Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Tính thời vụ trong du lịch biển tại khu du lịch thị xã sầm sơn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 98 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
__________________

***

__________________

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÍNH THỜI VỤ TRONG DU LỊCH BIỂN TẠI KHU DU
LỊCH BIỂN THỊ XÃ SẦM SƠN – TỈNH THANH HÓA

Tên sinh viên: Trịnh Thị Thu Hằng
Chuyên ngành đào tạo: Kinh tế nông nghiệp
Lớp: KT 51B
Niên khóa: 2006 - 2010
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Phạm Thanh Lan

HÀ NỘI - 2010


LỜI CAM ĐOAN
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu của đề tài đặt ra, trong luận văn có
sử dụng các thông tin, số liệu từ sách thông tin, số liệu tổng hợp từ sách, tạp
chí, các bản báo cáo của của Ủy ban nhân dân thị xã Sầm Sơn và số liệu tra
trực tiếp từ người dân địa phương và khách du lịch.
Tôi xin cam đoan tất cả các số liệu thông tin trên hoàn toàn đúng sự
thật và được trích nguồn rõ ràng. Các thông tin và số liệu được tổng hợp
thông qua điều tra thực tế tại khu du lịch Sầm Sơn – tỉnh Thanh Hóa. Luận
văn không sử dụng các số liệu đã có từ các luận văn trước đó.


Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2010
Sinh viên

Trịnh Thị Thu Hằng


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn tốt nghiệp này, ngoài sự cố gắng của bản
thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban Chủ nhiệm Khoa, của
các thầy cô trong khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn Trường Đại học Nông
Nghiệp cùng sự động viên khích lệ của toàn thể gia đình và bạn bè trong suốt
quá trình học tập qua.
Có được kết quả ngày hôm nay, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới
Ban Chủ nhiệm khoa cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và
Phát triển nông thôn đã trang bị kiến thức cho tôi trong suốt 4 năm học vừa
qua. Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo Th.s Phạm Thanh Lan
– Bộ môn Kinh tế môi trường đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi suốt quá
trình thực tập và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ủy Ban nhân dân Thị xã Sầm Sơn và các
phòng ban liên quan đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời
gian thực tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, người
thân – những người đã nuôi dưỡng và luôn ở bên tôi trong suốt quá trình học
tập và rèn luyện.
Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2010
Sinh viên

Trịnh Thị Thu Hằng



TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Sầm Sơn đã từ lâu được biết đến như một địa danh có tiềm năng du
lịch, nghỉ mát, tắm biển nổi tiếng trong và ngoài nước. Song trên thực tế,
nguồn thu từ du lịch biển của thị xã chưa thực sự xứng đáng với tiềm năng
vốn có. Trong đó tính thời vụ là một trong những nguyên nhân chính. Tính
thời vụ là khó khăn không thể tránh khỏi trong việc khai thác tiềm năng du
lịch biển. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế của địa phương, của
vùng và của quốc gia. Sự dao động rất lớn về số lượng du khách giữa hai mùa
vụ đã gây tổn thất đến thu nhập về kinh tế và làm ảnh hưởng tới đời sống xã
hội của người dân địa phương.
Đề tài “Tính thời vụ trong du lịch biển tại khu du lịch thị xã Sầm Sơntỉnh Thanh Hóa” là cơ sở để đề ra những giải pháp nhằm hạn chế tính thời vụ
trong du lịch biển phát huy được lợi thế về tự nhiên của thị xã. Cũng qua đó
chúng ta sẽ biết được những tiềm năng thế mạnh, những tour du lịch, những
sản phẩm du lịch và sự phối hợp trong công tác khai thác du lịch của thị xã
với các khu du lịch khác trên địa bàn của tỉnh Thanh Hóa.
Trên cơ sở nghiên cứu tổng quan tài liệu để có cái nhìn tổng quát và
đầy đủ về tính thời vụ trong du lịch biển. Tính thời vụ trong du lịch biển chịu
có sự ảnh hưởng của các nhân tố mang tính tự nhiên, kinh tế- xã hội, kĩ thuật
và một số nhân tố khác. Tác động bất lợi của tính thời vụ đến các thành phần
của quá trình du lịch- đến dân cư sở tại, đến chính quyền địa phương và nhất
là đến khách du lịch và nhà kinh doanh du lịch. Trong cơ sở lý luận cũng đề
cập tới du khách trong du lịch biển và các loại hình kinh doanh dịch vụ du
lịch trong du lịch biển. Về mặt thực tiễn, tìm hiểu những bài học kinh nghiệm
về giải pháp hạn chế tính thời vụ trong du lịch biển.
Dựa trên đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu chủ
yếu là phương pháp thu thập tài liệu sơ cấp và thu thập tài liệu thứ cấp bằng
phương pháp điều tra và phỏng vấn sâu. Đề tài giới thiệu chung về hoạt động


