyên giá TSCĐ nhân với tỷ lệ khấu hao của từng năm:
Công thức:

Mkt =

NG *

Tkt


Với:

Tkt

=

Số năm sử dụng
Tổng số các năm sử dụng còn lại của TSCĐ

Mkt: Số tiền khấu hao TSCĐ năm thứ t (t = 1,n)
NG: Nguyên giá TSCĐ
Tkt:

Tỷ lệ khấu hao TSCĐ năm thứ t

II. Hiệu quả sử dụng TSCĐ và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ
2.1. Hiệu quả sử dụng TSCĐ
Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để đạt tới lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp
phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh trong đó quản lý và sử
dụng TSCĐ là một bộ phận rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến kết quả và hiệu quả
sản xuất kinh doanh. Qua đó, thấy được chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh, khả năng
khai thác các khả năng sẵn có, biết mình đang ở giai đoạn nào trong quá trình phát triển,
đang ở vị trí nào trong quá trình đua tranh với các doanh nghiệp khác.
Hiệu quả sử dụng TSCĐ là một phần của công tác đánh giá hiệu quả sản xuất kinh
doanh nhưng để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp phải
cố gắng tối đa trên nhiều lĩnh vực trong đó phải tìm ra cách nâng cao hiệu quả sử dụng
TSCĐ của mình.
Vậy: ‘Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ

khai thác, sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
mục đích sinh lời tối đa với chi phí thấp “.
2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay là rất cần thiết, nó quyết

9


định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ các lý do chủ yếu
sau đây:
- Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp đó là lợi nhuận. Bất kỳ một
doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều hướng tới mục tiêu
cuối cùng là lợi nhuận. Nó là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nhất nói lên kết quả nhiều mặt
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là nguồn tích luỹ cơ bản để
doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì các doanh
nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì hoạt động sản xuất kinh doanh phải tạo ra được
nhiều lợi nhuận. Để đạt được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả
công tác tổ chức và quản lý sản xuất, trong đó việc nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn
sản xuất nói chung, TSCĐ nói riêng phải đạt hiệu quả hơn.
- Xuất phát từ vị trí, vai trò của TSCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh. TSCĐ
là thành phần cơ bản chiếm tỷ trọng lớn trong vốn sản xuất. Do đó việc nâng cao hiệu qủa
sử dụng TSCĐ sẽ làm cho hiệu quả vốn sản xuất tăng lên. Đó cũng chính là mục tiêu và
đạt tới của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ. Bởi hiệu quả sử
dụng TSCĐ là chỉ tiêu chất lượng phản ánh những cố gắng, những biện pháp hữu hiệu về kỹ
thuật, về tổ chức quản lý trong doanh nghiệp nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Hiệu quả sử
dụng TSCĐ thể hiện ở việc nâng cao hiệu suất sử dụng vốn cố định, tài sản cố định, tăng tỷ
suất lợi nhuận vốn cố định,… nhằm tăng lợi nhuận. Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ còn có
ý nghĩa thúc đẩy vòng chu chuyển TSCĐ tăng nhanh tạo điều kiện rút ngắn thời gian hao mòn

vô hình, hao mòn hữu hình. Do đó thúc đẩy nhanh nhịp độ đổi mới TSCĐ theo kịp trình độ
phát triển của khoa học kỹ thuật. Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ còn đồng nghĩa với việc
mở rộng sản xuất mà không cần phải bỏ thêm vốn đầu tư mua sắm, xây dựng đầu tư TSCĐ.
Một mặt tiết kiệm được vốn sản xuất, mặt khác làm cho giá thành sản phẩm hạ, lợi nhuận sẽ
tăng lên khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng hiệu quả và
phát triển.
Ngoài ra, nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ chính là việc thực hiện yêu cầu của
Nhà nước về việc hạch toán đầy đủ của các doanh nghiệp.
Qua đó thấy được việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ có ý nghĩa vô cùng to lớn
đối với sự tồn tại, phát triển của nền sản xuất nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng trong
điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
2.3. Các chỉ tiêu để phân tích, đánh giá tình hình trang bị và sử dụng TSCĐ
2.3.1. Trình độ trang bị chung về TSCĐ

10


Xét tình hình trang bị TSCĐ là tính đến mức độ phù hợp của việc trang bị TSCĐ cho
từng lao động. Đây là căn cứ đề ra các dự án cho việc đầu tư máy móc không chỉ phù hợp
về mặt trình độ kỹ thuật mà còn phù hợp với sức quản lý của từng lao động. Việc trang bị
cho người lao động vượt quá khả năng của họ không chỉ tạo ra sức ép cho người lao động
mà còn có thể gây lãng phí do người lao động không sử dụng hết số máy móc đó.
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
Trình độ trang bị chung TSCĐ = 
Số lượng công nhân trực tiếp sản xuất
Chỉ tiêu này phản ánh giá trị TSCĐ bình quân trang bị cho một công nhân trực tiếp
sản xuất. Thông qua chỉ tiêu này ta vừa đánh giá được mức độ trang bị TSCĐ đồng thời
thấy được sự hợp lý hay bất hợp lý của số lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất.
2.3.2. Trình độ trang bị kỹ thuật về TSCĐ


