Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

Tiểu luận chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế công nghiệp hóa và hiện đại hóa cấp tỉnh ở ninh bình từ 1992 đến nay giải pháp và kinh nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 172 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế (CCNKT) là một trong những nội dung
chủ yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) trên phạm vi từng
nước và từng địa phương. Thực tế cho thấy, việc tạo lập cơ cấu kinh tế hợp lý theo
hướng CNH, HĐH, trong đó có CCNKT, có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng
và phát triển bền vững của một nền kinh tế và địa phương. Đến nay, mặc dù đã có
nhiều công trình nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và CCNKT, nhưng vấn
đề chuyển dịch CCNKT trong CNH, HĐH của một địa phương lại chưa được
nghiên cứu đầy đủ. Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống vấn đề
chuyển dịch CCNKT trong CNH, HĐH đã và đang được các nhà khoa học quan tâm
trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ đổi mới, CCNKT cả nước và ở từng địa phương
đã có chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Tuy nhiên, cho đến nay, những yếu kém
cơ bản về CCNKT ở nước ta vẫn chưa được khắc phục. Nền kinh tế chủ yếu vẫn
dựa vào các ngành có lợi thế về tài nguyên và lao động chi phí thấp. Tỷ trọng công
nghiệp chế biến tăng chậm trong khi tỷ trọng ngành nông-lâm-ngư nghiệp và khai
khoáng còn cao, tỷ trọng các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao trong tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) như tài chính, ngân hàng, giáo dục, y tế, bảo hiểm... còn thấp.
CCNKT địa phương và vùng lãnh thổ cũng tồn tại nhiều bất cập. Trên thực tế, chính
quyền cấp tỉnh còn ít chú trọng đến việc xây dựng một CCNKT hợp lý theo hướng
CNH, HĐH và thường theo đuổi mô hình phát triển và CCNKT tương tự nhau. Các
địa phương cũng ít chú trọng đến việc xây dựng một CCNKT dựa trên các lợi thế
tương đối và lợi thế cạnh tranh của địa phương mình trên cơ sở định hướng phát triển
cả nước và các vùng liên quan. Điều này dẫn đến tình trạng các địa phương cạnh tranh
nhau trong huy động các nguồn lực cho chuyển dịch CCNKT, làm cho việc sử dụng
các nguồn lực này trên cả nước và ở từng địa phương trở nên kém hiệu quả.



2

Từ khi tái lập tỉnh (1992) đến nay, cùng với thực hiện CNH, HĐH, quá trình
chuyển dịch CCNKT của tỉnh Ninh Bình đã có sự thay đổi theo hướng tích cực, phù
hợp với động thái phát triển kinh tế của địa phương theo hướng CNH, HĐH. Điều
đó tạo thêm nhiều ngành nghề mới, việc làm mới, gia tăng giá trị hàng hóa xuất
khẩu và qua đó góp phần tạo tăng trưởng kinh tế của địa phương. Chính những kết
quả kinh tế đạt được đã làm thay đổi diện mạo kinh tế - xã hội và tạo thế và lực để
tỉnh Ninh Bình cùng cả nước hướng đến mục tiêu đến năm 2020 đưa Việt Nam cơ
bản trở thành nước công nghiệp. Tuy nhiên trong sự chuyển dịch CCNKT ở tỉnh
Ninh Bình vẫn bộc lộ không ít những hạn chế. Điều dễ nhận thấy là tốc độ chuyển
dịch CCNKT vẫn chưa thực sự theo đúng kỳ vọng của tỉnh; hiệu quả và chất lượng
của chuyển dịch CCNKT trong quá trình CNH, HĐH vẫn ẩn chứa những nhân tố
thiếu bền vững. Trong chuyển dịch CCNKT vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và bất
cập bắt nguồn từ công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, từ
chính sách huy động và sử dụng nguồn lực, chính sách đầu tư phát triển...
Từ lý luận và thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề phải nghiên cứu chuyển dịch
CCNKT trong CNH, HĐH của Ninh Bình và tác động của nó đến sự phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh. Do đó Nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Quá trình chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Ninh Bình từ 1992
đến nay: Kinh nghiệm và giải pháp” làm nội dung nghiên cứu của Luận án.

2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Tổng quan nghiên cứu lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Vấn đề chuyển dịch CCNKT trong CNH, HĐH đã được các trường phái, các
lý thuyết kinh tế từ trước đến nay đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau và với nhiều
cách tiếp cận khác nhau.
Lý thuyết của Max (1909) về CCNKT đã đưa ra các phạm trù về CCNKT và
cơ cấu kinh tế hợp lý. Theo Max, CCNKT hợp lý là cơ cấu có khả năng tạo ra quá

trình tái sản xuất mở rộng. CCNKT hợp lý phải đáp ứng các điều kiện như phù hợp


3

với các quy luật khách quan; phù hợp với xu thế kinh tế, chính trị khu vực và thế
giới; phản ánh khả năng khai thác sử dụng các nguồn lực kinh tế trong nước [79].
Lý thuyết “cất cánh” được trình bày trong nghiên cứu của Rostow (1960) đã
chỉ ra rằng quá trình phát triển của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng phải trải
qua 5 giai đoạn tuần tự và ứng với mỗi giai đoạn là một dạng CCNKT đặc trưng thể
hiện bản chất phát triển của giai đoạn đó. Như vậy lý thuyết này đã chỉ ra một sự
lựa chọn hợp lý về dạng CCNKT tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất định
của mỗi quốc gia. [85]
Lý thuyết nhị nguyên của Lewis (1954) giải thích quá trình và cơ chế chuyển
dịch cơ cấu của nền kinh tế từ khu vực nông nghiệp với năng suất thấp và dư thừa
lao động sang khu vực công nghiệp có năng suất cao và có khả năng tự tích lũy. Về
cơ bản lý thuyết này đã phản ánh được một số quy luật khách quan của sự chuyển
dịch giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, giữa chuyển
dịch dân cư và đô thị hóa trong quá trình phát triển kinh tế của các nước đang phát
triển. Tuy nhiên, mô hình này đã có một số hạn chế do các giả thuyết đưa ra không
phù hợp với thực tế của các nước đang phát triển hiện nay. [77]
Phê phán quan điểm dư thừa lao động trong nông nghiệp của lý thuyết Lewis,
các nhà kinh tế đại diện cho trường phái tân cổ điển cho rằng trong quá trình chuyển
dịch và phát triển kinh tế cần đầu tư cho cả hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp
theo hướng nâng cao năng suất lao động ở khu vực nông nghiệp và khu vực công
nghiệp cần đầu tư theo chiều sâu. Như vậy, lý thuyết của trường phái tân cổ điển
nhấn mạnh đến động lực tích lũy ở cả hai khu vực kinh tế trong đó khu vực công
nghiệp cần được ưu tiên, quan tâm nhiều hơn.
Trên cơ sở những giả thuyết mang tính kế thừa và phát triển của Lewis, quan
điểm thống nhất với trường phái tân cổ điển và dựa trên những đặc điểm kinh tế của

các nước châu Á, Oshima (1986) đã đưa ra lý thuyết mới về mối quan hệ giữa công
nghiệp và nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu từ nền kinh tế do nông
nghiệp chiếm ưu thế sang nền kinh tế công nghiệp trong điều kiện cụ thể của các
nước đang phát triển thuộc khu vực châu Á gió mùa. Oshima cũng đưa ra những nội


