Tải bản đầy đủ (.pdf) (215 trang)

Tiểu luận chính sách cho thuê môi trường rừng các vườn quốc gia nghiên cứu vườn quốc gia ba vì tam đảo và bến en

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 215 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài luận án
Rừng là quần thể sinh vật bao gồm: thực vật, động vật, vi sinh vật và các yếu
tố môi trường sinh thái như: đất, nước, thời tiết, khí hậu,.... Vì vậy, giá trị của rừng
không chỉ nằm trong các sản phẩm gỗ mà tiềm ẩn một giá trị rất lớn khác là dịch vụ
môi trường rừng [26]. Ý thức được giá trị nhiều mặt của rừng, vai trò của Đa dạng
sinh học trong cuộc sống nên nhiều nước trong đó có Việt Nam đã thành lập các
VQG để bảo tồn các giá trị của rừng. Tính đến 30/12/2011 cả nước có 30 VQG được
phân bố ở nhiều vùng miền cả nước [21]. VQG được thành lập với chức năng là để
bảo tồn tài nguyên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, bảo vệ nguồn gen
sinh vật rừng, nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh,
phục vụ nghỉ ngơi, du lịch,... Đây là những hoạt động công ích nên về nguyên tắc,
những khu rừng này được ngân sách Nhà nước cấp kinh phí và được giao cho các tổ
chức Nhà nước (Ban quản lý rừng) trực tiếp quản lý. Thực tế hiện nay, nguồn kinh
phí từ ngân sách hạn hẹp làm ảnh hưởng đến công tác BV&PTR tại các VQG, đặc
biệt là tận dụng các tiềm năng của VQG để phát triển kinh tế, tăng nguồn thu từ rừng,
huy động các nguồn lực của xã hội.
Trong những thập kỷ gần đây, khai thác các lợi ích từ các VQG, đặc biệt là
giá trị sử dụng gián tiếp của rừng (giá trị dịch vụ môi trường rừng), trong đó có dịch
vụ DLST được nhiều VQG trên thế giới quan tâm và thử nghiệm. Việt Nam cũng
cho phép các VQG chủ động tổ chức các hoạt động kinh doanh DLST để tạo nguồn
thu đầu tư lại cho việc BV&PTR, giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, đồng
thời góp phần thay đổi nhận thức về vai trò và giá trị nhiều mặt của rừng. Tuy
nhiên, nhưng hoạt động này tiến hành rất chậm chạp tại các VQG, có nơi không
triển khai được do không có nguồn kinh phí để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho
loại hình dịch vụ DLST....
Một xu thế phát triển mới trong thời gian gần đây là các công ty, tổ chức, cá
nhân có nhu cầu thuê môi trường rừng tại các VQG để kinh doanh DLST. Mặc dù mới
được hình thành, nhưng đây là một hướng phát triển có tiềm năng và nhận được sự




2

đồng thuận của xã hội, vì nó tạo ra sự liên kết mật thiết, chặt chẽ thúc đẩy lẫn nhau của
hai hoạt động phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ phát triển nguồn tài nguyên rừng. Thuê
môi trường rừng còn là 1 phương thức nhằm xã hội hóa dịch vụ môi trường rừng từ đó
góp phần tạo nguồn thu để đầu tư lại BV&PTR bằng nguồn vốn tự có, giảm đầu tư của
Nhà nước đối với các khu rừng có nhiều dịch vụ môi trường rừng trong đó có VQG.
Ở Việt Nam, thuê môi trường rừng kinh doanh DLST được thể hiện trong các
chủ trương của Đảng và Nhà nước, đã được thí điểm áp dụng ở VQG Ba Vì, Bidup Núi
Bà, Ba Bể từ năm 2002. Thực tế triển khai chính sách cho thuê môi trường rừng kinh
doanh DLST hiện đang được tổ chức khá thành công tại các VQG trên. Năm 2009, Bộ
NN&PTNT đã tổ chức đánh giá mô hình "Thuê môi trường rừng làm DLST" ở một số
tỉnh, thành phố, các ý kiến tại hội nghị đều ghi nhận: "Thuê môi trường rừng không chỉ
mang lại hiệu quả kinh tế, mô hình này còn tạo lợi ích cho cả "ba nhà" (Nhà nước,
doanh nghiệp và nông dân) và đặc biệt đã thực hiện xã hội hoá nghề rừng" [6].
Mặc dù Nhà nước đã có chủ trương cho thuê môi trường rừng để kinh doanh
DLST và được đánh giá khá thành công ở VQG thí điểm nhưng thực tế triển khai còn
chậm, một trong những lý do chính là chính sách cho thuê môi trường rừng chưa hoàn
chỉnh, quy định tản mạn ở một số văn bản pháp luật khác nhau, thiếu những quy định
cần thiết, hoặc một số quy định còn bất cập gây khó khăn cho quá trình triển khai như:
trình tự, thủ tục, thẩm quyền cho thuê môi trường rừng chưa rõ, giá cho thuê môi
trường rừng mới xác định được ở một số VQG, thiếu quy định thống nhất về quản lý
sử dụng tiền thuê, xử lý tranh chấp, quyền và trách nhiệm của bên thuê và cho thuê, cơ
chế chuyển nhượng, góp vốn trong hợp đồng cho thuê môi trường rừng [6].
Chính vì vậy, các phương án quản lý, khung pháp chế, chính sách cho thuê môi
trường rừng vẫn là những câu hỏi mở cần có các định hướng của các cấp quản lý và
ngành lâm nghiệp. Xuất phát từ những vấn đề trên việc nghiên cứu hoàn thiện chính
sách cho thuê môi trường rừng tại các VQG là cần thiết và cấp bách. Đây là lý do

nghiên cứu sinh chọn vấn đề này làm đề tài luận án của mình.


3

2. Mục tiêu nghiên cứu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
* Mục tiêu tổng quát
Đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện chính sách cho thuê môi trường
rừng vào mục đích kinh doanh DLST tại VQG ở khu vực phía Bắc Việt Nam.
* Mục tiêu cụ thể
1. Hệ thống hóa và xây dựng cơ sở khoa học cho chính sách thuê môi trường
rừng kinh doanh DLST tại VQG.
2. Đánh giá đúng thực trạng chính sách cho thuê môi trường rừng kinh doanh DLST
tại VQG Ba Vì, Tam Đảo, Bến En. Đồng thời cho thấy kết quả thực hiện chính
sách, cũng như những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân trong tổ chức thực
hiện chính sách cho thuê môi trường rừng vào mục đích kinh doanh DLST tại
VQG Ba Vì, Tam Đảo, Bến En.
3. Đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện chính sách cho thuê môi trường rừng
vào mục đích kinh doanh DLST tại VQG ở khu vực phía Bắc Việt Nam.
* Câu hỏi nghiên cứu
- Chính sách cho thuê môi trường rừng được thực hiện trên cơ sở khoa học nào ?
- Trên thế giới chính sách cho thuê môi trường rừng được xây dựng và triển
khai như thế nào ?. Những kinh nghiệm nào có thể tham khảo trong xây dựng
chính sách và thực hiện chính sách cho thuê môi trường rừng ở Việt Nam ?
- Những nhân tố nào ảnh hưởng đến xây dựng chính sách và thực hiện chính
sách cho thuê môi trường rừng ở Việt Nam ?
- Việc thực thi chính sách được tổ chức như thế nào ? Ưu, nhược điểm và
nguyên nhân ?
- Chính sách cho thuê môi trường rừng và thực thi chính sách cho thuê môi

trường rừng cần được hoàn thiện như thế nào ?
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu chính sách cho thuê môi trường rừng cho mục
đích kinh doanh DLST tại một số VQG ở khu vực phía Bắc Việt Nam.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Các VQG ở khu vực phía Bắc Việt Nam, đề tài lựa chọn nghiên


4

cứu điểm tại 3 VQG Ba Vì (Hà Nội), Tam Đảo (Vĩnh Phúc) và Bến En (Thanh Hóa).
- Thời gian: Nghiên cứu từ năm 2002, bắt đầu có Đề án thí điểm cho thuê
môi trường rừng tại một số VQG của Việt Nam.
- Nội dung nghiên cứu:
(1) Cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách cho thuê môi trường rừng tại VQG
+ Cơ sở lý luận về chính sách cho thuê môi trường rừng và cho thuê với mục
đích kinh doanh DLST tại VQG.
+ Căn cứ thực tiễn về chính sách cho thuê môi trường rừng kinh doanh
DLST tại VQG trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
(2) Nghiên cứu thực trạng chính sách và tổ chức thực hiện chính sách cho thuê môi
trường rừng tại VQG Ba Vì, Tam Đảo, Bến En, những kết quả, hạn chế và nguyên nhân
- Đánh giá hiện trạng tài nguyên rừng và khả năng phát triển DLST tại VQG
Tam Đảo, Ba Vì, Bến En.
- Thực trạng chính sách cho thuê môi trường rừng tại VQG ở Việt Nam.
- Kết quả thực hiện chính sách cho thuê môi trường rừng kinh doanh DLST
tại VQG Tam Đảo, Ba Vì, Bến En.
- Đánh giá những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân trong tổ chức thực hiện
chính sách cho thuê môi trường rừng tại VQG Ba Vì, Tam Đảo, Bến En.
- Bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn tổ chức triển khai thực hiện chính
sách cho thuê môi trường rừng tại VQG Ba Vì, Tam Đảo, Bến En.