kinh doanh du lịch biển tại thị xã Sầm Sơn, về cơ sở vật chất phục vụ du lịch,

công tác tuyên truyền quảng bá dịch vụ, các sản phẩm và các tuyến du lịch
của khu du lịch. Khu du lịch Sầm Sơn đã thu hút được lượng lớn du khách
hàng năm, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển du lịch của thị xã Sầm Sơn
và của toàn tỉnh Thanh Hóa, tạo điều kiện thúc đấy cho nền kinh tế của địa
phương phát triển.
Tính thời vụ trong du lịch biển thể hiện ở sự biến động lượng du khách
giữa các tháng trong năm, giữa các ngày trong tuần. Tính thời vụ còn thể hiện
trong hoạt động dịch vụ du lịch, có nhiều cơ sở ngừng hoạt động vào mùa
đông vì lý do không có khách. Vào 4 tháng chính vụ lượng du khách chiếm
80% trong khi đó 8 tháng trái mùa lượng khách chỉ chiếm 20%. Tháng cao
điểm nhất là tháng 7 với lượng du khách chiếm tỉ lệ 29,0% còn các tháng ít
khách nhất chỉ chiếm tỉ lệ 0,5%. Vào mùa hè khách đến Sầm Sơn với mục
đích chủ yếu là giải trí, nghỉ mát, tắm biển chiếm tỉ lệ 83%. Nhưng vào mùa
đông các loại khách đến với mục đích kết hợp với thăm thân, công vụ, nghỉ
dưỡng chiếm tỉ lệ cao hơn trong đó loại khách công vụ chiếm tỉ lệ cao nhất
48,4 %.
Tính thời vụ cũng gây tác động sâu sắc đến lao động và việc làm của
người lao động trong thị xã và các vùng lân cận. Doanh thu bình quân của các
tháng chính vụ chênh lệch rõ rệt với doanh thu bình quân các tháng trái vụ du
lịch lên tới con số 94,75 tỷ đồng. Tính thời vụ cũng gây tác động sâu sắc đến
lao động và việc làm của người lao động trong thị xã và các vùng lân cận.
Dẫn đến hiện tượng người lao động thiếu việc làm và thu nhập bấp bênh vào
mùa đông. Không chỉ gây thiệt hại về mặt kinh tế, bên cạnh đó tính thời vụ
cũng gây thiệt hại nặng nề cho thị xã do lãng phí tài nguyên thiên nhiên cũng
như cơ sở hạ tầng du lịch.
Từ thực trạng hoạt động của khu du lịch biển Sầm Sơn và với khả năng
cũng như định hướng phát triển của thị xã trong tương lai. Qua nghiên cứu,


tham khảo kinh nghiệm của một số địa phương làm du lịch chúng tôi xin đưa

ra những 5 giải pháp chính đó là: Đa dạng hóa sản phẩm du lịch, khai thác
hiệu quả tiềm năng du lịch Sầm Sơn; Phát triển du lịch theo hướng chuyên
nghiệp; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá xúc tiến phát triển du lịch.;
Huy động và sử dụng các nguồn vốn để phát triển kinh tế du lịch Sầm Sơn;
Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch.
Để hạn chế được tính thời vụ trong du lịch biển cần phải trải qua quá
trình lâu dài. Vì vậy, có sự liên kết phối hợp giữa cơ quan quản lý và người
dân để thực hiện thì mới đạt được mục tiêu một cách thuận lợi và nhất quán.


Phần I MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết
Khi nền kinh tế phát triển thì đời sống con người không ngừng nâng cao
không chỉ về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần. Các hoạt động vui chơi,
giải trí, du lịch, lễ hội.. đáp ứng nhu cầu tinh thần đang ngày càng ngày càng
được đáp ứng và mở rộng.
Trong đó, hoạt động du lịch giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Phát triển du lịch góp phần nâng cao dân trí,
sức khỏe cộng đồng, bên cạnh đó làm tăng thu nhập làm giàu cho địa phương
và tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển.
Hiện nay, ngành kinh tế du lịch của nước ta đang trên đà phát triển.
Thanh Hóa nằm trong chiến lược phát triển du lịch, lại là vùng du lịch trọng
điểm của cả nước vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Thị xã Sầm Sơn
cách Thành phố Thanh Hóa 16 km về phía Đông Nam. Sầm Sơn đã từ lâu
được biết đến như một địa danh có tiềm năng du lịch, nghỉ mát, tắm biển nổi
tiếng trong và ngoài nước. Song trên thực tế, nguồn thu từ du lịch biển của thị
xã chưa thực sự xứng đáng với tiềm năng vốn có. Trong đó tính thời vụ là
một trong những nguyên nhân chính. Tính thời vụ là khó khăn không thể
tránh trong việc khai thác tiềm năng du lịch biển. Nó có ảnh hưởng rất lớn
đến phát triển kinh tế của địa phương, của vùng và của quốc gia. Sự dao động

rất lớn về số lượng du khách giữa hai mùa vụ đã gây tổn thất đến thu nhập về
kinh tế và làm ảnh hưởng tới đời sống xã hội của người dân địa phương. Vấn
đề là làm thế nào khắc phục được tính thời vụ trong du lịch biển không chỉ là
vấn đề của chính quyền các cấp mà còn thu hút được sự quan tâm nghiên của
các nhà kinh tế. Vì vậy, nghiên cứu tính thời vụ trong du lịch biển là cơ sở để
đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế tính thời vụ trong du lịch biển phát huy
được lợi thế về tự nhiên của thị xã. Cũng qua đó chúng ta sẽ biết được những
tiềm năng thế mạnh, những tour du lịch, những sản phẩm du lịch và sự phối


hợp trong công tác khai thác du lịch của thị xã với các khu du lịch khác trên
địa bàn của tỉnh Thanh Hóa. Từ đó đề ra những giải pháp thúc đẩy hoạt động
khai thác du lịch tại thị xã, góp phần thúc đẩy công cuộc phát triển kinh tế địa
phương.
Xuất phát từ những lý do trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Tính thời
vụ trong du lịch biển tại khu du lịch thị xã Sầm Sơn- tỉnh Thanh Hóa ”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu tổng quát:
Đánh giá tính thời vụ trong du lịch biển tại khu du lịch biển tại thị xã
Sầm Sơn- tỉnh Thanh Hóa
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về tính thời vụ của một hoạt động
kinh tế
- Đánh giá tính thời vụ của hoạt động kinh doanh du lịch biển tại thị xã
Sầm Sơn- tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục tính thời vụ trong du lịch biển
cho khu du lịch Sầm Sơn.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tính thời vụ trong du lịch biển thông qua hoạt động du lịch

biển. Đối tượng nghiên cứu chính là cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch biển
trên địa bàn và khách du lịch.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Đề tài đi sâu vào nghiên cứu 2 hoạt động du lịch chính là
hoạt động kinh doanh lưu trú và ăn uống; ngoài ra còn một số hoạt động kinh
doanh dịch vụ khác như chụp ảnh, bán đồ lưu niệm, xích lô, bán đồ hải sản…
- Phạm vi không gian: Đề tài được tiến hành tại thị xã Sầm Sơn- tỉnh
Thanh Hóa


- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu tình hình chung từ năm 20072009, tiến hành nghiên cứu trong thời gian từ 12/01/2010 đến 05/05/2010
Phần II