4

dung cụ thể của trong quá trình chuyển dịch CCNKT để hướng tới một nền kinh tế
phát triển.
Lý thuyết phát triển cân đối của Nurkse (1961) và Rosentein-Rodan (1943)
không sắp xếp thứ tự mức độ quan tâm đến các ngành trong nền kinh tế mà cho
rằng phải phát triển đồng đều ở tất cả các ngành kinh tế để chuyển dịch cơ cấu kinh
tế (CCKT) một cách nhanh chóng. Lý thuyết này phù hợp với các nước đang phát
triển thực hiện CNH theo hướng nội hoặc thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên khi áp
dụng vào thực tế thì đã bộc lộ nhiều nhược điểm, nhất là trong quá trình hội nhập và
toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. [80]
Akamatsu (1956) đã đưa ra lý thuyết phát triển theo mô hình “đàn nhạn bay”
để giải thích sự bắt kịp của các nước đang phát triển đối với các nước phát triển và
nhấn mạnh chuyển dịch CCNKT có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình đuổi kịp
này. Nghiên cứu này cũng chỉ ra những ngành nào cần thúc đẩy trong mỗi giai đoạn
CNH. Cho đến đầu thập niên 1990, hầu hết các nhà nghiên cứu kinh tế đều cho rằng
áp dụng lý thuyết đàn nhạn bay để giải thích sự lan tỏa của công nghiệp tại các nước
Đông Á là có cơ sở. [67]
Syrquin (1988) đã đưa ra lý thuyết chuyển dịch CCKT miêu tả khá tổng thể
và chính xác về sự phát triển và chuyển dịch CCKT thời kỳ hiện đại. Công trình này
đã tóm tắt quá trình phát triển và chuyển dịch CCKT của một quốc gia thành 3 giai
đoạn: sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hóa và nền kinh tế phát triển. Nghiên cứu
này cũng chỉ ra đặc trưng của CCNKT trong từng giai đoạn đó. [86]
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu gần đây đã thách thức các nhà kinh tế

xem xét lại sự phù hợp của các lý thuyết kinh tế hiện có. Tiếp nối những nỗ lực để
lấp đầy các khoảng trống tri thức trong quá trình phát triển, trên cơ sở đúc kết từ
những kinh nghiệm trong quá khứ và những lý thuyết kinh tế trước đây, Lin (2007)
đã đưa ra học thuyết CCKT mới. Nghiên cứu này khẳng định phát triển kinh tế
không phải là một thứ gì đó có thể chia thành các giai đoạn cứng nhắc và cấu trúc
kinh tế tối ưu của mỗi nước là khác nhau ở các giai đoạn khác nhau. Nghiên cứu


5

này còn nhấn mạnh đến vai trò của thị trường và nhà nước trong quá trình chuyển
dịch và phát triển kinh tế.
Như vậy, hầu hết các lý thuyết về chuyển dịch CCKT đều coi vấn đề chuyển
dịch CCNKT là một trong những nội dung quan trọng của sự phát triển trong thời
kỳ công nghiệp hóa. Các lý thuyết này chỉ ra rằng hình thức chuyển dịch
CCNKTcủa các nước trong thời kỳ CNH, HĐH diễn ra rất phong phú, đa dạng và
khó tìm thấy một khuôn mẫu chung duy nhất cho mọi quốc gia. Đồng thời, các lý
thuyết kinh tế cũng nêu ra những quan điểm mang tính nguyên tắc là phải xây dựng
một CCKT có sự liên kết, thúc đẩy, lôi kéo lẫn nhau trong quá trình phát triển.
Nhiều lý thuyết còn nhấn mạnh đến vai trò của nhà nước trong việc đánh giá và
khai thác các nguồn lực bên trong và bên ngoài để tìm ra một CCKT riêng và thích
hợp cho nước mình.

2.2. Tổng quan nghiên cứu thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Ở Việt Nam, vấn đề chuyển dịch CCNKT trong quá trình CNH, HĐH đã
được quan tâm nghiên cứu từ lâu. Thực tế, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
vấn đề chuyển dịch CCNKT, đặc biệt là đề cập và phân tích một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về chuyển dịch CCNKT ở trên phạm vi cả nước, ở một số ngành và địa
phương, trong đó tiêu biểu là:
Ngô Đình Giao (1994) với công trình “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân”. Nội dung cơ bản của công trình này
là nghiên cứu những cơ sở lý luận và sự cần thiết của chuyển dịch CCKT theo
hướng công nghiệp hóa. Đồng thời công trình còn đề xuất những phương hướng và
biện pháp chuyển dịch CCKT ở Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, đây là
công trình nghiên cứu tổng hợp trên góc độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung
mà chưa đề cập chi tiết về CCNKT trong điều kiện hội nhập và CNH, HĐH, đặc
biệt là chuyển dịch CCNKT của một địa phương. [31]
Đỗ Hoài Nam (2006) chủ biên công trình “Chuyển dịch cơ cấu ngành và
phát triển các ngành kinh tế trọng điểm mũi nhọn”. Công trình này đã tập trung đưa
ra những quan điểm, phương pháp tiếp cận vấn đề chuyển dịch CCNKT nhằm phát


6

triển các ngành kinh tế trọng điểm mũi nhọn. Công trình này mới đề cập đến chuyển
dịch CCNKT trên phạm vi cả nước xét trên góc độ nhằm phát triển các ngành kinh
tế mũi nhọn của nền kinh tế Việt Nam nói chung mà chưa đề cập chi tiết vấn đề
chuyển dịch CCNKT ở một địa phương cụ thể. [15]
Lê Du Phong và Nguyễn Thành Độ (1999) đồng chủ biên công trình
“Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới” đã
trình bày rõ về luận cứ khoa học của chuyển dịch CCKT theo hướng hội nhập và
thực trạng chuyển dịch CCNKT nước ta trong giai đoạn 1991 – 1997. Công trình
tập trung chủ yếu vào vấn đề chuyển dịch cơ cấu ba nhóm ngành lớn của nền kinh
tế, các vấn đề chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế và vùng kinh tế chỉ được đề
cập ở mức độ là các vấn đề liên quan để bảo đảm tính hệ thống. Để đảm bảo các
luận cứ có tính thực tiễn và tính thực tế của các nhận xét cũng như kiến nghị, ngoài
việc tập trung nghiên cứu ba nhóm ngành, công trình cũng chú trọng khảo sát thêm
tình hình chuyển dịch CCKT ở một số vùng và một số địa phương trong thời kỳ
1991 – 1997. [41]
Lê Đình Thắng (1998) đã thực hiện công trình về “Chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nông thôn – những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Công trình nghiên cứu đã làm
nổi bật cơ sở khoa học, thực trạng và giải pháp chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch CCKT
nông thôn Việt Nam. Ngoài ra, công trình còn đưa ra những quan điểm, phương
hướng, mục tiêu và các giải pháp chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch CCKT nông thôn
Việt Nam đến năm 2000. Tuy nhiên, công trình đề cập đến những vấn đề chung của
CCKT nông thôn cả về cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành phần nên
không chú trọng nghiên cứu sâu về CCNKT của một địa phương cụ thể. [22]
Đề tài cấp Nhà nước do Lương Xuân Quỳ (2000) chủ nhiệm có sự tham gia
của nhiều nhà khoa học kinh tế đầu ngành “Cơ cấu các thành phần kinh tế trong cơ
chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Đề tài đã làm rõ
những vấn đề lý luận và quan điểm về thành phần kinh tế, cơ cấu và vị trí các thành
phần kinh tế trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở
nước ta. Trên cơ sở các lý thuyết về CCKT và các mô hình, đề tài đã đánh giá thực