Nguyên giá TSCĐ (hữu hình) thuộc
phương tiện kỹ thuật
Trình độ trang bị kỹ thuật về TSCĐ =
Số công nhân sản xuất bình quân
2.3.3. Tình trạng kỹ thuật của TSCĐ (thông qua hệ số hao mòn)

- Hệ số hao mòn TSCĐ =

Số tiền KH luỹ kế của TSCĐở thời điểm đánh giá
Nguyên giá TSCĐở thời điểm đánh giá

Chỉ tiêu này một mặt phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp, mặt
khác nó phản ánh tổng quát tình trạng về năng lực của TSCĐ ở thời điểm đánh giá.
2.4. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng từ quan điểm kinh tế

Giá trị sản xuất công
nghiệp * Mức giá trị sản xuất công nghiệp tính cho
một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ =
Nguyên giá bình quân
TSCĐ
* Mức doanh thu thuần tính cho
một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ =

11

Doanh thu thuần
Nguyên giá bình quân TSCĐ


Chỉ tiêu này cho biết một đồng nguyên giá TSCĐ tham gia tạo ra bao nhiêu đồng

doanh thu thực hiện trong kỳ.

* Mức lợi nhuận trước thuế tính cho
một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ =

Tổng lợi nhuận trước thuế
Nguyên giá bình quân TSCĐ

Chỉ tiêu này cho ta thấy rõ hơn về tính hiệu quả của việc sử dụng TSCĐ, cứ một
đồng nguyên giá TSCĐ sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Thông qua hệ thống các chỉ tiêu đánh giá trên ta thấy nâng cao hiệu quả sử dụng
TSCĐ chính là việc khai thác triệt để khả năng hiện có của doanh nghiệp như: phát huy hết
công suất của máy móc thiết bị, tăng cường công tác quản lý và sử dụng tài sản cố định...
để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh
nghiệp.
2.5. Biện pháp chủ yếu nhằm tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ
trong doanh nghiệp
- Làm tốt công tác đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản cố định, xem xét kỹ hiệu quả
kinh tế của vốn đầu tư xây dựng cơ bản:
Hiệu quả sử dụng TSCĐ trước hết phụ thuộc vào chất lượng của công tác đầu tư
mua sắm TSCĐ. Bởi vậy, trước khi đầu tư phải nghiên cứu kỹ lưỡng, kiểm tra về điều kiện
khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, điều kiện cung cấp vật tư, khả năng tận
dụng và công suất của TSCĐ. TSCĐ được đầu tư mới phải phù hợp với trình độ phát triển
của khoa học kỹ thuật theo hướng tiên tiến hiện đại, và phải phù hợp với yêu cầu và khả
năng khai thác của doanh nghiệp.
Căn cứ vào việc xác định tỷ lệ hợp lý giữa các loại máy móc thiết bị, giữa các khâu
của quy trình công nghệ và tổng số TSCĐ hiện có để lập ra kế hoạch điều chỉnh cơ cấu và
kế hoạch đầu tư theo hướng đồng bộ hoá thiết bị sẵn có, cải tạo thiết bị máy móc cũ, thải
loại những máy móc thiết bị mà chi phí sửa chữa lớn hơn mua sắm lớn (không có hiêu quả
kinh tế) đồng thời có kế hoạch đầu tư mua sắm mới thay thế một phần hoặc toàn bộ tài sản

cố định. Bên cạnh đó xác định chính xác những tài sản cố định không cần dùng để có thể
nhanh chóng tiến hành thanh lý hay nhượng bán để thu hồi vốn nhanh.
- Quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả TSCĐ vào trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Để có thể thực hiện được điều này thì trước tiên phải thực hiện đánh giá đúng giá trị của
TSCĐ, tạo điều kiện phản ánh chính xác tình hình biến động của vốn cố định, quy mô vốn phải