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

2.1 Những vấn đề cơ bản về du lịch
2.1.1 Khái niệm về du lịch
Hoạt động đã có nguồn gốc hình thành từ rất lâu và phát triển với tốc độ
nhanh, song cho đến nay khái niệm du lịch được hiểu khác nhau tại các quốc
gia khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau. Đúng như Giáo sư, Tiến sĩ
Berneker – một chuyên gia hàng đầu về du lịch trên thế giới nhận định: “Đối
với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”.
Trước thế kỉ XX, nhiều học giả cho rằng du lịch là một hiện tượng của
xã hội, đi du lịch chủ yếu là của những người giàu có. Tuy nhiên, hiện nay du
lịch đã trở thành ngành kinh tế quan trọng của nhiều quốc gia, đã và đang thu
hút sự chú ý của nhiều ngành, nhiều nhà nghiên cứu. Các định nghĩa du lịch
được đưa ra thường dựa trên khoảng cách đi du lịch, thời gian và mục đích
chuyến đi.
Tại hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở OTTAWA (Canada) tháng 6
năm 1991 đã đưa ra định nghĩa về du lịch như sau “Du lịch là hoạt động của

con người đi tới nơi một nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở thường
xuyên của mình) trong khoảng thời gian đã được tổ chức du lịch quy định
trước, mục đích chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền
trong lĩnh vực vùng tới thăm”. Định nghĩa du lịch này đã được Tổ chức du
lịch thế giới và các nước Mỹ, Anh, Canada, Australia chấp nhận. Trong pháp
lệnh Du lịch Việt Nam, tại điều 10, thuật ngữ “Du lịch” được hiểu như sau:
“Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình
nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời
gian nhất định”.


Để có cái nhìn đầy đủ về kinh tế và kinh doanh du lịch, một quan điểm
khác dựa trên cơ sở lí luận và hoạt động thực tiễn của du lịch thế giới và Việt
Nam trong những thập kỉ gần đây cho rằng “Du lịch là ngành kinh doanh bao
gồm hướng dẫn du lịch, sản xuất trao đổi hàng hóa dịch vụ của các doanh
nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu về viêc đi lại, lưu trú, ăn uống tham quan giải
trí , tìm hiểu các nhu cầu khác của khách. Các hoạt động đó phải mang lại lợi
ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho đất nước làm lợi cho đất nước làm
du lịch và bản thân doanh nghiệp”
2.1.2 Ý nghĩa kinh tế - xã hội của du lịch
Du lịch mang lại lợi ích về nhiều mặt cho một quốc gia hay một lãnh thổ
du lịch, nó có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đối
với các nước đang phát triển.
a. Về kinh tế
Du lịch tác động rất lớn đến sự phát triển của các ngành kinh tế khác như
nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm thủ công mỹ nghệ, giao thông vận tải,
bưu chính viễn thông, ngân hàng… góp phần khôi phục phát triển các làng
nghề thủ công truyền thống. Ngoài ra du lịch còn là động lực phát triển các
lĩnh vực như y tế, văn hóa, ngân hàng…
Hoạt động du lịch quốc tế là nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước

thông qua việc xuất khẩu tại chỗ một số mặt hàng tiêu dùng, thủ công mĩ
nghệ, lương thực thực phẩm.
b. Về xã hội
Du lịch phát triển không những tạo công ăn việc làm trực tiếp trong
ngành du lịch mà còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động trong
ngành kinh tế khác.
Trên thực tế phát triển du lịch thường gắn với nguồn tài nguyên thiên
nhiên tập trung ở khu vực nông thôn. Do vậy du lịch có thể được coi là động
lực cải thiện cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, các cơ sở y tế địa phương.


Phát triển du lịch góp phần mở rộng giao lưu văn hóa giữa người dân bản
địa với du khách trong và ngoài nước qua đó hiểu biết thêm về lịch sử, văn
hóa đạo đức lối sống, phong tục tập quán.
Du lịch góp phần bảo tồn giao lưu văn hóa các di sản văn hóa dân tộc,
bảo vệ môi trường. Du lịch sinh thái là loại hình du lịch mang đặc trưng riêng
không những đa dạng hóa các sản phẩm du lịch mà còn mang tính giáo dục
du khách, người dân trong địa bàn bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, di sản văn
hóa. Một ý nghĩa rất lớn về mặt xã hội là du lịch luôn hướng tới sự tham gia
của người dân địa phương và các thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt
động dịch vụ như vai trò hướng dẫn viên cho khách du lịch, kinh doanh nhà
nghỉ, ăn uống lưu niệm bán cho du khách…
Tóm lại du lịch không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa
sâu sắc về mặt xã hội. Lợi ích của du lịch không tách rời mà gắn kết, đan xen
giữa kinh tế với văn hóa và xã hội.
2.2 Những vấn đề cơ bản về du lịch biển và tính thời vụ trong du lịch biển
2.2.1 Du lịch biển và tính thời vụ trong du lịch biển
Du lịch là ngành kinh doanh dịch vụ là chủ yếu (hoạt động kinh doanh ở
đây chủ yếu là phục vụ chứ không phải sản xuất). Do tác động của nhiều nhân
tố khác nhau mà hoạt động du lịch mang tính thời vụ. Tính thời vụ đó đã gây

những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh du lịch. Nghiên cứu tính
thời vụ du lịch luôn là một vấn đề trọng tâm của các nhà khoa học và các nhà
kinh doanh thuộc lĩnh vực này.
Từ sau Đại chiến thế giới thứ II cho đến cuối những năm 60 của thế kỉ
trước, việc nghiên cứu tính thời vụ trong du lịch chủ yếu tập trung vào nguồn
gốc, bản chất, đặc điểm của và những nhân tố quyết định đến độ dài của thời
vụ du lịch. Các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới nghiên cứu vấn đề này là
Hunfiker, Planina, Falkovich… Lẽ đương nhiên là do đối tượng nghiên cứu
được xác định như vậy, thì các nhà khoa học và các nhà tổ chức nghiên cứu


