Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Phân tích quá trình hình thành và phát triển đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của đảng ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.33 KB, 35 trang )


Đề bài: phân tích quá trình hình thành và phát triển đường lối
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
Đảng ta.
Bố cục bài viết:
I. Quan niệm chung về KTTT
1.1. Quan niệm về KTTT
1.2. Đặc điểm chung của KTTT
II. Cơ sở lí luận
1. Lý luận của Mác về nền kinh tế thị trường
2. Tư tưởng HCM
III. Cơ sở thực tiễn
1. Chính sách kinh tế NEP
2. Kinh tế VN qua các thời kì
a. Thời kì nguyên thủy & dựng nước
b. Thời kì phong kiến
c. Thời kì trước đổi mới
IV. Quá trình hình thành đường lối xây dựng nền KTTT định
hướng XHCN
1. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội
VIII
2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội
X
V. Những đặc điểm cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN
ở Việt Nam
VI. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp


MỞ ĐẦU
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác
nhau. Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất


định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Song hiện nay, mô hình
kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế phổ biến và có hiệu quả
nhất trong việc phát triển kinh tế của hầu hết tất cả các quốc gia
trên thế giới. Mô hình này không chỉ được áp dụng ở các nước tư
bản chủ nghĩa, mà còn được áp dụng ở các nước đi theo con đường
xã hội chủ nghĩa. Nó được vận dụng ở các nước phát triển và cả ở
các nước đang phát triển. Việt Nam cũng mới sử dụng mô hình
kinh tế này được khoảng hơn 15 năm nay. Và có những thành tựu
mà chúng ta đã đạt được cũng như có những khó khăn, những vấn
đề gặp phải cần được giải quyết trong quá trình chuyển đổi sang
mô hình kinh tế mới. Điều này rất đáng được quan tâm.
Và hiện nay, chúng ta cần hiểu rõ về tình hình kinh tế nước
ta và tình hình kinh tế của thế giới. Nhất là đối với sinh viên khi
nghiên cứu về kinh tế thì đề tài này giúp cho chúng ta trả lời được
những câu hỏi: "Phải chăng mỗi một quốc gia muốn có được tăng
trưởng kinh tế và năng suất lao động cao, muốn sản xuất ra nhiều
sản phẩm vật chất cho xã hội thì nhất thiết phải sử dụng mô hình
kinh tế thị trường ?", "Vì sao mô hình kinh tế thị trường lại đặc
biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia?",
"Kinh tế thị trường hình thành và phát triển như thế nào?", "Kinh
tế thị trường bao gồm những nhân tố nào cấu thành nên và hoạt
động của nó ra sao?", "Bối cảnh nền kinh tế thị trường Việt Nam
ra đời và quá trình hoạt động của nó diễn ra như thế nào?", "Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có đặc
điểm gì giống và khác so với nền kinh tế thị trường của các nước
khác trên thế giới?", "Cách thức mà chúng ta sử dụng kinh tế thị
trường trong việc phát triển kinh tế?"…
Hàng loạt những câu hỏi này sẽ luôn xuất hiện khi chúng ta
nghiên cứu về kinh tế. Đề tài này sẽ giúp cho chúng ta hiểu được
thêm về bản chất, tính chất cũng như nguồn gốc hình thành của

nền kinh tế . Ngoài ra còn giúp cho chúng ta biết thêm được về
thực tế, những nhân tố, những quy luật nào tác động đến kinh tế thị
trường. Điều đó thực sự bổ ích và nó sẽ luôn hỗ trợ cho chúng ta
trong quá trình học tập, nghiên cứu và nâng cao kiến thức, tích luỹ
được của bản thân. Từ đó giúp cho chúng ta có được cái nhìn tổng
quát hơn, thực tế hơn và nó dần hình thành cho chúng ta một tư
duy phân tích lôgic về những hiện tượng kinh tế xã hội xẩy ra hiện
nay.


I. Quan niệm về KTTT và đặc điểm chung của KTTT
-Quan niệm về kinh tế thị trường
+ Là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa trong đó
toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất kinh doanh đều
được mua bán thông qua thị trường.
+ Kinh tế hàng hóa và kinh tế tị trường có cùng nguồn gốc và
bản chất nhưng khác nhau về trình độ và quy mô
- Đặc điểm chung của kinh tế thị trường
+ Các chủ thể kinh tế có quyền tự chủ rất cao khác với kinh
tế tập trung
+ Vấn đề lợi ích được đắt ra nghiêm ngặt
+ Dung lượng thị trường lớn, sản phẩm phong phú, thỏa mãn
được nhi cầu của người tiêu dùng.
+ Giá cả được xác định ngay trên thị trường
+ Cạnh tranh là tất yếu trong nền kinh tế thị trường.
+ Kinh tế thị trường là một hệ thống mở, sản xuất ra để bán
để trao đổi
II. Cơ sở lí luận
1. Lí luận của Mác về nền KTTT
1.1. Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá

giản đơn
Bước chuyển từ nền kinh tế tự nhiên nền kinh tế mang đặc
trưng là không có sản xuất hàng hoá, không có thị trường, sản
phẩm sản xuất ra nhằm thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người sản
xuất, tự cung tự cấp, không đem ra trao đổi thậm chí còn dựa một
phần vào hái lượm sản phẩm của tự nhiên. Đó là một loại hình sản
xuất khép kín, phân tán, kĩ thuật thủ cựu, rất thô sơ nhịp độ phát
triển hết sức chậm, với kinh tế nông nghiệp chiếm địa vị thống trị.
KTTN chiếm ưu thế trong các hình thái trước chủ nghĩa tư bản.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, KTTN được thay
thế bằng kinh tế hàng hoá.
Kinh tế hàng hóa là nền kinh tế có sự phân công lao động và
trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa người này với người khác. Ở giai
đoạn sơ khai, trao đổi hàng hóa mang hình thức trực tiếp, gọi là
hàng đổi hàng. Người sản xuất gạo và cần thịt có thể gặp người
sản xuất thịt và cần gạo để đổi trực tiếp gạo lấy thịt. Đây đã là kinh
tế hàng hóa. Tuy nhiên, nếu không gặp được người có thứ mình
cần và cần thứ mình có, thì trao đổi không được thực hiện. Kinh tế
hàng hóa là một hình thái của nền sản xuất xã hội nối tiếp và cao


hơn nền sản xuất tự nhiên( tự cung tự cấp), trong đó sản phẩm
được sản xuất ra để trao đổi thông qua mua - bán trên thị trường;
hình thái quan hệ kinh tế thống trị của các mối liên hệ kinh tế là
quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Nó đối lập với kinh tế tự nhiên, trong
đó hình thái thống trị là các quan hệ hiện vật. Theo Mac K. (K.
Marx), KTHH là một giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử
phát triển của xã hội theo tiến trình: kinh tế tự nhiên - kinh tế hàng
hoá - kinh tế sản phẩm. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong giai
đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản về tổng thể là một nền KTHH.

