Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Vai trò của cha mẹ trong việc định hướng bậc học và nghề nghiệp cho con ở các gia đình đô thị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.61 KB, 48 trang )

Lời nói đầu
Công cuộc đổi mới toàn diện và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
ta theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đang đặt ra yêu cầu ngày càng
cao đối với vấn đề nhận thức xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội và đặc biệt là
đối với nhân tố con người.
Cùng với sự phát triển của xã hội, đất nước ta đã đặt con người vào vị trí
trung tâm và là yếu tố hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế, tri thức. Vai
trò của cha mẹ trong việc giáo dục tri thức và hướng nghiệp cho con cái là yếu
tố rất cần thiết đối với lớp trẻ khi bước vào xã hội. Đó cũng là nội dung được
trình bày trong luận văn "Vai trò của cha mẹ trong việc định hướng bậc học
và nghề nghiệp cho con ở các gia đình đô thị hiện nay" qua khảo sát tại
phường Tràng Tiền - thành phố Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thày cô giáo trong khoa Xã hội học,
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt thày giáo đã nhiệt tình
hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù bản thân đã hết sức cố gắng song đề tài khó tránh khỏi những
hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong được sự chỉ bảo của các thày cô cùng với
những ý kiến đóng góp của các bạn.


Phần I: Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mỗi người chúng ta đều trải qua lứa tuổi ngồi trên ghế nhà trường. Tùy
điều kiện, hoàn cảnh của từng người mà trong giai đoạn này kết quả học tập của
mỗi người khác nhau. Khi giai đoạn đi học kết thúc, mọi người đều phải tính
đến chuyện làm việc để sống tự lập. Những vấn đề: Chọn nghề gì? Liệu có đủ
điều kiện để theo đuổi nghề đó không? Nghề đó có phù hợp với ta không?... đều
là những vấn đề không dễ trả lời.
Bước vào thế kỷ 21, nghề nghiệp trong xã hội có những chuyển biến
nhiều so với giai đoạn trước đây. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang
tạo điều kiện để nhân loại tiến từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri


thức. Đó là nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở sản xuất, phân phối và sử
dụng tri thức, thông tin, trong đó máy tính và các công nghệ truyền thông viễn
thông là những yếu tố chiến lược. Nghị quyết IV Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII đã xác định nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là phát huy nội
lực, cần kiệm để xây dựng đất nước... Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay, để
đạt được mục tiêu trên, chúng ta cần một lực lượng lao động có đủ trình độ
năng lực và làm chủ được công nghệ kỹ thuật của đất nước, đủ điều kiện đảm
bảo hoàn thành tốt công việc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu chúng
ta không chiếm hữu được tri thức, không sáng tạo và sử dụng được thông tin
trong các ngành sản xuất thì không thể thành công trong sự cạnh tranh quyết
liệt của thị trường. Chính vì vậy việc nâng cao trình độ học vấn, trình độ văn
hóa cho nhân dân, đặc biệt là việc định hướng bậc học và định hướng nghề
nghiệp cho thế hệ trẻ hôm nay, chủ nhân tương lai của đất nước, cần được quan
tâm hơn bao giờ hết.
Cùng với sự biến đổi của nền kinh tế thị trường là sự thay đổi về định
hướng giá trị của con người Việt Nam nói chung và của lứa tuổi thanh niên nói
riêng. Đó là sự thay đổi về cách đánh giá, sự lựa chọn các chuẩn mực xã hội
trong đó có vấn đề việc làm và chọn nghề. Những quan điểm tiêu cực của đời
sống xã hội nảy sinh đã ảnh hưởng rất lớn đến việc định hướng ngành, nghề


cho con cái trong các gia đình. Đặc biệt là một tình trạng không nhỏ những
thanh thiếu niên chưa định hướng rõ mình học cái gì, học ngành gì cho phù hợp
với khả năng của bản thân. Việc chọn nghề của học sinh phổ thông trung học
còn nhiều lệch lạc ở chỗ: nặng về chuộng bằng cấp hình thức để trở thành cử
nhân, kỹ sư, bác sĩ,... theo ý thích chủ quan và cảm tính, có khi theo trào lưu
trước mắt, đua nhau thi vào những trường "đắt giá". Việc chọn nghề như vậy là
thiếu thực tế, không quan tâm đến ngành nghề đó có phù hợp với khả năng hay
trình độ của bản thân hay không.
Trên thực tế cho thấy, lao động việc làm đang trở thành vấn đề nan giải.

Mặt khác quy mô phát triển giáo dục đào tạo hợp lý ở một số ngành như khoa
học cơ bản ngày càng có ít người theo học, trong khi đó một số các ngành khoa
học ứng dụng lại thu hút được khá lớn thanh thiếu niên như tin học, ngoại
ngữ... Hiện tượng này gây nên sự không đồng đều về đội ngũ tri thức của xã
hội, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển, đi lên của đất nước. Đất nước
muốn phát triển phải có định hướng cho thế hệ trẻ khi lựa chọn ngành học, cấp
học. Họ phải chọn những ngành nghề, bậc học sao cho phù hợp với khả năng
và trình độ của bản thân để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Đứng trước vấn đề đó
gia đình, nhà trường, xã hội cần phải quan tâm hơn trong việc giáo dục và
hướng nghiệp cho con cái, trong đó vai trò của cha mẹ là nhân tố quan trọng
hàng đầu. Cha mẹ không những chỉ nuôi dưỡng, giáo dục đạo đức, rèn luyện
nhân cách cho con mà còn định hướng cho con làm những công việc phù hợp
với khả năng của họ. Muốn được như vậy thì người làm cha, làm mẹ phải có
nhận thức đúng đắn đồng thời phải tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc học tập
của con để con mình bước vào xã hội một cách vững vàng.
Chính vì vậy, qua khảo sát tại phường Tràng Tiền - thành phố Hà Nội, tôi
chọn đề tài "Vai trò của cha mẹ trong việc hướng nghiệp cho con ở các gia đình
đô thị hiện nay" để nghiên cứu trong luận văn của mình.
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
2.1. ý nghĩa khoa học :


