Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Qua cơ sở lí luận về lạm phát, phân tích tình hình lạm phát và các biện pháp giải quyết lạm phát ở việt nam trong năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.96 KB, 31 trang )

LỜI NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

2


LỜI MỞ ĐẦU
Không lúc nào như thời gian từ năm 2008 đến nay, vấn đề lạm phát thu hút
rất nhiều sự quan tâm của nhiều nước khác nhau trên thế giới và một trong đó có
Việt Nam của chúng ta. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và
cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường,
các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng để tiếp cận, nắm bắt
những vấn đề của nền kinh tế mới. Riêng đối với nước ta, trong sự nghiệp phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước,
cơ chế mới sẽ là môi trường thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế theo xu hướng


hiện đại, chắt lọc thừa kế những thành tựu và khắc phục những tồn tại đã qua.
Trong đó, lạm phát nổi lên như là một vấn đề hết sức nghiêm trọng. Lạm phát như
một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi
sự đầu tư lớn về thời gian trí tuệ mới có thể mong muốn đạt được kết quả khả
quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các nhà doanh nghiệp mà còn là
nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến nền kinh tế quốc dân,
đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động ở nước ta hiện nay, chống lạm phát
để giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng
trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người nghiên cứu
và đề xuất ra các phương án khác nhau. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và chẳng bao
lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc trưng nổi
bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả của hầu hết các hàng hóa đều
tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh.
Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm phát là cần thiết, cấp bách, đặc biệt thấy
được tầm quan trọng của lạm phát trong vấn đề phát triển kinh tế mỗi quốc gia,
chúng em thiết nghĩ nghiên cứu đề tài: “Qua cơ sở lí luận về lạm phát, phân tích
tình hình lạm phát và các biện pháp giải quyết lạm phát ở Việt Nam trong năm

3


2010” này cũng là một phương pháp để hiểu nó một cách thấu đáo hơn, sâu sắc
hơn về tài chính tiền tệ.

4


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm và phân loại lạm phát:

1.1 Khái niệm
- Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi các
yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng,nhất là quy luật
lưu thông tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hoá , còn tồn tại những quan hệ hàng
hoá tiền tệ thì ở đó còn ẩn náu khả năng lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các
quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm.
- Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành tiền giấy
phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện
tiền giấy của mình". Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do nhà nước
phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền
giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện.
- Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó
được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường: "Lạm phát là sự tăng
lên của mức giá trung bình theo thời gian"
- Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát. Nó chính là GNP danh nghĩa/GNP
thực tế. Trong thực tế nó được thay thế bằng tỷ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giá
bán buôn Ip = Σip.d
Ip: chỉ số giá cả của từng loại nhóm hàng
d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng.
1.2 Phân loại lạm phát
Căn cứ vào tốc độ lạm phát người ta chia ra làm ba loại lạm phát khác nhau:
1.2.1 Lạm phát vừa phải
Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm
phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối.Trong thời kỳ này nền kinh tế
hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được
biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra với tình
5


trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn... Có thể nói lạm phát vừa

phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời
gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng
đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
1.2.2 Lạm phát phi mã
Lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số
một năm. Ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng,
gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân
tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi
suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng
kinh tế nghiêm trọng.
1.2.3 Siêu lạm phát
Xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi
mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá
cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá
nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và
hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít
khi xảy ra. Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát
triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và trầm
trọng hơn. Vì vậy các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại.Lạm phát kinh niên
kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dướ 50% một năm; lạm phát nghiêm trọng
thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50%; siêu lạm phát kéo dài trên
một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.
Xem xét các cuộc siêu lạm phát xảy ra người ta đã rút ra một nét chung là:
thứ nhất tốc độ lưu thông của tiền tệ tăng lên ghê gớm; thứ hai giá cả tăng nhanh
và vô cùng không ở định; thứ ba tiền lương thực tế biến động rất lớn thường bị
giảm mạnh; thứ tư cùng với sự mất giá của tiền tệ mọi người có tiền đều bị tước
đoạt ai có tiền càng nhiều thì bị tước đoạt càng lớn; thứ năm hầu hết các yếu tố của

6



thị trường đều bị biến dạng bóp méo hoặc bị thổi phồng do vậy các hoạt động kinh
doanh rơi vào tình trạng rối loạn. Siêu lạm phát thực sự là một tai hoạ, song điều
may mắn siêu lạm phát là hiện tượng cực hiếm. Nó đã xảy ra trong thời kỳ chiến
tranh, sau chiến tranh.
Có thể có một cách phân loại lạm phát tuỳ theo tác động của chúng đối với
nền kinh tế. Nhà kinh tế học người Mỹ PaunA. Samuelson đã phân biệt lạm phát
cân bằng và có dự đoán trước với lạm phát không cân bằng và không được dự
đoán trước. Theo Samuelson trong trường hợp lạm phát cân bằng và có dự đoán
trước, toàn bộ giá cả đều tăng và tăng với một chỉ số ổn định được dự báo, mọi thu
nhập cũng tăng theo. Chẳng hạn mức lạm phát là 10% và mọi người sẽ điều chỉnh
hoạt động của mình theo thuớc do đó. Nếu lãi suất thực tế là 6% một năm thì nay
những người có tiền cho vay sẽ điều chỉnh mức lãi suất này lên tới 16% một năm.
Công nhân viên chức sẽ được tăng lương lên 10% một năm... Vậy là một cuộc lạm
phát cân bằng và có dự đoán trước đã không gây ra một tác hại nào đối với sản
lượng thực tế, hiệu quả hoặc phân phối thu nhập.Trên thực tế hiếm có thể xảy ra
một cuộc lạm phát như vậy, vì khi một khối lượng tiền tệ được ném thêm vào lưu
thông, già cả mọi hàng hoá không vì thế mà tăng ngay, và nếu lạm phát chưa sang
giai đoạn phi mẫ thí mức gia tăng mức đầu thường là thấp hơn mức tăng khồi
lượng tiền tệ, do vậy nhà nước đã có lợi về thu nhập và ngay khi mức giá cả tăng
lên ngang hoặc cao hơn mức tăng của khối lượng tiền tệ thì nhà nước vẫn có lợi vì
giá trị tiền tệ của những người cho nhà nước vay tiền đã giảm đi. Chỉ đến khi toàn
bộ giá cả kể cả lãi suất và tiền lương đều tăng theo mức lạm phát thu thu nhập của
nhập của nhà nước mới cân bằng trên một mặt bằng giá cả mới. Hơn nữa trong
thực tế rất khó dự báo được một chỉ số lạm phát ổn định, vì có khá nhiều yếu tố
làm giá cả tăng vọt như: giá dầu mỏ đã tăng trong những năm 70, hay trong sự
kiện chiến tranh vùng vịnh.