Điều kiện chung của tồn tại sản xuất hàng hoá là phân công lao
động xã hội và sự tách biệt (độc lập) kinh tế giữa những người sản
xuất. Đặc trưng chung của KTHH trong bất kì chế độ xã hội nào là
sự tồn tại hình thái giá trị và thị trường, trong đó giá trị của hàng
hoá - lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó,
được đo bằng tiền tệ và mang hình thái giá cả; quy luật đặc trưng
của sản xuất hàng hoá là quy luật giá trị, và những quy luật liên
quan như quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật
hàng hoá được trao đổi theo nguyên tắc ngang giá
1.2. Từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển sang nền kinh tế
tự do cổ điển
Quá trình chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế tự
do cổ điển được thực hiện qua ba giai đoạn phát triển cả về lực
lượng sản xuất, cả về quan hệ sản xuất mới thích ứng với từng
bước phát triển của lực lượng sản xuất
Kỹ thuật thủ công dựa trên lao động hiệp tác giản đơn:
Hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở kỹ thuật
thủ công, với quy mô lớn hơn so với tổ chức sản xuất phường hội
và sản xuất nhỏ cá thể. Trong giai đoạn hiệp tác giản đơn, công
nhân phụ thuộc vào nhà tư bản về kinh tế nhưng vẫn còn độc lập
về mặt kỹ thuật. Để tổ chức hiệp tác lao động, bước đầu tiên phải
tập trung tư liệu sản xuất, trên cơ sở đó tập trung sức lao động.Tập
trung hiệp tác lao động đòi hỏi phải có sự chỉ đạo để điều hoà
những hoạt động cá nhân, bảo đảm sự nhịp nhàng trong hoạt động
sản xuất đạt đến mục đích chung. Với sản xuất quy mô lớn, trong
hiệp tác giản đơn, phải mua cả đống nguyên liệu và buôn bán hàng
hoá, do đó đã làm xuất hiện một mạng lưới mua gom nguyên liệu
và bán lẻ hàng hoá, từ đó thúc đẩy việc sản xuất và trao đổi sâu
rộng trong xã hội. Hiệp tác giản đơn đã bước đầu làm xuất hiện
sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, nâng cao năng suất lao động xã hội

lên rất nhiều. Việc hiệp tác giản đơn làm xuất hiện sản xuất lớn về


mặt quy mô là một bước ngoặt rất quan trọng từ sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn
Phân công công trường thủ công Tư bản chủ nghĩa:
Sự phát triển của hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa tất yếu
dẫn tới hiệp tác có phân công, làm xuất hiện các công trường thủ
công tư bản chủ nghĩa. Công trường thủ công là hình thức xí
nghiệp tư bản thực hiện sự hiệp tác có phân công dựa trên cơ sở kỹ
thuật thủ công. Công trường thủ công hình thành bằng cách tập
hợp những thợ thủ công khác nghề, hoặc những thợ thủ công cùng
nghề vào trong một xưởng để cùng sản xuất ra một loại hàng hoá
Đặc điểm về tổ chức và kỹ thuật của công trường thủ công
là: Quá trình sản xuất được phân chia thành những giai đoạn,
những công việc bộ phận để có sản phẩm hoàn chỉnh, trên cơ sở
đó mỗi công nhân chỉ chuyên làm một công việc bộ phận. Đặc
điểm của sự phân công này là chuyên môn hoá hẹp.
Cơ sở kỹ thuật vẫn là thủ công với công cụ chuyên dùng,
phân phối sản xuất theo kinh nghiệm cổ truyền nên chủ yếu dựa
vào tay nghề khéo léo của công nhân. Cơ cấu tổ chức của công
trường thủ công là những người lao động bộ phận, sử dụng công
cụ chuyên dùng thích ứng, hợp thành lao động tập thể
Đại công nghiệp cơ khí:
Trên cơ sở kỹ thuật thủ công, phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa không thể được xác lập một cách hoàn chỉnh và phát
triển vững chắc. Do đó, trong quá trình phát triển, chủ nghĩa tư bản
tự tạo cho nó một cơ sở kỹ thuật tương ứng là máy móc, đưa chủ
nghĩa tư bản từ giai đoạn công trường thủ công lên giai đoạn đại
công nghiệp cơ khí. Máy móc được sử dụng phổ biến trong xã hội

thông qua cuộc cách mạng công nghiệp. Đó là cuộc các mạng kỹ
thuật thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.
Công cuộc cơ khí hoá ở một ngành dẫn đến việc thúc đẩy quá trình
cơ khí hoá ở một ngành có liên quan. Cơ khí hoá trong các ngành
công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hoá ở các ngành liên
quan. Cơ khí hoá trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc
đẩy cơ khí hoá ngành giao thông vận tải… cơ khí hoá bắt đầu từ
ngành công nghiệp nhẹ đến các ngành công nghiệp nặng. Máy
móc và đại công nghiệp có tác dụng chủ yếu làm năng suất lao
động xã hội tăng vọt, xã hội hoá lao động và sản xuất ngày càng
cao, mở rộng thị trường, thúc đẩy sự ra đời của các trung tâm công
nghiệp và những thành thị lớn; đồng thời, tạo ra những tiền đề vật
chất kỹ thuật
1.3. Từ nền kinh tế thị trường tự do chuyển sang nền kinh tế thị
trường hỗn hợp