(3)Giải pháp hoàn thiện chính sách cho thuê môi trường rừng tại VQG khu
vực phía Bắc Việt Nam
- Cơ sở đề xuất giải pháp.
- Giải pháp hoàn thiện chính sách cho thuê môi trường rừng tại các VQG khu
vực phía Bắc (Giải pháp xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện chính sách).
3. Đóng góp mới của luận án
- Về lý luận: Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách cho thuê môi trường
rừng và cho thuê với mục đích kinh doanh DLST tại các VQG. Tổng kết kinh
nghiệm cho thuê môi trường rừng trên thế giới và rút ra những bài học kinh nghiệm


5

cho Việt Nam. Tổng hợp các văn bản chính sách có liên quan đến thuê môi trường
rừng ở Việt Nam, phân tích những hạn chế và tồn tại của chính sách cho thuê môi
trường tại các VQG.
- Về thực tiễn: Đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện chính sách cho thuê
môi trường rừng tại các VQG nghiên cứu; đánh giá những mặt tích cực, tiêu cực
trong tổ chức thực hiện chính sách cho thuê môi trường rừng tại các VQG nghiên
cứu; đánh giá tính phù hợp của các chính sách liên quan đến thuê môi trường rừng
tại các VQG; đưa ra những bài học kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện chính sách
cho thuê môi trường rừng tại các VQG.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất ra những định hướng và giải pháp
nhằm hoàn thiện chính sách và tổ chức thực hiện chính sách cho thuê môi trường
rừng tại các VQG ở khu vực phía Bắc Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Lựa chọn đối tượng nghiên cứu
VQG Ba Vì (Hà Nội), Bến En (Thanh Hóa), Tam Đảo (Vĩnh Phúc) được chọn
nghiên cứu là những VQG nằm ở các vị trí địa lý khác nhau đại diện cho khu vực phía
Bắc, do chủ thể quản lý khác nhau, có tiềm năng cho thuê môi trường và đã triển khai

các hoạt động thuê môi trường rừng ở mức độ khác nhau. VQG Ba Vì đã thực hiện
chính sách cho thuê môi trường rừng từ năm 2002 theo Đề án thí điểm cho thuê môi
trường rừng phát triển DLST được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, VQG Bến En bắt
đầu triển khai từ năm 2010, VQG Tam Đảo đã có chủ trương nhưng vẫn đang trong
quá trình triển khai các thủ tục để thực hiện. Trên cơ sở lựa chọn đối tượng nghiên cứu
như trên Luận án sẽ tìm hiểu quá trình triển khai chính sách ở các VQG, nhưng thuận
lợi, những khó khăn của từng Vườn và nguyên nhân chậm triển khai chính sách.
4.2. Phương pháp thu thập thông tin
* Thông tin thứ cấp: Thông tin thứ cấp được thu thập thông qua phương
pháp kế thừa, nghiên cứu tại bàn, bao gồm các tài liệu sau:
- Các văn bản pháp luật có liên quan đến thuê môi trường rừng kinh doanh
DLST tại VQG để tìm hiểu chính sách cho thuê môi trường rừng tại các VQG của


6

Việt Nam hiện nay như thế nào, đề cập trong các văn bản pháp luật nào, mức độ
đầy đủ của chính sách ở Việt Nam làm cơ sở gợi ý cho việc hoàn thiện chính sách.
- Thông tin trên các trang thông tin của Tổng cục Lâm nghiệp, cục Kiểm lâm
về diễn biến rừng, các chủ trương của ngành trong quản lý VQG và cho thuê môi
trường rừng tại VQG.
- Các tài liệu, kết quả nghiên cứu liên quan đến thuê môi trường rừng và
chính sách sách cho thuê môi trường rừng để hệ thống cơ sở lý luận cho Luận án và
có những thông tin bước đầu phục vụ cho nghiên cứu.
- Báo cáo của các cấp chính quyền địa phương, các cơ quan quản lý nhà
nước về lâm nghiệp, các VQG nghiên cứu… để phục vụ cho đánh giá thực trạng
triển khai chính sách tại cơ sở, đánh giá các các tác động về kinh tế - xã hội - môi
trường của chính sách trên thực tiễn.
* Thông tin sơ cấp:
- Phỏng vấn trực tiếp cán bộ quản lý, chủ thể cho thuê và đi thuê để có thông

tin dùng cho việc nghiên cứu đánh giá chính sách và thực hiện chính sách cho thuê
môi trường rừng kinh doanh DLST, gợi ý cho việc hoàn thiện chính sách, xem xét
các quan điểm của các bên liên quan đối với chính sách, nhận biết được những khó
khăn trong triển khai chính sách.
Đề tài tiến hành phỏng vấn trực tiếp cán bộ tại VQG đã triển khai chính sách
cho thuê môi trường rừng thông qua các mẫu phiếu phỏng vấn để nhằm thu thập các
ý kiến đánh giá của cán bộ quản lý về mục tiêu chính sách, về nội dung chính sách,
về tổ chức thực hiện chính sách, về tổng thể chính sách. Đối tượng phỏng vấn là ban
lãnh đạo, cán bộ làm việc tại các phòng ban liên quan, ban Du lịch và cán bộ kiểm
lâm Vườn quốc gia Ba Vì. Hiện nay, do mới có VQG Ba Vì đã triển khai thực hiện
chính sách qua nhiều năm nên cán bộ quản lý mới nắm rõ về chính sách cũng như
có thông tin về thực trạng thực hiện chính sách, còn VQG Tam Đảo và Bến En chỉ
phỏng vấn cán bộ lãnh đạo. Số mẫu phỏng vấn phụ thuộc vào số lượng cán bộ quản
lý tại VQG. Đối với các cán bộ quản lý ở VQG khác (chưa thực hiện chính sách hay
đang bắt đầu triển khai thực hiện) chủ yếu phỏng vấn để thu thập các thông tin về


7

nhu cầu cho thuê môi trường rừng, những cản trở khi thực hiện chính sách và định
hướng để thúc đẩy thực hiện chính sách.
Đề tài tiến hành phỏng vấn cán bộ tại các đơn vị thuê với nội dung phỏng vấn
như cán bộ VQG thông qua phiếu điều tra. Bên cạnh đó, phỏng vấn thêm về những
tồn tại của chính sách mà các đơn vị thuê đang gặp phải từ đó làm cơ sở hoàn thiện
chính sách cho thuê môi trường rừng trên khía cạnh của đối tượng đi thuê.
- Tham vấn ý kiến các chuyên gia thông qua các cuộc phỏng vấn trực tiếp để
làm căn cứ đề xuất hoàn thiện các chính sách cho thuê môi trường rừng kinh doanh
DLST tại VQG. Các ý kiến chuyên gia chủ yếu là các nhà quản lý cấp Trung ương
và các nhà khoa học liên quan đến lĩnh vực hoạch định chính sách hay giảng dạy để
có định hướng trong xây dựng và hoàn thiện chính sách.