Giáo dục nói chung và giáo dục gia đình nói riêng được nhiều ngành
nghề khoa học quan tâm nghiên cứu như: Tâm lý học, Giáo dục học, Đạo đức
học. Bên cạnh những ngành khoa học đó thì Xã hội học cũng khẳng định được
vị trí, vai trò của mình với tư cách là một ngành khoa học độc lập trong hệ
thống khoa học xã hội. Theo cách tiếp cận Xã hội học, đề tài nghiên cứu, xem
xét, nhìn nhận vấn đề một cách khoa học để có thể lý giải và chứng minh một
số quan điểm và khía cạnh dưới góc độ xã hội học, phân biệt với cách nhìn của
một số ngành khoa học xã hội khác.

Bằng phương pháp nghiên cứu xã hội học, đề tài nghiên cứu đã góp phần
làm phong phú thêm kho tàng nhận thức lý luận xã hội học, nâng cao nhận thức
về vai trò chức năng của lý thuyết xã hội học cho bản thân và những người
quan tâm. Đồng thời đề tài còn vận dụng một số lý thuyết phạm trù cơ bản của
xã hội học vào nghiên cứu làm sáng tỏ một số khía cạnh về chức năng giáo dục
của gia đình. Cụ thể là vận dụng các lý thuyết xã hội học thực nghiệm để
nghiên cứu các đặc trưng của cha mẹ tác động đến việc hướng nghiệp cho con
cái trong điều kiện hiện nay.
2.2. ý nghĩa thực tiễn :
Vai trò của cha mẹ trong việc hướng nghiệp cho con cái là một vấn đề
nghiên cứu có ý nghĩa xã hội rất lớn. Nó nhằm nâng cao nhận thức của mọi
người, thấy được tầm quan trọng của nghề nghiệp trong cuộc sống.
Đề tài cũng chỉ ra được những khó khăn, hạn chế của các bậc cha mẹ
trong việc định hướng nghề nghiệp cho con cũng như xu hướng biến đổi của
việc lựa chọn nghề nghiệp trong điều kiện hiện nay.
Qua nghiên cứu vai trò của cha mẹ trong việc hướng nghiệp cho con, đề
tài góp phần chỉ ra những nhân tố chủ quan, khách quan, giúp cho các nhà quản
lý, những cơ quan chính quyền sở tại và các cấp, các ngành nên có những chính
sách và giải pháp phù hợp nhằm nâng cao nhận thức của cha mẹ để các bậc cha
mẹ thực hiện tốt vai trò của mình. Nghiên cứu này còn giúp các gia đình, các
bậc cha mẹ có những định hướng đúng đắn để đi đến quyết định lựa chọn nghề
nghiệp cho con một cách hợp lý.


3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu các vấn đề sau:
- Tìm hiểu những mong muốn, dự định của các bậc cha mẹ trong việc
định hướng bậc học và lựa chọn nghề nghiệp cho con cái.
- Tìm hiểu những yếu tố liên quan đến các đặc trưng của các bậc cha mẹ,
gia đình trong việc định hướng bậc học và nghề nghiệp cho con.

- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu rút ra những kết luận và đưa ra giải pháp
nhằm nâng cao nhận thức cho các bậc phụ huynh cũng như bản thân các bạn trẻ
trong việc lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với khả năng của mình và phù hợp
với sự phát triển của xã hội.
4. Đối tượng - phạm vi nghiên cứu và mẫu khảo sát
4.1. Đối tượng nghiên cứu :
Đề tài nghiên cứu tìm hiểu vai trò của cha mẹ trong việc định hướng bậc học
và lựa chọn nghề nghiệp cho con ở các gia đình đô thị trong điều kiện hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu :
Đề tài nghiên cứu 120 hộ gia đình có con đang học phổ thông trung học ở
phường Tràng Tiền - thành phố Hà Nội.
4.3. Mẫu khảo sát :
Mẫu khảo sát tập trung tiến hành tại phường Tràng Tiền ở thành phố Hà
Nội. Mẫu được chọn ngẫu nhiên với cơ cấu mẫu như sau:
• Cơ cấu giới tính:
Nam: 53,6%
Nữ:

46,4%

• Cơ cấu tuổi:
Các bậc cha mẹ được phỏng vấn có độ tuổi từ 39 đến 68 tuổi.
• Cơ cấu trình độ học vấn:
Phổ thông cơ sở:

20,9%

Phổ thông trung học:

16,4%


Trung học chuyên nghiệp:

10,4%

Cao đẳng - Đại học và trên Đại học: 52,3%


• Cơ cấu nghề nghiệp:
Công nhân:

12,4%

Giáo viên:

13,4%

Buôn bán dịch vụ: 16,4%
Kỹ sư:

20,9%

Bác sĩ:

8,5%

Bộ đội, công an:

6,0%


Không nghề:

7,5%

Khác:

14,9%

• Cơ cấu mức sống:
Số gia đình có mức sống khá giả:

22,4%

Số gia đình có mức sống trung bình: 67,2%
Số gia đình có mức sống khó khăn:

10,4%

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận :
Vấn đề nghiên cứu của đề tài được giải thích và chứng minh dựa trên cơ
sở của một số quan điểm lý thuyết sau:
• Quan điểm lịch sử:
Đề tài nghiên cứu vai trò của cha mẹ trong việc định hướng nghề nghiệp
cho con trong điều kiện lịch sử cụ thể cả về thời gian và không gian, gắn liền
với nền văn hóa và điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Nghiên cứu vai trò của cha mẹ trong việc hướng nghiệp cho con cái được
đặt trong thực tại xã hội đô thị trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Đồng thời xem xét đến sự ảnh hưởng của các chính sách giáo dục.
• Quan điểm hệ thống:

Định hướng nghề nghiệp của cha mẹ đối với con cái là một trong những
hoạt động cơ bản của cha mẹ trong việc thực hiện chức năng của thiết chế gia
đình. Vì vậy mà nó có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau với các lĩnh vực
hoạt động khác như: kinh tế, tái sản xuất con người, chăm lo đời sống tinh
thần... Từ đó để thấy được hoạt động này bị ảnh hưởng và tác động như thế nào
trong tổng thể chức năng của gia đình.


• Lý thuyết vai trò:
Vai trò xã hội của cá nhân được xác định trên cơ sở các vị thế xã hội
tương ứng. Nó chính là mặt động của vị thế xã hội vì luôn biến đổi trong xã hội.
Vai trò xã hội là mô hình hành vi được xác lập một cách khách quan căn
cứ vào đòi hỏi của xã hội đối với từng vị thế nhất định để thực hiện quyền và
nghĩa vụ tương ứng với các vị thế đó.
Như vậy vai trò là những đòi hỏi của xã hội đặt ra với các vị thế xã hội.
Những đòi hỏi này được xác định căn cứ vào các chuẩn mực xã hội.
Để cá nhân có thể thực hiện tốt các vai trò thì một mặt các đòi hỏi, chuẩn
mực do xã hội đặt ra phải rõ ràng. Mặt khác cá nhân phải học hỏi về các vai trò
trong quá trình xã hội hóa. [3]
Trong phạm vi gia đình, gia đình là một trong những thiết chế cơ bản của
xã hội. Ngoài việc đảm nhận chức năng tái sản xuất con người, gia đình còn tái
sản xuất cả đời sống tình cảm, văn hóa, tức là xã hội hóa - quá trình biến đứa trẻ
từ một sinh vật người thành con người xã hội. Đặc điểm của quá trình xã hội
hóa là các cá nhân không phải lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội ngay một lúc mà
dần dần. Gia đình là môi trường vi mô có vai trò quan trọng nhất trong giai
đoạn xã hội hóa ban đầu. Nhưng chức năng xã hội hóa của gia đình không chỉ
dừng lại ở giai đoạn xã hội hóa ban đầu mà nó diễn ra trong suốt cả cuộc đời
con người với tư cách là một quá trình liên tục: từ giai đoạn tuổi ấu thơ đến lứa
tuổi thiếu niên, trưởng thành và đến giai đoạn tuổi già, giai đoạn cuối cùng của
chu trình sống. Gia đình có vai trò quan trọng trong việc tổ chức và hướng dẫn

các hoạt động của lớp trẻ. ở lứa tuổi ấu thơ, gia đình giúp trẻ đào luyện các thói
quen. ở lứa tuổi thiếu niên khi các em bước đầu hình thành những giá trị, những
chuẩn mực, thiết lập quan hệ với những người xung quanh, gia đình giúp cho
các em những kinh nghiệm xã hội trong quan hệ ứng xử. ở lứa tuổi trưởng
thành, khi cá nhân phát triển bản sắc cái tôi, hình thành những kinh nghiệm xã
hội ổn định, chuẩn bị bước vào những tổ chức xã hội hay cộng đồng mới. ở giai
đoạn này, nhân cách về cơ bản đã được định hình. Lúc này gia đình giúp các cá
nhân định hướng các vấn đề như: lựa chọn nghề nghiệp (định hướng nghề
nghiệp), lựa chọn lối sống (định hướng giá trị)...


Quá trình xã hội hóa dễ dàng nhận thấy ở những xã hội đang diễn ra sự
biến đổi mạnh mẽ. Xã hội hóa là một chức năng xã hội quan trọng của gia đình.
Nó có vai trò lớn trong việc hình thành nhân cách của thế hệ tương lại. Xã hội
hóa gia đình góp phần tạo ra sự bình ổn của sự phát triển xã hội. [12]
5.2. Phương pháp cụ thể:
Đề tài chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:
5.2.1. Phương pháp phỏng vấn theo bảng hỏi :
Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn 120 hộ gia đình có trẻ em ở độ tuổi
đang học PTTH thuộc phường Tràng Tiền thành phố Hà Nội.
Kết quả điều tra bảng hỏi được xử lý trên máy vi tính theo chương trình
SPSS nhằm xác lập tương quan giữa các dữ liệu được tìm hiểu.
5.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu :
Bên cạnh phương pháp phỏng vấn theo bảng hỏi, đề tài nghiên cứu còn
sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu đối với các bậc phụ huynh dưới hình thức
trò chuyện, xoay quanh vấn đề định hướng bậc học và lựa chọn ngành nghề cho
con cái. Kết quả của phỏng vấn được làm phân tích định tính trong bài viết.
5.2.3. Phương pháp phân tích tài liệu :
Phương pháp phân tích tài liệu được áp dụng để phân tích các tài liệu có
liên quan đến đề tài nghiên cứu, chủ yếu là các tài liệu có liên quan đến vai trò