12


bảo toàn. Điều chỉnh kịp thời giá trị của tài sản cố định để tạo điều kiện tính đúng tính đủ chi phí
khấu hao, không để mất vốn cố định.
Tiếp theo là phải tiến hành phân loại cũng như phân cấp TSCĐ. Tiến hành phân
giao TSCĐ cho từng bộ phận, từng cá nhân một cách rõ ràng nhằm nâng cao tinh thần
trách nhiệm cho từng người lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp phải chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh
doanh để hạn chế tổn thất TSCĐ do các nguyên nhân khách quan như: mua bảo hiểm tải
sản, lập quỹ dự phòng tài chính, trích trước chi phí dự phòng giảm giá các khoản đầu tư tài
chính.
- Tổ chức thực hiện tốt việc trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao có hiệu quả.
Trích khấu hao cơ bản là hình thức thu hồi VCĐ phục vụ cho việc đổi mới TSCĐ, nhằm
đáp ứng yêu cầu sản xuất nâng cao hiệu quả sử dụng mỗi đồng vốn bỏ ra.
- Tổ chức tốt hạch toán nội bộ trong doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng TSCĐ phải
được tính toán từ khi lập kế hoạch sử dụng đến quá trình thực hiện. Trong quá trình sản
xuất việc sử dụng TSCĐ luôn gắn với mục đích cụ thể do đó thực hiện hạch toán kinh tế
nội bộ là một biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.
- Đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước và cơ chế quản lý TSCĐ trong các
doanh nghiệp.
Việc quản lý TSCĐ ở các doanh nghiệp luôn có sự biến động không ngừng theo sự
phát triển và biến đổi của cơ chế thị trường. Vì vậy các cơ quan quản lý nhà nước phải luôn

theo sát để nhận biết được những thay đổi, kịp thời đưa ra những chính sách mới phù hợp
với điều kiện thực tế nhằm tạo điều kiện cho những doanh nghiệp mới phát triển, nâng cao
hiệu quả hoạt động nói chung và hiệu quả TSCĐ nói riêng.

Phần II:
Tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện

13


I. Giới thiệu khái quát về Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện.
1.1. quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Vốn là một doanh nghiệp Nhà nước, Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện là đơn vị
hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam, theo điều lệ tổ chức
và hoạt động của Tổng công ty được phê chuẩn tại Nghị định số 51/CP ngày 1/8/1995 của
Chính Phủ. Công ty là một bộ phận cấu thành của hệ thống tổ chức và hoạt động của Tổng
công ty trong các lĩnh vực khác nhau nhằm tăng cường tích tụ tập trung phân công chuyên
môn hoá và hợp tác hoá sản xuất để thực hiện những mục tiêu kế hoạch của Nhà nước do
Tổng công ty giao cho.
Tên giao dịch : “post & telecommunication equipmenp

Company

(posteF)”
Tên viết tắt

:

“Postef”


Trụ sở chính

:

Điện thoại

:

04.8621269

Fax

:

04.8621268

Số 61 Trần Phú – Ba Đình – Hà Nội

Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện - Hà Nội là một Doanh nghiệp được thành lập từ
năm 1954 với tên gọi ban đầu là: Nhà máy Thiết Bị Bưu Truyền Thanh.
Năm 1967 theo quyết định số 389/QĐ ngày 16/6/1967 của Tổng cục Bưu Điện đã
tách rời nhà máy Bưu Truyền thanh ra làm 4 nhà máy trực thuộc bao gồm nhà máy 1, 2, 3,
4.
Đầu những năm 70, do yêu cầu phát triển thông tin của Tổng cục bưu điện đã sát
nhập nhà máy 1, 2, 4 thành một nhà máy hạch toán độc lập theo quyết định số 157/QĐ.
Đến tháng 12/1986 do yêu cầu của Tổng cục Bưu Điện nhà máy lại một lần nữa tách
ra thành 2 nhà máy sản xuất kinh doanh ở cả 2 khu vực:
+ Nhà máy thiết bị Bưu Điện ở 61 Trần Phú - Ba Đình - Hà Nội
+ Nhà máy vật liệu điện tử loa âm thanh 63 Nguyễn Huy Tưởng - Thanh Xuân - Hà
Nội

Bước vào thập kỷ 90, do sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt
trong lĩnh vực thông tin nên nhu cầu thị trường ngày càng cao, nhất là các đòi hỏi về chất
lượng sản phẩm. Điều đó đã đóng vai trò quyết định khối lượng sản xuất, tác động trực tiếp
đến quy mô doanh nghiệp. Một số yếu tố khác không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến
sự tồn tại và phát triển của Nhà máy, đó chính là sự chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung
quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, đánh dấu cột mốc của sự chuyển đổi nền kinh tế