- Nghiên cứu trường hợp điển hình: Tác giả đã tiến hành nghiên cứu toàn
diện 3 VQG, đi sâu nghiên cứu VQG Ba Vì - nơi đã triển khai chính sách, so sánh
các VQG nghiên cứu để tìm ra những tồn tại, những nguyên nhân cần khắc phục và
những lý do ảnh hưởng đến việc triển khai chính sách trong thực tế. Rút ra những
bài học kinh nghiệm cho xây dựng và thực hiện chính sách cho thuê môi trường
rừng kinh doanh DLST ở khu vực phía Bắc Việt Nam. Tác giả đã xây dựng bảng
phỏng vấn cho các đối tượng là nhà quản lý của VQG Ba Vì, các công ty du lịch
đang thuê môi trường rừng tại VQG Ba Vì để nhằm thu thập các ý kiến đánh giá
khác nhau về mục tiêu, nội dung chính sách cho thuê môi trường rừng kinh doanh
DLST tại VQG. Trong mẫu phỏng vấn bao gồm cả câu hỏi đóng và câu hỏi mở
nhằm đánh giá và có định hướng hoàn thiện chính sách cho thuê môi trường rừng
kinh doanh DLST tại VQG.
- Các thông tin được thu thập tại các VQG lựa chọn nghiên cứu, bao gồm:
+ Thông tin về đặc điểm cơ bản của VQG, tiềm năng của VQG để phát triển
DLST và các yếu tố đầu vào để thực hiện cho thuê môi trường rừng.
+ Thông tin về tình hình quản lý VQG, quản lý các hoạt động DLST, quản lý
các hoạt động cho thuê môi trường rừng tại VQG. Thông tin này thu thập từ các nhà
quản lý tại VQG.


8

+ Thông tin về tình hình triển khai chính sách cho thuê môi trường rừng tại các
VQG như kết quả hoạt động kinh doanh của các đơn vị sau khi ký hợp đồng thuê môi
trường rừng (doanh thu, chi phí, lợi nhuận...), kết quả đạt được từ việc thực hiện chính
sách (nguồn thu từ cho thuê, sử dụng kinh phí thuê,...). Thông tin này thu thập từ ban
quản lý Vườn, các chủ doanh nghiệp đang tiến hành thuê môi trường rừng tại các VQG.
+ Thông tin về tình hình xây dựng và thực hiện chính sách tại VQG, sự đầy đủ,
phù hợp của chính sách. Thông tin này thu thập từ nhà quản lý VQG, chủ doanh nghiệp.
+ Thông tin về sự tham gia của các bên trong việc triển khai thực hiện chính

sách cho thuê môi trường rừng cũng như những tác động của chính sách đến từng bên.
Thông tin này thu thập từ các nhà quản lý, chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư.
+ Thông tin đánh giá của các nhà quản lý về chính sách cho thuê môi trường
rừng đang áp dụng tại VQG.
4.3. Xử lý và phân tích thông tin
Thông tin, số liệu được tổng hợp và phân tích theo từng địa điểm và từng nội
dung nghiên cứu. Cụ thể:
- Các thông tin định lượng (biểu mẫu, số liệu…) sẽ được xử lý và tổng hợp
với sự hỗ trợ chương trình excel.
Các phương pháp phân tích được sử dụng:
+ Phương pháp thống kê kinh tế để phân tích đánh giá và tổng hợp kết quả
nghiên cứu nhằm tìm quy luật cũng như phân tích biến động và xu thế phát triển của
đối tượng nghiên cứu.
+ Phương pháp tổng hợp: Dùng phương pháp tổng hợp để hệ thống hóa tài
liệu thu thập được làm cơ sở cho việc phân tích đánh giá thực trạng thực hiện chính
sách thuê môi trường rừng tại các VQG nghiên cứu.
+ Phương pháp mô tả: Dùng phương pháp này để mô tả quá trình tổ chức
thực hiện chính sách cho thuê môi trường rừng cũng như các hoạt động liên quan từ
kết quả khảo sát thực tế và các thông tin thu thập được tại địa điểm nghiên cứu.
+ Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng để so sánh kết quả
thực hiện cũng như những điều kiện cụ thể giữa các VQG nghiên cứu với nhau, tìm


9

ra những điều kiện, những cách thức thực hiện giống và khác nhau giữa các VQG
nghiên cứu.
+ Phương pháp chuyên gia: Tham vấn ý kiến của các nhà quản lý, các
chuyên gia có nhiều kinh nghiệm để phân tích, đánh giá tình hình xây dựng, tổ chức
thực hiện chính sách cho thuê môi trường rừng thông qua các hình thức trao đổi trực

tiếp, email, điện thoại,…
5. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và các Phụ lục,
Luận án được kết cấu gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách cho thuê môi trường rừng
tại các Vườn quốc gia.
Chương 3: Thực trạng chính sách và thực hiện chính sách cho thuê môi trường
rừng tại VQG Ba Vì, Tam Đảo, Bến En.
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện chính sách cho thuê môi trường rừng tại VQG
khu vực phía Bắc Việt Nam.


10

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Hiện nay, việc khai thác các giá trị dịch vụ môi trường rừng tại các VQG đang
nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý và những người trực tiếp
làm nghề rừng. Trong thời gian vừa qua, đã có một số công trình nghiên cứu về vấn
đề này ở các khía cạnh khác nhau. Các công trình nghiên cứu về chính sách cho thuê
môi trường rừng tại VQG chưa có nhiều, chủ yếu mới tập trung vào các công trình
nghiên cứu liên quan đến thuê rừng, xác định các giá trị của rừng và khai thác các giá
trị dịch vụ môi trường rừng kinh doanh DLST.
1.1.1. Các nghiên cứu về giá trị của rừng, giá trị dịch vụ môi trường rừng
Một số nghiên cứu đã bước đầu ước tính được các giá trị của rừng như nghiên
cứu của Sutherland (1985), Pearce (2001). Các nghiên cứu đã chỉ ra giá trị nhiều mặt
của rừng như là cung cấp gỗ, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ và phục hồi đất, điều hòa
khí hậu, hấp thụ cacbon, tạo vẻ đẹp cảnh quan cho giải trí .... Những giá trị này của

rừng đã đem lại rất nhiều lợi ích khác nhau cả về kinh tế, sinh thái, môi trường. Việc
đánh giá đầy đủ giá trị của rừng và môi trường rừng là cơ sở để khai thác và quản lý
rừng bền vững. Mặc dù, đã nhận biết được giá trị nhiều mặt của rừng nhưng trong
một thời gian dài con người mới chỉ quan tâm đến giá trị từ khai thác gỗ. Chỉ đến khi
các vấn đề về ảnh hưởng của việc khai thác gỗ quá mức gây ra những ảnh hưởng tiêu
cực đến môi trường thì những vai trò của môi trường của rừng và dịch vụ môi trường
rừng mới được thực sự quan tâm [95], [88].
Do chưa nhận thức đầy đủ giá trị của rừng nên ngành lâm nghiệp được đánh giá
là ngành mang lại giá trị rất nhỏ cho nền kinh tế và nhiều giá trị của rừng đang chưa
được thừa nhận. Nguyên nhân của những đánh giá trên là do đặc thù của ngành Lâm
nghiệp, do nhận thức về giá trị của rừng chưa đầy đủ, nhiều lợi ích kinh tế của rừng
chưa xác định được giá trị vì các lợi ích này không được đem bán ra thị trường.
Chính do quan niệm như vậy nên nhiều người làm nghề rừng không thể sống được


11

bằng nghề cũng như là không thể tách được ra khỏi sự trợ cấp của Chính phủ. Xuất
phát từ thực tế đó, việc khai thác các giá trị môi trường rừng và dịch vụ môi trường
rừng được rất nhiều nước, nhiều người làm nghề rừng quan tâm [56].
Công trình nghiên cứu của Hultala (2004) đã chỉ ra rằng, hiện nay môi trường rừng
đang bị coi là thứ “hàng hoá công cộng” nên mọi người đều có thể tự do tiếp cận, tự do
sử dụng và hưởng lợi từ giá trị của môi trường rừng. Tình trạng này, nhất là ở những
nước nghèo, đã không khuyến khích người làm lâm nghiệp bảo vệ và phát triển những
giá trị môi trường rừng, dẫn đến thiệt hại cho nhiều ngành sản xuất và đời sống nói
chung [70]. Thực tế đó đã buộc những người làm nghề rừng và những người hưởng lợi
chính từ giá trị môi trường rừng phải hợp tác với nhau, chia sẻ với nhau trách nhiệm
trong việc bảo vệ và phát triển những giá trị môi trường rừng. Trong quá trình đó
những giá trị môi trường rừng được phân tích, lượng giá, mua bán, trao đổi như những
hàng hoá và dịch vụ khác. Người ta gọi những lợi ích môi trường của rừng được đưa ra