7

trạng xây dựng và phát triển cơ cấu các thành phần kinh tế ở Việt Nam từ khi đổi
mới đến năm 2000, từ đó góp phần tổng kết thực tiễn, cung cấp luận cứ khoa học và
các giải pháp cho việc định hướng các chính sách đối với các thành phần kinh tế
nhằm phát triển lực lượng sản xuất xã hội trong cơ cấu thành phần kinh tế của Việt
Nam. Tuy nhiên, vấn đề chuyển dịch CCNKT trong bối cảnh CNH, HĐH và hội
nhập chưa được nghiên cứu và đề cập một cách có hệ thống. [27]
Công trình “Chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế” của Nguyễn Thị Bích Hường (2005) đã đi sâu nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển đổi CCNKT trong tiến trình hội nhập
kinh tế khu vực và quốc tế. Nghiên cứu này đã phân tích thực trạng chuyển đổi
CCNKT ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế thời gian
qua. Công trình đề cập phương hướng và giải pháp chủ yếu thúc đẩy chuyển đổi
CCNKT ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế thời gian

tới. Công trình còn đi sâu nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch
CCNKT trong hội nhập, chỉ rõ đâu là nhân tố nội sinh, đâu là nhân tố ngoại sinh.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và bùng nổ khoa học kỹ thuật và khoa học công nghệ,
yếu tố bên ngoài là vô cùng quan trọng, để phát huy lợi thế so sánh của mỗi nước,
sự chuyển dịch CCNKT phải theo hướng nào cho phù hợp với điều kiện cụ thể của
nước đó. Ngoài chuyển dịch nói chung, công trình đã đề cập đến việc chuyển dịch nội
ngành từ công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp. Tuy vậy, công trình cũng chỉ đề cấp tới
CCKT chung của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập mà chưa đề cấp đến khía cạnh
chuyển dịch CCNKT trong CNH, HĐH mà đặc biệt ở một địa phương cụ thể. [42]
Phan Công Nghĩa (2007) với nghiên cứu “Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế - nghiên cứu thống kê cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế”.
Công trình này nghiên cứu sâu về lý luận và phương pháp luận nghiên cứu thống kê
CCKT, cũng như nghiên cứu CCKT nông nghiệp và nông thôn theo thành phần
kinh tế, hình thức tổ chức sản xuất và chuyển dịch của nó theo hướng CNH, HĐH.
Do đó, công trình không nghiên cứu hệ thống và sâu sắc về thực trạng chuyển dịch
CCNKT ở Việt Nam. [48]


8

Ở cấp độ địa phương, đã có nhiều công trình nghiên cứu về chuyển dịch
CCNKT. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
Ở Hà Nội, Lê Văn Hoạt (1999) đã thực hiện nghiên cứu “Phân tích động
thái của cơ cấu kinh tế thủ đô giai đoạn 1991 - 1998 và đề xuất kiến nghị về
phương hướng và các giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế thủ đô giai đoạn 2000 –
2005”. Công trình này đã đề cập đến các vấn đề lý luận về CCKT và đi sâu phân
tích, đánh giá, nghiên cứu các động thái chuyển dịch CCKT ở cả ngành kinh tế,
thành phần kinh tế và khu vực kinh tế. Đặc biệt là việc đề xuất các giải pháp cũng như
kiến nghị về phương hướng nhằm chuyển dịch CCKT thủ đô Hà Nội giai đoạn 2000 –
2005 có chú ý gắn với đặc thù của thủ đô. Công trình nghiên cứu cũng cho biết sự biến

đổi, tăng giảm tỷ trọng các ngành của kinh tế thủ đô trong CNH, HĐH. [26]
Công trình nghiên cứu của Nghiêm Xuân Đạt (2005) đã đưa ra những luận
cứ khoa học thực hiện chuyển dịch CCKT thủ đô Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010.
Nội dung chủ yếu của công trình này là nghiên cứu việc chuyển dịch CCKT thủ đô
Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010 hướng đến kỷ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long –
Hà Nội với những luận cứ khoa học thuyết phục. [29]
Ở một khía cạnh khác, nghiên cứu của Nguyễn Đình Dương (2006) đã phân
tích và dự báo CCKT thủ đô Hà Nội đến năm 2020. Công trình này đã trình bày khá
đầy đủ về cơ sở lý luận của CCKT và đi sâu nghiên cứu về thực trạng CCKT cũng
như đề xuất các biện pháp chuyển dịch CCKT thủ đô Hà Nội đến năm 2020. Tác giả
cũng chỉ rõ cơ sở phương pháp luận về chuyển dịch CCNKT của thủ đô, đề cập đến
những luận cứ xuất phát từ thực tiễn qua những thời kỳ phát triển, đặc điểm văn hóa –
lịch sử, đặc biệt ở cả trạng thái động và trạng thái tĩnh của thủ đô Hà Nội. [35]
Ở Hải Phòng, Nguyễn Văn Giang (2010) đã thực hiện công trình về “Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành trong nền kinh tế thị trường ở thành phố Hải Phòng”.
Công trình đã đề cập đến các vấn đề cơ sở lý luận về CCKT, CCNKT, phân tích
thực trạng CCKT thành phố Hải Phòng, đặc biệt là việc rút ra các kinh nghiệm và
giải pháp nhằm chuyển dịch CCKT thành phố Hải Phòng. Công trình chủ yếu tập


9

trung đề cập đến CCKT nói chung của một địa phương nặng về công nghiệp và dịch
vụ vận tải, logistics như Hải Phòng. Công trình chưa đề cập toàn diện đến chuyển
dịch CCNKT theo hướng CNH, HĐH. [45]
Đào Văn Hiệp (2005) phân tích đầu tư trực tiếp nước ngoài và ảnh hưởng
của nó đến chuyển dịch CCKT ngành theo hướng CNH, HĐH ở Hải Phòng. Tác giả
đã phân tích và làm rõ được thực trạng đầu tư nước ngoài và chuyển dịch CCNKT
ở Hải Phòng. Trên cơ sở đánh giá thực trạng tác động của FDI đến chuyển dịch
CCNKT ở Hải Phòng theo hướng CNH, HĐH, tác giả đã đề xuất phương hướng và

giải pháp thu hút, sử dụng đầu tư nước ngoài thúc đẩy chuyển dịch CCNKT theo
hướng CNH, HĐH ở Hải Phòng. Tuy nhiên, công trình này chủ yếu đề cập đến ảnh
hưởng của FDI với chuyển dịch CCNKT trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và
giải pháp thu hút FDI vào Hải Phòng mà chưa đề cập đến giải pháp chuyển dịch
CCNKT theo hướng CNH, HĐH. [12]
Ở Bắc Ninh, Nguyễn Hùng Quân (2009) đã thực hiện công trình nghiên cứu
về xác lập CCKT hợp lý ở Bắc Ninh. Công trình đã đề cập đến tình hình chuyển
dịch CCKT của Bắc Ninh trong những năm vừa qua. Với xu hướng phấn đấu để đến
năm 2015 Bắc Ninh trở thành tỉnh công nghiệp, tỉnh đã và đang nỗ lực đẩy mạnh
phát triển kinh tế, tạo ra CCNKT phù hợp và hiệu quả. Công trình cũng đưa ra một
số hạn chế trong quá trình chuyển dịch CCNKT ở Bắc Ninh. Trên cơ sở đó, tác giả
đã đề ra một số biện pháp khả thi để thúc đẩy chuyển dịch CCNKT của Bắc Ninh
hợp lý và hiệu quả. [37]
Qua tổng quan nghiên cứu cho thấy đến nay các công trình nghiên cứu chưa
đi sâu nghiên cứu về nội dung và tiêu chí của chuyển dịch CCNKT theo hướng
CNN, HĐH. Bên cạnh đó, các công trình cũng chưa đi đâu vào nghiên cứu quá trình
và động thái chuyển dịch CCNKT cũng như sự gắn kết giữa chuyển dịch CCNKT
với quá trình thực hiện CNH, HĐH ở một địa phương cụ thể. Ngoài ra, chưa có
công trình nào nghiên cứu quá trình chuyển dịch CCNKT theo hướng CNH, HĐH ở
tỉnh Ninh Bình. Do vậy, nghiên cứu này sẽ giải quyết những khoảng trống nghiên
cứu này.