du lịch tự đặt cho mình nhiệm vụ làm giảm bớt các tác động có hại của một
vài nhân tố và tăng cường các biện pháp hạn chế những dao động thời vụ
trong hoạt động kinh doanh của các trung tâm du lịch. Cũng vào thời gian đó
một Ủy ban chuyên trách về vấn đề kinh doanh khách sạn thời vụ của hiệp
hội quốc tế các nhà kinh doanh khách sạn ra đời và đi vào hoạt động. Tại
Pháp cũng có liên hiệp các quốc gia, các nhà kinh doanh khách sạn thời vụ.
Tại hiệp hội quốc tế ở Roma (Ý) năm 1963 về các vấn đề thời vụ về du lịch.
Thời gian gần đây tuy vẫn quan tâm đến khía cạnh lý thuyết của vấn đề
này, song các tổ chức quốc gia và các tổ chức quốc tế về du lịch tập trung
nhiều hơn về việc biên soạn, thực nghiệm và ứng dụng những kế hoạch tổng
hợp nhằm hạn chế các tác động bất lợi trong du lịch biển.
Trước hết ta hiểu thế nào về du lịch biển? Tại chương I điều 4 Luật du
lịch Việt Nam tháng 6/2005 quy định: “Du lịch là các hoạt động có liên quan
đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm
đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng
thời gian nhất định”. Vậy có thể suy rộng ra du lịch biển bằng cách cho các
hoạt động đó diễn ra gắn liền với biển.
Cho đến nay, nhiều tác giả có chung quan điểm về tính thời vụ du lịch
như sau: Tính thời vụ du lịch là sự dao động lặp đi lặp lại đối với cung cầu

của các dịch vụ hàng hóa du lịch, xảy ra dưới tác động của các nhân tố nhất
định là khoảng thời gian của một chu kì kinh doanh, mà tại đó có sự tập trung
cao nhất của cung cầu du lịch. Đối với du lịch biển việc xác định thời vụ rõ
ràng hơn, bởi sự dao động này chỉ diễn ra một lần trong năm. Như vậy, tính
thời vụ trong du lịch biển thể hiện rõ nét: mùa hè lượng khách du lịch rất lớn
trong khi dòng du khách về mùa đông là có thể không có. Tuy nhiên thời gian
và cường độ của thời vụ du lịch không phải là yếu tố bất biến mà chúng biến
đổi dưới tác động của nhiều nhân tố.
2.2.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến tính thời vụ du lịch biển


Tính thời vụ trong du lịch tồn tại bởi tác động của tập hợp nhiều nhân tố
đa dạng. Đó là các nhân tố tự nhiên, nhân tố kinh tế- xã hội, nhân tố tổ chức,
kỹ thuật, nhân tố tâm lý, vv…
Một số nhân tố có ảnh hưởng chủ yếu đến cung, một số đến cầu, một số
khác ảnh hưởng đến cả cung và cầu của thị trường du lịch biển. Tính thời vụ
trong du lịch biển đã gây ra rất nhiều khó khăn cho việc kinh doanh đạt hiệu
quả. Do vậy, muốn nâng cao hiệu quả trong kinh doanh du lịch cần nghiên
cứu tỉ mỉ những nhân tố quyết định tính thời vụ trong du lịch không chỉ ở
phạm vi một đất nước mà cả ở những vùng riêng biệt với những điều kiện
kinh doanh cụ thể. Vì vậy, nghiên cứu các nhân tố một cách khoa học và toàn
diện sẽ cho phép các cơ quan và các nhà quản lý du lịch định ra các chính
sách phát triển ngành phát triển vùng và xí nghiệp du lịch một cách đúng đắn
nhằm giảm tác động bất lợi của đa số các nhân tố và kết quả kéo dài được
thời vụ du lịch.
Sơ đồ 1: Các nhân tố ảnh hưởng đến tính thời vụ trong du lịch biển
Các nhân tố quết định tính thời vụ trong du lịch biển
Nhân tố
tự nhiên


Nhân tố
kinh tế - xã
hội

Nhân tố tổ
chức kỹ
thuật

Cầu du
lịch

Các nhân tố
khác

Cung du
lịch

Độ dài thời vụ
du lịch


(Nguồn: Giáo trình kinh tế du lịch)
a. Nhân tố tự nhiên
Trong các nhân tố mang tính tự nhiên, khí hậu là nhân tố chủ yếu quyết
định đến tính thời vụ trong kinh doanh du lịch. Thông thường khí hậu tác
động đến cung và cầu trong du lịch.
Đối với thể loại du lịch nghỉ biển thì mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
khí hậu là rất lớn. Trong đó, các thành phần của khí hậu như cường độ ánh
nắng, độ ẩm, độ mạnh và hướng của gió, nhiệt độ cộng với một số đặc điểm
khác của bờ biển như: độ sâu của bờ biển, kích thước của bãi tắm v.v…quyết

định mức độ tiện nghi phù hợp với việc tắm và phơi nắng của khách, từ đó
dẫn đến việc xác định giới hạn của thời vụ du lịch. Tuy nhiên giới hạn đó có
thể mở rộng ra hoặc thu hẹp lại tuỳ thuộc vào đòi hỏi của khách du lịch và
tiêu chuẩn của họ khi sử dụng tài nguyên du lịch.
Thí dụ : Đối với khách du lịch Bắc Âu, nhiệt độ nước biển từ 15-16 0C
là phù hợp để tắm hoặc mùa du lịch có thể kéo dài hơn.
Đối với các đối tượng khách du lịch khác thì nhiệt độ nước
biển phải từ 20-250C (hoặc cao hơn) nên mùa du lịch bị co ngắn lại.
Tóm lại, khí hậu có tính quyết định độ dài của thời vụ du lịch biển.
b. Nhân tố mang tính kinh tế - xã hội
Trong 4 nhóm nhân tố mang tính kinh tế xã hội có 4 nhân tố chính bao gồm:
- Nhân tố quyết định tới sự phân bổ quỹ thời gian nhàn rỗi của các nhóm
dân cư. Sự phân bổ không đồng đều quỹ thời gian nhàn rỗi của các nhóm dân
cư gây ảnh hưởng đến sự phân bổ không đồng đều của nhu cầu du lịch biển.
Một trong những điều kiện cần thiết quan trọng để con người có thể đi du lịch
là phải có thời gian rảnh rỗi. Khi xét tác động của thời gian rảnh rỗi lên tính
thời vụ trong kinh doanh du lịch phải xét từ hai khía cạnh.
+ Khía cạnh thứ nhất : Là thời gian nghỉ phép năm có thể tác động
lên tính thời vụ du lịch do độ dài của thời gian nghỉ phép và thời gian sử dụng