trao đổi, mua bán như vậy là dịch vụ môi trường rừng. Tuy nhiên, trong thời gian dài
kết quả nghiên cứu giá trị của môi trường rừng chỉ có ý nghĩa làm tăng kiến thức của
con người về giá trị nhiều mặt của rừng, làm thay đổi giá trị của rừng mà chưa trở
thành căn cứ cho những quyết định về biện pháp tác động vào rừng [70].
Natasha (2002) đã xác định cơ cấu giá trị cho các loại dịch vụ môi trường của
rừng là: Hấp thụ các bon chiếm 27%; Bảo tồn đa dạng sinh học chiếm 25%; Bảo vệ
đầu nguồn chiếm 21%; Vẻ đẹp cảnh quan chiếm 17% và giá trị khác chiếm 10%
[86]. Sự đánh giá này cho thấy, rừng có thể cung cấp nhiều loại dịch vụ khác nhau
và mỗi dịch vụ này sẽ có một giá trị nhất định trong tổng giá trị kinh tế của rừng.
Laitos và Reiss (2004) khi nghiên cứu về những xung đột giữa bảo tồn và
giải trí trong quản lý tài nguyên thiên nhiên tại Mỹ đã cho rằng, luật tài nguyên
thiên nhiên (Natural Resource Law) đã được hình thành và phát triển theo ba giai
đoạn khác nhau trong suốt lịch sử 50 năm của nó. Giai đoạn 1 từ 1962-1964, Luật
pháp Mỹ tập trung vào khuyến khích việc khai thác khoáng sản, dầu khí, gỗ và các
sản phẩm thương mại khác. Quốc hội Mỹ đã đưa ra nhiều đạo luật phục vụ cho mục
tiêu này. Chính những vấn đề về môi trường từ những hoạt động khai thác trong


12

giai đoạn I này đã dẫn đến những thay đổi về chính sách trong giai đoạn II. Giai
đoạn II bắt đầu từ 1964 đến 1990, các bộ luật và chính sách được xây dựng nhằm
hạn chế những vấn đề về môi trường thông qua việc ngăn chặn khai thác kiệt quệ tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ không khí và nước, bảo tồn sinh cảnh và loài quý hiếm.
Tuy nhiên cũng giống như trong giai đoạn I, việc quản lý và sử dụng các nguồn tài
nguyên thiên nhiên chỉ bao gồm việc khai thác khoáng sản, chặt gỗ và chăn nuôi
kèm theo các quy định bảo vệ môi trường khác. Tuy nhiên đến giai đoạn III, con
người được chứng kiến sự thay đổi căn bản từ bảo vệ môi trường tới bảo tồn và giải
trí. Việc khai thác các nguồn tài nguyên như khoáng sản, dầu mỏ và gỗ đã không
còn là vấn đề căn bản trong quản lý tài nguyên nữa mà được thay bằng các vấn đề

bảo tồn và du lịch, giải trí [77].
Công trình nghiên cứu của Sven Wunder (2005) chỉ ra rằng, giá trị của rừng là
rất lớn, đặc biệt là giá trị môi trường và dịch vụ môi trường của rừng. Với tầm quan
trọng này nhiều tổ chức, quốc gia đã hình thành các cơ chế khác nhau nhằm quản lý
dịch vụ môi trường rừng trên quan điểm coi dịch vụ môi trường là một loại hàng hoá.
Một số quốc gia đã tiến hành nghiên cứu và xây dựng cơ chế chi trả cho dịch vụ môi
trường rừng - PES (Payment for Environment Services) nhằm quản lý bền vững các
dịch vụ môi trường rừng. Theo đó, các khái niệm và thuật ngữ được thừa nhận để chỉ
sự thương mại các dịch vụ môi trường như: chi trả, đền đáp, thị trường, bồi thường
[96]. Đây được coi là những xu hướng mới nhằm quản lý dịch vụ môi trường rừng
và hướng tới phát triển bền vững.
1.1.2. Các nghiên cứu về khai thác dịch vụ DLST tại VQG
Riera và cộng sự (2012) đã chỉ ra rằng, ở những nước phát triển khi giá thuê đất
cao, kinh doanh gỗ có chu kỳ dài sẽ tạo ra những áp lực lớn với Nhà nước và những
người làm nghề rừng. Vì vậy, những nhà quản lý rừng cần suy nghĩ để tìm ra những
nguồn thu nhập khác để tăng giá trị của rừng, bù đắp sự tăng giá thuê đất và chi phí sử
dụng vốn. Ở một vài nước Chính phủ vẫn có các chính sách hỗ trợ ngành sản xuất và
chế biến gỗ nhưng đây chỉ được coi như là một cách để gìn giữ vùng nông thôn, thay
vào đó các nhà quản lý được yêu cầu phải suy nghĩ tìm ra những nguồn thu nhập khác.


13

Xuất phát từ thực tế đó, các hoạt động kinh doanh DLST, giải trí đang có xu hướng
tăng lên và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị của rừng [89].
Tại nhiều nước khác, giá trị dịch vụ môi trường rừng cũng ngày càng được
đánh giá cao và các biện pháp quản lý sử dụng bền vững những giá trị này là một
phần quan trọng trong định hướng chung của Chính phủ. Vấn đề này được trình bày
trong nhiều nghiên cứu khác nhau trên thế giới, như nghiên cứu của Salam D. E.
(1998) về chính sách của Tanzania, nghiên cứu của Bryner, G. (1999) về sự cần thiết

giữa cân bằng trong bảo tồn và khai thác gỗ thông qua việc so sánh và phân tích
chính sách đất đai công của British Columbia - Canada với Miền Tây nước Mỹ.
Các nghiên cứu về giá trị cảnh quan du lịch của các khu vực có rừng nhiệt
đới đã được tiến hành. Một số khu vực DLST thu hút một lượng lớn khách du lịch
và do đó có giá trị kinh tế tính trên mỗi héc ta rất cao. Tuy nhiên, khó đưa ra được
một con số giá trị tiêu biểu bởi giá trị này thay đổi theo khu vực và tùy thuộc vào
từng điều kiện cụ thể. Ví dụ, tính toán giá trị du lịch giải trí hàng năm ở Trung Quốc
cho thấy giá trị này khoảng 220,9 - 10.564 NDT/ha (tương đương 27,6 - 1.320
USD/ha). Trong năm 1996, người Bristish Clumbia chi tiêu khoảng 1,9 tỷ USD cho
các hoạt động DLST, đóng góp cho ngành thuế của địa phương là 116 triệu USD
[83]. Krieger (2001) cho rằng, giá trị du lịch giải trí của rừng ở Đức được xác định
là khoảng 2,2 tỷ USD/năm [76].
Công trình nghiên cứu của Tek B. Dangi (2010) cho thấy, DLST được coi là
một trong những cách thức vừa hỗ trợ bảo tồn đồng thời phát triển kinh tế xã hội một
cách bền vững [97]. Tại Hội nghị các VQG thế giới lần thứ V do IUCN tổ chức năm
2009, các nhà khoa học đã khẳng định “DLST ở trong và ngoài khu bảo tồn là một
phương pháp bảo tồn: hỗ trợ, tăng cường nhận thức về các giá trị quan trọng của khu
bảo tồn như giá trị sinh thái văn hóa, tinh thần, thẩm mỹ, giải trí và kinh tế; đồng thời
tạo thu nhập phục vụ bảo tồn và bảo vệ đa dạng sinh học, hệ sinh thái và di sản văn
hóa. DLST cũng đóng góp nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng bản địa”
[98]. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này mới dừng lại ở việc nghiên cứu các
chính sách quản lý hoạt động DLST ở các VQG nhưng chưa đề cập đến hình thức thực