của cha mẹ và chức năng giáo dục của gia đình. Các tài liệu thu thập được sắp
xếp theo nội dung nghiên cứu.
5.2.4. Phương pháp quan sát :
Trong quá trình phỏng vấn, phương pháp này được áp dụng để quan sát
thái độ của người được phỏng vấn, nhằm đánh giá mức độ tin cậy của thông tin
mà người đó trả lời.
6. Giả thuyết , khung lý thuyết
6.1. Giả thuyết :
- Định hướng bậc học và lựa chọn nghề nghiệp cho con cái hiện nay là
một trong những mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các bậc cha mẹ ở các gia
đình đô thị.


- Hầu hết các bậc cha mẹ đều định hướng cho con học đến đại học và
muốn con mình vào những ngành nghề trong khu vực kinh tế nhà nước như sư
phạm, kỹ sư hay quản trị kinh doanh.
- Các đặc trưng của cha mẹ như trình độ học vấn, nghề nghiệp cũng như
điều kiện kinh tế của gia đình có ảnh hưởng nhất định trong việc định hướng
bậc học và nghề nghiệp cho con cái.
- Trong định hướng bậc học và nghề nghiệp không có sự khác biệt giữa
con trai và con gái.
6.2. Khung lý thuyết :
"Vai trò của cha mẹ trong việc định hướng bậc học và nghề nghiệp cho
con ở các gia đình đô thị hiện nay"
Điều kiện
kinh tế - xã hội

Các đặc trưng của
gia đình và của cha
mẹ

Định hướng bậc học
và nghề nghiệp cho
con
Khung lý thuyết trên được tạo dựng trên cơ sở mô hình lý thuyết mà cụ
thể là lý thuyết vai trò nhằm lý giải vấn đề nghiên cứu và mối liên hệ giữa các
biến số (mối liên hệ giữa nguyên nhân - kết quả) và nó tuân theo quy tắc logic
nhất định. Vấn đề nghiên cứu ở đây là vai trò của các bậc cha mẹ trong việc
định hướng bậc học và nghề nghiệp cho con. Xét trong điều kiện nhất định là
bối cảnh kinh tế - xã hội của đô thị (thành phố Hà Nội) đang trong quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, các đặc trưng của gia đình và của cha mẹ được
coi là biến số độc lập hay được coi là nguyên nhân để dẫn tới kết quả là việc
định hướng bậc học và nghề nghiệp cho con - biến số phụ thuộc. Khung lý


thuyết trên được hình thành trên cơ sở kết hợp các biến số theo nguyên tắc lý
thuyết nhất định nhằm đo lường được mối liên kết giữa các biến số, hay nói
cách khác thông qua việc liên kết các biến số chúng ta xác định được sự thay
đổi của biến số độc lập sẽ có liên quan ở mức độ nào đến sự thay đổi của biến
số phụ thuộc. Kết quả của việc định hướng bậc học và nghề nghiệp cho con
thay đổi dựa vào sự thay đổi của nguyên nhân dựa trên các đặc trưng của gia
đình và của cha mẹ - thông qua các chỉ báo sau:
- Trình độ học vấn của cha, mẹ: bậc học cao nhất mà cha mẹ đạt được.
- Nghề nghiệp của cha, mẹ: công việc chính của cha mẹ tạo ra thu nhập
cho gia đình.
- Định hướng giá trị của cha, mẹ: quan niệm giá trị học vấn và quan niệm
giá trị nghề nghiệp của cha mẹ.
- Mức sống: điều kiện kinh tế của gia đình.
- Mối quan hệ trong gia đình: Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình, giữa vợ - chồng, cha mẹ - con cái...
Trong hệ thống các chỉ báo nêu trên, các đặc trưng của cha mẹ và các đặc

trưng của gia đình có tác động qua lại ảnh hưởng trực tiếp đến nhau.