Xuất phát từ những khuyết tật của cơ chế thị trường:
Do chạy theo lợi nhuận cho nên các doanh nghiệp thường
gây ô nhiễm môi trường, thường khai thác tài nguyên một cách
bừa bãi dẫn tới làm mất cân bằng sinh thái mà doanh nghiệp không
phải đền bù một khoản thiệt hại nào
Cơ chế thị trường dễ làm xuất hiện căn bệnh: khủng hoảng
kinh tế, thất nghiệp, lạm phát và suy thoái
Cơ chế thị trường dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo, dễ phát
sinh những tiêu cực xã hội
Kinh tế thị trường là một bước phát triển sau của kinh tế tự
nhiên và khi kinh tế hàng hoá phát triển tới trình độ cao thì đó
chính là kinh tế thị trường. Trong cơ chế thị trường thì do những
khuyết tật của nó dẫn đến phá vỡ cân đối của nền kinh tế, gây lãng

phí nhiều nguồn lực: tư liệu sản xuất, lao động, tạo ra sự phân hóa
xã hội. Vì vậy nhà nước phải có vai trò nhất định để khắc phục
những nhược điểm trên
Trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kì tự do
cạnh tranh thì kinh tế thị trường phát triển theo tư tưởng lý thuyết
bàn tay vô hình thì nhà nước không can thiệp kinh tế. điều đó dẫn
đến việc khủng hoảng kinh tế sau này (1929 - 1933). Vì vậy đã
xuất hiện lý thuyết kinh tế của Keyes yêu cầu nhà nước phải can
thiệp kinh tế và đến năm 1948 đã xuất hiện lý thuyết về nền kinh
tế hỗn hợp trong đó có sự kết hợp của hai nhân tố: sự điều tiết của
thị trường (Bàn tay vô hình) và sự can thiệp của chính phủ (Bàn
tay hữu hình) và cả hai nhân tố này đều tác động vào nền kinh tế
Nhà nước có chức năng:
Định hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật
Thiết lập về một khuôn khổ về pháp luật, xây dựng hệ thống
cơ sở nhất quán tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho kinh tế
phát triển
Hạn chế và khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường
Trực tiếp đầu tư một số lĩnh vực của nền kinh tế: những
ngành kinh tế công cộng, năng lượng, cầu nhiều vốn….
Quản lý và bảo vệ tài sản công, kiểm kê, kiểm soát hoạt động
kinh tế - xã hội
Phân phối hợp lý các nguồn lực sản xuất.

1.4. Các quy luật vận động của kinh tế thị trường.
Quy luật giá trị


Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng

hoá. ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt
động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật chi phối cơ chế thị trường và chi
phối các quy luật kinh tế khác, các quy luật kinh tế khác là biểu
hiện yêu cầu của quy luật giá trị mà thôi
Quy luật giá trị quyết định giá cả hàng hoá, dịch vụ, mà giá
cả là tín hiệu nhạy bén nhất của cơ chế thị trường
Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa
phải được tiến hành trên cơ sở của việc hao phí lao động xã hội
cần thiết: Trong sản xuất nó đòi hỏi người sản xuất luôn luôn có
ý thức tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn
hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết
Trong lĩnh vực sản xuất :Đối với việc sản xuất một thứ hàng
hóa riêng biệt thì yêu cầu của quy luật giá trị được biểu hiện ở chỗ:
hàng hoá của người sản xuất muốn bán được trên thị trường, muốn
được xã hội thừa nhận thì lượng giá trị của một hàng hoá cá biệt
phải phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết. Đối với một
loại hàng hoá thì yêu cầu quy luật giá trị thể hiện là tổng giá trị của
hàng hóa phải phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán của xã
hội
Trong lĩnh vực trao đổi : Việc trao đổi phải tiến hành theo
nguyên tắc ngang giá. Quy luật giá trị biểu hiện sự hoạt động của
mình thông qua sự vận động của giá cả xung quanh giá trị. Giá cả
phụ thuộc vào giá trị, giá trị là cơ sở của giá cả, những hàng hoá có
hao phí lao động lớn thì giá trị của nó lớn dẫn đến giá cả cao và
ngược lại. Đối với mỗi hàng hoá thì giá cả hàng hoá có thể bằng
hoặc nhỏ hơn hoặc lớn hơn giá trị nhưng đối với toàn bộ hàng hóa
của xã hội thì chúng ta luôn luôn có tổng giá cả hàng hóa bằng
tổng giá trị
Tác dụng của quy luật giá trị: quy luật giá trị tự phát điều tiết

việc sản xuất và lưu thông hàng hóa thông qua sự biến động của
cung - cầu thể hiện qua giá cả trên thị trường
Quy luật cung cầu
Cung phản ánh khối lượng sản phẩm hàng hoá được sản xuất
và đưa ra thị trường để thực hiện (để bán). cung do sản xuất quyết
định, nó không đồng nhất với sản xuất
Cầu phản ánh nhu cầu tiêu dùng có khả năng thanh toán của
xã hội. Do đó, cầu không đồng nhất với tiêu dùng, vì nó không
phải là nhu cầu tự nhiên, nhu cầu bất kì theo nguyện vọng tiêu
dùng chủ quan của con người, mà phụ thuộc vào khả năng thanh
toán