14

hiện và đánh giá được các hình thức đó để cung cấp các kinh nghiệm cũng như giải
pháp nhằm hoàn thiện được chính sách cho thuê môi trường rừng.
Theo Riera và cộng sự (2012), để thực hiện các hoạt động kinh doanh DLST
các chủ rừng có thể tiến hành bằng nhiều cách khác nhau. Hiện nay, một số chủ rừng

có thể tự thực hiện việc kinh doanh hoặc có thể cho thuê một phần hay toàn bộ công
việc kinh doanh DLST. Cho thuê môi trường rừng kinh doanh DLST đã được xem
như một trong những nội dung quan trọng của quản lý rừng trong giai đoạn hiện nay.
Các chủ rừng khi cung cấp các tiện ích cho du lịch và giải trí phải quan tâm đến chi
phí xây dựng, duy trì các tiện nghi, dịch vụ, cơ sở hạ tầng... Duy trì tiện nghi và sự
hài lòng của khách hàng phải được gắn chặt với trách nhiệm và nghĩa vụ xã hội [89].
Tại Châu Âu, công trình nghiên cứu của Hultala (2004) đã cho thấy, cơ bản việc
kinh doanh du lịch và giải trí cũng được thực hiện trên cả rừng công cộng sở hữu của
Nhà nước cũng như rừng sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, nhiều nước thuộc vùng Bắc Âu có
chính sách miễn phí sử dụng các dịch vụ giải trí cơ bản tại các khu rừng thuộc quản lý
của Nhà nước và các VQG. Ngoài ra, người dân cũng có quyền tự do tham quan tất cả
các vùng tự nhiên chưa phát triển. Tại các VQG, Chính phủ chi trả trực tiếp từ ngân
sách nhà nước cho các dịch vụ cơ bản (củi để đốt, vệ sinh, thu dọn rác …) và người dân
được miễn phí vào cổng. Do vậy, các chi phí này không được tính vào khi xây dựng
các kế hoạch phát triển dịch vụ giải trí tại các VQG [70]. Đối với các khu vực giải trí
thuộc sở hữu Nhà nước, chính phủ cũng dành một phần từ thuế để hỗ trợ sự duy trì và
phát triển chúng. Xuất phát từ những quy định đó, như một truyền thống người dân tại
các nước này là không phải chi trả lệ phí đường vào tất cả những khu vực có xây dựng
đường xá dù nó thuộc sở hữu tư nhân hay công cộng. Các loại chi phí chủ yếu mà
người dân phải chi trả khi tham gia các dịch vụ du lịch và giải trí gồm có phí hướng
dẫn du lịch, thuê lều/nhà gỗ, thuê môi trường để cắm trại, câu cá và săn bắn [70].
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về chính sách cho thuê môi trường rừng kinh
doanh DLST tại VQG.
Những kinh nghiệm về thuê rừng và đất rừng của nhiều quốc gia trên thế giới
được đề cập đến trong tham luận “Những khía cạnh kinh tế và tài chính của thuê


15

đất rừng quốc gia” của Adrian Whiteman (1998) tại hội thảo “Cho thuê đất công:

Bài học từ kinh nghiệm quốc tế”. Trong tham luận này, tác giả đã có luận bàn về
mục đích của các quốc gia khi đưa ra chính sách này; các khía cạnh kinh tế của
chính sách cho thuê rừng như làm thế nào xác định được giá cho thuê; các khía cạnh
thể chế của việc cho thuê; các nhân tố kinh tế và tài chính chủ yếu cần được cân
nhắc khi thiết lập các phương án cho thuê...[102].
Các mục đích của chính sách cho thuê rừng được xác định: (1) Cải thiện tình
hình tài chính của Chính phủ từ sự loại bỏ các tài sản công cộng. Đối với ngành Lâm
nghiệp, áp dụng đối với những tài sản rừng có lợi ích phi thương mại đáng kể (các lợi
ích chiến lược quốc gia, các lợi ích xã hội hay môi trường) hoặc những tài sản rừng có
đem lại những lợi ích đó trong tương lai nhưng phải được bảo đảm hợp lý bằng một
khung pháp lý đủ mạnh. (2) Tăng hiệu quả của ngành Lâm nghiệp thông qua việc tiếp
nhận những kỹ năng quản lý và đầu tư của thành phần kinh tế tư nhân. (3) Phát triển
công nghiệp nội địa trên nền tảng tài sản thuộc sở hữu công cộng. (4) Hỗ trợ sự phát
triển của cộng đồng địa phương [102].
Tài liệu của Chính Phủ Nam Phi về phổ biến kinh nghiệm cho thuê rừng đã
thống kê những hình thức thuê rừng được nghiên cứu: (1) Cho thuê thương mại
hoàn toàn (Người đi thuê có quyền sử dụng đất và các tài sản có liên quan trên đất
trong một chu kỳ nhất định, giá thuê được xác định là giá thị trường); (2) Hợp đồng
hoặc giấy phép khai thác gỗ; (3) Chuyển nhượng rừng; (4) Thoả thuận quản lý rừng.
Tài liệu này đã được chuẩn bị để hỗ trợ cho các nước và Cục Lâm nghiệp Nam Phi
(DWAF) đánh giá các phương án của các hợp đồng thuê rừng. Cục Lâm nghiệp đã
xem xét các phương án thuê rừng khác nhau sẵn có cho Chính phủ và soạn thảo các
kinh nghiệm từ các quốc gia khác mà có liên quan đến lĩnh vực tư nhân trong quản
lý rừng thuộc sở hữu Nhà nước. Phần 2 và phần 3 của tài liệu này thảo luận các mục
tiêu mà các nước khác nhau đã theo đuổi với các chính sách của họ nhằm khuyến
khích sự tham gia nhiều hơn của khu vực tư nhân vào trong lĩnh vực lâm nghiệp và
các phương án điển hình sẵn có đối với các Chính phủ. Phần 4 thảo luận về các khía
cạnh kinh tế của thuê rừng như phương pháp xác định giá thuê trong các hợp đồng thuê



16

rừng. Phần 5 thảo luận các khía cạnh về thể chế của việc thuê rừng như phương pháp
tập hợp chi phí và sự giám sát việc cho thuê. Phần cuối cùng trình bày các nhân tố tài
chính và kinh tế chủ yếu nên được xem xét khi thiết lập các hoạt động thuê rừng. Công
trình nghiên cứu này mới tập trung vào nghiên cứu các chính sách liên quan đến thuê
rừng sản xuất với mục đích kinh doanh lâm sản [26].
Tuy nhiên, ngày này vai trò của rừng và các chức năng của rừng đã được
đánh giá một cách toàn diện hơn. Theo đánh giá của FAO (2003), rừng được coi là
bộ phận không thể thay thế của môi trường sinh thái, giữ vai trò quan trọng trong
đời sống con người và là cơ sở để phát triển nhiều ngành kinh tế khác [67]. Vì vậy,
giá trị của rừng không chỉ là giá trị trực tiếp mà còn giá trị gián tiếp (giá trị dịch vụ
môi trường rừng). Trong báo cáo của tổ chức Liên hợp quốc (1992) đã chỉ ra, trong
những thập kỷ gần đây người ta mới nhận thức được rằng một trong những nguyên
nhân cơ bản của suy thoái rừng là không xác định được giá trị môi trường của rừng
bên cạnh sự phá rừng của cộng đồng địa phương [100]. Những sự thay đổi về nhận
thức giá trị môi trường rừng được thể hiện rõ nét thông qua những thay đổi về chính
sách và luật về lâm nghiệp của nhiều nước trên thế giới.
Tại Châu Âu, Font & Tribe (2000) cho rằng, để quản lý và sử dụng bền vững tài
nguyên rừng phải đảm bảo chức năng kinh tế - xã hội của rừng. Công trình nghiên
cứu đã chỉ ra việc quản lý rừng hiện tại ở khu vực này không chỉ đơn thuần là quản lý
để khai thác các giá trị sử dụng trực tiếp của rừng (giá trị thị trường), mà còn phải bao
gồm việc quản lý để khai thác các giá trị sử dụng gián tiếp (giá trị dịch vụ môi trường
rừng) hay giá trị phi thị trường. Sự bền vững trong quản lý sử dụng rừng chỉ có được
thông qua việc khai thác gỗ và các sản phẩm không phải gỗ cũng như là thu lợi nhuận
từ việc cho thuê hoặc cung cấp trực tiếp các dịch vụ du lịch và giải trí. Điều này thể
hiện một sự thay đổi trong quản lý rừng, chuyển từ lấy khai thác lâm sản làm trung
tâm sang quản lý rừng phải đảm bảo đầy đủ các chức năng của rừng như khai thác gỗ
bền vững, cung cấp dịch vụ môi trường rừng, phát triển hoạt động du lịch và giải trí,
đảm bảo chức năng kinh tế-xã hội của rừng. Như vậy ở Châu Âu, các chính sách lâm