10

3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm hướng đến giải quyết các mục tiêu sau:
- Hệ thống hóa và làm phong phú thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển
dịch CCNKT trong CNH, HĐH.
- Đánh giá thực trạng chuyển dịch CCNKT trong CNH, HĐH ở tỉnh Ninh Bình

từ năm 1992 đến 2012; từ đó rút ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn về chuyển
dịch CCNKT trong CNH, HĐH ở Ninh Bình trong thời gian qua.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy quá trình chuyển
dịch CCNKT của Ninh Bình trong CNH, HĐH theo hướng hiệu quả và bền vững.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: là những vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế trong CNH, HĐH.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu toàn bộ địa bàn tỉnh Ninh Bình
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu quá trình chuyển dịch CCNKT tỉnh Ninh
Bình từ năm 1992 (từ khi tái lập tỉnh) đến năm 2012 và đề xuất những giải pháp đến
năm 2020.
- Phạm vi nội dung: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu chuyển dịch CCNKT theo
ba ngành lớn là nông-lâm-ngư nghiệp, công nghiệp-xây dựng và dịch vụ và chuyển
dịch trong nội bộ của từng ngành đó. Tuy nhiên, những vấn đề về cơ cấu thành phần
kinh tế, cơ cấu vùng cũng được xem xét ở mức độ cần thiết nhằm góp phần làm rõ mối
liên hệ và tác động đối với chuyển dịch CCNKT ở tỉnh Ninh Bình.

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận:
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử trong nghiên cứu.


11

5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Phương pháp thu thập thông tin, số liệu:

+ Các số liệu thống kê về tình hình CCNKT và chuyển dịch CCNKT của
tỉnh Ninh Bình từ Tổng cục thống kê và Cục thống kê tỉnh Ninh Bình.
+ Các báo cáo tổng kết hàng năm của UBND tỉnh Ninh Bình, báo cáo của
các Sở, ngành của tỉnh Ninh Bình về các chủ trương, chính sách liên quan đến tình
hình phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch CCNKT.
+ Các công trình nghiên cứu trong nước và quốc tế về chuyển dịch CCNKT
và CNH, HĐH.
- Phương pháp lịch sử: Miêu tả, trình bày diễn biến của quá trình chuyển
dịch CCNKT và cơ cấu nội bộ từng ngành một cách đầy đủ, chi tiết, khách quan ở
Ninh Bình từ 1992 đến 2012.
- Phɵɳng pháp logic: Từ diễn biến của quá trình chuyển dịch CCNKT tìm ra
những bản chất và đặc trưng của chuyển dịch CCNKT và rút ra những đánh giá,
nhận định về xu hướng chuyển dịch CCNKT trong CNH, HĐH ở Ninh Bình.
- Phương pháp thống kê mô tả: Sử dụng các chỉ tiêu số tuyệt đối, số tương
đối, số bình quân... để tính toán và mô tả quá trình chuyển dịch CCNKT, từ đó đưa
ra những đánh giá về chuyển dịch CCNKT trong CNH, HĐH ở Ninh Bình.
- Phương pháp thống kê so sánh: Bằng các số liệu và chỉ tiêu (tuyệt đối,
tương đối, tốc độ) về chuyển dịch CCNKT để đưa ra so sánh chuyển dịch CCNKT
giữa các thời kỳ ở Binh Bình, so sánh giữa chuyển dịch CCNKT của Ninh Bình với
các địa phương khác trong nước.
- Phương pháp chuyên gia: Trao đổi, xin tư vấn các nhà quản lý, các nhà hoạch
định chính sách của địa phương về quá trình chuyển dịch CCNKT của Ninh Bình.

6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của đề tài và đóng góp của luận án
Thực hiện nghiên cứu đề tài này thực sự cần thiết, đặc biệt đối với tỉnh Ninh
Bình và luận án có những đóng góp chính sau đây:
- Góp phần làm phong phú hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển dịch
CCNKT trong CNH, HĐH. Cụ thể, luận án đã làm rõ nội hàm, các chỉ tiêu đánh giá và



12

các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch CCNKT trong quá trình CNH, HĐH.
- Đánh giá toàn diện quá trình chuyển dịch CCNKT trong CNH, HĐH của
tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn 1992-2012. Từ đó, rút ra được những thành công,
hạn chế và nguyên nhân của hạn chế của quá trình chuyển dịch CCNKT theo
hướng CNH, HĐH tại Ninh Bình.
- Đề xuất quan điểm, định hướng và các giải pháp tính đặc thù gắn với điều
kiện và tình hình thực tế tại Ninh Bình nhằm thúc đẩy chuyển dịch CCNKT theo
hướng CNH, HĐH của tỉnh trong thời gian tới.
Những đóng góp của luận án là luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện các
chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Ninh Bình trong
quá trình CNH, HĐH.

7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: Bài học kinh nghiệm, phương hướng và giải pháp thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Ninh Bình.


13

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
NGÀNH KINH TẾ TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Cơ sở lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1.1.1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế
Trong các tài liệu và công trình nghiên cứu có nhiều cách tiếp cận khác nhau
về khái niệm cơ cấu kinh tế (CCKT). Các cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái
niệm "cơ cấu". Xét về nguồn gốc, khái niệm cơ cấu có nguồn gốc từ chữ La tinh
“structure” nghĩa là xây dựng, là kiến trúc, được sử dụng đầu tiên trong sinh vật học
dùng để chỉ cách cấu tạo, cách tổ chức và phối hợp, điều chỉnh các yếu tố đã tạo nên
các tế bào thực vật, động vật. Sau đó khái niệm cơ cấu được sử dụng chung cho nhiều
ngành khoa học và được phát triển, hoàn thiện theo sự phát triển của khoa học.
Xét trên phương diện triết học, khái niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị
cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành một tổng thể
hoặc của một hệ thống. Cơ cấu được hiểu như là tập hợp các mối quan hệ liên kết
hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Cơ cấu là thuộc tính của
hệ thống, do đó khi nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống, CCKT được
hiểu là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân,
giữa chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng và
chất lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, chúng vận
động hướng vào những mục tiêu nhất định. Cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu giữa các
lĩnh vực sản xuất, trao đổi tiêu dùng; giữa các ngành kinh tế công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ... Mỗi vùng, mỗi ngành lại có CCKT riêng của mình tuỳ thuộc vào
điều kiện tự nhiên, địa lý, kinh tế - xã hội cụ thể.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành,
lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành”. Theo