14


đất nước nói chung và của Công ty nói riêng. Trước yêu cầu bức thiết của tình hình mới,
để tăng cường năng lực sản xuất cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên
thị trường trong nước và quốc tế. Tháng 3/1993 tổng cục bưu điện tiến hành sáp nhập 2
nhà máy trên thành một nhà máy tiến hành ở cả 2 khu vực:
+ Khu vực 1: 61 Trần Phú - Ba Đình - Hà Nội
+ Khu vực 2: 63 Nguyễn Huy Tưởng - Thanh Xuân - Hà Nội
Sau khi có quyết định 217/HĐBT, Công ty thực hiện hoạt động kinh doanh tự chủ về
mặt tài chính một cách năng động và có hiệu quả.
Đến đầu năm 1995, Công ty trở thành một thành viên độc lập thuộc Tổng công ty
Bưu chính - viễn thông, theo quyết định thành lập doanh nghiệp số 202/QĐ - TCBĐ ngày
15/3/1995, giấy phép kinh doanh số 105.985 ngày 20/3/1995 do trọng tài kinh tế cấp, số
hiệu tài khoản TK 10A009 Ngân hàng công thương Ba Đình - Hà Nội.
Căn cứ quyết định số 46/2/2004/QĐ - BBCVT ngày 15/11/2004 của Bộ Bưu chính
viễn thông chuyển Nhà máy thiết bị Bưu Điện thành Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện.
Các sản phẩm của Công ty tương đối đa dạng (từ 350 đến 400 loại) chủ yếu bao gồm:
máy điện thoại ấn phím cố định, máy điện thoại di động GMS, máy fax, thiết bị đấu nối
cáp đồng và cáp quang, nguồn viba và nguồn tổng đài, ống cáp viễn thông, cabin đàm thoại
...
1.2. Nhiệm vụ, đặc điểm và quy mô sản xuất kinh doanh của Công ty trong những
năm gần đây.

* Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện trong giai đoạn
này bao gồm:
- Quản lý vốn hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của Công ty được Tổng công ty giao cho bao gồm cả phần vốn đầu tư vào doanh
nghiệp khác nhằm phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời trả các khoản nợ
mà Công ty trực tiếp vay hoặc các khoản tín dụng được Tổng công ty bảo lãnh vay theo
quy định của pháp luật.
- đăng ký kinh doanh và kinh doanh đúng mục đích ngành nghề đã đăng ký, chịu
trách nhiệm trước khách hàng và pháp luật về sản phẩm do Công ty thực hiện.
- Thực hiện chế độ báo cáo kế toán thống kê, báo cáo định kỳ, bất thường, chế độ kế
toán theo quy định của Nhà nước và tổng công ty, chịu trách nhiệm về tính xác thực của
báo cáo.

15


- Thực sự kiểm tra, kiểm soát và tuân thủ các quy định về thanh tra, kiểm tra của
tổng công ty và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định….
Mục tiêu trước mắt cần đặt ra cho Công ty hiện nay là phấn đấu trong năm 2005
tổng doanh thu sẽ là 230 tỷ VND và lợi nhuận sẽ là 21 tỷ VND. Thu nhập lao động bình
quân sẽ là 2.1 triệu đồng/người/tháng. Đây là con số mà toàn thể Công ty cần phải nỗ lực
phấn đấu rất nhiều nếu không nói là rất khó có thể thực hiện được. Định hướng phát triển
của Công ty giai đoạn 2005 - 2009 như sau:
- Đổi mới công nghệ
- Đầu tư chiều sâu
- Tăng sản lượng
- Tăng doanh thu
- Tăng lợi nhuận
- Tăng thu nhập của cán bộ công nhân
- Tăng các khoản nộp Ngân sách.

350
300

Doanh thu

250
200

Lîi nhuËn

150
100

C¸c kho¶n nép ng©n
s¸ch

50
0

2005

2006

2007

2008

2009

1.3. Cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện.

Hiện nay Công ty có trên 595 cán bộ công nhân viên trong đó có hơn 400 người là
cán bộ trực tiếp sản xuất và nhân viên quản lý phân xưởng. Lao động của Công ty hầu hết
được đào tạo qua trường vô tuyến viễn thông và các trường dạy nghề khác, lao động giản
đơn rất ít và hầu như không có, đội ngũ cán bộ quản lý là kỹ sư vô tuyến điện tin học.
Để đáp ứng yêu cầu chuyên môn hoá trong sản xuất kinh doanh, Công ty tổ chức bộ
máy quản lý theo chế độ một thủ trưởng. Đứng đầu là Giám đốc, toàn bộ cơ cấu quản lý và
sản xuất của Công ty được sắp xếp bố trí thành các phòng ban, phân xưởng, giữa các phân
xưởng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, Ban giám đốc đưa ra quyết định thực hiện quản
lý vĩ mô chỉ đạo chung toàn bộ hoạt động của Công ty, các phân xưởng là các bộ phận trực
tiếp tham gia sản xuất sản phẩm.

16


* Ban giám đốc
- Giám đốc Công ty: là người lãnh đạo cao nhất của Công ty, chịu trách nhiệm cao
nhất về hoạt động của Công ty, chịu trách nhiệm về toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh
trước pháp luật, có nghĩa vụ đối với Nhà nước trong quản lý tài sản, tránh để thất thoát tài
sản.
- Phó giám đốc: gồm có phó giám đốc kỹ thuật và phó giám đốc sản xuất, là người
đại diện lãnh đạo về chất lượng sản phẩm, là người trợ giúp cho giám đốc về mặt kỹ thuật,
chỉ đạo trực tiếp các đơn vị thực hiện IOS trong Công ty. Các phó giám đốc là người trợ lý
cho Giám đốc và theo dõi điều hành các công việc dựa trên quyền quyết định của Giám
đốc.
* Các phòng ban
Công ty có 12 phòng ban, đây là hệ thống quản lý theo chức năng, thông qua trưởng
phòng đến từng nhân viên.
* Phòng đầu tư - phát triển
* Phòng vật tư
* Phòng công nghệ kỹ thuật