nghiệp đã dần được hoàn thiện theo hướng khai thác, sử dụng bền vững các dịch vụ


17

môi trường rừng thay vì chỉ đơn thuần là khai thác gỗ [68].
Cho đến nay các giá trị thu được từ kinh doanh dịch vụ du lịch trong rừng đã
được đề cập đến trong rất nhiều nghiên cứu được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau
(Tobias và Medelsohn, 1991 [99], Chase và cs., 1998 [64], Vuletic, 2009 [101]).
Công trình đã nghiên cứu về lợi nhuận thu được từ kinh doanh dịch vụ, lợi nhuận
có thể được tính trên diện tích (ha) hoặc trên đầu khách du lịch. Trung bình tại Châu
Âu, người dân sẵn sàng trả $1-3 trên 1 lần thăm rừng/người (Theo Secretariat of the
Convention on Biological Diversity, 2001). Tại Ai-len, con số này là $250/ha cho
việc sử dụng các giá trị của rừng như cảnh quan, giải trí và động vật hoang dã.
Với những thay đổi trong nhận thức về giá trị dịch vụ môi trường rừng đã
dẫn đến thay đổi trong chính sách lâm nghiệp và quản lý tài nguyên rừng, điều này
cũng dẫn đến sự triển khai ngày càng phong phú các hoạt động kinh doanh (thuê và
cho thuê) môi trường rừng.
Theo Huhtala (2004) thì du lịch và giải trí là các dịch vụ phổ biến nhất tại các
quốc gia có chính sách cho thuê môi trường rừng [70]. Nghiên cứu của Font và Tribe
(2000) đã chỉ ra những dịch vụ giải trí có thể cho thuê như săn bắn, quan sát động vật.
Dịch vụ môi trường rừng được sử dụng nhiều nhất là dịch vụ săn bắn. Tuy nhiên, do
nhu cầu về không gian lớn và sự không phù hợp với việc kinh doanh các loại hình giải
trí khác nên tại nhiều nơi đó không phải sự lựa chọn khả thi. Dịch vụ cho thuê để quan
sát hoặc cơ hội được quan sát động vật hoang dã được cho là chiếm 1/3 trong tổng số
giá trị giải trí từ rừng và đây cũng là dịch vụ hấp dẫn được mà các công ty du lịch cung
cấp cho du khách tại các nước đang phát triển [68]. Ngoài ra, đi dạo trong rừng thành
thục cũng là một trong những dịch vụ mà theo nghiên cứu của O’ Brien (1999) được
nhiều du khách mong muốn chi trả [87]. Bên cạnh đó, những hoạt động cắm trại, trượt
tuyết, thu hái lâm sản ngoài gỗ cũng được khai thác tại nhiều nơi trên thế giới. Kèm

theo các hoạt động đó là các dịch vụ ăn theo như hướng dẫn du lịch, khách sạn, ăn
uống, thuê dụng cụ phục vụ du lịch, thuê nhà gỗ trong rừng .…
Tuy nhiên, tại phần lớn các nước đang phát triển, các chính sách của Nhà nước
chưa thật sự phù hợp với yêu cầu thực tiễn, chưa có chính sách quy định cụ thể cho


18

việc thuê môi trường rừng. Do vậy, việc thực hiện cho thuê môi trường rừng mới chỉ
mang tính nhỏ lẻ và tự phát. Theo Capozzi, S.,M (2001), phần lớn những nghiên cứu
về thuê môi trường rừng được thực hiện tại Mỹ và một số nước phát triển khác [62].
Tại các nước phát triển như Mỹ, Chính phủ đã có những chính sách và quy
định cụ thể cho việc quản lý hiệu quả các hoạt động cho thuê và kinh doanh dịch vụ
môi trường rừng, đặc biệt là trong du lịch và giải trí - hai hình thức phổ biến nhất hiện
nay. Từ những năm 1960, các hoạt động giải trí ngoài trời ở Mỹ đã phát triển nhanh
chóng như hoạt động đi bộ, cắm trại, lái xe địa hình, nghiên cứu thiên nhiên. Theo
nghiên cứu của Cordell và cộng sự (1998) thì 94,5% người Mỹ từ 16 tuổi trở nên đã
từng tham gia ít nhất một loại hình giải trí ngoài trời [65].
Stephanie và cộng sự (2012) cho rằng, do hạn chế về số lượng, diện tích cũng
như nguồn vốn để mở rộng các VQG và các khu giải trí công cộng cho nên ở Mỹ các
nhu cầu giải trí đã không được đáp ứng đầy đủ. Đứng trước cơ hội này rất nhiều cá
nhân, công ty sở hữu rừng sản xuất gỗ đã nắm bắt nhu cầu và phát triển các hoạt động
kinh doanh dịch vụ giải trí từ rừng. Họ nhận thấy đây là nguồn thu rất quan trọng đặc
biệt khi mà chu kỳ kinh doanh gỗ thường rất dài. Hoạt động đầu tiên đó là cho thuê
rừng để săn bắn. Theo thời gian các hoạt động ngày càng trở nên đa dạng hơn như
câu cá, quan sát động vật hoang dã, đi bộ và thu hái sản phẩm ngoài gỗ [93]. Theo
nghiên cứu của O’Bien và cs (1999), ở phía Nam nước Mỹ các công ty kinh doanh gỗ
cho thuê khoảng 75% diện tích đất với phí cho thuê hàng năm khoảng 1.69-3.28
USD/arc, tùy thuộc vào từng bang [87]. Theo các báo cáo của US Department of the
Interior (USDOI) năm 2001 và 2006, đa phần các hoạt động giải trí thường được tiến

hành trên đất thuộc sở hữu tư nhân, 75% là các hoạt động săn bắn. Công trình nghiên
cứu của Kebede và cộng sự (2006) chỉ ra, các hoạt động kinh doanh này đều chịu sự
quản lý của chính quyền liên bang và bang [75]. Đặc biệt, Chính phủ Mỹ đã có những
chính sách và quy định quản lý rõ ràng để thúc đẩy sự phát triển du lịch và giải trí
đồng thời kiểm soát để các hoạt động này luôn gắn chặt với việc bảo tồn và phát triển
bền vững tài nguyên rừng. Chính vì vậy, nguồn thu cho thuê môi trường là một trong
những nguồn thu nhập quan trọng của chủ rừng tại Mỹ. Sterk (1998) cho rằng, không


19

chỉ các chủ rừng có lợi mà Chính phủ cũng nhận thấy đây là hoạt động rất cần thiết
nhằm đảm bảo sự phát triển xã hội, đáp ứng các nhu cầu giải trí của nhân dân và giảm
sức ép nên các VQG và khu giải trí công cộng. Do vậy tại Mỹ, Chính quyền liên bang
đã có những chính sách hỗ trợ cụ thể nhằm khuyến khích các chủ rừng thực hiện các
hoạt động phát triển du lịch và giải trí [94].
Theo Kearsley (2000), tất cả các bang của nước Mỹ đều ban hành quy chế
khai thác và phát triển các hoạt động giải trí nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ rừng
khi họ cho phép mọi người vào khu vực thuộc sở hữu của mình với mục đích giải trí.
Hiện nay, 26 bang tại Mỹ đã có chương trình hỗ trợ các chủ rừng khi tham gia cung
cấp các dịch vụ giải trí cho xã hội như là hỗ trợ vốn và kỹ thuật (Voluntary Public
Access and Habitat Incentive Program 2011). Một số bang còn giảm tiền thuế tài sản
cho các chủ rừng nếu họ đồng ý cung cấp dịch vụ giải trí, ví dụ như chương trình
“New Hampshire’s Current Use program 2012”. Mặt khác, các tổ chức đi thuê môi
trường rừng để kinh doanh du lịch cũng phải tuân thủ theo các quy định của pháp
luật như phải có giấy phép hành nghề và phải đăng ký hoạt động kinh doanh tùy
theo yêu cầu của các bang. Ví dụ tại Texas, Cục quản lý công viên và thiên nhiên
(Texas Parks and Wildlife Department) quản lý việc đăng ký giấy phép cung cấp
dịch vụ săn bắn và giấy phép này được gia hạn hàng năm. Có 3 loại giấy phép liên
quan đó là giấy phép cho thuê săn bắn (Hunting Lease License), liên doanh kinh

doanh săn bắn (Hunting Cooperative) và săn bắn có liên quan đến quản lý động vật
hoang dã (Wildlife Management Association). Các giấy phép này phải được xuất
trình khi yêu cầu. Lệ phí phải đóng góp hàng năm phụ thuộc vào loại giấy phép và
diện tích kinh doanh. Ví dụ như đối với loại 1, nếu diện tích nhỏ hơn 500 acres lệ
phí là $79, từ 500-1,000 acres là $147 và lớn hơn 1.000 arces là $252. Trong khi
loại đầu có thể mua trực tiếp thì 2 loại giấy phép sau phải đăng ký hồ sơ và chỉ được
cấp khi đáp ứng đủ các yêu cầu của Cơ quan quản lý. Nếu cá nhân hoặc tổ chức vi
phạm thì sẽ bị xử phạt theo quy định [74].
Bên cạnh đó, việc cho thuê môi trường rừng tại Mỹ được thực hiện thông qua các
hợp đồng cho thuê. Theo Capozzi,S.,M (2000), các hợp đồng chủ yếu hiện nay đó là