Cung - Cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên
tác động lẫn nhau trên thị trường, ở đâu có thị trường thì ở đó có
quy luật cung - cầu tồn tại và hoạt động một cách khách quan.
Cung - cầu tác động lẫn nhau:
Cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu. Cầu xác
định khối lượng, chất lượng và chủng loại cung về hàng hoá.
những hàng hoá nào được tiêu thụ thì mới được tái sản xuất.
Ngược lại, cung tạo ra cầu, kích thích tăng cầu thông qua phát
triển số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá, hình thức, quy
cách và giá cả của nó
Cung - cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá
cả. Đây là sự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ
khác nhau
Quy luật cung - cầu tác động khách quan và rất quan trọng.
Nếu nhận thức được chúng thì chúng ta vận dụng để tác động đến
hoạt động sản xuất kinh doanh theo chiều hướng có lợi cho quá
trình tái sản xuất xã hội. Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung cầu thông qua các chính sách, các biện pháp kinh tế như: giá cả,

lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu
dùng. Để tác động vào các hoạt động kinh tế theo quy luật cung cầu, duy trì những tỷ lệ cân đối cung - cầu một cách lành mạnh và
hợp lý
Quy luật canh tranh
Cạnh tranh là sự tác động lẫn nhau giữa các nhóm người,
giữa người mua và người bán hay giữa người sản xuất và người
tiêu dùng. Hai nhóm này tác động lẫn nhau với tư cách là một thể
thống nhất, một hợp lực. ở đây cá nhân chỉ tác động với tư cách là
một bộ phận, một lực lượng xã hội, là một nguyên tử của một
khối. Chính dưới hình thái đó mà cạnh tranh đã vạch rõ cái tính
chất xã hội của sản xuất và tiêu dùng
Bên canh tranh yếu hơn cả cũng đồng thời là cái bên mà ở đó
mỗi cá nhân đều hoạt động một cách độc lập với đông đảo những
người cạnh tranh với mình và thường thường là trực tiếp chống lại
những người đó. Chính vì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa một người
cạnh tranh cá biệt với những người khác lại càng thêm rõ ràng.
Trái lại bên mạnh hơn bao giờ cũng đương đầu với đối phương với
tư cách là một chỉnh thể ít nhiều thống nhất
Người mua làm cho giá thị trường càng thấp, càng tốt. Mỗi
người chỉ quan tâm đến đồng nghiệp trong chừng mực thấy đi với
họ có lợi hơn việc chống lại họ
Khi một bên yếu hơn bên kia thì hành động chung sẽ chấm
dứt, mỗi người sẽ tự lực xoay sở lấy. Nếu một bên chiếm ưu thế


thì mỗi người bên đó đều sẽ được lợi, tất cả diễn ra như là họ cùng
nhau thực hiện độc quyền chung vậy
Cạnh tranh như một tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Cạnh
tranh có tác dụng san bằng các giá cả mấp mô để có giá cả trung
bình, giá trị thị trường và giá cả sản xuất đều hình thành từ cạnh

tranh trong nội bộ ngành và giữa các ngành
Tóm lại: Trong cơ chế thị trường, quy luật cạnh tranh như
một công cụ, phương tiện gây áp lực cực mạnh thực hiện yêu cầu
của quy luật giá trị, cạnh tranh trong một cơ chế vận động chứ
không phải cạnh tranh nói chung
Quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật xác định lượng tiền cần
cho lưu thông. Lượng tiền cần cho lưu thông chính bằng tỷ số giữa
tổng giá cả hàng hoá với tốc độ lưu thông tư bản
Trong thực tế: lượng tiền cần cho lưu thông bằng tỷ số giữa
tổng giá cả hàng hóa trừ đi tổng tiền khấu trừ, trừ đi tổng giá cả
bán chịu cộng với tổng tiền thanh toán với tốc độ lưu thông tư bản
Quy luật lưu thông tiền tệ tuân theo các nguyên lý sau:
Lưu thông tiền tệ và cơ chế lưu thông tiền tệ do cơ chế lưu
thông hàng hoá quyết định
Tiền đại diện cho người mua, hàng đại diện cho người bán.
Lưu thông tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với tiền - hàng, mua - bán,
giá cả - tiền tệ
Kinh tế hàng hoá trên một ý nghĩa nhất định có thể gọi là
kinh tế tiền tệ, quyết định cơ chế lưu thông tiền tệ
Mặt khác cơ chế lưu thông tiền tệ còn phụ thuộc vào cơ chế
xuất nhập khẩu, cơ chế quản lý kim loại quý, cơ chế kinh doanh
tiền của ngân hàng
Nếu quy luật canh tranh, quy luật cung - cầu làm giá hàng
hoá vận động, san bằng thì quy luật lưu thông tiền tệ giữa mối liên
hệ cân bằng giữa hàng và tiền
Ngoài ra còn một số loại quy luật khác như: quy luật tỷ suất lợi
nhuận có xu hướng giảm, quy luật khủng hoảng kinh tế , quy luật
tâm lý… cũng ảnh hưởng đến cơ chế thị trường Cung –cầu
Cạnh tranh.

Giá trị
2. Tư tưởng HCM
Phát huy quyền làm chủ của mọi người dân,khơi dậy mạnh
mẽ tất cả các nguồn lực trước hết là nội lực để tiến hành công
nghiệp hóa hiện đại hóa, tiến lên chủ nghĩa xã hội.


II. Cơ sở thực tiễn
1. Chính sách NEP của Liên Xô
Thực ra, khi mới vận dụng học thuyết Mác vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lê-nin
cũng đã từng chủ trương không áp dụng mô hình kinh tế thị trường
mà thực hiện “chính sách cộng sản thời chiến”. Nhưng chỉ sau một
thời gian ngắn, Người đã phát hiện ra sai lầm, khắc phục sự nóng
vội bằng cách đưa ra thực hiện “chính sách kinh tế mới” (NEP) mà
nội dung cơ bản của nó là khuyến khích phát triển kinh tế hàng
hóa, chấp nhận ở mức độ nhất định cơ chế thị trường. Theo
V.I.Lê-nin, để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước còn tương
đối lạc hậu về kinh tế như nước Nga, cần phải sử dụng quan hệ
hàng hóa – tiền tệ và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển lực
lượng sản xuất. Tuy chỉ mới thực hiện trong thời gian ngắn nhưng
NEP đã đem lại những kết quả tích cực cho nước Nga: hồi phục và
phát triển nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, nhiều ngành kinh tế
bắt đầu hoạt động năng động, nhộn nhịp hơn. Tiếc rằng, tư tưởng
của V.I.Lê-nin về xây dựng chủ nghĩa xã hội với chính sách NEP
đã không được tiếp tục thực hiện sau khi Người qua đời. Sự thành
công và sự phát triển mạnh mẽ suốt một thời gian khá dài của Liên
Xô trong công cuộc công nghiệp hóa đất nước bằng mô hình kinh
tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, kế hoạch hóa tập