* Phòng tổ chức lao động tiền lương
* Phòng kế toán tài chính
* Phòng điều động sản xuất
* Ban nguồn
* Phòng marketing (trọng tâm tiếp thị)
* Phòng KCS
* Phòng kế hoạch kinh doanh
* Trung tâm bảo hành sản phẩm
* Phòng hành chính, bảo vệ
Để có cái nhìn tổng thể về cơ cấu tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh của Công ty
cổ phần thiết bị Bưu Điện ta có sơ đồ sau:

Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh

17


của Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện

Giám đốc

P.GĐ
sản xuất
Phòng
tài
chính

Phòng

đầu tư

phát
triển

Phòng
điều động
sản xuất

P.GĐ
kỹ thuật

Phòng kế toán

Phòng hành
chính bảo vệ

Phòng công
nghệ

Phòng vật tư

Phòng KCS

Ban nguồn

Phòng kế hoạch

Trung tâm tiêu
thụ 1, 2, 3

Trung tâm

bảo hành sản
phẩm

PX 1

PX 2

PX 7

PX
KM

PX 3

PX 4

PX 8

PX
PVC 1

(Nguồn phòng tổ chức lao động)

PX 5

PX 6

PX BC

PX

PVC 2

Qua cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty ta thấy công tác tổ chức quản lý tương đối
hợp lý nhằm chuyên môn hoá trong sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm,
phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Công ty có tới 3 trung tâm tiếp thị Bắc, Trung, Nam
được chia theo khu vực và theo ngành hàng. Theo khu vực có ưu điểm là giải quyết kịp
thời cho mạng lưới bưu chính viễn thông toàn quốc, chia theo ngành có ưu điểm là nắm bắt
kỹ thuật, hướng dẫn khách hàng chuyên sâu.

18


Công ty có nhiều phòng ban chức năng chuyên sâu về một hoặc một số lĩnh vực tạo
cho chất lượng sản phẩm của Nhà máy ngày càng được nâng cao, được khách hàng tin cậy,
tạo cho Công ty chỗ đứng vững vàng trên thị trường. Tuy nhiên bộ máy tổ chức của Công
ty chưa gọn nhẹ, tinh giản, vẫn có sự trùng lắp, chồng chéo nhiệm vụ giữa các phòng ban
như phòng đầu tư phát triển và phòng kế hoạch kinh doanh cùng nghiên cứu, xây dựng kế
hoạch ngắn hạn và dài hạn.
1.4. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán
Công ty thuộc loại hình doanh nghiệp có quy mô lớn, nghiệp vụ kinh tế phát sinh
nhiều và phức tạp nhưng phòng kế toán thống kê của Công ty vẫn được bố trí gọn, nhẹ,
hợp lý, công việc được phân công cụ thể, rõ ràng cho từng nhân viên kế toán. Với đội ngũ
kế toán có tay nghề vững vàng, nhiệt tình và có trách nhiệm cao, phòng đã thực hiện công
tác kế toán đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý Công ty.
Công tác kế toán được tổ chức khá chặt chẽ và khoa học, Công ty áp dụng mô hình
kế toán tập trung, mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều được thực hiện ở phòng kế toán
Công ty. Tại các phân xưởng không có tổ chức bộ máy kế toán riêng mà bố trí các nhân
viên kinh tế, thống kê, theo dõi việc đưa vật liệu vào sản xuất cho đến khi giao thành phẩm
cho kho thành phẩm.
Phòng kế toán thống kê của Công ty gồm 9 người đảm nhiệm các phần hành kế toán

khác nhau bao gồm 1 kế toán trưởng và 8 kế toán nghiệp vụ.
- Kế toán trưởng (trưởng phòng): có nhiệm vụ tổ chức bộ máy kế toán trên cơ sở xác
định đúng khối lượng công tác kế toán nhằm thực hiện 2 chức năng cơ bản của kế toán là
thông tin và kiểm tra hoạt động kinh doanh, điều hành và kiểm soát hoạt động của bộ máy
kế toán chịu trách nhiệm về nghiệp vụ chuyên môn kế toán và tài chính của đơn vị. Kế
toán trưởng là người giúp việc trong lĩnh vực chuyên môn kế toán, tài chính cho giám
đốc…
- Kế toán tổng hợp (phó phòng): Tổng hợp số liệu kế toán, đưa ra các thông tin cuối
cùng trên cơ sở số liệu, sổ sách do kế toán các phần hành khác cung cấp. Kế toán tổng hợp
còn đảm nhiệm công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, đình kỳ lập
các báo cáo kế toán.
- Kế toán thanh toán với ngân hàng: Giao dịch với ngân hàng, kiêm thủ quỹ bảo quản
tiền mặt.
- Kế toán TSCĐ, kiêm kế toán thu chi: Theo dõi tình hình biến động của tài sản cố
định. Ngoài ra còn theo dõi tình hình thu chi quỹ tiền mặt.