14

Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ cấu kinh tế được hiểu là nội
dung, cách liên kết, phối hợp giữa các phần tử cấu thành hệ thống kinh tế; biểu hiện

quan hệ tỷ lệ cả về lượng và chất của các phần tử hợp thành hệ thống, hay cơ cấu
kinh tế thực chất là cách thức kết cấu của các phần tử cơ cấu tạo nên hệ thống kinh tế.
Theo Lê Sỹ Thiệp (2000), “Cơ cấu kinh tế là thành phần cấu tạo và cơ chế vận hành
của một tổ chức kinh tế, trong đó tổ chức kinh tế có thể là toàn cầu, khu vực, khối, quốc
gia, tổng công ty, doanh nghiệp... tùy theo đối tượng nghiên cứu” [25, tr.21]
Một cách tiếp cận khác thì cho rằng CCKT hiểu một cách đầy đủ là một tổng
thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau trong
những không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định, cả về số lượng và chất lượng phù hợp với các mục tiêu được xác định của
nền kinh tế.
Từ các quan điểm trên, có thể thấy rằng CCKT là một phạm trù kinh tế, một
khái niệm phản ánh cấu trúc bên trong của nền kinh tế. Hiểu một cách đầy đủ thì:
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố, các bộ phận hợp thành nền kinh tế mà giữa
chúng luôn có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, thường xuyên vận động trong
những điều kiện tự nhiên, xã hội cụ thể gắn với không gian, thời gian nhất định
được thể hiện cả về định tính lẫn định lượng, phù hợp với xu hướng vận động và
phát triển của nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế có những đặc trưng sau:
- Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, luôn luôn phản ánh và chịu sự tác
động của các quy luật khách quan. Vai trò của các yếu tố chủ quan là thông qua
nhận thức ngày càng sâu sắc những quy luật đó phân tích đánh giá những xu hướng
phát triển khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau để tìm ra phương án thay đổi cơ cấu
cho phù hợp với những điều kiện cụ thể của từng nước, cũng như của từng địa
phương, từng vùng, từng ngành trong quá trình phát triển kinh tế. Đối với một quốc
gia hay một ngành, một địa phương CCKT được thể hiện và phản ánh dưới chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, ở các chương trình dự án, kế hoạch phát triển của
nhà nước, của ngành hay của địa phương.


15


- Cơ cấu kinh tế mang tính lịch sử xã hội. Thực tế cho thấy nền kinh tế chỉ
phát triển được khi đã xác định được một mối quan hệ cân đối giữa các bộ phận của
quá trình tái sản xuất xã hội và phân công lao động xã hội. CCKT luôn gắn liền với sự
biến đổi không ngừng của bản thân các yếu tố, các bộ phận trong nền kinh tế và mối
quan hệ giữa chúng khi nào giải quyết tốt mới diễn ra trôi chảy và đạt hiệu quả cao.
- Cơ cấu kinh tế luôn vận động và phát triển ngày càng hợp lý, hoàn thiện và
đạt hiệu quả hơn. Đó là sự vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản
xuất và phân công lao động xã hội ngày càng ở trình độ cao hơn, phạm vi ngày càng
mở rộng hơn. Khi tiến bộ khoa học và kỹ thuật công nghệ tác động làm cho lực
lượng sản xuất và cấu trúc của nó có sự biến đổi về chất, khi đó sẽ tạo điều kiện cho
con người ý thức để thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển đồng bộ, hợp lý
trong quá trình tái sản xuất xã hội ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
- Cơ cấu kinh tế vận động theo hướng ngày càng tăng cường mở rộng sự hợp
tác, phân công lao động trong nước và quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, sự vận
động khách quan của CCKT theo hướng mở rộng sự hợp tác và phân công lao động
diễn ra không chỉ trong phạm vi mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi quốc gia mà còn mở
rộng ra các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, mỗi quốc gia muốn phát
triển nhanh cần xác định được CCKT trên cơ sở xác định được lợi thế của mình gắn
với thị trường trong nước và quốc tế, nhằm tạo ra CCKT hợp lý, thúc đẩy nhanh quá
trình quốc tế hoá nền kinh tế quốc dân.
Dựa trên sự nhìn nhận dưới các khía cạnh khác nhau của quá trình phân công
lao động xã hội và tái sản xuất xã hội mà chúng ta có thể phân chia CCKT theo các
loại khác nhau. Xét trên sự phân công lao động theo ngành kinh tế có CCNKT. Xét
sự phân công lao động theo vùng kinh tế có cơ cấu vùng kinh tế. Xét về quan hệ sở
hữu có cơ cấu thành phần kinh tế. Xét về trình độ kỹ thuật có CCKT kỹ thuật… Các
loại cơ cấu trên quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó CCNKT có vai trò quyết định.


16


1.1.1.2. Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế
Có nhiều cách tiếp cận và khái niệm khác nhau về CCNKT. Cơ cấu ngành
xét theo quan điểm hệ thống là một chỉnh thể liên kết các ngành kinh tế theo một
kiểu cấu trúc nhất định, tạo ra những thuộc tính mới, chất lượng mới của hệ thống
mà những thuộc tính này không thể có ở từng bộ phận riêng rẽ hợp thành hệ thống.
Theo Đỗ Hoài Nam (2006), “Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp
thành, các tương quan tỷ lệ biểu hiện mối quan hệ giữa các nhóm ngành của nền
kinh tế quốc dân” [15, tr. 17]. Cơ cấu n g à n h kinh tế phản ánh trình độ phân công
lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Khái niệm CCNKT không chỉ được áp dụng cho một nền kinh tế mà có thể được áp
dụng cho một vùng hoặc một địa phương.
Theo Nguyễn Thị Bích Hường (2005), “Cơ cấu ngành kinh tế là tổng thể các
mối quan hệ chủ yếu về chất lượng và số lượng tương đối ổn định giữa các yếu tố
kinh tế và trong từng yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một
hệ thống tái sản xuất xã hội với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định trong một
khoảng thời gian nhất định” [42, tr.26].
Có nhiều cách phân loại CCNKT. Dựa theo tính chất tác động vào đối tượng
lao động, CCNKT của một quốc gia bao gồm 3 nhóm ngành: Nhóm ngành nông
nghiệp và khai khoáng, bao gồm các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp
khai khoáng; Nhóm ngành công nghiệp chế tạo bao gồm các ngành công
nghiệp như công nghiệp điện tử, sản xuất chế biến, công nghiệp sản xuất hoá chất,
trang phục, công nghiệp khai thác, sản xuất máy móc thiết bị… và công nghiệp xây
dựng; Nhóm ngành dịch vụ, theo WTO bao gồm 12 ngành: Dịch vụ kinh doanh
(bao gồm cả dịch vụ chuyên môn và máy tính); Dịch vụ viễn thông; Dịch vụ xây dựng
và kỹ thuật; Dịch vụ phân phối; Dịch vụ giáo dục; Dịch vụ môi trường; Dịch vụ tài
chính (bảo hiểm và ngân hàng); Dịch vụ y tế; Dịch vụ du lịch; Dịch vụ thể thao, văn
hoá, giải trí; Dịch vụ vận tải; Các dịch vụ khác không nằm trong các loại trên.
Dựa theo đặc điểm kinh tế kỹ thuật, CCNKT được chia thành các ngành
công nghiệp, xây dựng cơ bản, nông nghiệp, dịch vụ.



17

Dựa trên cơ sở phân công lao động chung, CCNKT được chia thành các
ngành lớn: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
Dựa trên chu kỳ vận động của bản thân ngành, CCNKT được phân thành
ngành “mới ra đời” và ngành “sắp lặn”.
Dựa vào vị trí, tầm quan trọng và xu thế vận động, CCNKT bao gồm các
ngành mũi nhọn, trọng điểm và các ngành khác.
Việc phân loại CCNKT như trên là căn cứ vào từng mục đích nghiên cứu.
Trong luận án này, tác giả lựa chọn CCNKT theo sự phân công lao động xã hội, bao
gồm ba ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ ở tầm vĩ mô. Sự phân tích được
chú trọng cả về mặt lượng (số lượng ngành, quan hệ tỷ lệ giữa các ngành) và mặt
chất (vị trí, vai trò của các ngành hiện tại trong nền kinh tế, các quan hệ gắn kết,
tương tác giữa các ngành trong nền kinh tế...).