trung cao độ; phân phối thu nhập mang tính bình quân; kinh tế
hàng hóa, kinh tế thị trường bị loại bỏ đã có sức hấp dẫn lớn đối
với nhân loại và làm cho giới lý luận kinh tế các nước xã hội chủ
nghĩa và các nước đang phát triển tuyệt đối hóa, biến thành công
thức để áp dụng cho tất cả các nước đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa.
Cũng cần nói thêm rằng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội, giới lý luận ở một số nước cũng cảm thấy có cái gì “chưa
ổn”, cũng đã đưa ra những kiến nghị, những đề xuất, đại loại như
quan điểm “chủ nghĩa xã hội thị trường”,… nhưng không được
chấp nhận.
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế,
khuyết tật của mô hình kinh tế Xô-viết bộc lộ ra rất rõ cộng với sự
yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý lúc bấy giờ đã làm cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông
Âu rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Một số người lãnh đạo
chủ chốt của Đảng và Nhà nước Liên Xô lúc đó muốn thay đổi
tình hình bằng công cuộc cải cách, cải tổ, nhưng với một “tư duy
chính trị mới”, họ đã phạm sai lầm nghiêm trọng cực đoan, phiến


diện (ở đây chưa nói tới sự phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa của
họ và sự phá hoại thâm hiểm của các thế lực thù địch), dẫn tới sự
tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở
Đông Âu vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ
XX đã làm lộ rõ những khuyết tật của mô hình kinh tế cứng nhắc
phi thị trường, mặc dù những khuyết tật đó không phải là nguyên
nhân tất yếu dẫn đến sự sụp đổ.
2. Kinh tế Việt Nam qua các thời kì

Nền kinh tế VN qua các giai đoạn lịch sử từ thuở sơ khai đến
giờ cũng không nằm ngoài quy luật về sự phát triển tất yếu của nền
KTTT của Mác
Kinh tế VN thoi nguyen thuy va dựng nước
2.1. Kinh tế Việt Nam thời nguyên thủy.
- "Có một nền kinh tế tự nhiên".
- " Phân công lao động xã hội" - và sự xuất hiện các ngành
kinh tế.
Kinh tế Việt Nam thời kỳ dựng nước Văn Lang - Âu Lạc
. Bước phát triển của tổ chức xã hội.
. Nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước " văn minh sông
Hồng
2.2. Kinh tế Vn thời PK
- Thời kỳ phong kiến hóa dưới chế độ đô hộ của phong kiến
phương Bắc.
. Chính sách bóc lột của phong kiến phương Bắc.
. Sự chuyển biến trong nền kinh tế Việt Nam.
. Về quan hệ sản xuất.
. Về lực lượng sản xuất.
. Tính chất "hai mặt" của kinh tế Việt Nam trong giai
đoạn này.
- Kinh tế Việt Nam thời phong kiến dân tộc.
Kinh tế Việt Nam thời kỳ xây dựng và thịnh đạt của chế độ
phong kiến Việt Nam ( thế kỷ X - thế kỷ XV)
Chính sách ruộng đất và sản xuất nông nghiệp.
Thủ công nghiệp, thương nghiệp và các ngành kinh tế
khác.
Kinh tế Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng của chế độ
phong kiến Việt Nam.



Kinh tế nông nghiệp và sự xuất hiện của mầm mống kinh
tế TBCN.
Kinh tế thủ công nghiệp, thương nghiệp và vấn đề mầm
mống kinh tế TBCN trong các ngành công nghiệp.
-Những nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của kinh tế hàng hóa
và mầm mống kinh tế TBCN ở Việt Nam trong giai đoạn cuối
của chế độ phong kiến Việt Nam.
. Kết cấu kinh tế truyền thống.
. Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng.
. Hệ tư tưởng nho giáo và văn hóa làng xã.
2.3. Kinh tế Việt Nam thời kì trước đổi mới
Cơ chế quản lý kinh tế Việt Nam thời kỳ trước đổi mới
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp có đặc
điểm:

Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh
lệnh hành chính dựa trên hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ
trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp
lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền
vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương…
đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu
kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp
giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà
nước thu.

Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không
chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình.

Những thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì
ngân sách Nhà nước phải gánh chịu.
Hậu quả do hai điểm nói trên mang lại là cơ quan quản lý
nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc, vì không có
quyền tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp trên, vì không bị ràng buộc trách
nhiệm đối với kết quả sản xuất.

Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình
thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông
qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Hạch toán kinh tế chỉ là hình
thức.

Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa
kém năng động vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong
cách cửa quyền, quan liêu.


Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu
sau:

Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị,
vật tư, hàng hóa thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với
giá trị thị trường. Với giá thấp như vậy, coi như một phần những
thứ đó được cho không. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.

Bao cấp qua chế độ tem phiếu (tiền lương hiện vật): Nhà
nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ,
công nhân viên, công nhân theo định mức qua hình thức tem
phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường

đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực
kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao
động.

Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng
không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị
được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách
vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin cho”.
Hậu quả:
Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều
rộng thì cơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung
tối đa các nguồn lực kinh tế vào mục đích chủ yếu trong từng giai
đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa
theo xu hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng nó lại
thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, triệt
tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính
năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Khi nền
kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu
dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa
học – công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những
khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa
trước đây, trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ
chế thị trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng
nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế
hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ
sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của
nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc
doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư



nhân và kinh tế cá thể tư nhân; xây dựng nền kinh tế khép kín. Nền
kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, chúng ta đã có những bước cải tiến về nền
kinh tế theo hướng thị trường, tuy nhiên còn chưa toàn diện, chưa
triệt để. Đó là khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo chỉ thị 100
– CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV; bù giá vào lương ở
Long An; Nghị quyết TW8 khóa V (1985) về giá - lương - tiền;
thực hiện Nghị định 25 và Nghị định 26 - CP của Chính phủ…
Tuy vậy, đó là những căn cứ thực tế để Đảng đi đến quyết định
thay đổi cơ chế quản lý kinh tế.
III. Quá trình đổi mới tư duy của Đảng qua các kì đại hội