7



Song có thể thấy một loại lạm phá vừa phải được điều tiết đã xuất hiện ở một
số nươc có nền kinh tế thị trường. Loại lạm phát này có đặc trưng là mức độ lạm
phát không lớn và ổn định, không tăng đột biến và nhà nước có thể điều tiết nó,
tăng, giảm tuỳ theo các điều kiện cụ thể sao cho nó không gây ra các tác hại đáng
kể cho nền kinh tế. Loại lạm phát này chỉ có thể xuất hiện ở những quốc gia mà ở
đó bộ máy nhà nước đủ mạnh để kiềm chế tốc độ lạm phát khi cần. Sức mạnh cuả
nhà thể hiện ở chỗ có đủ hiểu biết về lạm phát và các công cụ chống lạm phát( mà
ngày nay đã có khá nhiều tài liệu nói đến), đồng thời phải có đủ ý chí và quyết tâm
sử dụng các công cụ đó và giải quyết các hậu quả của nó. Trong những năm 80 ta
đã thấy không ít quốc gia TBCN phát triển ở phương Tây đã làm được điều đó.
Mức lạm phát mà họ duy trì được vào khoảng từ 3-6% một năm. Mức lạm phát
này được xem như một chỉ số cộng thêm vào mức tăng lương thực tế, lãi suất thực
tế mức tăng tổng sản phẩm xã hội thực tế.
Paul A. Samuelson còn nói tới một loại lạm phát không cân bằng và không
dự đoán trước. Sự không cân bằng sảy ra là vì giá cả hàng hoá tăng không đều
nhau và tăng vượt mức tiền lương. Thứ hai, tiền tệ và thuế là hai công cụ quan
trọng nhất để nhà nước điều tiết nền kinh tế đã bị vô hiệu hoá, vì tiền mất giá nên
không ai tin vào đồng tiền nữa các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp với mức độ
tăng bất ngờ cua lạm phát và do vậy tác dụng đieu chỉnh của thuế bị hạn chế ngay
cả trong trường hợp nhà nước có thể “chỉ số hoá” luật thuế thích hợp mức lạm
phát thì tác dụng điều chỉnh của thuế cũng bị hạn chế. Thứ ba, phân phối lại thu
nhập làm cho một số người nắm giữ các hàng hoá có giá cả tăng đột biến giầu lên
một cách nhanh chóng và những người có các hàng hoá mà giá của chúng không
tăng hoặc tăng chậm, và những người giữ tiền bị nghèo đi. Thứ tư, kích thích tâm
lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản và vàng bạc... gây ra tình trạng khan
hiếm hàng hoá không bình thường và lãng phí. Thứ năm, xuyên tạc, bóp méo các
yếu tố của thi trường, làm cho các điều kiện của thị trường bị biến dạng hầu hết
các thông tin kinh tế đều thể hiện trên giá cả hàng hoá, giá cả tiền tệ( lãi suất), giá


8


cả lao động... một khi những giá cẩ náy tăng hay giảm đột biến và liên tục thì
những yếu tố của thị trường không thể tránh khỏi bị thổi phồng hoặc bóp méo.
Do những tác hại nêu trên, loại lạm phát không cân bằng và không dự đoán trước
về cơ bản là có hại cho hoạt động của thi trường.
2. Nguyên nhân lạm phát
2.1 Lạm phát theo thuyết tiền tệ
Kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá... có nhiều nguyên nhân dẫn đến
lạm phát. Chẳng hạn thời tiết không thuận, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá
lương thực tăng lên. Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá cả hàng tiêu dùng tăng
lên. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng theo, dẫn đến giá các mặt hàng
cũng tăng. Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên
tục mức giá chung và có thể giải thích theo 3 cách.
- Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung
tiền.
- Theo học thuyết Keynes, lạm phát xẩy ra do thừa cầu về hàng hoá và dịch vụ
trong nền kinh tế (do cầu kéo).
- Theo học thuyết chi phí đẩy, lạm phát sinh ra do tăng chi phí sản xuất (chi phí
đẩy)
Trên thực tế lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên, mỗi nguyên
nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau.
Mức cung tiền là một biến số duy nhất trong đẳng thức tỷ lệ lạm phát, mà dựa vào
đó ngân hàng Trung ương đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp. Trong việc chống lạm
phát, các ngân hàng Trung ương luôn giảm sút việc cung tiền.
Tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách:
- Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi suất thấp và điều kiện kinh
doanh tốt).
- Các ngân hàng thương mại có thể tăng tín dụng

Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về
mặt trung hạn và dài hạn, điều đó dẫn tới cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu
9


cung không tăng tương ứng với cầu, thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng
giá. Tuy nhiên, giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền
để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng.
Ví dụ:
Năm 1966 - 1967 chính phủ Mỹ đã sử dụng việc tăng tiền để trả cho những chi phí
leo thang của cuộc chiến tranh tại Việt Nam, lạm phát tăng từ 3% (năm 1967) đến
6% (năm 1970).
Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản lượng thực tế (y) đạt mức cân bằng,
nghĩa là (i) và (y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không
đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với tỷ lệ
tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây là lý do tại sao ngân hàng
Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này.
2.2 Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát cầu kéo)
Tăng cung tiền không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến tăng cầu về
hàng hoá, dịch vụ. Tăng tiêu dùng, chi phí công cộng và tăng dân số là những
nhân tố phi tiền tệ, sẽ dẫn đến tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau 1 đến 3 năm,
nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng
hoặc do sử dụng máy móc với công suất tiến tới giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất
không đáp ứng được sự gia tăng của cầu. Sự mất cân đối đó sẽ được giá cả lấp
đầy. Lạm phát do cầu tăng lên hay lạm phát do cầu kéo được ra đời từ đó. Chẳng
hạn ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát
trong tương lai ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát tăng.
2.3 Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy
Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng tăng thêm thất
nghiệp nên còn gọi là lạm phát "đình trệ" Hình thức của lạm phát này phát sinh ra

từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng.
Điều này chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng
sẵn sàng trả với giá cao hơn.
Ví dụ:
10


Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ.
Nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng
lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì
giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn
trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên, điều đó tạo thành vòng xoáy lượng
giá.
Một yếu tố chi phí chính khác là giá cả nguyên vật liệu đặc biệt là dầu thô.
Trong năm 1972 - 1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng
từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên toàn thế giới.
Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp
chưa từng thấy.
Bên cạnh những yếu tố gây nên lạm phát đó là giá nhập khẩu cao hơn được
chuyển cho người tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu càng trở nên đắt đỏ khi đồng nội
tệ yếu đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác. Ngoài ra yếu tố tâm lý
dân chúng, sự thay đổi chính trị, an ninh quốc phòng... Song nguyên nhân trực
tiếp vẫn là số lượng tiền tệ trong lưu thông vượt quá số lượng hàng hoá sản xuất
ra. Việc tăng đột ngột của thuế (VAT) cũng làm tăng chỉ số giá.
2.4 Lạm phát dự kiến
Trong nền kinh tế, trừ siêu lạm phát, lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có
xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả trong trường hợp này tăng đều
một cách ổn định. Mọi người thể dự kiến được trước nên còn gọi là lạm phát dự
kiến.
2.5 Các nguyên nhân khác

Giữa lạm phát và lãi suất khi tỷ lệ lạm phát tăng lên lãi suất danh nghĩa tăng
theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này
đặc biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất giá càng nhanh, tăng mức độ
tiền gửi vào ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị trường để mua về mọi
loại hàng hoá có thể dự trữ gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị trường hàng
hoá và tiếp tục đẩy giá lên cao. Giữa lạm phát và tiền tệ khi ngân sách thâm hụt
11


lớn các chính phủ có thể in thêm tiền để trang trại, lượng tiền danh nghĩa tăng lên
là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Và một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt
mới nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng
vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy
nhiên, chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay dân thông qua bán tín
phiếu. Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không có nguy cơ lạm phát,
nhưng nếu thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn lãi) sẽ lớn
đến mức cần phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là điều chắc
chắn.
Các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế,
chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý. Các chủ thể kinh doanh làm tăng chi phí
đầu vào, nguyên nhân do nước ngoài.
3. Những tác động của lạm phát:
Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau
đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm
phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của
nó.
- Đối với lĩnh vực sản xuất:
Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động
không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của
đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh sản xuất ở một vài danh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế.

Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy
cơ phá sản rất lớn.
- Đối với lĩnh vực lưu thông
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các nhà
doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm
phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải
rủi ro cao. Do có nhiều người tham giâ vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở
12


nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh
chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm
thúc đẩy lạm phát gia tăng.
- Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng:
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số
người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do
lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay,
cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi
không làm an tâm những người hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về
phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách
nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường
nữa. Chức năng kinh doanh tiền bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn
nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt.
- Đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước:
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát
xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị
trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và
kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn
đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm... các
ngành, các lĩnh vực dự định đựơc chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại

hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải
thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được.

13


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ BIỆN PHÁP
KHẮC PHỤC
1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua.
Trong quá khứ Việt Nam có thời gian phải chịu lạm phát phi mã, với mức
sụt giá của tiền đồng lên đĩnh hơn 700% vào năm 1987. Kể từ năm 1993, lạm phát
đã được khống chế khá tốt và thường dưới 2 con số.
Giai đoạn từ năm 1999 đến 2001 là thời kì lạm phát thấp nhất của Việt Nam.
Trong khoảng thời gian này, CPI lần lượt chỉ ở mức 0,1%, -0,6% và 0,8%. thời kì
này gắn liền với giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997-1998.
lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng cao từ năm 2004, cùng với giai đoạn bùng nổ
của kinh tế thế giưói và việc tăng giá của nhiều loại hàng hoá. Năm 2007, chỉ số
CPI tăng đến 12,6% và đặc biệt tăng cao vào những tháng cuối năm.
Năm 2008 là một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cũng như tình hình
lạm phát ở Việt Nam. CPI đã liên tục tăng cao từ đầu năm, và mức cao nhất của
CPI tính theo năm của năm 2008 đã lên đến 30%. Kết thúc năm 2008, chỉ số CPI
tăng 19.89%, tính theo trung bình năm tăng 22.97%.
Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều
hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI
năm 2009 tăng 6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy, mức
tăng này nếu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao hơn khá
nhiều.
Năm 2010, chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát CPI cuối kỳ khoảng 7%. Tuy
nhiên theo Tổng cục thống kê vừa công bố thì mức lạm phát ở 2 con số của việt
Nam trong 2010 đã được khẳng định là 11,75% tăng gần 5% so với chỉ tiêu Quốc

hội đề ra đầu năm.