1.1.2. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Đến nay có nhiều khái niệm về chuyển dịch CCNKT. Theo Từ điển kinh tế
học Oxford thì chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi chính trong nền kinh
tế của một đất nước. Theo đó, quá trình này có thể liên quan đến chuyển giao nguồn
lực quy mô lớn từ khu vực sản xuất sang khu vực sản xuất công nghiệp, như các
nước công nghiệp mới NICs. Nó cũng có thể liên quan đến sự chuyển dịch phương
pháp tổ chức các hoạt động kinh tế từ một nền kinh tế được kế hoạch sang nền kinh
tế dựa trên thị trường như nhiều nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây ở Liên
Xô và các nước Đông Âu..
Một số nghiên cứu cho rằng chuyển dịch CCNKT là quá trình phát triển của
các ngành kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi
mối quan hệ tương quan giữa chúng so với thời kỳ trước đó. Khái niệm này coi sự
chuyển dịch CCNKT là kết quả sự phát triển tất yếu của các ngành làm thay đổi

tương quan, tỷ lệ và mối quan hệ giữa chúng.
Theo Nguyễn Đình Dương (2006), chuyển dịch CCNKT được hiểu đó là sự
thay đổi của CCNKT qua các trạng thái khác sao cho hợp lý, hiệu quả, phù hợp với
xu thế, điều kiện và môi trường phát triển.


18

Theo Ngô Doãn Vịnh (2005), “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự thay
đổi tỷ lệ thành phần trong cơ cấu ngành kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái
khác nhằm có được sự phát triển tốt hơn, hiệu quả hơn” [32, tr. 15]. Khái niệm đã
đưa ra được mục tiêu của chuyển dịch CCNKT
Theo Nguyễn Thị Bích Hường (2005), “Chuyển dịch (hay điều chỉnh) cơ cấu
ngành kinh tế là khái niệm chỉ rõ sự chủ động của các chủ thể làm thay đổi một số
mặt, một số yếu tố của cơ cấu ngành kinh tế cho thích ứng với điều kiện khách quan
hay mục đích phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ mà không tạo ra sự thay
đổi đột biến về cơ cấu” [42, tr.23].
Một số nghiên cứu khác lại cho rằng dưới sức ép của nhu cầu thị trường và
yêu cầu phát triển kinh tế đòi hỏi phải thay đổi cơ cấu ngành của nền kinh tế. Các
nghiên cứu này khẳng định chuyển dịch CCNKT có tính khách quan do yêu cầu của
thị trường và sự phát triển kinh tế và nhấn mạnh đến sự chuyển dịch CCNKT là có
mục đích và có định hướng. Điều này có nghĩa chuyển dịch CCNKT gắn với sự chủ
động của Nhà nước và nhận thức tính tất yếu khách quan cần thực hiện sự thay đổi
cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác, hợp lý và hiệu quả hơn.
Mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau song các nghiên cứu trên đều
thống nhất một số nội dung cơ bản là: quá trình phát triển kinh tế cũng đồng thời là
quá trình làm thay đổi CCNKT, cả quan hệ tỷ lệ về số lượng lẫn về chất lượng. Sự
thay đổi cấu trúc các bộ phận hợp thành hay các ngành trong nền kinh tế sẽ dẫn đến
sự thay đổi cả nền kinh tế. Vì vậy, có thể rút ra khái niệm: Chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế là quá trình vận động, phát triển của các ngành kinh tế làm thay đổi

trong tổng thể, trong tỷ trọng và trong mối quan hệ của các ngành trong một nền
kinh tế phù hợp với sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển
của lực lượng sản xuất.
Nếu xem xét cụ thể trong một khoảng thời gian xác định, sự chuyển dịch
CCNKT trong quá trình phát triển được thể hiện ở những điểm sau:
- Sự thay đổi về số lượng và loại ngành trong nền kinh tế do sự xuất hiện
thêm những ngành mới hoặc mất đi một số ngành đã có. Đó cũng là quá trình cải


19

tạo những ngành cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng và phát triển các
ngành mới, tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung ngành cũ nhằm biến đổi cơ cấu ngành
cũ thành cơ cấu ngành mới hiện đại và phù hợp hơn. Với việc phân loại ngành kinh
tế được chi tiết tới nội bộ từng ngành, tới các phân ngành trong các ngành lớn như
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ thì sự thay đổi này sẽ dễ dàng nhận thấy.
- Sự tăng trưởng về quy mô và tốc độ không đồng đều giữa các ngành. Kết
quả của sự không đồng đều này dẫn tới thay đổi tương quan tỷ lệ, mối quan hệ giữa
các ngành so với thời kỳ trước đó và như vậy CCNKT đã có sự thay đổi. Ngược lại,
sự tăng trưởng đồng đều về quy mô và tốc độ sau một giai đoạn phát triển của các
ngành và duy trì tương quan tỷ lệ, mối quan hệ giữa chúng như thời kỳ trước đó sẽ
không dẫn đến sự thay đổi CCNKT. Điều này cho thấy, chỉ có xem xét đồng thời cả
tốc độ tăng trưởng, quy mô phát triển và tương quan tỷ lệ giữa các ngành trong mỗi
thời kỳ so với thời kỳ trước đó mới đánh giá đúng quá trình chuyển dịch CCNKT.
- Sự thay đổi trong quan hệ tác động qua lại giữa các ngành, được thể hiện
bằng số lượng các ngành có liên quan lẫn nhau, thể hiện qua quy mô đầu vào mà
các ngành này cung cấp cho các ngành kia hay ngược lại ngành kia nhận được từ
các ngành này. Đây là sự thay đổi về mặt chất lượng cơ cấu ngành, nó có liên quan
đến thay đổi công nghệ sản xuất sản phẩm.
- Sự thay đổi của CCNKT phản ánh trình độ phát triển của sức sản xuất xã

hội, biểu hiện chủ yếu trên hai mặt. Một là, lực lượng sản xuất càng phát triển, càng
tạo điều kiện cho quá trình phân công lao động xã hội trở nên sâu sắc. Hai là, sự
phát triển của phân công lao động xã hội đến lượt nó lại làm cho mối quan hệ kinh
tế thị trường củng cố và phát triển. Như vậy, sự thay đổi về số lượng và chất lượng
của CCNKT phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Trong thời
kỳ công nghiệp hoá, chuyển dịch CCNKT phản ánh mức độ đạt được của quá trình
công nghiệp hoá.
- Sự chuyển dịch CCNKT còn phản ánh mức độ thay đổi của phương thức
sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, những khu vực có năng suất lao động cao,


20

giá trị gia tăng lớn, sẽ có tốc độ phát triển cao hơn và do đó, sẽ thay thế dần những
khu vực sản xuất - kinh doanh có năng suất lao động và giá trị gia tăng thấp.