phép trong năm. Thực tế cho thấy, ở những quốc gia có thời gian nghỉ phép
năm ngắn thì người dân thưòng chỉ có thể đi du lịch một lần trong năm. Khi
đó họ có xu hướng chọn thời gian chính vụ để nghỉ với mong muốn tận
hưởng được những cái tốt nhất cho những ngày nghỉ phép quý giá. Do vậy, sự
tập trung của cầu du lịch thường cao vào thời vụ du lịch chính. Nếu số ngày
nghỉ phép năm được kéo dài sẽ cho phép con người có thể đi du lịch nhiều lần
hơn trong năm. Như vậy, sự gia tăng thời gian nhàn rỗi góp phần làm giảm
cường độ của thời vụ du lịch và tăng cường độ tập trung nhu cầu vào thời vụ
du lịch truyền thống.

+ Khía cạnh thứ hai : Là thời gian nghỉ của các trường học. Thời
gian nghỉ học trong năm tác động lên thời gian nhàn rỗi của học sinh và phụ
huynh học sinh và qua đó đóng vai trò giới hạn trong việc lựa chọn thời gian
đi du lịch của các bậc cha mẹ có con từ độ tuổi từ 6 đến 15 tuổi. Tác động
nghỉ của các trường học cũng phải được nghiên cứu trên hai mặt: độ dài của
thời gian nghỉ và sự phân bố của thời gian nghỉ trong năm. Đối với các nơi
phát triển du lịch biển tác động của nhân tố thời gian nghỉ của các trường học
lên tính thời vụ du lịch khá biểu hiện rõ nét. Ở nước ta cao trào du lịch biển
không nằm ngoài vòng xoáy đó, thường nằm vào tháng 7 khi đó học sinh,
sinh viên vừa qua một kì thi căng thẳng.
Khi nghiên cứu mức độ tác động của thời gian nghỉ của trường học gây
nên sự tập trung nhu cầu du lịch vào thời vụ chính. Trên thực tế thì mỗi nước
khác nhau thì có cơ cấu dân cư theo độ tuổi và hoàn cảnh gia đình khác nhau.
Do vậy, việc nghiên cứu đòi hỏi phải rất cụ thể và rất tỉ mỉ, tốn nhiều công
sức và khó tổng hợp thành xu hướng chung.
- Phong tục tập quán: Qua điều tra xã hội học mới đây ở Hoa Kì và một
số nước Châu Âu cho thấy : phong tục, tập quán là những nhân tố tác động
trực tiếp lên, cầu du lịch và tạo nên sự tập trung của cầu du lịch vào những
thời vụ nhất định.


Thông thường, các phong tục, tập quán có tính chất lịch sử bền vững.
Cùng với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội có thể sẽ tạo
thêm nhiều phong tục mới nhưng khó có thể thay đổi được các phong tục cũ.
Nhiều khi phong tục đã trở thành đã tạo thành thói quen cho con người như
việc đi du lịch biển phải đi vào mùa hè còn các mùa khác không có.
- Điều kiện về tài nguyên du lịch: Chỉ có thể phát triển thể loại du lịch
nào sẽ gây ảnh hưởng đến tính thời vụ du lịch của điểm du lịch tương ứng.
Đây là nhân tố tác động đến cung và cầu. Như một điểm du lịch biển thì thời
vụ du lịch tại đó sẽ ngắn hơn tại một điểm du lịch khác có điều kiện phát triển

du lịch văn hoá.
- Nhân tố mang tính tổ chức kĩ thuật
+ Sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch - đây là nhân tố quyết định
đến độ dài của thời vụ thông qua khả năng cung cấp dịch vụ du lịch.
+ Cơ cấu của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và cách tổ chức hoạt
động hay cơ sở du lịch ảnh hưởng lớn đến việc phân bố các nhu cầu có khả
năng thanh toán theo thời gian. Ví dụ : Cơ sở lưu trú chính thì thường có thời
gian kinh doanh dài hơn cơ sở lưu trú phụ. Vào mùa đông, các cơ sở tạm trú
chính vẫn có thể có khách còn các cơ sở lưu trú phụ có thể không có hoặc ít.
Các khu du lịch biển phát triển các loại hình du lịch đa dạng sẽ thu hút được
khách trái vụ và như vậy có thể kéo dài thời vụ du lịch.
c. Các nhân tố khác
Nhân tố mang tính tâm lý (nhân tố về mốt và sự bắt chước) : Một số
người muốn đi nghỉ ở một vùng, một đất nước mà họ không hề biết đến các
điều kiện cụ thể về ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí. Khi đó họ chọn thời
gian đi nghỉ theo khách du lịch có kinh nghiệm hoặc các nhân vật nổi tiếng.
Ấn tượng tốt đẹp ở lần du lịch trước mà họ sẽ quyết định đi du lịch lần nữa
vào mùa du lịch năm sau đối với khu du lịch đó.


Các nhân tố đặc biệt : một số khách sạn phục vụ chính là đối tượng
khách công vụ thì thời vụ của các khách sạn này phụ thuộc lớn vào thời gian
họp, tổng kết của các cơ quan, doanh nghiệp.
Thông thường các nhân tố trên vừa tác động riêng lẻ, vừa tác động đồng
thời. Người ta thường thấy ảnh hưởng của một vài nhân tố cùng một lúc,
ngoài ra tác động của từng nhân tố có thể giảm đi khi nhân tố khác tác động
ngược lại. Như tác đông của nhân tố khí hậu trong du lịch biển sẽ làm giảm
nếu tạo ra cơ cấu của cơ sở vật chất thích hợp, xây dựng nhiều khu vui chơi
giải trí. Điều đó chứng tỏ rằng nghiên cứu nhiều cường độ và hướng tác động
của từng nhân tố là chưa đủ mà cần xác lập mối quan hệ và ràng buộc qua lại