14


Trong tháng 12/2010, mức tăng giá tiêu dùng (CPI) của cả nước là 1,98%,
cũng là mức tăng cao nhất trong năm. Đóng góp chủ yếu vào con số này là mức
tăng giá ở khu vực hàng ăn và dịch vụ ăn uống, tăng 3,31% (riêng lương thực tăng
tới 4,67%). Cũng trong tháng này, giá nhà ở và vật liệu xây dựng cũng tăng mạnh
tới 2,53%.
Tuy nhiên, tính chung trong cả năm 2010, giáo dục mới là nhóm tăng giá
mạnh nhất trong rổ hàng hóa tính CPI (gần 20%). Tiếp đó là hàng ăn (16,18%) và
nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm
giá với mức giảm gần 6% trong năm 2010.
Về các địa phương, việc Hà Nội và TP HCM có mức tăng giá (lần lượt là
1,83% và 1,61%) thấp hơn so với trung bình cả nước trong tháng 12 là một diễn
biến khá bất ngờ. Trong khi đó, những địa phương có mức trượt giá mạnh trong
tháng (khoảng 2%) là Thái Nguyên, Hải Phòng và Gia Lai.
Trong tháng 12, giá vàng và đôla Mỹ không leo thang mạnh như những
tháng trước (lần lượt tăng 5,43% và 2,86%). Tuy nhiên, tính chung trong cả năm
2010, giá vàng đã tăng tới 30% trong khi mức tăng của đôla Mỹ là xấp xỉ 10%.

15


2. Đặc trưng lạm phát của nước ta
Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống với lạm phát ở
các quốc gia khác như: chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến do vậy giá trị của
đồng tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có đặc trưng riêng do điều kiện kinh tế
xã hội cụ thể:

- Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế nhà nước
có địa vị thống trị. Nền kinh tế Việt Nam thuộc loại kém phát triển nhất thế giới,
các chỉ tiêu bình quân đầu người rất thấp. Khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam
chiếm 1 tỷ trọng lớn hiếm có trên thế giới. Mặc dù khu vực nhà nước chiếm phần
lớn số vốn đầu tư và chất xám trong cả nước nhưng lại chỉ có thể làm ra từ 30% 37% tổng sản phẩm xã hội. Các xí nghiệp quốc doanh nhìn chung đã nộp cho ngân
sách nhà nước một số tiền thấp rất xa so với số tiền nhà nước cung cấp cho nó qua
bù lỗ, bù giá, cấp phát tín dụng, lãi suất thấp... Đúng ra khu vực kinh tế nhà nước
phải đem lại nguồn thu chủ yếu cho xã hội thì ở đây lại ngược lại. Khu vực kinh tế
tư nhân làm ăn có hiệu quả hơn và đóng góp một phần quan trọng trong ngân sách
của nhà nước. Chính hoạt động của các hãng kinh tế nhà nước với lãi giả, lỗ thật
đã đẩy nền kinh tế lạm phát, thị trường rối loạn, lỗ lãi khó kiểm tra. Sự giảm sút
hiệu quả sản xuất kinh doanh dẫn đến vòng luẩn quẩn. Hiệu quả giảm sát dẫn đến
thu không đủ bù chi và lạm phát, rồi lạm phát làm cho hiệu quả kinh doanh tiếp
tục giảm sút, cứ như vậy nó làm cho nền kinh tế Việt Nam càng lún sâu vào đói
nghèo, lạc hậu.- Lạm phát của một nền kinh tế độc quyền mà nhà nước có địa vị
thống trị trên mọi lĩnh vực, cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp. Trong nền kinh tế thị
trường sự cạnh tranh ắt sinh ra một công ty thắng thế chiếm vị trí độc quyền. Để
đạt được điều đó, phải tiến hành cải tiến máy móc, trang thiết bị, tổ chức lao động,
tập trung nguồn vốn ... Nhưng khi ở vị trí độc quyền công ty sẽ bóp chết các địch
thủ khác và cũng ít chú ý hơn đến việc áp dụng tiến bộ KHKT dẫn đến sự suy
thoái trong kinh doanh. Nếu công ty này nhỏ thì sự ảnh hưởng của nó đến nền kinh
tế sẽ không có nhiều hiệu quả tiêu cực. nhưng nếu đó là một công ty lớn thì sự suy
thoái này sẽ kéo theo cả nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng. Trên thực tế,
16


độc quyền ở Việt Nam cũng như ở các nướcXHCN khác đã khống chế toàn bộ các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Chế độ độc quyền nhà nước và cơ chế hoạch định
quan liêu, mệnh lệnh đã triệt tiêu mất các quan hệ thị trường ở Việt Nam làm cho
nền kinh tế Việt Nam xa lạ với thị trường. Đây cũng là nguyên nhân đáng chú ý

trong việc góp phần tăng lạm phát.
- Lạm phát của một nền kinh tế đóng, phụ thuộc một chiều vào các nguồn tài trợ từ
bên ngoài. Việt Nam đóng cửa nền kinh tế, không quan hệ kinh tế với các nước
TBCN. Chính sách này ra đời do sự thù địch, cấm vậncủa Mỹ. Nguyên nhân nữa
dẫn đến sự đóng góp của nền kinh tế là do sự đối đầu đông tây mà Việt Nam và
các nước XHCN là 1 cực. Sự bó hẹp nền kinh tế này đã dẫn đến những khó khăn
đáng kể cho sản xuất kinh doanh.
- Ngoài những đặc điểm trên thì lạm phát Việt Nam có cơ cấu của nó bao gồm
những ngành kém hiệu quả có được sự ưu tiên phát triển. Mọi người đều thấy sự
mất cân đối khi ưu tiên phát triển công nghiệp nặng (vốn lớn, thu hồi lãi chậm).
- Lạm phát ở một nước chịu ảnh hưởng nặng nề của các cuộc chiến tranh kéo dài
do đó chi phí cho lĩnh vực quốc phòng lớn, tiền trợ cấp gia đình chính sách...
Những khoản này đã làm tăng thêm thâm hụt ngân sách và tăng lạm phát.
- Việt Nam là nước nông nghiệp mà luôn chịu ảnh hưởng của thiên tai, hạn hán,
mất mùa... Do đó, ngân sách hụt đi do phải chi ra 1 khoản trợ cấp cho các vùng
thiên tai.
3. Nguyên nhân thực sự gây ra lạm phát cao ở Việt Nam
Có thể tóm tắt các yếu tố tác động đến lạm phát xuất phát từ 3 nguyên nhân
chính: cung tiền tăng quá mức, giá hàng hóa thế giới tăng cao đột ngột, và sức cầu
về hàng hóa trong nước tăng trong khi sản xuất chưa đáp ứng kịp.
Thời gian qua, nhiều ý kiến đồng thuận cho rằng cung tiền được xem là nguyên
nhân chính gây ra lạm phát ở Việt Nam. Từ năm 2000 đến năm 2009, tín dụng
trong nền kinh tế tăng hơn 10 lần, cung tiền M2 tăng hơn 7 lần, trong khi đó GDP
thực tế chỉ tăng hơn 1 lần. Điều này tất yếu dẫn đến đồng tiền bị mất giá. Thực tế