19


- Kế toán tiền lương, thanh toán tạm ứng, kế toán nguyên vật liệu và tổng hợp vật tư:
Tính lương trên cơ sở đơn giá tiền lương do phòng tổ chức lao động tiền lương gửi lên,
hạch toán lương và trích bảo hiểm, kinh phí công đoàn theo tỷ lệ quy định, thanh toán
lương, phụ cấp cho công nhân viên Công ty.
- Kế toán thành phẩm và tiêu thụ: Theo dõi tình hình nhập - xuất - tồn kho thành
phẩm trên cơ sở các chứng từ, xác định kết quả kinh doanh, theo dõi thuế gía trị gia tăng
đầu ra.
- Kế toán vật tư và thống kê tài sản: Theo dõi chi tiết, tổng hợp tình hình nhập - xuất
- tồn kho vật liệu, công cụ dụng cụ theo từng kho. Do đặc điểm sản xuất sản phẩm của
Công ty đòi hỏi nhiều chủng loại vật tư khác nhau nên công tác kế toán vật liệu có khối
lượng công việc khá lớn.

- Kế toán vật tư, lương cơ sở 2.
- Kế toán tổng hợp bán thành phẩm cơ sở 2.
Cơ cấu bộ máy kế toán tại Công ty được biểu hiện qua sơ đồ sau

Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán tại Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện

Kế toán
trưởng

Kế toán
tổng hợp

Kế
toán
thanh
toán
với NH

Kế toán
thu chi,
TSCĐ,
BHXH,
BHYT

Kế toán
T.Hợp
VT
Lương,
T. ứng


Kế toán
thành
phẩm
và tiêu
thụ

20

K.toán
vật tư

thống
kê TS

K.toán
VT
lương
Cơ sở 2

K.T
T
Hợp
BTP
cơ sở
2


Quan hệ chỉ đạo
Quan hệ thông tin
(Nguồn Phòng Tài chính kế toán)

• Đặc điểm bộ máy kế toán tại Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện
Công ty thuộc loại hình doanh nghiệp có quy mô lớn, nghiệp vụ kinh tế phát sinh
nhiều và phức tạp nhưng phòng kế toán thống kê của Công ty vẫn được bố trí gọn, nhẹ,
hợp lý, công việc được phân công cụ thể, rõ ràng cho từng nhân viên kế toán. Với đội ngũ
kế toán có tay nghề vững vàng, nhiệt tình và có trách nhiệm cao, phòng đã thực hiện công
tác kế toán đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý Công ty. Công ty áp dụng
hình thức sổ Nhật ký chứng từ, hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường
xuyên, tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ.
Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện là Công ty lớn, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
nhiều, do đó hình thức sổ Nhật ký chứng từ được sử dụng là phù hợp, thuận tiện cho việc
phân công lao động kế toán.
Hệ thống sổ kế toán của Công ty: Thông tin trên báo cáo đảm bảo độ tin cậy. Hình
thức và các chỉ tiêu trên báo cáo đúng theo chế độ kế toán quy định. Tuy nhiên việc áp
dụng hệ thống sổ kế toán theo hình thức NKCT chưa thực sự thống nhất. Hiện nay, Công
ty áp dụng hình thức kế toán NKCT nhưng hệ thống sổ kế toán Công ty một số sử dụng
theo hình thức nhật ký chung. Điều này có thể thuận tiện cho công tác kế toán nhưng việc
sử dụng không thống nhất sẽ gây khó khăn cho những người có thẩm quyền khi tiến hành
kiểm tra sổ sách của Công ty.

II. Tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng TSCĐ tại
Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện.
2.1. Kết quả sản xuất kinh doanh một số năm gần đây
Những năm gần đây với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và sự mở
cửa hội nhập của nền kinh tế đất nước, hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đã từng
bước phát triền về mọi mặt. Cùng với sự giúp đỡ của Bộ Bưu Chính -Viễn Thông, các cơ

21


quan ban nghành và sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà Nước, Công ty cổ phần Thiết Bị Bưu Điện

đã đạt được một số thành tựu, đóng góp một phần vào công cuộc CNH – HĐH đất nước.
Dưới đây là một số chỉ tiêu cơ bản về năng lực tài chính và kết quả sản xuất kinh
doanh mà Công ty đạt được trong ba năm qua (2002 - 2004).
Số liệu trong bài viết này đều được làm tròn và đơn vị sử dụng là ngàn đồng