giữa chúng. Như vậy mới vạch ra được mọi khả năng kéo dài mùa kinh doanh
du lịch, sử dụng hợp lí hơn nguồn lao động trong cả năm nâng cao chất lượng
phục vụ du lịch tăng nguồn thu nhập của du lịch.
2.2.3 Các tác động bất lợi của tính thời vụ trong du lịch biển
Tính thời vụ trong du lịch ảnh hưởng bất lợi đến tất cả các thành phần
của quá trình du lịch - đến dân cư sở tại, đến chính quyền địa phương và nhất
là đến khách du lịch và nhà kinh doanh du lịch.
a. Các tác động bất lợi đến dân cư sở tại
Khi cầu du lịch tập trung quá lớn gây nên sự mất cân đối, mất ổn định
đối với các phương tiện giao thông đại chúng, đối với mạng lưới phục vụ xã
hội (giao thông công chính, điện, nước mạng lưới thương nghiệp v.v..), làm
ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày của nhân dân địa phương.
Khi cầu du lịch giảm xuống và tới mức bằng không thì những người làm
hợp đồng theo thời vụ sẽ không còn việc. Ngoài ra, ngay cả những nhân viên
cố định ngoài thời vụ cũng có thu nhập thấp hơn.
b. Các tác động bất lợi đến chính quyền địa phương
Khi cầu du lịch tập trung quá lớn sẽ gây ra không ít những sự mất thăng
bằng cho việc bảo vệ trật tự an ninh và an toàn xã hội. Ở mức độ nhất định,


tính thời vụ gây ra những khó khăn cho việc quản lý Nhà nước đối với hoạt
động du lịch (ở cả cấp trung ương và cấp địa phương).
Khi cầu du lịch giảm xuống và tới mức bằng không thì những khoản thu
nhập từ thuế và lệ phí do du lịch đem lại cho du lịch cũng giảm.
c. Các tác động bất lợi đến khách du lịch
Khi cầu du lịch tập trung lớn làm hạn chế khả năng tìm chỗ nghỉ thích
hợp với thời gian tự chọn theo ý muốn. Ngoài ra, vào mùa du lịch chính
thường xảy ra tình trạng tập trung nhiều khách du lịch trên phương tiện giao
thông, trong các cơ sở lưu trú ở các nơi du lịch. Điều đó làm giảm tiện nghi
khi đi lại, lưu trú của khách. Do vậy, dẫn đến việc giảm chất lượng phục vụ

khách du lịch
d. Các tác động bất lợi đến nhà kinh doanh du lịch
Tính thời vụ trong du lịch biển gây ra nhiều khó khăn trong việc tổ chức
kinh doanh cùa ngành du lịch, ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động từ chất
lượng phục vụ du lịch, tổ chức và sử dụng nhân lực, việc tổ chức các hoạt
động cung ứng, các ngành kinh tế và dịch vụ liên quan; dịch vụ công cộng
đến tài nguyên du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật.
Có thể thấy rằng tính thời vụ trong du lịch biển tác động bất lợi đến hoạt
động kinh doanh cả khi cầu du lịch tăng tới mức vượt quá khả năng cung cấp
của các cơ sở kinh doanh đến khi cả cầu du lịch giảm xuống tới mức bằng
không.
2.3 Du khách và loại du khách trong du lịch biển
2.3.1 Khái niệm về du khách
Du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội mà còn là lĩnh vực kinh tế
với đối tượng phục vụ là người du lịch. Đối với doanh nghiệp, thông qua số
lượng du khách có thể nắm được doanh thu. Sự chuẩn hóa khái niệm du
khách sẽ giúp các nhà thống kê nhận được tiêu chí phân định được khách
tham quan và du khách, từ đó giúp cho cơ quan quản lý xác định được nghĩa
vụ đối với nhà nước của doanh nghiệp du lịch. Trong du lịch biển, cũng vậy


du khách có một vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá tính thời vụ trong
du lịch.
Định nghĩa về khách du lịch xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thế kỉ thứ
XVIII tại Pháp. Đến đầu thế kỉ XX một số nhà kinh tế học như Iozef Stander,
OdgilVi, Moral… đưa ra khái niệm về du khách. Hầu hết các định nghĩa trên
đều mang tính phiến diện, chưa đầy đủ chủ yếu mang tính chất phản ánh sự
phát triển của du lịch đương thời và xem xét không đầy đủ, hạn chế nội dung
thực của khái niệm khách du lịch.
Đến nay qua quá trình phát triển của du lịch thì khái niệm du khách được

định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Nhìn chung đều đề cập đến 3 khía
cạnh sau:
- Thứ nhất, đề cập đến động cơ khởi hành (có thể là đi tham quan,
nghỉ dưỡng, thăm thân … trừ động cơ kiếm tiền);
- Thứ hai, đề cập đến yếu tố thời gian (đặc biệt chú trọng đến sự
phân biệt giữa khách tham quan trong ngày và khách du lịch là người nghỉ
qua đêm hoặc có sử dụng một tối trọ);
- Thứ ba, đề cập đến những đối tượng được thống kê; là khách du
lịch và những đối tượng không được thống kê là khách du lịch như dân di cư,
khách quá cảnh, …
Trong pháp lệnh Du lịch của Việt Nam ban hành năm 1999 có quy định
như sau về khách du lịch: tại điểm 2, Điều 10, Chương I: “Khách du lịch là
người đi du lịch hoặc kết hợp du lịch, trừ trường hợp đi học, hoặc hành nghề
để nhận thu nhập ở nơi đến”.
Tại Điều 20, chương IV: “Khách du lịch bao gồm khách nội địa và khách
du lịch quốc tế”.
“Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại
Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”


“Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú
tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch”.
Du khách trong du lịch biển là những du khách với mục đích về với thiên
nhiên, tham gia các hoạt động du lịch như tắm biển, thể thao biển.. Với thời
gian thuận lợi nhất là vào mùa nóng, khi đó nhiệt độ nước biển và không khí
trên 200C. Tất nhiên tùy vào thời gian rỗi cũng như sở thích của du khách mà
họ đến với biển bất cứ thời gian nào
2.3.2 Phân loại du khách trong du lịch biển
Du khách có rất nhiều cách phân loại, tùy vào mục đích mà ta có các

cách phân loại khác nhau. Song nếu dựa vào động cơ du lịch hay mục đích du
lịch thì cơ bản có các loại khách du lịch như sơ đồ
Sơ đồ 2: Phân loại khách du lịch theo mục đích chuyến đi
Mục đích chuyến đi