17


chúng ta dễ nhận thấy là lạm phát ở Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các quốc
gia khác trong cùng thời kỳ, mặc dù cùng chịu chung cú sốc tăng giá của hàng hóa

thế giới.
Tại sao Việt Nam cần một mức tăng trưởng cung tiền cao như vậy? Nguyên
nhân là do tỷ lệ đầu tư/GDP trong nền kinh tế Việt Nam khá cao, nhưng lại không
tạo ra được một tốc độ tăng trưởng kinh tế tương ứng.
Hàng năm, đầu tư trong nền kinh tế đều quanh mức 40% GDP. Tỷ lệ đầu tư
lớn này đòi hỏi một mức tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao để phục vụ nhu cầu
đầu tư. Trong khi đó, tăng trưởng GDP chỉ quanh mức 7%, thậm chí năm 2008 và
2009 chỉ lần lươt đạt mức 6.19% và 5.32%. Điều này cho thấy chất lượng tăng
trưởng, đầu tư và phát triển ở Việt Nam vẫn cần được tiếp tục cải thiện. Đây là
nguyên nhân sâu xa khiến cho lạm phát luôn ở trong tình trạng chực chờ, ảnh
hưởng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Ngoài nguyên nhân tiền tệ kể trên, chúng ta xem xét những nguyên nhân còn
lại xuất phát từ phía cầu và phía cung hàng hóa (lạm phát chi phí đẩy (cost push)
và cầu kéo (demand pull)). Đây là những nguyên nhân trực tiếp và dễ thấy nhất.
Trong năm 2007, sự bùng nổ của nhu cầu tiêu dùng trong nước đã góp phần
làm lạm phát tăng tốc. Cũng trong khoảng thời gian đó, giá cả của hàng loạt
nguyên nhiên liệu như xăng dầu, sắt thép, và lương thực đều tăng mạnh, kích hoạt
cho một đợt tăng giá mạnh mẽ của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ trong nước.
Lạm phát cao nhất tính theo năm đã lên tới 28% vào tháng 8/2008. Cuối năm
2008, với sự lao dốc của hầu hết các hàng hóa trên thế giới, lạm phát trong nước
cũng được chặn đứng. Lạm phát giảm xuống mức thấp nhất chỉ còn 1.97% vào
tháng 8/2009
4. Những yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát trong năm 2010
Chúng ta vừa xem xét thực tế lạm phát ở Việt Nam và một số nguyên nhân
chủ yếu. Sau đây chúng ta phân tích các yếu tố có thể tác động đến lạm phát trong

18


năm 2010 dưới ba nhóm chính: (i) nguyên nhân chi phí đẩy (tăng giá xăng dầu,

điện nước, điều chỉnh tỷ giá...), (ii) nguyên nhân cầu kéo (kích cầu, thâm hụt ngân
sách…), (iii) nguyên nhân tiền tệ (tăng cung tiền, tăng tín dụng…).
4.1.Điều chỉnh giá điện, xăng dầu và một số hàng hóa cơ bản khác
Sau dịp Tết Nguyên đán, giá nhiều mặt hàng cơ bản đã được điều chỉnh tăng.
Giá điện tăng 6.8% từ 01/3/2010, giá xăng dầu điều chỉnh tăng 6.5% (tổng cộng 2
lần), than bán cho ngành điện tăng từ 28 – 47%. Phần lớn ý kiến đều quan ngại
việc tăng giá điện và các hàng hóa cơ bản này sẽ ảnh hưởng mạnh đến giá cả hàng
hóa trong toàn bộ nền kinh tế và mức tăng trưởng GDP.
Tuy vậy, theo tính toán của Bộ Công thương việc tăng giá điện tác động trực
tiếp chỉ làm CPI tăng 0.16%. Một số ngành công nghiệp với chi phí tiền điện cao
(chiếm 30 - 40% giá thành) như cấp nước, điện phân… giá đầu ra sản phẩm tăng
thêm khoảng 2.83 – 3.5%. Những ngành sản xuất thâm dụng năng lượng khác như
cán thép, xi măng giá thành tăng thêm khoảng 0.20 – 0.69%. Tổng hợp chi phí tiêu
dùng cuối cùng chỉ tăng từ 0.19 – 0.27%.
Thực tế, ước lượng mức độ tác động thực sự của việc tăng giá hàng hóa cơ
bản này đến CPI là việc làm khó khăn. Việc tăng giá điện, xăng dầu ngoài ảnh
hưởng đến chi phí sản xuất, còn tác động lên kỳ vọng của người tiêu dùng. Nếu kỳ
vọng về mức lạm phát cao trong tương lai thì mức lạm phát thực tế càng trở nên
trầm trọng. Điều này thường xảy ra đối với những nền kinh tế mà cơ chế thị
trường kém hiệu quả.
4.2 Ảnh hưởng của việc điều chỉnh tỷ giá
Ngày 10/02, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết định điều chỉnh tỷ giá liên
ngân hàng tăng thêm 3.3%, đưa mức trần tỷ giá chính thức lên 19,100 VND/USD.
Nhiều nhận định cũng quan ngại về việc điều chỉnh tỷ giá này sẽ ảnh hưởng tới đà
tăng giá của hàng hóa trong nước, vì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hiện nay đã
bằng khoảng 1.5 lần GDP.