1.1.3. Các lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.1.3.1. Lý thuyết của Max
Vấn đề chuyển dịch CCNKT được Max (1909) đề cập chủ yếu trong nội
dung của hai học thuyết: học thuyết về phân công lao động xã hội và học thuyết về
tái sản xuất xã hội. Max cho rằng quá trình chuyển dịch CCNKT đạt hiệu quả khi có
sự chín muồi của các tiền đề sau:
- Trong xã hội hình thành hai khu vực rõ ràng, khu vực nông thôn và khu vực
thành thị. Khu vực nông thôn chủ yếu sản xuất nông nghiệp, khu vực thành thị gồm
các hoạt động của các ngành công nghiệp, thương mại và các ngành dịch vụ khác.
Hai khu vực này có mối quan hệ khăng khít với nhau, trong quá trình sản xuất và
giao lưu buôn bán hai khu vực có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, cùng hỗ trợ nhau
phát triển.
- Số lượng dân cư và mật độ dân cư, các phương hướng chuyển dịch đưa ra
nhằm khắc phục tình trạng di dân từ khu vực nông thôn ra thành thị ngày càng gia

tăng nhưng đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế và mối quan hệ phát triển giữa hai
khu vực.
- Năng suất lao động trong nông nghiệp được nâng cao đủ để cung cấp
những sản phẩm thiết yếu cho cả những người lao động trong nông nghiệp cũng
như người lao động thuộc các ngành nghề sản xuất khác.
- Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, nông nghiệp truyền
thống chi phối các hoạt động kinh tế nhưng sự phát triển của nông nghiệp truyền
thống này chưa đủ sức mạnh để thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, trong xã
hội chưa có sự chuyển biến lớn. Nhưng đến giai đoạn phát triển tiếp theo của nền
kinh tế có sự chuyển dịch từ nền nông nghiệp truyền thống sang nền kinh tế công
nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Sự phát triển của ngành công nghiệp thúc đẩy sự
phát triển của ngành nông nghiệp cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự phát triển của


21

ngành nông nghiệp và công nghiệp tất yếu dẫn đến sự phát triển của ngành dịch vụ.
Do nông nghiệp phát triển cho nên mức sống của người dân ở khu vực nông thôn
luôn được cải thiện theo hướng đi lên. Vì vậy, tình trạng di dân từ nông thôn ra
thành thị ngày càng có xu hướng giảm. Sự phát triển của ngành công nghiệp và
ngành dịch vụ không ngừng ảnh hưởng tới việc nâng cao năng suất lao động trong
nông nghiệp, do vậy sự chuyển dịch CCNKT là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng và
phát triển của nền kinh tế quốc dân.

1.1.3.2. Lý thuyết của Rostow
Rostow (1960) cho rằng quá trình phát triển và chuyển dịch CCKT của bất
cứ quốc gia nào cũng trải qua năm giai đoạn phát triển:
- Giai đoʭn xã h i truy˒n th˨ng: giai đoạn này sản xuất nông nghiệp giữ vai
trò chủ yếu, sản xuất bằng công cụ thủ công, kỹ thuật chưa phát triển, tuy vậy nền
kinh tế không bị chững lại mà vẫn có sự tăng trưởng liên tục do áp dụng khoa học

kỹ thuật vào nông nghiệp, đặc biệt là thủy lợi.
- Giai đoʭn chuʷn bˢ cʳt cánh: công nghiệp bắt đầu được hình thành thời kỳ
nông nghiệp - công nghiệp có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đây là thời
kỳ xây dựng nền tảng cho một hệ thống kinh tế hiện đại.
- Giai đoʭn cʳt cánh: công nghiệp ra đời và phát triển, đây là thời kỳ công nông nghiệp, nó cũng chính là giai đoạn trung tâm của sự phát triển. Đây là thời kỳ
xây dựng nền tảng công nghiệp cho nền kinh tế.
- Giai đoʭn tăng trɵ ng: thời kỳ công nghiệp phát triển mạnh, giai đoạn mà
tỷ lệ đầu tư trên thu nhập quốc dân cao và xuất hiện nhiều cực tăng trưởng mới.
- Giai đoʭn tiêu dùng cao: là giai đoạn trình độ kinh tế phát triển cao, sản xuất
nông nghiệp hàng hóa, thị trường linh hoạt và có hiện tượng giảm nhịp độ tăng trưởng.
Như vậy, quan điểm của Rostow cho rằng, nền kinh tế phát triển theo xu
hướng chuyển dịch từ thời kỳ nông nghiệp truyền thống sang thời kỳ nông - công
nghiệp, thời kỳ công - nông nghiệp và dịch vụ, thời kỳ công nghiệp phát triển mạnh.


22

Xét trên góc độ mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu và quá trình phát triển, lý
thuyết Rostow là chỉ ra được sự lựa chọn hợp lý dạng cơ cấu ngành tương ứng với
từng giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, lý thuyết của Rostow cũng
có những hạn chế là thiếu cơ sở cho sự phân đoạn trong quá trình phát triển và thiếu
sự đặc trưng của mỗi giai đoạn so với thực tế.

1.1.3.3. Lý thuyết nhị nguyên của Athus Lewis
Athus Lewis (1954) chia nền kinh tế thành hai khu vực cùng song song và
tồn tại, đó là khu vực nông nghiệp và khu vực công nghiệp. Lý thuyết này đề cập
đến mối quan hệ công nghiệp và nông nghiệp trong việc giải quyết lao động dư thừa
ở nông thôn. Giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, nông nghiệp phát triển
chi phối các hoạt động của kinh tế nhưng sau đó do sự dư thừa lao động cho nên
năng suất lao động trong nông nghiệp có chiều hướng giảm. Bên cạnh đó, do công

nghiệp mới được hình thành cho nên cần nhiều lao động dẫn đến sự di chuyển lao
động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp. Khoa học và kỹ thuật kết
hợp với lao động thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp, công nghiệp phát triển tạo
tiền đề cho nông nghiệp. Nền kinh tế có sự chuyển dịch từ thời kỳ nông nghiệp
thuần túy sang thời kỳ công - nông nghiệp phát triển. Như vậy, lý thuyết của Lewis
đã xác định được hướng giải quyết mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp
trong quá trình chuyển dịch CCKT để đạt mục tiêu tăng trưởng và phát triển.
Lý thuyết nhị nguyên của Lewis tiếp tục được nhiều nhà kinh tế như Ranis,
Fei, Harris tiếp tục nghiên cứu và phát triển. Luận cứ của các nhà kinh tế này xuất
phát từ khả năng phát triển và tiếp nhận lao động của khu vực công nghiệp. Nếu
như công nghệ hiện đại vừa phải sử dụng nhiều lao động thì sẽ thu hút hết lượng lao
động dư thừa của khu vực nông nghiệp. Nhưng việc di chuyển lao động được giả
định là do chênh lệch về thu nhập giữa lao động của hai khu vực kinh tế trên quyết
định. Như vậy, khu vực công nghiệp chỉ có thể thu hút lao động nông nghiệp khi có
sự dư thừa lao động nông nghiệp và chênh lệch tiền công giữa hai khu vực đủ lớn.


23

Tuy nhiên, khi nguồn lao động nông nghiệp dư thừa cạn dần thì khả năng
duy trì sự chênh lệch về tiền lương này sẽ ngày một khó khăn vì không thể tăng mãi
lương ở khu vực công nghiệp. Nếu có thể, việc tiếp tục di chuyển lao động nông
nghiệp sang công nghiệp sẽ làm giảm sản lượng nông nghiệp và làm cho giá cả
nông sản tăng lên, và kéo theo đó là mức tăng tiền công ở khu vực công nghiệp.
Như thế, cả khu vực công nghiệp và khu vực nông nghiệp đều gặp khó khăn trong
tăng trưởng.