Du khách thuần tuý

Tham Giải trí Thể Khám
quan (các trò thao
phá
Phong chơi) (golf, (mạo
cảnh,
tennis) hiểm)
công
trình văn
hóa

Du khách với mục đích
kết hợp

Học tập Thể
Kinh Chữa Thăm Khác
nghiên thao doanh, bệnh thân
cứu, đi (tham công vụ
thực tế, gia các
thực tập cuộc thi
đấu)

(Nguồn: Giáo trình kinh tế du lịch)



Do tính mùa vụ trong du lịch biển nên ta có thể phân loại như sau:
+ Khách vào mùa đông: khách vào mùa này trong du lịch biển chủ
yếu là du khách với mục đích kết hợp nghĩa là công việc chính của họ là
nghiên cứu, công tác, hội họp, tìm kiếm cơ hội làm ăn… trên đường đi hay tại
nơi đến họ sắp xếp thời gian cho tham quan nghỉ ngơi của họ tại khu du lịch
biển. Các loại du khách chủ yếu ở đây chính là du khách công vụ hoặc các
loại du khách với mục đích khác như nghiên cứu… Khách với mục đích giải
trí rất ít – thường thì ở các nước phát triển, với các bãi biển phù hợp, mục
đích thể thao cũng khá phát triển như lướt sóng, các thú chơi mạo hiểm…
Còn đối với nước ta thì loại du khách này trong du lịch biển hầu như không
có. Các thủy thủ, phi hành đoàn mùa đông hay mùa hè đều là khách tham
quan của các khu du lịch biển.
+ Khách vào mùa hè thì phong phú và đa dạng hơn. Đây là mùa vụ
chính của du lịch biển, nên lượng du khách về với biển rất đông trong đó chủ
yếu là khách giải trí, vui chơi
2.4 Các loại hình kinh doanh dịch vụ du lịch trong du lịch biển
2.4.1 Các loại hình du lịch thường có trong du lịch biển
Ngày nay đời sống con người ngày càng đi lên. Không chỉ dừng lại ở các
nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại mà còn cả những nhu cầu vui chơi giải trí. Chính
vì thế, các loại hình du lịch trong du lịch nói chung và trong du lịch biển nói
riêng ngày càng phong phú và đa dạng để đáp ứng nhu cầu của con người.
Dựa vào tính chất đặc biệt trong du lịch biển – tính mùa vụ rõ rệt và nhu cầu
làm nảy sinh hoạt động du lịch mà có thể phân loại du lịch thành những loại
hình sau:
- Du lịch chữa bệnh: Ở thể loại này khách đi du lịch do nhu cầu điều trị
các bệnh tật về thể xác và tinh thần của họ. Du lịch chữa bệnh trong du lịch
biển là bằng khí hậu. Kết hợp giữa không khí trong lành và vui chơi giải trí sẽ
giúp cho tinh thần sảng khoái, thân thể khoẻ mạnh.



- Du lịch nghỉ ngơi, giải trí: Nhu cầu chính làm nảy sinh hình thức du
lịch này là sự cần thiết phải nghỉ ngơi để phục hồi thể lực và tinh thần cho con
người. Đây là loại hình du lịch có tác dụng giải trí, làm cuộc sống thêm đa
dạng và giải thoát con người ra khỏi áp lực của cuộc sống hàng ngày.
- Du lịch thể thao: du lịch thể thao chủ động khách du lịch có thể đi tham
gia trực tiếp vào hoạt động thể thao như bóng chuyền bãi biển, bóng đá, lướt
ván trên biển…hoặc du lịch trên tàu, du lịch lặn biển…
- Du lịch công vụ: Mục đích chính của loại hình du lịch này là nhằm thực
hiện nhiệm vụ công tác hoặc nghề nghiệp nào đó. Với mục đích này, khách
tham dự các cuộc hội nghị, hội thảo, kỉ niệm các ngày lễ lớn, các cuộc gặp gỡ,
các cuộc triển lãm hàng hóa hội chợ… và kết hợp cùng du lịch biển.
- Du lịch thăm thân, du lịch quê hương: loại du lịch này phần lớn nảy
sinh do nhu cầu của những xa quê hương, đi thăm bà con họ hàng, bạn bè
thân quen, đi dự lễ cưới. lễ tang
- Du lịch lễ tang: nảy sinh do nhu cầu đi qua lãnh thổ của một nước nào
đó, một vùng nào để đi đến nước khác.
2.4.2 Các lĩnh vực kinh doanh du lịch
Để tạo ra các dịch vụ du lịch nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du
lịch, đòi hỏi cần phải có các loại hình kinh doanh dịch vụ tương ứng.
- Kinh doanh lữ hành: Khi nói đến hoạt động kinh doanh lữ hành,
nói chung các chuyên gia về du lịch muốn đề cập đến hoạt động chính như
“làm nhiệm vụ giao dịch, kí kết các tổ chức kinh doanh du lịch trong nước,
nước ngoài để xây dựng và thực hiện các chương trình du lịch để bán cho
khách du lịch”. Tuy nhiên, trên thực tế, khi nói đến hoạt động kinh doanh du
lịch lữ hành thì song song tồn tại hai hoạt động phổ biến sau: kinh doanh lữ
hành và kinh doanh đại lý lữ hành.
- Kinh doanh khách sạn (Hospitality Business): Theo nguyên bản
tiếng Anh “Hospitality Industry” có thể hiểu là “ngành khách sạn”. Tuy