Phần II: Nội dung chính
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Vấn đề giáo dục và giáo dục trong gia đình đã và đang trở thành mối
quan tâm chung của mọi quốc gia trên toàn thế giới. Thực trạng học tập và nghề
nghiệp của lớp trẻ là một trong những vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Đã có
nhiều cuộc họp, hội nghị ở cấp quốc tế bàn luận về vấn đề này.
Trong phiên họp thứ nhất ủy ban quốc tế vì giáo dục thế kỷ 21 đã bàn về
vai trò của giáo dục, làm sao nâng cao tính hài hòa trong quá trình ngày càng
tăng tính toàn cầu hóa của xã hội loài người. Toàn bộ quá trình giáo dục phải
giúp cho mọi người học cách chung sống với nhau cả về tinh thần lẫn vật chất.
Phiên họp nhấn mạnh "Con người tốt nhất để sống còn đó là học tập, học sống
chung với người khác, học nghe điều người khác nói". Học tập là đặc trưng của
cuộc sống. [9]
Tại đại hội lần thứ 27 của UNESCO, ông đại diện của Tổng giám đốc đã
trình bày những vấn đề lớn của xã hội, trong đó ông chú ý đến tình hình cải
cách hệ thống giáo dục nhằm vào tương lai với trọng tâm là giáo dục cho mọi
người, sau đó là giáo dục nghề, giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học giáo
dục. Ông đặc biệt nhấn mạnh vào vai trò giáo dục thường xuyên, phải biết tập
trung vào giáo dục cho mọi người, tạo mặt bằng dân trí để tăng cường hiệu quả
giáo dục ở thế kỷ 21, nâng cao hiệu quả học tập cho lớp trẻ, thức tỉnh tiềm năng
sáng tạo to lớn của mỗi người, cho phép chúng ta phát triển tiềm năng sẵn có
của bản thân, đóng góp tốt hơn cho xã hội mà chúng ta đang sống.
Hiện nay vấn đề định hướng bậc học và nghề nghiệp không chỉ là vấn đề
riêng của mỗi gia đình mà nó thực sự là vấn đề của cả cộng đồng và mỗi quốc
gia. Vì vậy cha mẹ cần phải có những cách nhìn đúng đắn và thấu hiểu về vấn

đề này để giúp thế hệ trẻ có thể hòa nhập chung được với thế giới.
ở nước ta vấn đề gia đình và giáo dục gia đình ngày càng thu hút được sự
quan tâm chú ý của nhiều ngành nhiều cấp như Viện xã hội học, Trung tâm


nghiên cứu khoa học xã hội... Vì vậy mà đã có nhiều công trình nghiên cứu
khoa học khác nhau về lĩnh vực này:
* Đề tài KX07-09 mang tên "Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình" 1994
của Trung tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ - Nhà xuất bản Khoa học xã
hội có những nội dung chủ yếu sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về xã hội hóa con người, về chức
năng xã hội hóa của gia đình trong lịch sử và hiện đại.
- Phân tích vai trò của giáo dục gia đình trong sự hình thành và phát triển
nhân cách con người Việt Nam.
- Trách nhiệm và những điều kiện, biện pháp chính sách cần thiết nhằm
giúp gia đình làm tròn chức năng của nó.
* Tác phẩm: "Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa" của tác giả
Lê Ngọc Văn đề cập đến vai trò của gia đình trong việc thực hiện chức năng xã
hội hóa giáo dục cho các thành viên.
Các nghiên cứu trên được tiến hành với quy mô rộng lớn cả về phạm vi
nghiên cứu cũng như nội dung nghiên cứu. Đó là vai trò của giáo dục gia đình
nói chung trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam.
Còn nghiên cứu này chỉ tập trung hướng tới một khía cạnh trong giáo dục gia
đình: Vai trò của cha mẹ trong giáo dục tri thức và hướng nghiệp cho con.
Nhìn chung muốn cho đất nước ngày càng phồn vinh, gia đình với tư
cách là nền tảng của xã hội cũng không ngừng phát triển. Vì vậy cần phải có
những nghiên cứu về lĩnh vực này, nhất là vai trò của cha mẹ trong việc định
hướng bậc học và nghề nghiệp cho con cái.
1.2. Hệ thống khái niệm cơ sở
1.2.1 Khái niệm vai trò :

Vai trò là mô hình hành vi được xác lập một cách khách quan căn cứ vào
đòi hỏi của xã hội đối với từng vị thế nhất định để thực hiện quyền và nghĩa vụ
tương ứng đối với các vị thế đó. [3]
Khái niệm vai trò được hiểu gắn liền với một loạt các khái niệm khác:
quy chế, chức năng, nghĩa vụ, quyền... Có thể coi vai trò như tập hợp những


ứng xử của mỗi cá nhân mà người khác chờ đợi. Người ta phân biệt vai trò
được đóng với vai trò được định đóng. Vai trò được đóng biểu hiện thành một
ứng xử, một hoạt động với bên ngoài (VD: cha mẹ chăm sóc con cái, cảnh sát
bắt cướp...). Còn vai trò định đóng chủ yếu nhấn mạnh tới khía cạnh bên trong
của mọi ứng xử, mọi hoạt động (VD: tán thành quan điểm của một người khác).
Nếu vai trò được đóng là đối tượng của Xã hội học thì vai trò định đóng là đối
tượng của Tâm lý học xã hội. Vai trò không phải là một cái gì có sẵn, nó là kết
quả của một quá trình tập luyện của cá nhân, có ý thức hoặc không có ý thức.
Nó gắn liền với quá trình xã hội hóa của mỗi cá nhân. [1]
1.2.2. Khái niệm gia đình :
"Gia đình là nhóm người gắn bó với nhau bằng mối quan hệ hôn nhân,
huyết thống hay là việc nhận con nuôi vừa nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng
tư của họ vừa nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội về về tái sản xuất dân cư theo
cả nghĩa thể xác và tinh thần". [8]
"Gia đình là tế bào của xã hội" [13]. Cách nói này nêu lên được tầm quan
trọng của gia đình đối với xã hội.
Trong gia đình vai trò của cha mẹ đều chiếm một vị trí rất quan trọng. Cả
cha và mẹ đều có vai trò, trách nhiệm trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con. Thiếu một trong hai người thì đều có ảnh hưởng không tốt đến sự phát
triển của trẻ em.
1.2.3. Khái niệm định hướng :
Định hướng là việc hoạch định trước một phương pháp, mục tiêu để thực
hiện nếu không có gì thay đổi. Sự định hướng này đã có sự cân nhắc kỹ lưỡng