19



Nhiều mặt hàng tiêu dùng thiết yếu của Việt Nam bị ảnh hưởng khá mạnh
bởi tỷ giá. Vừa qua một số hàng hóa như sữa, sắt thép… cũng điều chỉnh giá bán
sau khi tỷ giá được điều chỉnh. Hiện nay, nhiều nhận định còn cho rằng tỷ giá tiền
đồng vẫn có khả năng tiếp tục được điều chỉnh trong thời gian tới. Do vậy, đây
cũng là một trong những nguyên nhân rất đáng được quan tâm.
4.3 Hiệu ứng từ việc tăng lương tối thiểu
Năm 2010, mức lương cơ bản được điều chỉnh tăng khoảng 10-15%, tùy
từng khu vực. Việc tăng lương tối thiểu sẽ ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của
doanh nghiệp và ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa. Ngoài ra, việc tăng lương tối thiểu
cũng có thể tạo ra một hiệu ứng tăng giá ăn theo trên thị trường.
4.4 Lạm phát do yếu tố cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xuất phát từ sự chênh lệch cung cầu làm cho giá hàng
hóa biến động mạnh. Khi nhu cầu tăng cao đột biến trong khi nguồn cung chưa kịp
thay đổi hoặc ngược lại khi nguồn cung giảm xuống cầu vẫn giữ nguyên đều làm
cho giá hàng hóa tăng. Trong dịp Tết Âm lịch vừa qua, giá của nhiều hàng hóa
tăng một cách đột biến là do nguyên nhân cầu kéo.
Năm 2009, các gói kích thích kinh tế và việc tăng chi tiêu của chính phủ
khiến nhu cầu một số hàng hóa tăng mạnh. Hiệu ứng từ việc gia tăng nhu cầu này
tiếp tục kéo dài sang năm 2010, gây sức ép lên giá cả nhiều hàng hóa. Ngoài ra,
năm 2010 người dân có thể sẽ tăng cường chi tiêu khi triển vọng kinh tế khả quan
hơn, tạo ra một sức cầu lớn hơn đối với nhiều loại hàng hóa.
4.5 Lạm phát từ nguyên nhân tiền tệ
Năm 2009, chính sách tiền tệ được mở rộng, lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc
được ấn định ở mức thấp. Tăng trưởng tín dụng năm 2009 lên đến 37.74%, và là
mức khá cao so với trung bình những năm vừa qua. Tăng trưởng cung tiền M2 lên
mức 28.7%, mức tăng này thấp hơn so với năm 2006 và 2007, nhưng vẫn khá cao
so với năm 2008 và những năm còn lại trước đó.
20



Tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao trong năm 2009 sẽ ảnh hưởng đến
lạm phát trong năm 2010. Chúng ta đều biết lạm phát có quan hệ chặt chẽ với cung
tiền, nhưng thường có độ trễ từ 5 – 7 tháng
5. Các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam hiện nay
5.1 Các quan điểm về khắc phục lạm phát
Tăng lãi suất ngân hàng cao hơn mức lạm phát. Thuyết tiền tệ của Friedman
được áp dụng. Muốn khắc phục lạm phát cần phải thi hành chính sách "hạn chế
tiền tệ" hay "khắc khổ" thu, tăng lãi suất tín dụng của ngân hàng trung ương, hạn
chế tăng lương, duy trì thất nghiệp ở mức thấp.
Đối với mọi cuộc siêu lạm phát và lạm phát phi mã, hầu như đều gắn liền
với sự tăng trưởng nhanh chóng về tiền tệ, thâm hụt ngân sách lớn… nên đề ra
biện pháp giảm mạnh tốc độ tăng cung tiền, cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu và kiểm
soát có hiệu quả việc tăng lương danh nghĩa, chắc chắn sẽ chặn đứng và đẩy lùi
lạm phát.
Đối với lạm phát vừa phải, muốn kiềm chế và đẩy lùi từ từ xuống mức thấp
hơn cũng đòi hỏi áp dụng các chính sách nói trên. Tuy nhiên, biện pháp này kéo
theo suy thoái và thất nghiệp - một giá đắt- nên việc kiểm soát chính sách tiền tệ
và tài khoá trở nên phức tạp và đòi hỏi phải thận trọng.
Có thể xoá bỏ lạm phát hay không? Cái giá phải trả của việc xoá bỏ hoàn
toàn lạm phát không tương xứng với lợi ích đem lại của nó, vì vậy các quốc gia
thường chấp nhận lạm phát ở mức thấp và xử lý ảnh hưởng của nó chỉ số hoá các
yếu tố chi phí như tiền lương, giá vật tư, lãi suất… Đó là cách làm cho sự thiệt hại
của lạm phát là ít nhất.
Có nhiều áp lực buộc chính phủ phải tăng chi ngân sách, nhưng ngược lại
không mấy sức ép để tăng thêm thu nhập.Và chính phủ sẽ có thể sẽ khó cưỡng lại
cám dỗ in thêm tiền một lần nữa khi việc phát hành trái phiếu gặp khó khăn. Khi
tiền viện trợ được rót vào, chính phủ sẽ thấy rằng nhiều dự án đòi hỏi phía Việt
Nam phải đồng tài trợ bằng tiền trong nước. Những đòi hỏi này rõ ràng sẽ làm