Đề cập sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội
VI khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu,
bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm
suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo
các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng
suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông
và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Chính vì vậy,
việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và
cấp bách.
1. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến
Đại hội VIII
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về
kinh tế thị trường. So với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh

tế thị trường có sự thay đổi căn bản và sâu sắc:
Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của
Chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân
loại.
Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy sản xuất và
trao đổi hàng hóa là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển
của kinh tế thị trường. Trong quá trình sản xuất và trao đổi, các
yếu tố thị trường như cung, cầu, giá cả có tác động điều tiết quá
trình sản xuất hàng hóa, phân bổ các nguồn lực kinh tế và tài
nguyên thiên nhiên như vốn, tư liệu sản xuất, sức lao động… phục
vụ cho sản xuất và lưu thông. Thị trường giữ vai trò là một công
cụ phân bổ các nguồn lực kinh tế. Trong một nền kinh tế khi các


nguồn lực kinh tế được phân bổ bằng nguyên tắc thị trường thì
người ta gọi đó là kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ,
hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong chủ
nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa có cùng bản
chất đều nhằm sản xuất ra để bán, đều nhằm mục đích giá trị và
đều trao đổi thông qua quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Kinh tế hàng
hóa và kinh tế thị trường đều dựa trên cơ sở phân công lao động xã
hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, làm cho
những người sản xuất vừa độc lập, vừa phụ thuộc vào nhau. Trao
đổi mua bán hàng hóa là phương thức giải quyết mâu thuẫn trên.
Tuy nhiên, kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có sự khác nhau
về trình độ phát triển. Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên,
đối lập với kinh tế tự nhiên, nhưng còn ở trình độ thấp, chủ yếu là
sản xuất hàng hóa tư nhân, quy mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, năng
suất thấp. Còn kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển cao.

Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ sở và
nền sản xuất xã hội hóa cao.
Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng cho
đến nay nó mới biểu hiện rõ rệt nhất trong chủ nghĩa tư bản. Nếu
trước chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường còn ở thời kỳ manh nha,
trình độ thấp thì trong chủ nghĩa tư bản nó đạt đến trình độ cao đến
mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó.
Điều đó khiến cho người ta nghĩ rằng kinh tế thị trường là sản
phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó,
kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao
không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu
phát triển chung của nhân loại. Chỉ có thể chế kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa hay cách sử dụng kinh tế thị trường theo lợi nhuận
tối đa của chủ nghĩa tư bản mới là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.
Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế”
là phương thức tổ chức vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều
tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn
lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người. Kinh tế
thị trường chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chứ
không đối lập với các chế độ xã hội. Bản thân kinh tế thị trường
không phải là đặc trưng bản chất cho chế độ kinh tế cơ bản của xã
hội. Là thành tựu chung của văn minh nhân loại, kinh tế thị trường


tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Kinh
tế thị trường vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữu, vừa có thể liên
hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho chúng. Vì vậy, kinh tế thị

trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cả trong chủ nghĩa xã
hội. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường không phải là phát
triển tư bản chủ nghĩa hoặc đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và
tất nhiên, xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng không dẫn đến
phủ định kinh tế thị trường.
Đại hội VII của Đảng (6-1991) trong khi khẳng định chủ
trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế quốc dân thống
nhất, đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng hóa không
đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần thiết cho
xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đại hội cũng xác định cơ chế vận hành
của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước” bằng pháp luật, kế hoạch chính sách và các công cụ khác.
Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản
xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác
và liên doanh có hiệu quả, nhà nước quản lý nền kinh tế để định
hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo điều kiện và môi trường
thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nhà nước quản lý
nền kinh tế để định hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, đảm bảo
hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội.
Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII (6-1996) đề ra nhiệm vụ
đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó còn
tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Vì vậy, có thể

và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng CNXH ở nước
ta.
Là thành tựu của văn minh nhân loại, bản thân kinh tế thị
trường không có thuộc tính xã hội, vì vậy, kinh tế thị trường có thể
sử dụng ở các chế độ xã hội khác nhau. Ở bất kỳ xã hội nào, khi
lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn
lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu
sau:


- Chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản
xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu.
- Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường
phát triển đồng bộ và hoàn hảo.
- Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn
có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu,
quy luật cạnh tranh.
- Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của
Nhà nước.
Với những đặc điểm trên, kinh tế thị trường có vai trò rất lớn
đối với sự phát triển kinh tế, xã hội.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội còn tồn tại sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường
nên chúng ta đã xem kế hoạch là đặc trưng quan trọng nhất của
kinh tế xã hội chủ nghĩa, đã thực hiện phân bổ mọi nguồn lực theo
kế hoạch là chủ yếu, còn thị trường chỉ được coi là một công cụ
thứ yếu bổ sung cho kế hoạch do đó không cần thiết sử dụng kinh
tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ kinh tế thị
trường, nếu biết vận dụng đúng, thì có vai trò rất lớn đối với sự

phát triển kinh tế – xã hội. Có thể dùng cơ chế thị trường làm cơ
sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết
chủng loại và số lượng hàng hóa, điều hòa quan hệ cung cầu, điều
tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh, thúc đẩy cải tiến
bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém.
Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế thị
trường nhưng đã biết kế thừa và khai thác có hiệu quả các lợi thế
của kinh tế thị trường để phát triển. Thực tiễn đổi mới ở nước ta
cũng đã chứng minh sự cần thiết và hiệu quả của việc sử dụng kinh
tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến
Đại hội X
Đại hội IX của Đảng (4-2001) xác định nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát
của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị
trường như một công cụ, một cơ chế quản lý, sang coi kinh tế thị


trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vậy thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa? Đại hội IX xác định KTTT XHCN là “ Một kiểu tổ chức
kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên
cơ sở và chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ
nghĩa xã hội”. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “ thị
trường” được sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật – của chủ nghĩa xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính “định hướng xã hội chủ

nghĩa” được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu,
tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là “dân
giàu, nước mạnh, tiên tiến hiện đại trong xã hội do dân làm chủ,
nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức bất công, tạo điều
kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nói
đến kinh tế không phải là kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc, cũng
không phải kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cũng không phải là
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa hoàn toàn là kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa vì chưa có đầy đủ các yếu tố xã hội
chủ nghĩa. Tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” làm cho mô hình
kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ
thêm nội dung cơ bản của Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là:
Về mục đích phát triển: Mục đích của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “ dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh, giải phóng mạnh
mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân
dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn
lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát khỏi nghèo và
từng bước khá giả hơn”.
Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con
người, giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng
cao đời sống cho mọi người, mọi người đều được hưởng những
thành quả phát triển. Ở đây thể hiện sự khác biệt với mục đích tất
cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa tư bản.
Về phương hướng phát triển: Phát triển các thành phần kinh

tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân.


Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế là nhằm giải phóng mọi tiềm năng để phát triển trong
mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền…
phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Trong nền
kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là
công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho
sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Để giữ vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước phải
nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa
học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ
không phải dựa vào bao cấp, cơ chế xin cho hay độc quyền kinh
doanh. Mặt khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu nền kinh
tế phải được dựa vào nền tảng của sở hữu toàn dân các tư liệu sản
xuất chủ yếu.
Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát
triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát
triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề
xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội vừa đảm bảo sự phát triển
bền vững, vừa thể hiện rõ định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế, hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, thực hiện
mục tiêu phát triển con người.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể
hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả

kinh tế, phúc lợi xã hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực
kinh tế cho sự phát triển còn thực hiện phân phối theo mức đóng
góp vốn và các nguồn lực khác.
Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân,
bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện
rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa và cũng là sự khác biệt cơ bản
giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Sự quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà
nước xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật đảm bảo mục đích của nền
kinh tế, sự vận động của chế độ sở hữu, phân phối theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực của kinh tế thị trường, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mọi
con người.
Những tiêu chí trên vừa thể hiện tính định hướng xã hội chủ nghĩa
của nền kinh tế thị trường ở nước ta, vừa thể hiện sự khác biệt cơ


bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
IV. Những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở VN
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có
ba điểm rất cơ bản là:
- lấy chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu làm
nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc
dân;
- kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối chủ
yếu theo kết
- quả lao động và hiệu quả kinh tế, thực hiện tốt

các chính sách xã hội;
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì
dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Có thể luận giải ba điểm trên như sau:
Thứ nhất, chế độ đa sở hữu và đa thành phần kinh tế. Cốt
lõi của kinh tế thị trường là sản xuất hàng hóa, trao đổi mua bán
hàng hóa, dịch vụ trên thị trường theo quy luật thị trường. Sản xuất
và trao đổi chỉ xảy ra khi mọi chủ thể tham gia vào nền kinh tế thị
trường độc lập với nhau, và vì vậy muốn thỏa mãn nhu cầu xã hội
thì phải trao đổi sản phẩm gọi là hàng hóa. Các chủ thể, bởi thế,
phải ý thức rõ ràng về sở hữu vật đem trao đổi, cũng như lợi ích từ
việc trao đổi đó. Người lao động có thể là một người lao động cá
thể hay một người lao động tổng thể. Xét trên phạm vi cả xã hội
thì chỉ thông qua trao đổi lao động tư nhân mới biểu hiện thành lao
động xã hội, mới chứng tỏ lao động tư nhân đó được xã hội thừa
nhận.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nhiều
hình thức sở hữu, như: sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện
chủ sở hữu, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp,
song chế độ sở hữu công cộng (công hữu, toàn dân) về tư liệu sản
xuất chủ yếu đóng vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Từ
các hình thức sở hữu cơ bản hình thành nhiều thành phần kinh tế
với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen,
hỗn hợp.
Việc thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở giải phóng sức sản xuất,
động viên tối đa nguồn lực bên trong và bên ngoài để đẩy nhanh



công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội,
cải thiện đời sống nhân dân.
Bên cạnh đó phải chủ động đổi mới, củng cố và phát triển
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để chúng trở thành nền tảng của
nền kinh tế, có khả năng hướng dẫn các thành phần kinh tế khác
phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà
nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền
kinh tế, các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết cũng như an ninh –
quốc phòng, mà các thành phần kinh tế khác không có lợi thế hoặc
đầu tư không có hiệu quả. Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm
chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công
bằng xã hội ngày càng tốt hơn.
Thứ hai, kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính;
thực hiện tốt các chính sách xã hội. Muốn cho nền kinh tế thị
trường không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các
vấn đề xã hội và thực hiện công bằng xã hội, thì Nhà nước phải
chủ động thực hiện và điều tiết các quan hệ phân phối, cụ thể như:
- Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của
sự kết hợp này là vừa bảo đảm cho các chủ thể tham gia kinh tế thị
trường có điều kiện đua tranh phát huy tài năng và có lợi nhuận
cao, vừa tạo được điều kiện chính trị – xã hội bình thường cho sự
phát triển kinh tế.
- Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ
nghĩa xã hội và nguyên tắc của kinh tế thị trường, như: phân phối
theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi
xã hội… trong đó, phải làm sao để quan hệ phân phối theo lao
động đóng vai trò chủ đạo. Thừa nhận sự tồn tại của các hình thức
thuê mướn lao động, các quan hệ thị trường sức lao động, nhưng
không để chúng biến thành quan hệ thống trị, dẫn đến tình trạng

không kiểm soát được sự phân hóa xã hội thành hai cực đối lập.
- Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân
cư. Một mặt, Nhà nước phải có chính sách để giảm bớt khoảng
cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo, không để
diễn ra sự chênh lệch quá mức giữa các vùng, miền, các dân tộc và
các tầng lớp dân cư, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Mặt
khác, phải có chính sách, biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng,
hợp pháp cho người giàu, khuyến khích người có tài năng.
Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai
kênh: Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ thể duy nhất tiến hành tổ
chức điều tiết phân phối thu nhập trên phạm vi toàn xã hội, nhằm