nhiên, vấn đề quan trọng hơn là hiểu đúng nội dung của lĩnh vực hoạt động
kinh doanh du lịch mà chúng ta muốn đề cập. Theo quy chế quản lý lữ hành
của tổng cục Du lịch Việt Nam ban hành ngày 29/04/1995 , thuật ngữ “kinh
doanh khách sạn” được hiểu là “làm nhiệm vụ tổ chức đón tiếp, phục vụ việc
khách lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, bán hàng cho khách du lịch”.
- Kinh doanh vận chuyển khách du lịch (Transportation): Khi đề cập
đến hoạt động kinh doanh du lịch nói riêng không thể không đề cập đến hoạt
động kinh doanh vận chuyển, Kinh doanh vận chuyển là hoạt động kinh
doanh giúp cho khách du lịch chuyển từ nơi mình cư trú đến điểm du lịch
cũng như dịch chuyển tại điểm du lịch.
Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh này có nhiều phương tiện vận chuyển
khác nhau như ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ, máy bay. Thực tế cho thấy ít có các
doanh nghiệp du lịch (trừ một số tập đoàn trên thế giới) có thể đảm nhiệm
toàn bộ việc vận chuyển khách du lịch từ nơi cư trú của họ đến điểm du lịch.
Phần lớn trong các trường hợp, khách du lịch sử dụng dịch vụ vận chuyển của
các phương tiện giao thông đại chúng hoặc của các công ty chuyên kinh
doanh dịch vụ vận chuyển.
- Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác (Other Tourism Business)
Ngoài các hoạt động kinh doanh như đã nêu trên, trong lĩnh vực hoạt động
kinh doanh du lịch còn một số hoạt động kinh doanh bổ trợ như kinh doanh
các loại hình dịch vụ vui chơi, giải trí, tuyên truyền, quảng cáo du lịch, tư vấn
đầu tư du lịch vv..
2.5 Một số bài học kinh nghiệm về giải pháp hạn chế tính thời vụ trong
du lịch biển
Tác động nhiều mặt của tính thời vụ trong du lịch biển đòi hỏi phải có
phương pháp thích hợp trong hoạt động nhằm hạn chế những tác động bất lợi
trên toàn ngành của các cơ sở trực thuộc. Nhiều thành tựu của khoa học và
kinh nghiệm của nhiều nước phát triển du lịch cho thấy có các biện pháp hạn
chế tính thời vụ trong du lịch biển như sau:



• Làm tăng mức độ phù hợp tối ưu giữa cung và cầu, để làm được điều
này cần:
+ Tổ chức lao động hợp lý – các doanh nghiệp có quỹ lao động cơ
hữu và lao động theo hợp đồng theo thời vụ.
+ Liên kết với các đơn vị kinh doanh, các vùng lân cận để hỗ trợ về
nguồn nhân lực khi quá tải.
+ Tạo công ăn việc làm ngoài thời vụ du lịch cho cán bộ công nhân
viên, ngưòi lao động của địa phương, vùng.
• Làm kéo dài mùa vụ du lịch:
+ Đạt được sự tương xứng giữa cường độ và độ dài thời vụ du lịch
chính.
+ Làm sống động hoạt động của khu du lịch nghỉ biển và nâng cao
sức hấp dẫn của chúng trước và sau mùa vụ du lịch chính.
+ Tận dụng tài nguyên chữa bệnh đã có và chuyển hoạt động kinh
doanh của một phần cơ sở vật chất kĩ thuật sang hoạt động quanh năm.
• Tạo điều kiện cho thời vụ thứ hai:
Một vấn đề quan trọng khác nhằm hạn chế ảnh hưởng bất lợi của thời
vụ đối với từng khu du lịch là việc tạo điều kiện cho thời vụ thứ hai. Điều đó
phải xác định được những loại hình du lịch mới có thể phát triển ở đây. Việc
đánh giá đòi hỏi phải dựa trên những tiêu chuẩn sau:
+ Tính hấp dẫn của tài nguyên du lịch ngoài mùa vụ du lịch chính.
+ Khả năng huy động tài nguyên du lịch chưa được khai thác.
+ Nguồn khách triển vọng theo số lượng và cơ cấu.
+ Chất lượng và cơ cấu của cơ sở vật chất kĩ thuật đã có (đánh giá
theo hướng có lợi của cơ sở đó trong việc thoả mãn nhu cầu cho nhóm khách
du lịch khác).
+ Lượng vốn cần thiết để đầu tư thêm trang thiết bị để thoả mãn
quanh năm nhu cầu của đa số khách du lịch



Qua nghiên cứu, để tạo ra du lịch thứ hai cho khu du lịch cần phải làm
những việc sau:
+ Hoạt động của khu du lịch biển thêm phong phú thêm nhờ du lịch
chữa bệnh (thể loại này có thu hút thêm khách du lịch ở lứa tuổi thứ ba vào
trước và sau ngoài mùa du lịch). Các chuyến du lịch tìm hiểu theo tuyến, du
lịch hội nghị và các chuyến du lịch của các nhóm với những nhu cầu đặc biệt
vào trước và sau và ngoài mùa du lịch.
+ Các trung tâm thể thao mùa đông có thể thu hút khách du lịch
quanh năm với các hoạt động thể thao khác như quần vợt, đánh golf…
+ Các trung tâm du lịch công vụ có thể đa dạng hoá hoạt động của
mình bằng cách tạo ra những điều kiện thuận lợi vào mùa hè để thu hút khách
du lịch cuối tuần.
+ Các trung tâm du lịch hội nghị thường hay tổ chức các cuộc triển
lãm khác nhau trong năm để thu hút khách thường xuyên.
+ Các trung tâm du lịch chữa bệnh khó tìm thêm được các thể loại
bổ sung đạt hiệu quả, song bù lại chúng lại có thời vụ du lịch kéo dài hơn các
loại khác.
Như vậy, với việc nghiên cứu tính thời vụ trong du lịch biển, các nhà
khoa học quốc tế và trong nước đã tìm ra những giải pháp hữu hiệu để hạn
chế phần những tác động bất lợi trong tính thời vụ du lịch biển. Áp dụng các
biện pháp này vào mỗi vùng, mỗi miền, mỗi quốc gia đều phải dựa vào đặc
điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của nơi đó để đạt hiệu quả cao nhất.
Trong thực tế nhiều bãi biển có điều kiện thuận lợi đã thu hút du khách
về quanh năm như bãi biển Nha Trang, còn như bãi biển Đồ Sơn (Hải Phòng)
thì biện pháp của họ là phát triển du lịch sinh thái để hạn chế tính thời vụ
trong du lịch biển.



×