trước khi ra quyết định. Mục đích cuối cùng của sự định hướng có đạt được hay
không còn phụ thuộc vào điều kiện khách quan. [14]
1.2.4. Khái niệm giá trị :
Một trong những định nghĩa được chấp nhận rộng rãi trong khoa học xã
hội là coi giá trị như những quan niệm về cái đáng mong muốn ảnh hưởng tới
hành vi lựa chọn. Trong cách nhìn rộng rãi hơn thì bất kỳ cái gì tốt, xấu đều là
giá trị hay giá trị là điều quan tâm của chủ thể.


Vậy giá trị là cái mà ta cho là đáng có, mà ta ưa thích, ta cho là quan
trọng để hướng dẫn cho hành động của ta. Giá trị là cái có thực và tồn tại trong
hiện thực. Giá trị phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng xã
hội, vì vậy phải xem xét giá trị trong những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.
Mỗi xã hội, mỗi nền văn hóa có hệ giá trị khác nhau. Hệ giá trị của một xã hội
là phương hướng phấn đấu cho toàn xã hội. Mỗi cá nhân tùy thuộc vào nhận
thức, v.v... đều có hệ giá trị riêng của mình.
Theo nhà xã hội học Mỹ J.H. Fitcher: "Tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham
chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân hoặc xã hội đều có một giá trị". Có giá
trị vật chất và có giá trị tinh thần. ý nghĩa giá trị thay đổi có tính lịch sử. [4]
1.2.5. Khái niệm định hướng giá trị :
Định hướng giá trị là sự thừa nhận, lựa chọn của cá nhân hay cộng đồng
về một giá trị hay hệ thống giá trị nào đấy. Định hướng giá trị là cơ sở bên
trong của hành vi, quyết định lối sống của cá nhân. [4]
1.2.6. Khái niệm nghề nghiệp :
- "Nghề: Công việc chuyên làm theo sự phân công của xã hội".
"Nghề nghiệp" là nghề nói chung. [14]
- "Nghề: Công việc hàng ngày làm để sinh nhai"
"Nghề nghiệp: là nghề làm để mưu sống". [8]
1.2.7. Khái niệm bậc học :
Trong mỗi quốc gia bao giờ cũng có một hệ thống giáo dục nhất định. ở

Việt Nam, hệ thống giáo dục được chia theo cấp bậc khác nhau:
+ Bậc tiểu học: Từ lớp 1 đến lớp 5
+ Bậc trung học cơ sở: Từ lớp 6 đến lớp 9
+ Bậc phổ thông trung học: Từ lớp 10 đến lớp 12
+ Bậc trung học chuyên nghiệp
+ Bậc cao đẳng - đại học
+ Bậc trên đại học


chương 2: kết quả nghiên cứu- những kết luận và khuyến nghị

2.1. Kết quả nghiên cứu
2.1.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu :
• Điều kiện địa lý, dân số:
Là một phường nằm trên địa bàn trung tâm của thành phố, phường
Tràng Tiền có diện tích 0,386 km 2. Trên địa bàn phường có gần 200 cơ quan
đơn vị của Trung ương, Thành phố và nhiều nhà hàng, khách sạn, đại sứ quán
và văn phòng đại diện của các nước. Có hầu hết các loại hình kinh doanh, dịch
vụ do đó lưu lượng khách qua lại địa bàn đông.
Cơ cấu diện tích đất đai ít biến động qua các năm


Diện tích đất cơ quan chiếm

50,53%



Diện tích đất giao thông chiếm


34,59%



Diện tích đất ở chiếm

14,19%



Diện tích đất của các di tích văn hóa lịch sử chiếm



Diện tích đất phục vụ an ninh quốc phòng chiếm 0,23%

0,46%

Về dân số: Địa bàn dân cư chia làm 7 khu phố với 60 tổ dân phố. Số nhân
khẩu thực tế của phường là 6517 nhân khẩu (theo số liệu điều tra dân số ngày
1/4/1999) với 1727 hộ. Qua 10 năm (so với số liệu điều tra năm 1989) dân số
hầu như không đổi (chỉ tăng 137 người)
• Về cơ cấu lao động:
Số người trong độ tuổi lao động là 3933 người chiếm 60,34%. Chủ yếu là
cán bộ công nhân viên Nhà nước ngoài ra là lao động thương mại dịch vụ
chiếm tỷ lệ khoảng 30%.
• Về cơ cấu hành chính:
Phường có hội đồng nhân dân phường, có ủy ban nhân dân phường. Bên
cạnh đó còn có Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể thành viên như: Hội
Phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Người cao tuổi,

Hội chữ thập đỏ, Ban Thanh tra nhân dân, Chi hội luật gia.
• Về văn hóa:


Phường đã thực hiện thành công cuộc vận động "xây dựng nếp sống văn
minh, gia đình văn hóa". Tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 96% năm 2000. Các tổ dân
phố đã triển khai và thực hiện qui ước về việc cưới, tang, mừng thọ, lễ hội, theo
nếp sống văn minh.
Trên địa bàn phường có 2 viện Bảo tàng: Viện bảo tàng Lịch sử và viện
Bảo tàng cách mạng đã được tiến hành tôn tạo.
• Về giáo dục- đào tạo:
Đến hết năm 1999 toàn phường đã đạt phổ cập giáo dục cấp trung học cơ
sở. Số cháu trong độ tuổi mẫu giáo đến lớp đạt 68,4%. Trẻ 6 tuổi vào lớp 1 hàng
năm đạt tỷ lệ gần 100%.
Trên địa bàn phường có trường PTTH Trần Phú với tỷ lệ tốt nghiệp hàng
năm đạt từ 98-99%. Trường tiểu học, THCS Trương Vương với truyền thống
học tốt dạy tốt hàng năm thu hút hàng nghìn học sinh theo học.
Phường có khoảng 3000 trẻ em trong độ tuổi 1- 18. Dưới sự chỉ đạo của
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, hàng năm các em được tham gia vào câu lạc bộ văn
hóa, thể dục thể thao của phường với các hình thức vui chơi giải trí đa dạng,
lành mạnh: ca múa nhạc, thể dục thể thao, đi tham quan picnic...
Về trình độ dân trí: Là phường trung tâm, có trình độ dân trí cao. Số
người có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học và được đào tạo nghề chiếm tỷ
lệ khá cao, bên cạnh đó số lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ khoảng 20%.
• Các vấn đề xã hội:
Địa bàn phường có nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ... nên mật độ
người qua lại đông, từ đó phát sinh nhiều vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự. Hệ
thống cơ sở hạ tầng đã cũ và xuống cấp làm ảnh hưởng tới đời sống và sinh
hoạt của nhân dân. Do phường không có điều kiện giải quyết việc làm tại chỗ
nên nhiều người có nhu cầu lao động nhưng không xin được việc đã lấn chiếm

vỉa hè, lòng đường để bán hàng. Việc duy trì và thực hiện nghị định 36CP gặp
nhiều khó khăn.
2.1.2. Vai trò của cha mẹ trong việc định hướng bậc học cho con trong
các gia đình đô thị hiện nay :


Mỗi chúng ta khi sinh ra ai cũng có một mái ấm gia đình, có một người
cha, một người mẹ, những người nuôi dưỡng chăm sóc ta bữa ăn giấc ngủ. Khi
ta lớn lên đến tuổi cắp sách tới trường thì vấn đề học tập của con cái là một
trong những mối quan tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ. Bất cứ bậc làm cha,
làm mẹ nào cũng muốn tương lai con em mình tốt đẹp... Ngoài việc rèn luyện,
tu dưỡng về đạo đức, nhân cách thì học tập là yếu tố không thể thiếu được trong
quá trình hoàn thiện của mỗi cá nhân. Chỉ có học tập tốt mới có được một vị trí,
một chỗ đứng trong xã hội vững vàng. Từ đó mới có thể thăng tiến được trong
xã hội và có những công việc phù hợp với khả năng của mình, phát huy được
năng lực và góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Và để học
tập tốt thì sự quan tâm giúp đỡ của cha mẹ là một điều hết sức quan trọng.
Thời đại ngày nay là thời đại của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy
xã hội đang đòi hỏi có những nhà khoa học, nhà kỹ thuật, những chuyên gia có
tài năng, những chính trị gia linh hoạt, những nhà kinh doanh, nhà quản lý giỏi
và đội ngũ lao động có tay nghề cao. Một xã hội văn minh, hiện đại thì tương
ứng với nó con người phải có trình độ học vấn tiếp thu từ gia đình, nhà trường
và xã hội. Để thực hiện được mục tiêu cụ thể của xã hội xã hội chủ nghĩa là:
"Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" thì chúng ta cần nhận thức
rõ vai trò quan trọng của tri thức khoa học. Khi khoa học đã trở thành lực lượng
sản xuất chủ yếu thì trí tuệ là nguồn sức mạnh chiếm lĩnh vực những vị trí
quyết định trong quá trình sản xuất, quá trình kinh doanh và quản lý xã hội.
Phải có trình độ tri thức thì mới có thể áp dụng được khoa học và công nghệ
hiện đại vào trong sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Chính
vì vậy mà học vấn có vai trò quan trọng và đó là con đường ngắn nhất để dẫn

đến sự thành công.
Xuất phát từ những nhu cầu thực tế xã hội ở trên mà việc định hướng bậc
học cho con của các bậc cho mẹ cũng có sự khác nhau tùy thuộc vào nhận thức,
quan điểm của từng người cũng như điều kiện sống của mỗi gia đình. Điều này
được thể hiện ở các vấn đề sau:
Qua nghiên cứu tại địa bàn Hà Nội cho thấy người dân Hà Nội đang quay
trở lại với việc đề cao giá trị học vấn thay vì đề cao quan niệm "học cao không


bằng đi buôn". Sự thay đổi nhận thức này xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi thực tế
của một xã hội phát triển là cần phải có một đội ngũ lao động có kiến thức, có
trình độ và tay nghề cao. Và người dân ý thức được rằng khả năng kiến tạo
công ăn việc làm của con em họ phụ thuộc phần nhiều vào việc đầu tư, chăm
sóc và giáo dục học hành cho con cái. Tương lai của con cái phụ thuộc rất nhiều
vào sự quyết định của cha mẹ. Kết quả học tập hay việc lựa chọn ngành học của
họ có tốt và phù hợp hay không là còn do những ảnh hưởng nhất định từ phía
cha mẹ. Từ những nhận thức khác nhau về học vấn mà các bậc phụ huynh có
những quan niệm khác nhau.
Bảng 1 : Quan niệm về học vấn của cha mẹ (%)
Quan niệm của cha mẹ