bảo đảm công bằng xã hội; thị trường có những nguyên tắc riêng
trong điều tiết phân phối thu nhập. Chế độ phân phối trong xã hội
là sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và sự quản lý, điều tiết của
Nhà nước.
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội không thể chỉ dựa vào
chính sách điều tiết và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân
cư, mà còn phải thực hiện tốt các chính sách phát triển xã hội,
nhằm giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội, phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đối tượng của các chính sách xã hội là toàn thể nhân dân, bởi
vậy các chính sách ấy bao gồm:
Chính sách lao động và việc làm là chính sách xã hội cơ bản.
Nó có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn lao động có kiến thức,
kỹ năng và lương tâm nghề nghiệp ngày càng cao, tạo ra nhiều
việc làm mới, đồng thời sử dụng hiệu quả nguồn lực ấy, giảm dần

tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm, vươn tới toàn dụng lao động xã
hội. Đó chính là biện pháp quan trọng để vừa thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, vừa "phát triển sự phong phú của bản chất con người"
trong lao động sáng tạo ra mọi của cải có giá trị cho bản thân, gia
đình và xã hội.
Chính sách xóa đói, giảm nghèo không đơn thuần chỉ là một
chính sách từ thiện, mà là một hệ thống chính sách kinh tế, xã hội,
văn hóa, chính trị và môi trường nhằm tác động trực tiếp và gián
tiếp đến các nguyên nhân cơ bản dẫn đến đói nghèo, tạo cơ hội
bình đẳng cho mọi người. Đó là các chính sách giao quyền sử
dụng đất, tạo vốn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, hỗ trợ về giáo dục
và y tế, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu, phát huy quyền
làm chủ cho người nghèo và cộng đồng nghèo để giúp họ tự vươn
lên thoát nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về
thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư, các thành phần
dân tộc, các vùng miền trong cả nước.
Chính sách an sinh xã hội phải từng bước tạo ra "mạng lưới"
gồm nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều hình thức phong phú về bảo
hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm cuộc
sống xứng đáng cho những người về hưu, người già cô đơn, trẻ em
mồ côi, người tàn tật, người gặp rủi ro bất hạnh và đặc biệt là
những người có công với nước.
Chính sách phòng chống các tệ nạn xã hội phải kết hợp sử
dụng nhiều biện pháp giáo dục, hành chính và pháp luật để giữ
vững sự ổn định, an toàn của một xã hội có kỷ cương; xây dựng lối


sống lành mạnh theo quy phạm đạo đức và chuẩn mực xã hội tiến
bộ, văn minh, có tác dụng cảm hóa những người lầm lỗi, tạo điều
kiện cho họ tái hòa nhập cộng đồng.

Thứ ba, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân,
do dân, vì dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị
trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ chế
quản lý và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực hiện cơ chế đó sẽ
bảo đảm tính định hướng, điều khiển hướng tới đích xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế theo phương châm: nhà nước điều tiết vĩ mô,
thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.
Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thể hiện trên các mặt, như Nhà nước đóng vai trò là
"nhân vật trung tâm" và quản lý kinh tế vĩ mô, thông qua các chức
năng:
- Tạo môi trường pháp lý, kinh tế – xã hội ổn định, thuận lợi
cho các chủ thể kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường;
- Định hướng và hướng dẫn sự phát triển kinh tế – xã hội
bằng việc soạn thảo, ban hành các kế hoạch, quy hoạch, các
chương trình phát triển kinh tế – xã hội và các chính sách (đặc biệt
là các chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng) để hướng các chủ thể
kinh tế vào thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và các chương trình
phát triển kinh tế – xã hội đã đặt ra;
- Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước
về kinh tế, nó bao gồm: Nhà nước sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị
kinh tế, đặc biệt là sắp xếp, củng cố các doanh nghiệp nhà nước;
phân phối các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế nhằm
tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với nền kinh tế thị trường; tổ
chức lại hệ thống quản lý, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà
nước về kinh tế. Đổi mới thể chế và thủ tục hành chính. Đào tạo và
đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước và quản lý
doanh nghiệp; thiết lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ

chức kinh tế quốc tế.
- Điều tiết kinh tế, điều hành vĩ mô nền kinh tế, trong đó Nhà
nước cần cân nhắc kỹ lưỡng những mệnh lệnh hành chính để cho
các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn
của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh; bảo đảm
nguyên tắc vận hành của nền kinh tế là nguyên tắc thị trường "tự
điều chỉnh". Mặt khác, do thị trường trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết


hoàn toàn, mà còn phải phục vụ các mục tiêu kinh tế – xã hội của
đất nước trong từng thời kỳ, do đó nó còn phải chịu sự quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do vậy, không thể xem các quan hệ
thị trường hoạt động theo quy luật kinh tế khách quan một cách
biệt lập với sự điều tiết của Nhà nước bằng các chính sách kinh tế
của mình.
- Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm
thiết lập kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn chặn
các hiện tượng vi phạm pháp luật và làm sai chính sách, bảo vệ tài
sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế
và từng bước thực hiện công bằng xã hội.
Cơ chế thị trường là nhân tố "trung tâm" của nền kinh tế,
đóng vai trò "trung gian" giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Nhà
nước ta quản lý nền kinh tế – xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị
trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao
động và của toàn thể nhân dân.
Quan điểm cho rằng, khi chuyển sang kinh tế thị trường thì
Nhà nước không cần phải can thiệp vào kinh tế và không cần thiết
phải kế hoạch hóa vĩ mô nền kinh tế… là hoàn toàn sai lầm và

không có căn cứ lý luận, thực tiễn. Trong tất cả các mô hình kinh
tế đã được đúc kết trên thế giới có hai dạng điều tiết kinh tế: thứ
nhất, điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hóa và các biện pháp
hành chính; thứ hai, điều tiết gián tiếp thông qua thị trường, vận
dụng cơ chế thị trường để tác động đến hoạt động của các doanh
nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực
buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ pháp luật và
theo hướng kế hoạch do Nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế
này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức của mỗi dạng
trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ
điều tiết kinh tế vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch
hóa và thị trường đều có cả ưu thế lẫn khuyết tật. Bởi vậy, chúng
cần bổ sung cho nhau để hạn chế những khuyết tật.
Thực chất của vấn đề kế hoạch hóa trong kinh tế thị trường,
xét từ góc độ Nhà nước, có thể được coi là sự kết hợp giữa điều
khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ
chế thị trường đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý kinh tế
theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển
kinh tế – xã hội đúng hướng.


×