Bảng I: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh

So sánh %
ST

Chỉ tiêu

đơn vị

Năm 2002

Năm 2003

T
1

Doanh thu thuần

2004

2

04/03

212.083.3


282.771.0

298.876.7

33,3

5,6

1000đ

82
199.732.5

93
261.977.8

06
281.362.5

3
31,1

7,39

trước 1000đ

02
13.484.13


06
21.030.79

81
18.067.4

55,9

-

2
4.119.922

8
6.509.655

16
5.058.87

58

14,09
-

9.364.209

14.521.14

6
13.008.5


55,0

21,22
-10,4

573
1.783

3
601
1.913

39
586
1.825

7
4,9
7,29

-2,49
-4,6

Tổng chi phí sxkd

3

Lợi


4

thuế
Thuế thu nhập doanh

5

nghiệp
Lợi nhuận sau thuế

6
7

03/0

1000đ

2

nhuận

Năm

1000đ
1000đ

Số lao động
Người
Thu nhập bình quân 1000đ/ng
ười


(Nguồn phòng Tài chính kế toán)
Qua những chỉ tiêu trên ta thấy tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong các
năm qua ổn định, và trên thực tế Công ty đã không ngừng đề ra biện pháp tăng lợi nhuận, giảm chi
phí. Năm 2004 doanh thu thuần của Công ty tăng so với năm 2003, cụ thể năm 2003 đạt mức
282.771.093 ngàn đồng đến năm 2004 đã tăng lên 298.876.706 ngàn đồng tăng 5,6%.
Bên cạnh đó lợi nhuận cũng không ngừng tăng lên. Năm 2002 lợi nhuận trước thuế
của Công ty là 13.484.132 nghìn đồng, năm 2003 1à 21.030.798, tương đương tăng 55,9%.

22


Đến năm 2004 doanh thu có tăng nhưng do có biến động về giá trên thị trường nguyên liệu
sản xuất dẫn đến chi phí tăng ddột biến ảnh hưởng đến lợi nhuận (18.067.416 nghìn đồng,
giảm 14,09%).
Tại Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện, yếu tố con người được đặt lên hàng đầu vì nó
quyết định thành bại trong sản xuất kinh doanh. Trong những năm qua, đời sống cán bộ
công nhân viên ngày càng được cải thiện. Cụ thể tiền lương bình quân hàng tháng đạt
1,9triệu đồng/một người. Điều này chứng tỏ sự nỗ lực rất lớn của Ban giám đốc để nâng
cao hiệu quả kinh doanh.
Về lao động năm 2003 gồm có 601 người, năm 2004 là 586 người. Về cơ cấu tài sản
vốn của Công ty được biểu hiện qua bảng sau:

Bảng II: Kết cấu tài sản và nguồn vốn
Đơn vị: 1.000 đ
Năm 2003
Số tiền
TSCĐ
TSLĐ
Tổng tài sản

Nguồn vốn
Nợ phải trả
Vốn chủ sở
hữu
Tổng nguồn

55.819.705
137.485.66
1
193.305.36
6
129.138.47
1
64.166.895
193.305.36
6

Năm 2004

Tỷ
trọng
28,87
71,13
100

66,81
33,19
100

Số tiền


Chênh lệch (+/-)

Tỷ trọng

Số tiền

%

78.064.622
145.442.41
1
223.507.03
3

34,93
65,07

22.244.917
7.956.750

39,85
5,78

100

30.201.667

15,62


145.328.59
4
78.178.439
223.507.03
3

65,02
34,98

16.190.122
14.011.544

12,53
21,83

100

30.201.667

15,62

(Nguồn phòng Tài chính kế toán)
Trong 2 năm 2003-2004 tình hình hoạt động của Công ty vẫn còn gặp nhiều khó
khăn do bỡ ngỡ và còn lúng túng trong cơ chế thị trường, sản phẩm trong nước chưa đáp
ứng được nhu cầu của người thành phố, thêm vào đó sản phẩm nội địa bị cạnh tranh khốc
liệt với hàng Trung Quốc, Thái Lan. Tuy vậy với sự nỗ lực của Ban Giám Đốc và toàn thể
cán bộ công nhân viên nên mọi người đều có việc làm ổn định, thu nhập cao, doanh thu
tăng đều qua các năm. Trên thực tế Công ty đã không ngừng đào tạo nguồn lực, có các
biện pháp khuyến khích người lao động cả về vật chất lẫn tinh thần nên ngân sách lao động
ngày càng cao dẫn đến chất lượng lao động ngày càng tăng. .