20

hợp đồng cho thuê giải trí và du lịch. Hợp đồng cho thuê môi trường rừng để giải trí
được pháp luật thừa nhận là một văn bản hợp pháp quy định rõ thời gian cho thuê và
dựa trên sự nhất trí về phí thuê, chuyển đổi quyền sử dụng của một phần tài sản của bên
cho thuê với bên thuê với mục đích là kinh doanh các dịch vụ giải trí [62].
Trong báo cáo của Bộ Lâm nghiệp - đất đai và tài nguyên thiên nhiên Canada
(2013) đã tổng kết tình hình thực hiện chính sách cho thuê môi trường rừng với mục
đích thuê để kinh doanh du lịch và giải trí tại Bristis Columbia. Trước sự phát triển
của các hoạt động du lịch đặc biệt là du lịch ngoài trời (gọi chung là du lịch thám
hiểm “Adventure tourism”), Chính phủ đã ban hành các chính sách liên quan như
Luật đất đai (Land Act, 1996), Quy định về phí đất hoàng gia (Crown Land Fees
Regulation, 2003) và mới đây là Chính sách về du lịch thám hiểm (Adventure
Tourism Policy, 2013). Chính sách này áp dụng cho các công ty du lịch cung cấp các
hoạt động giải trí ngoài trời. Trong chính sách này các vấn đề như đăng ký hồ sơ, cấp
giấy chứng nhận, phí quản lý và phí thuê đất được quy định rõ ràng [83].
Theo Kearsley (2000), nghiên cứu tại Newzealand cho thấy, diện tích che phủ
của rừng tự nhiên chiếm 1/4 diện tích cả nước và các rừng tự nhiên này phần lớn được

bảo vệ hoàn toàn bởi một hệ thống các VQG và lâm viên. Chính phủ có quan điểm
rằng bảo tồn được đặt lên trên tất cả các lợi ích khác, các hoạt động giải trí truyền thống
như săn bắn trong rừng hoặc câu cá ở một số sông, hồ đều bị kiểm soát trong các giới
hạn nhất định. Trong những năm gần đây, nhu cầu về giải trí ngoài trời đã tăng nhanh
nhưng các hệ thống rừng vẫn được quản lý rất tốt do sự quản lý chặt chẽ cũng như
quan điểm nhất quán về bảo tồn của Chính phủ [74].
1.1.4. Các công trình nghiên cứu về lượng giá giá trị dịch vụ môi trường rừng và
xác định giá thuê môi trường rừng.
Cùng với việc nhận thức được hiệu quả to lớn từ khai thác giá trị dịch vụ môi
trường rừng, con người thấy cần thiết lượng giá những giá trị ấy thành tiền và đưa vào
hệ thống hạch toán kinh tế đầy đủ của nghề rừng. Khi lượng hóa được giá trị con người
mới có cơ sở để cân nhắc đưa ra những quyết định đúng đắn trong quản lý rừng, trong
liên kết các ngành kinh tế, liên kết các lực lượng xã hội để bảo vệ và phát triển rừng


21

[51]. Tuy nhiên nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, rừng có rất nhiều giá trị, việc
lượng hóa giá trị này tương đối phức tạp.
Nghiên cứu các phương pháp lượng giá giá trị dịch vụ môi trường đã thu hút
sự quan tâm của nhiều nhà kinh tế học hơn 100 năm qua, tuy nhiên chỉ trong
khoảng 3 thập kỷ gần đây mới có những bước tiến rõ ràng trong việc phát triển học
thuyết, phương pháp, cách tiếp cận cũng như các công cụ phục vụ việc lượng giá.
Điều này đã gây ra những ảnh hưởng khác nhau tới việc xây dựng và triển khai các
chính sách của Nhà nước [101].
Hiện nay, các phương pháp lượng giá giá trị khi rừng được coi là hàng hóa
công cộng (với các lợi ích gián tiếp, không sử dụng) được dựa trên các phương
pháp không dựa vào giá thị trường (Nonmarket Evaluation Methods). Phương pháp
lượng giá giá trị dịch vụ môi trường rừng cũng dựa trên ý tưởng của sự sẵn lòng chi
trả và dựa vào lý thuyết căn bản của kinh tế phúc lợi xã hội (Welfare economics).

Trong nhóm phương pháp này lại được chia nhỏ thành các nhóm phương pháp khác
nhau tùy theo từng tác giả.
Bateman (1994) [54] chia phương pháp không dựa vào giá thị trường thành
03 nhóm bao gồm: nhóm phương pháp đánh giá dựa trên sự bộc lộ sở thích
(revealed preference method) (RP), nhóm phương pháp đánh giá dựa trên tuyên bố
sở thích (stated preference method) (SP) và nhóm phương pháp chi phí - lợi ích
(cost-benefit methods). Trong nhóm này lại chia thành từng phương pháp khác nhau như
trong Hình 01:

Hình 1.1. Phân loại phương pháp lượng giá không dựa vào thị trường
Nguồn: [54]


22

Trong các phương pháp trên thì phương pháp dựa trên lợi ích-chi phí được
thực hiện để xác định các chi phí và lợi nhuận thu được. Nhìn chung, đây là một
trong những mục đích cơ bản của định giá giá trị dịch vụ môi trường rừng. Theo
phương pháp này để đạt được hiệu quả phân tích thì các giá trị biến số như giá trị
liên quan đến tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế phải được xác định chính xác khi mô hình
hóa. Tuy nhiên trên thực tế thì các biến số này không được xác định một cách chính
xác bởi vì trong xác định giá trị môi trường rừng điều này là không khả thi. Theo
Banzhaf (2010), xuất phát từ thực tế đó một số phương pháp mới đã được nghiên
cứu và phát triển trong hơn một thập kỷ nay đó là phương pháp chuyển đổi lợi ích
(Benefit transfer) và phương pháp phân tích tổng hợp (Meta-analysis) [52]. Kết quả
thu được từ việc áp dụng những phương pháp này sẽ được phục vụ cho việc phân
tích lợi ích-chi phí.
Một số tác giả khác như Smith và Osborne (1996) lại chia các phương pháp
lượng giá không dựa vào thị trường theo cách khác, gồm có các phương pháp dựa
vào thị trường thay thế (phương pháp chi phí du lịch, phương pháp giá hưởng

thụ,...), phương pháp dựa vào thị trường giả định (bao gồm các phương pháp định
giá ngẫu nhiên) và phương pháp hỗn hợp (phương pháp chuyển đổi lợi ích, phương
pháp định giá sinh thái) [92].
Trong khi đó một số tác giả như Johnston lại phân chia thành các phương
pháp như phương pháp dựa trên bộc lộ sở thích, các phương pháp dựa trên tuyên bố
sở thích và các phương pháp suy đoán mức sẵn lòng chi trả (WTP) [73].
Mặc dù có nhiều cách phân loại nhưng chỉ có bề ngoài là khác biệt còn về
bản chất thì gần giống nhau. Cho đến nay các phương pháp này đặc biệt là nhóm
phương pháp dựa trên tuyên bố sở thích và bộc lộ sở thích đã được sử dụng nhiều
trong các nghiên cứu để xác định giá trị dịch vụ môi trường rừng, đặc biệt là trong
lĩnh vực du lịch và giải trí.
Phương pháp dựa vào tuyên bố sở thích phụ thuộc vào sự trả lời của người
được phỏng vấn với các bộ câu hỏi được thiết kế tùy thuộc vào từng nghiên cứu
khác nhau. Thông thường nội dung phỏng vấn liên quan đến số lượng tiền, sự lựa


23

chọn, đánh giá hoặc các cách khác để thể hiện sở thích của người được phỏng vấn.
Nhóm phương pháp này đã được sử dụng hơn 20 năm qua tại Na Uy, Thụy Điển và
Phần Lan để định giá các giá trị ngoài gỗ [78]. Ngoài ra nhóm phương pháp này còn
được sử dụng trong nhiều nghiên cứu liên quan đến giá trị của các loài có nguy cơ
tuyệt chủng [81], đất ngập nước [58], [104], phát triển tài nguyên nước [73], chất
lượng không khí [92], bảo tồn các không gian xanh ở thành phố [81] và xác định giá
trị tồn tại của rừng [82], [80].
Theo Vuletic, trong nhóm phương pháp dựa vào tuyên bố sở thích thì
phương pháp định giá ngẫu nhiên được sử dụng rộng rãi nhất [101]. Phương pháp
này được phát triển từ những năm 60 của thế kỷ XX tại Mỹ nhằm mục đích để định
giá bằng tiền những giá trị mà con người sử dụng như hàng hóa, dịch vụ và các tiện
ích, dựa trên việc phỏng vấn để định giá khi mà không có sự tồn tại của thị trường.