21



tăng thêm gánh nặng cho ngân sách vốn đã eo hẹp (trừ phi tìm được cách thúc đẩy
tích luỹ trong nước và kiểm soát được chi tiêu ngân sách) do đó có thể tăng nhanh
đầu tư mà không gây nên lạm phát
Lĩnh vực tài chính - tiền tệ đạt tiến bộ đáng kể, nổi bật nhất là đã chặn được
nạn lạm phát cao, từng bước đẩy lùi lạm phát.
5.2. Biện pháp chống lạm phát ở Việt Nam
Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế đạt mục tiêu dân
giầu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nước, vấn đề chống lạm phát cần được bảo đảm và luôn duy trì
ở mức hợp lý. Trong những năm gần đây, cuộc đấu tranh kiềm chế và đẩy lùi lạm
phát tuy đã thu được kết quả nhất định, nhưng kết quả chưa thật vững chắc và
nguy cơ tái lạm phát cao vẫn còn tiềm ẩn. Do đó kiềm chế và kiểm soát lạm phát
vẫn là một nhiệm vụ quan trọng.Vậy để thực hiện chống lạm phát chúng ta có
những chủ trương và giải pháp sau: Tập chung mọi nguồn lực, nâng cao năng suất
lao động, triệt để tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất để đẩy mạnh sản xuất. Thủ tướng
chính phủ đã giao cho bộ kế hoạch và đầu tư phối hợp với các Bộ các ngành có
liên quan nghiên cứu bổ sung hoàn thiện các cơ ché chính sách chung về quản lý
kinh tế, bảo đảm các cân đối lớn cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững;
tập chung mọi nguồn lực nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất với hiệu quả ngày
càng cao; giữ vững chấn chỉnh hệ thống doanh nghiệp Nhà nước để hoạt động có
hiệu quả hơn, sắp xếp tốt mạng lưới lưu thông hàng hoá, xây dựng khối lượng dự
trữ lưu thông đủ mạnh, nhất là những mặt hàng thiết yếu, để Nhà nước có khả
năng can thiệp vào thị trường, bình ổn giá cả, tạo môi trường thuận lợi để các
doanh nghiệp hoạt động bình đẳng, tham gia cạnh tranh lành mạnh, hàng hoá lưu
thông thông suốt từ sản xuất đến tiêu dùng.
5.2.1 Các giải pháp tiền tệ tài chính:
Khống chế tổng phương tiện thanh toán phù hợp vơí yêu cầu của tăng
trưởng kinh tế mức tăng tối đa trong khoảng 21%; dư nợ tín dụng tăng khoảng 2126%, huy động vốn tăng 40-45%, trong đó vốn trong nước tăng 19-20%; tiếp tục

22


điều chỉnh lãi suất và tỷ giá phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế-xã hội
trong giai đoạn mới. Để thực hiện ục tiêu trên. ngân hàng nhà nước phải phối hợp
chặt chẽ với bộ kế hoạch và đầu tư. Bộ tài chính và các Bộ, các ngành có liên quan
tập trung thực hiện kiên quyết một số giải pháp sau đây:
- Tiếp tục triển khai phát triển thị trường vốn ngắn hạn, củng cố thị trường tín
phiếu kho bạc. Ngân hàng nhà nước cần phối hợp với Bộ tài chính tổ chức điều
hành có hiệu quả hoạt động của các thị trường này nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, góp phần kiểm soát lạm phát nhất là trong dip tết nguyên đán.
- Ngân hàng nhà nước điều hành chặt chẽ phương tiện thanh toán đã dự kiến:Thu
hồi nợ đến hạn và quá hạn, không chê hạn mức tín dụng kiểm soát định mức dự
trữ bắt buộc theo pháp lệnh Ngân hàng, loại bỏ tín phiếu kho bạc trong cơ cấu dự
trữ bắt buộc và tăng tương ứng phần tiền gửi trên tài khoản của Ngân hàng nhà
nước.
- Ngân hàng Nhà nước cần sơ kết kinh nghiệm điều hàng thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng để có những sửa đổi bổ sung cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu mua bán
ngoại tệ giữa các ngân hàng với các tổ chức kinh tế. Việc mua ngoại tệ của ngân
hàng nhà nước chỉ thực hiện khi có Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. tăng
cường kiểm tra kiểm soát và từng bước thực hiện nhanh hơn chủ trương “ trên đất
Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt nam.
- Bên cạnh các công cụ điều hành chính sách tiền tệ trực tiếp, cần áp dụng thành
các chuyển gián tiếp để điều hành lãi suất thị trường, điều hoà lưu thông tiền tệ,
mở rộng việc thanh toán. Ngân hàng nhà nước theo dõi kiểm tra tại các ngân hàng
thương mại việc giảm lãi suất cho vay so với hiện nay để có phương án giảm tiếp
lãi suất cho vay kích thích đầu tư.
5.2.2 Các biện pháp về ngân sách nhà nước.
- Phấn đấu tăng thu, thực hiện triệt để tiết kiệm chi nhằm giảm bội chi ngân sách
nhà nước, tăng dự trữ tài chính bảo đảm cân đối ngân sách nhà nước vững chắc,

lành mạnh là biện pháp cơ bản để góp phần kiềm chế lạm phát. Các ngành, các cấp
phải có việc chỉ đạo thu, chi ngân sách là nhiệm vụ trọng tâm của mình.
23


- Đi đôi với việc nghiên cứu chính sách thuế. Bọ tài chính, Tỏng cục hải quan và
uỷ ban nhân dân các cấp cần tăng cường công tác quản lý thu và chống thất thu
thuế, bảo đảm thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật. Phối hợp với các
nghành các cấp quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế, đấu tranh chống buôn lậu và
kinh doanh trái pháp luật, khai man doanh số và chầy ỳ trong việc nộp thuế. Tổ
chức thanh tra và kiêm tra việc thu thuế, cải tiến thủ tục nộp thuế, tránh phiền hà
cho người nộp thuế.
- Các Bộ ngành địa phương và đơn vị cơ sở thực hiện nghiêm túc chỉ thi của Ban
Bí thư, Nghị quyết của Quốc hội về thực hiện tiết kiêm, chống lãng phí, chống
tham nhũng, chống buôn lậu, tổ chức sử dụng vốn ngân sách Nhà nước đúng mục
đích, có hiệu quả và phải chiu trách nhiệm đối với khoản chi sai chế độ làm thất
thoát tài sản và những khoản chi lãng phí, phô trương hình thức.
- Tiếp tục sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao năng suất
lao động, chống thất thoát, lãng phí vồn tài sản Nhà nước. Bộ tài chính khẩ
chương hoàn thành đề án đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước trình Thủ
tướng Chính phủ, triển khai rộng rãi chế độ kế toán mới trong các doanh nghiệp,
tăng cường kiểm tra, hướng dẫn để đưa hoạt động tài chính của doanh nghiệp đi
vào nề nếp, đúng chế độ.
5.2.3 Các biện pháp về điều hành cung cầu thị trường:
- Thực hiện các biện pháp để hàng hoá lưu thông thông suốt trong cả nước nhằm
ngăn chặn các hiên tượng đầu cơ, tích trữ khan hiếm giả tạo, kích giá tăng lên thiệt
hại cho sản suất và đời sống. Bộ thương mại chủ trì cùng các bộ ngành liên quan
sớm có đề án quản lý thị trường, tiêu thụ hàng hoá phù hợp với cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Xây dựng mạng lưới thương nghiệp với sự tham gia
của các thành phần kinh tế, trong đó doanh nghiệp quốc doanh phải chủ động chi