23


2.2. Thực trạng TSCĐ của Công ty
Bảng III: Nguyên giá TSCĐ chia theo nguồn hình thành

Nguồn
Ngân sách
Tự bổ xung
Nguồn khác
Tổng

Năm 2003
Số tiền
Tỷ
6.298.422
15.643.036
87.996.545
109.938.00

Năm 2004
Số tiền
Tỷ

trọng
5,72
14,22
80,06


6.298.422
19.318.247
101.572.69

100

0
127.189.35

3

9

Chênh lệch
Số tiền
%

trọng
4,95
15,18
79,87

3.675.211
13.576.14

23,49
15,42

100


5
17.251.35

15,69

6
(Nguồn phòng Tài chính kế toán)

Qua bảng III cho thấy TSCĐ của Công ty được hình thành từ ba nguồn chính: nguồn
ngân sách, tự bổ xung, nguồn khác. Tính đến ngày 31/12/2004 thì tổng nguồn TSCĐ là
127,189 tỷ đồng trong đó nguồn đóng góp của các cổ đông là chủ yếu, chiếm 79,87%.
Nguồn ngân sách chiếm 4,95%, còn nguồn tự bổ xung chiếm 15,18%. Điều này chứng tỏ
Công ty hoàn toàn chủ động không phụ thuộc nhiều vào nguồn Ngân sách cấp nên có
nhiều thuận lợi trong việc sản xuất kinh doanh. Trong thời gian tới Công ty cần huy động
nhiều TSCĐ hơn nữa để đáp ứng yêu cầu sản xuất ngày càng phát triển.
2.3. Tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ
2.3.1. Tình hình mua sắm TSCĐ
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì việc tăng cường đổi mới trang thiết bị được
coi là một lợi thế để chiếm lĩnh thị trường. Một hệ thống được trang bị máy móc hiện đại,
đồng bộ sẽ góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp đối với các
doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp trong ngành bưu chính viễn thông cũng không nằm
ngoài số đó. Nắm bắt được tình hình này Công ty cổ phần thiết bị Bưu Điện đã nỗ lực cố
gắng không ngừng để hoàn thiện và đổi mới trang thiết bị của mình.
Bảng IV: Tình hình tăng giảm TSCĐ năm 2004
STT
Chỉ tiêu
1
Nguyên giá TSCĐ đầu năm
2
TCSĐ tăng trong năm

Do mua sắm, sửa chữa, đầu tư mới
Do đánh giá tăng TSCĐ xác định giá trị DN cổ phần
3

hoá
TSCĐ giảm trong năm
Do thanh lý
Do TSCĐ chuyển sang TSCĐ không cần dùng

24

Số tiền
127.189.561
17.982.469
10.122.511
7.859.957
118.763.628
6.467.904
23.188.849


4

Do góp vốn liên doanh
Lý do khác
Nguyên giá TSCĐ cuối năm

16.542.762
72.564.143
26.408.401

(Nguồn phòng Tài chính kế toán)

Năm 2004 TSCĐ của Công ty tăng lên 17,982 tỷ đồng trong đó mua sắm mới là
10,122 tỷ đồng và đánh giá tăng TSCĐ xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá là 7,859
tỷ đồng, đồng thời trong năm 2004 TSCĐ của Công ty cũng giảm đi đáng kể 118,163 tỷ
đồng. Nguyên giá TSCĐ cuối năm của Công ty giảm còn 26,408 tỷ đồng
2.3.2. Tình hình khấu hao TSCĐ và quản lý quỹ khấu hao của Công ty

Bảng V: Bảng tổng hợp tăng giảm hao mòn TSCĐ năm 2004
Đơn vị: 1000đ
Chỉ tiêu

Số tiền

1. Số khấu hao luỹ kế đầu năm

82.929.980

2. Số khấu hao luỹ kế tăng trong năm

14.227.313

- Do trích khấu hao TSCĐ

8.031.671

- Do trích khấu hao TSCĐ tăng mới

763.733


- Do điều chuyển

0

- Lý do khác

5.431.909

3. Số khấu hao luỹ kế giảm trong năm

74.929.638

- Do thanh lý

3.502.351

- Do góp vốn liên doanh

9.619.326

- Do TSCĐ chuyển sang TSCĐ không cần dùng
- Do chuyển thành công cu dụng cụ

22.994.431
517.115

- Lý do khác

38.296.415


4. Số khấu hao luỹ kế cuối năm

22.229.655

(Nguồn: Phòng TC - KT)
Qua bảng tổng hợp tăng giảm hao mòn TSCĐ của Công ty thì số tiền khấu hao luỹ kế đầu
năm của Công ty là 82.929.980 ngàn đồng, trong năm số khấu hao luỹ kế tăng lên 14.227.313
ngàn đồng trong đó các lý do chính như: do trích khấu hao TSCĐ là 8.013.671 ngàn đồng, do
trích khấu hao TSCĐ tăng mới là 763.733 ngàn đồng và một số lý do khác là 5.431.909. Tuy
nhiên số khấu hao luỹ kế giảm trong năm lại rất lớn (74.929.638 ngàn đồng), trong đó do TSCĐ
chuyển sang TSCĐ không cần dùng là 22.994.431 ngàn đồng, do góp vốn liên doanh 9.619.326
ngàn đồng và một số lý do khác. Qua phân tích ở bảng V cho thấy TSCĐ của Công ty đã quá cũ

25


×