Phương pháp này được áp dụng lần đầu tiên để lượng giá giá trị du lịch ở Mỹ tại Lưu
vực sông Delaware năm 1992, tại các VQG ở Mỹ năm 1958 và rừng trồng ở Maine
năm 1961 (Huhtala, 2004 [70] tham khảo từ Hanemann, 1962). Hiện nay, nó có thể
được thiết kế và áp dụng cả trong các lĩnh vực mà ở đó các chính sách của Nhà nước
là khác nhau từ giải trí đến chăm sóc sức khỏe [101].
Liên quan đến nhóm phương pháp bộc lộ sở thích, nhóm phương pháp này
dựa trên dữ liệu thu được từ việc ghi nhận sự lựa chọn thực của các đối tượng
nghiên cứu hay nói cách khác việc xác định giá trị dịch vụ căn cứ vào quyết định
chi trả của đối tượng tham gia (mức giá và lượng chi trả đã thực hiện). Trong số
những phương pháp thuộc nhóm này thì hai phương pháp chi phí du lịch và phương
pháp giá trị hưởng thụ là được sử dụng rộng rãi nhất trong các nghiên cứu [101].
Tùy theo loại hàng hóa và dịch vụ môi trường do rừng cung cấp mà sẽ có những
phương pháp lượng giá cụ thể được áp dụng. Bảng sau đây sẽ tóm tắt các phương pháp
lượng giá cho các loại hàng hóa và loại hình dịch vụ khác nhau của rừng.


24

Bảng 1.1. Phương pháp lượng giá được sử dụng cho các loại hàng hóa
và dịch vụ môi trường rừng
Hàng hóa/Dịch vụ môi
Phương pháp lượng giá
trường rừng
PF
MP
AC
CV
CM
TC
HP

Gỗ
x
Củi
x
x
x
LSNG
x
x
x
Thông tin về gen
x
x
x
Du lịch/Giải trí
x
x
Lưu vực
x
x
x
x
Khí hậu
x
x
x
x
x
Đa dạng sinh học
x

x
Tiện ích/sự dễ chịu
x
x
x
Giá trị không sử dụng
x
x
PF: Production function - Đánh giá dựa trên chức năng sản xuất; MP: Market Price Phương pháp dựa trên Giá thị trường; CV: Contigent valuation - Định giá ngẫu nhiên;
CM: Choice modelling - Mô hình lựa chọn; TC: Travel cost - Chi phí du lịch; HP:
Hedonic Prices - Phương pháp giá trị hưởng thụ; AC: Avoided cost - Phương pháp dựa
trên chi phí tránh được.

Nguồn: [90]
Sử dụng các phương pháp trên, nhiều tác giả trên thế giới đã lượng giá giá trị du
lịch và giải trí của rừng, kết quả tính toán được tổng hợp cụ thể như sau (Bảng 02).
Bảng 1.2. Tổng hợp kết quả lượng giá giá trị du lịch và giải trí của rừng
Nghiên cứu
Tobias và Mendelsohn,
1991 [99]
Chase và cs., 1998
[64]
Garrod và Willis,
1997 [69].

Địa điểm
Costa Rica, Rừng
nhiệt đới Monteverde
3 VQG ở Costa
Rica

Malaysia

Bellu và Cistulli,
1997 [56]

Liguria forests,
Italy

Bateman và
Langford, 1997 [55]
Livengood, 1983 [79]

Anh

Moskowitz và
Talberth, 1998 [84]

Lưu vực sông
Columbia, Mỹ

Texas, Mỹ

Giá trị
$160/ha

Phương pháp lượng giá
Phương pháp chi phí du lịch
(Travel cost method)
$21-25/ khách Đánh giá ngẫu nhiên
quốc tế

(Contigent valuation)
$740/ha
Đánh giá ngẫu nhiên
(Contigent valuation)
Phương pháp chi phí du lịch
(Travel cost method)
$77-85/ha
Đánh giá ngẫu nhiên
(Contigent valuation)
Phương pháp chi phí du lịch
(Travel cost method)
$1/người/lần
Phương pháp chuyển đổi lợi
thăm quan rừng ích (Benefit transfer )
$25 1 con hươu Chi phí du lịch hưởng thụ
bị săn bắn
Hedonic Travel Cost
$150 triệu
Tính tổng chi tiêu cho săn bắn


25

Barnhill, 1999 [53]

Rừng quốc gia ở
Southern
Appalachian, Mỹ

$6 tỷ năm do

du lịch đem
lại

Barnhill, 1999 [53]

Rừng quốc gia ở
Southern
Appalachian, Mỹ
Rừng quốc gia
Tuskegee,
Alabama, Mỹ

$594 do săn
bắn và ngắm
động vật
$4.6/người/
lần thăm
quan

Misissippi, Mỹ

$6.4/acre cho
săn bắn
$5.70/acre
cho săn bắn

Kebede và cs., 2006
[76]
Munn và cs., 2011
[85]

Hussain và cs., 2010
[71]

Misissippi, Mỹ

Dựa vào ảnh hưởng kinh tế
của giải trí với rừng quốc gia
(Economic impact of recreation
on the national forests)
Tổng ảnh hưởng kinh tế của
săn bắn và ngắm động vật
hoang dã
Đánh giá ngẫu nhiên
(Contigent valuation) và
Phương pháp chi phí du lịch
(Travel cost method)
WTP
Phương pháp dựa trên thuộc tính
(Attribute based methods)

Nguồn: Tác giả tổng hợp
Theo Riera và cs., (2012) [89] đã đưa ra hướng dẫn thực hiện các phương
pháp lượng giá không dựa vào thị trường. Nghiên cứu đã tóm tắt lại Bản hướng dẫn
thực hiện “The European COST Action E.45” được xây dựng bởi Hiệp hội hợp tác
khoa học và kỹ thuật châu Âu. Nhằm giải quyết sự không đồng nhất trong việc đánh
giá giá trị của dịch vụ môi trường rừng, Hiệp hội đã tổ chức hội thảo với sự tham
gia của rất nhiều chuyên gia ở các lĩnh vực khác nhau đến từ Châu Âu và cả bên
ngoài nhằm phát triển quy chuẩn chung trong lĩnh vực này.
Vuletíc và cộng sự, (2009) [101] trình bày các phương pháp khác nhau, trình tự
thực hiện, đánh giá các công cụ được sử dụng trong nghiên cứu để thu thập các loại

thông tin khác nhau, phân tích định lượng và định tính v.v... Công trình này cung cấp
thông tin và hỗ trợ các nhà khoa học, quản lý và lập kế hoạch trong các vấn đề liên quan
đến phương pháp lượng giá không dựa vào thị trường đối với dịch vụ môi trường rừng.
Lindhjem (2006) [78] đã rà soát lại việc sử dụng phương pháp tuyên bố sở
thích đang được áp dụng tại Na Uy, Thụy Điển và Phần Lan, tác giả còn phân tích
những vấn đề nổi bật trong các nghiên cứu như là sự sẵn lòng chi trả (WTP) không
phụ thuộc vào diện tích rừng, sự chi trả có thể tăng gấp đôi khi sử dụng các phương
pháp WTP ước lượng giá trị dịch vụ môi trường rừng phức tạp, gồm nhiều loại hình
dịch vụ và sự chi trả dường như cao hơn nếu người hỏi với tư cách là cá nhân so với
khi họ là đại diện cho gia đình. Những kết quả này có ý nghĩa đóng góp cho thực


×