1.1.3.4. Lý thuyết cân đối liên ngành
Những người ủng hộ quan điểm phát triển cân đối như Nurkse (1961),
Rosenstein-Rodan (1963) cho rằng phải phát triển đồng đều ở tất cả mọi ngành kinh

tế quốc dân để nhanh chóng CNH và chuyển dịch cơ cấu. Theo quan điểm trong lý
thuyết này, tất cả các ngành kinh tế có liên quan chặt chẽ với nhau trong chu trình
“đầu ra của ngành này là đầu vào của ngành kia”. Do vậy, muốn phát triển nền kinh
tế phải phát triển cân đối các ngành. Đây cũng là lý thuyết mang yếu tố có lợi đặc
biệt so với phương án chuyên môn hóa trong sản xuất. Mô hình này cũng không ủng
hộ chiến lược phát triển một ngành duy nhất. Mô hình khẳng định đầu tư là yếu tố
quan trọng quyết định phát triển. Mô hình cũng có khả năng ứng phó linh hoạt với
những biến động bất thường và dễ hòa nhập với quốc tế. Chẳng hạn, một nước tìm
cách phát triển mà lấy nông nghiệp làm ngành chủ đạo, nước đó phải thực hiện
chính sách sao cho sản xuất nông sản phải có một thu nhập đủ để đáp ứng nhu cầu
trong nước ngày càng tăng về sản phẩm chế biến thông qua nhập khẩu. Trong điều
kiện hệ số co giãn của nhu cầu trên thế giới về hàng nông sản là rất thấp, con đường
phát triển sẽ gặp khá nhiều khó khăn.
Mặt khác, công nghiệp còn là ngành có ưu thế hơn trong việc tạo ra tiến bộ
khoa học kỹ thuật, tận dụng những đặc trưng của nền sản xuất hiện đại, khuyến
khích tăng trưởng trong các khu vực khác của nền kinh tế thông qua việc mua sắm
các yếu tố đầu vào, sản xuất đầu ra là các thành phẩm và tư liệu sản xuất. Sự phát
triển lành mạnh của ngành nông nghiệp và khai khoáng có ý nghĩa sống còn đối với
thành công của tiến trình CNH. Chúng không những cung cấp phần lớn nguyên liệu


24

cho ngành công nghiệp chế biến, mà còn là nguồn vốn và lao động cho công nghiệp
và nguồn tạo ra nhu cầu trong nước về sản phẩm tiêu dùng của công nghiệp. Sự
thành công của hai ngành này còn có ý nghĩa sống còn trong những giai đoạn đầu
của CNH.
Tuy nhiên, lý thuyết cân đối liên ngành chỉ phù hợp với giai đoạn CNH
hướng nội. Trong điều kiện CNH, HĐH và xu thế hội nhập thì bộc lộ những hạn
chế: (i) Việc phát triển một CCKT cân đối và hoàn chỉnh dẫn đến một nền kinh tế

đến chỗ khép kín và tách biệt với thế giới bên ngoài. Như vậy sẽ rất bất lợi với xu
thế quốc tế hóa và toàn cần hóa kinh tế đang diễn ra trên thế giới và không tận dụng
được những lợi ích tích cực từ môi trường bên ngoài đem lại; (ii) Các nền kinh tế
đang phát triển không đủ nguồn lực về nhân lực, KHCN, tài chính, quản lý… để có
thể thực hiện được những mục tiêu phát triển đặt ra.

1.1.3.5. Lý thuyết "cực tăng trưởng" hay phát triển không cân đối
Nhà kinh tế Hirschman (1958) cho rằng bảo tăng trưởng bền vững bằng cách
duy trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với mọi quốc gia là không thể và không nhất
thiết. Lý do của quan điểm này là: (i) Việc phát triển không cân đối sẽ tạo ra kích
thích đầu tư, dồn đầu tư vào những ngành mang lại lợi nhuận cao và phát triển
mạnh. Ðể nền kinh tế phát triển được, cần phải tập trung đầu tư vào một số ngành
nhất định gọi là “cực tăng trưởng”, tạo ra một "cú hích" thúc đẩy và có tác dụng lôi
kéo đầu tư trong các ngành khác, từ đó kéo theo sự phát triển của nền kinh tế; (ii)
Trong mỗi giai đoạn phát triển, vai trò "cực tăng trưởng" của các ngành trong nền
kinh tế là không giống nhau vì chúng có điều kiện và khả năng phát triển khác nhau
trong mỗi thời kỳ. Vì vậy, cần tập trung những nguồn lực (vốn khan hiếm) cho một
số lĩnh vực cụ thể trong một thời điểm nhất định; (iii) Trong thời kỳ đầu của quá
trình CNH, các nước đang phát triển rất thiếu các nguồn lực sản xuất nên không thể
có khả năng phát triển đồng bộ tất cả các ngành hiện đại cùng một lúc.
Như vậy, với các nước tiến hành CNH, HĐH và hội nhập phát triển không
cân đối các ngành kinh tế là một sự lựa chọn tất yếu. Phát triển cơ cấu không cân


25

đối và mở cửa ra bên ngoài của lý thuyết này là phù hợp với điều kiện hội nhập
quốc tế. Do vậy, trong thời gian gần đây lý thuyết này càng được thừa nhận rộng rãi,
nhất là từ sau sự thành công của các nước công nghiệp hóa mới (NICs). Lý thuyết
phát triển không cân đối đã được nhiều nước đang phát triển áp dụng với mô hình

công nghiệp hóa mở cửa và hướng ngoại.

1.1.3.6. Lý thuyết của Moshe Syrquin
Lý thuyết chuyển dịch CCKT của Syrquin (1988) đưa ra một bức tranh tổng
thể về sự phát triển và chuyển dịch CCKT thời kỳ hiện đại. Quá trình phát riển kinh
tế của một quốc gia theo lý thuyết này được chia thành ba giai đoạn: sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp hóa và nền kinh tế phát triển.
Giai đoạn 1 có đặc trưng chính là sự thống trị của các hoạt động của khu vực
khai thác, đặc biệt là nông nghiệp, nguồn lực chính trong việc gia tăng sản lượng
của các hàng hóa phi thương mại. Mặc dù khu vực khai thác thông thường có tốc độ
tăng trưởng chậm hơn khu vực chế biến nhưng ở mức thu nhập bình quân đầu người
thấp thì sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng đó bị bù trừ hoàn toàn bởi nhu cầu hạn
chế về các mặt hàng công nghiệp chế biến. Đặc trưng chủ yếu của giai đoạn này là
tỷ lệ tích lũy tư bản còn khiêm tốn nên tỷ lệ đầu tư thấp, tốc độ tăng trưởng cao của
lực lượng lao động, tốc độ tăng trưởng năng suất nhân tố (TFP) rất thấp và nhân tố
sau cùng này tác động mạnh đến tốc độ tăng trưởng kinh tế chung hơn là yếu tố tỷ
lệ đầu tư thấp. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng kinh tế chung khá chậm mà
một trong những nguyên nhân chính là do tỷ trọng tương đối cao của khu vực nông
nghiệp trong tổng giá trị gia tăng (hay GDP).
Giai đoạn 2 (giai đoạn công nghiệp hóa) có đặc điểm nổi bật là tầm quan
trọng trong nền kinh tế đã được chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu vực chế
biến, và chỉ tiêu chính để đo lường sự chuyển dịch này là tầm quan trọng của khu
vực chế biến trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung ngày càng tăng lên. Sự
chuyển dịch này xuất hiện ở các nước có mức thu nhập bình quân đầu người cao
hơn hay thấp hơn phụ thuộc vào yếu tố nguồn tài nguyên sẵn có cũng như chính
sách ngoại thương của nước đó. Do có sự gia tăng mạnh của tỷ lệ đầu tư nên sự


×