phối thị trường Việc quản lý thị trường phải gắn với đặc thù của từng khu vực.
- Về diều hành cân đối cung cầu hàng hoá. Bộ Kế Hoạch và Đầu tư chủ trì phối
hợp với các cơ quan quản lý ngành hàng phối hợp với cơ quan chức năng chịu
trách nhiệm theo dõi diễn biến cung cầu những mặt hàng thuộc Bộ, cơ quan của
24


mình quản lý. Phát hiện và sử lý kịp thời những mất cân đối phát sinh trong quá
trìng điều hành. Bộ thương mại có trách nhiệm điều hoà hàng hoà trong cả nước,
nhất là những mặt hàng quan trọng để giải quyết những mất cân đối cục bộ ở từng
khu vực. Đối với những mặt hàng quan trọng cho sản xuất và đời sống ( lương
thực, đường, xăng dầu, xi măng... )thì việc cân đối cung cầu phải tiến hành từng
quí, từng tháng. Đối với các mặt hàng này, phải xây dựng lực lượng dự trữ lưu
thông hàng hoá là công cụ không thể thiếu để điều hoà thị trường. Các Bộ, các cơ
quan quản lý ngành hàng, hội đồng quản lý, các tổng công ty này sớm trình Chính
phủ đề án về cơ chế lưu thông, bảo mức dự trữ cần thiết, dù sức chi phối khi thị
trường phát sinh mất cân đối.
- Bộ thương mại khẩn trương tổ chức tốt việc triển khai thực hiên quyết định số
864/ITg ngày 30 tháng 12 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hàng
hoá và điều hành và điều hành công tác suất nhập khẩu. Phối hợp với các Bộ
ngành liên quan thực hiện các biện pháp để bảo đảm sự cân đối giữa lực lượng
hàng hoá, dịch vụ với tổng sức mua của xã hội. Chỉ đạo và đôn đốc các doanh
nghiệp suất nhập khẩu đưa đại bộ phận hàng hoá nhập khẩu về nước ngay từ
những tháng đầu năm, đáp ứng kịp cho sản xuất và cân đối cung cầu hàng hoá ở
trong nước. Chấn chỉnh tình trạng xuất nhập khẩu bằng việc sắp xếp đầu mối xuất
nhập khẩu hợp lý, nhất là xuất khẩu lương thực. Tổ chức việc mua hàng hoá xuất
khẩu có trật tự, ngăn chặn tình trạng tranh mua hàng xuất khẩu đẩy giá lên. Nghiên
cứu hình thành quỹ hỗ trợ xuất nhập khẩu để có nguồn sử lý những rủi ro trong
kinh doanh.
- Để ngăn chặn ngay từ đầu những dấu hiệu dẫn đến phát sinh biến đổi giá. Ban

vật giá Chính Phủ phải theo dõi sát diễn biến giá cả thị trường, nắm bắt kịp thời
những thông tin về tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu, lưu thông hàng hoá, tiền tệ
trên thị trường, từ đó đề xuất với Thủ tướng Chính Phủ những biện pháp bình ổn
giá cả, giúp các Bộ ngành quản lý sản xuất, kinh doanh, hình thành các mức giá cụ
thể theo định hướng của Nhà nước.

25


- Để chặn đứng tình trạng giá cả tăng cao thường diễn ra vào những tháng đầu
năm, các Bộ ngành cần nghiêm chỉnh chấp hành những yêu cầu của Thủ tướng
Chính phủ. Bộ lao động thương binh xã hội chủ trì phối hợp với các Bộ ngành có
liên quan tổ chức tiền lương, năng suất lao động chi phí sản xuất, lưu thông và
viẹc hình thành giá ở một số đơn vị sản xuất, kinh doanh các lạo hàng hoá đại diện
cho các ngành kinh tế quốc dân để đề suất chính sách và biện phát giải quyết tiền
lương gắn với năng suất lao động đối với khu vực sản xuất kinh doanh.
5.2.4 Về chỉ dạo điều hành:
- Bộ Kế hoạch và đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước,
Bộ thương mại, ban vật giá chính phủ, Tổng cục hải quan, Tổng cục thống kê... tổ
chức giao ban định kỳ hàng tháng để nắm chắc diễn biến tình hình vận động của
hàng hoá, thị trường, tiền tệ, tình hình cân đối hàng tiền qua đó phát hiện những
khâu yếu phát sinh trong công tác điều hành và đề xuất với Chính phủ các biện
pháp sử lý kịp thời.
- Tổ tư vấn giá cả do Trưởng ban Vật giá Chính phủ làm tổ trưởng cần nắm bắt
thông tin về diễn biến giá cả trong nước, ngoài nước chính xác kịp thời, phát hiện
những vấn đề vướng mắc trong điều hành hàng hoá và thông báo tình hình đến các
Bộ các ngành liên quan để xử lý.
- Các Tổng công ty kinh doanh, nhất là các Tổng công ty kinh doanh các mặt hàng
quan trọng, thiết yếu phải định kỳ báo cáo tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm
cho cơ quan cấp trên, cơ quan quản lý chức năng và chiu trách nhiệm trước Bộ

quản lý chuyên ngành phải chịu trách nhiệm trước chính phủ về việc tăng giá đột
biến với những mặt hàng thuộc phạm vi mình quản lý.

26


×