Tần số (người)

Tần suất (%)

Rất quan trọng

42

35


Quan trọng

45

37,5

Bình thường

27

22,5

Không quan trọng

6

5

120

100

Tổng

Qua bảng số liệu trên cho thấy tỷ lệ số người trả lời vấn đề học tập của
con cái là rất quan trọng, quan trọng chiếm rất cao. Điều đó chứng tỏ các bậc
phụ huynh đã nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập. Chỉ có con
đường học hành mới giúp con cái họ có một nghề nghiệp ổn định, một chỗ
đứng vững vàng trong xã hội. Quan niệm ở đây còn được hiểu là đơn vị đo của

nhận thức, là sự chuẩn bị những hành vi thực tiễn. Vì vậy mà quan niệm của
các bậc phụ huynh về vấn thể hiện qua chính những dự định mong muốn cho
con cái của mình học đến bậc nào.
Hầu hết, cha mẹ ở thành phố sẵn sàng đầu tư cho con học hết khả năng
của mình, mong muốn con học giỏi, thi đỗ vào các trường chất lượng cao, có uy
tín... nên đã cố gắng đầu tư về vật chất một cách tốt nhất để con có điều kiện
học hành, có được tri thức hiểu biết. Khi được hỏi: Ông (bà) đã đầu tư những
phương tiện học tập nào cho con? Ông N. phường Tràng Tiền đã trả lời: "...Gia
đình tôi đã tạo điều kiện tốt nhất ở mức có thể cho việc học tập của nó. Chúng
tôi đầu tư cho việc học tập của con ngay từ những ngày đầu mới vào cấp III, tìm


lớp tìm thày giỏi để gửi con vào học, thậm chí mời thày về nhà dạy riêng. Gia
đình có máy vi tính và thường xuyên mua sách nâng cao, sách tham khảo chỉ
mong cho con có kết quả học tập tốt..." [Phỏng vấn sâu số 1]. Bên cạnh đó cũng
có những gia đình khó khăn, việc đầu tư cho con cái học tập chiếm một phần
rất lớn trong tổng chi tiêu của gia đình. "... Chi phí cho học tập của con cái
chiếm gần một nửa so với tổng chi tiêu trong gia đình. Tuy vậy tôi cũng cố
gắng chắt bóp, nhịn ăn, nhịn mặc một chút để nó học hành đến nơi đến chốn"
[Phỏng vấn sâu số 2]. Đó là sự hy sinh lớn lao đáng được trân trọng của các bậc
cha mẹ khi đã tạo mọi điều kiện cho con em mình học tập.
Song dường như vẫn tồn tại một nghịch lý thể hiện ở thái độ đầu tư của
cha mẹ cho việc học tập của con cái. Có một số ít những gia đình khá giả thì
trường học không thực sự trở thành nơi thu hút sự đầu tư của cha mẹ. Với vị trí
thuận lợi là có nhà mặt đường để mở cửa hàng buôn bán, những gia đình này
thay vì khuyến khích cho con cái học lên cao họ lại có những tính toán thực
dụng hơn, ngầm "ủng hộ" con cái bỏ học để đi làm kiếm tiền. "... Thằng út nhà
tôi năm nay hết cấp III mà chẳng thấy nó học hành gì, suốt ngày ở ngoài đường
thôi. Xét cho cùng học hành cũng chỉ là để sau này kiếm tiền nuôi thân chứ làm
gì. Nhà tôi 3 đời sống bằng nghề buôn bán kinh doanh này rồi, được cái nhà ở

mặt đường nên làm ăn cũng thuận lợi. Tôi tính để nó tốt nghiệp xong rồi phụ
giúp gia đình trông coi cửa hàng. Có khi ở nhà tu chí làm ăn thì lại ngoan chứ
đến trường, bạn bè lôi kéo đâm ra hư hỏng..." [Phỏng vấn sâu số 5]. Trong khi
đó không ít những gia đình khó khăn lại cố gắng cho con ăn học. Tâm lý và
nguyện vọng chung của họ là muốn con mình có tương lai tốt đẹp bằng con
đường học hành.
Cùng với việc đầu tư về vật chất, một yếu tố nữa không kém phần quan
trọng là thời gian mà các bậc phụ huynh dành để quan tâm đến việc học hành
của con. Mức độ quan tâm của các bậc cha mẹ ở phường Tràng Tiền với việc
học tập của con cái được thể hiện qua bảng 2.
Bảng 2 : Mức độ quan tâm của cha mẹ đối với việc học tập của con (%)
Mức độ quan tâm

Tần số (người)

Tần suất (%)


Thường xuyên

65

54,2

Thỉnh thoảng

43

35,8


Không bao giờ

12

10

Tổng

120

100

Theo số liệu ở bảng trên ta nhận thấy trong giai đoạn kinh tế thị trường
ngày nay tuy các gia đình đầu tư nhiều thời gian vào việc lo làm giàu, lo đáp
ứng nhu cầu vật chất nhưng số đông các bậc cha mẹ vẫn dành thời gian để quan
tâm đến việc học hành của con. Mặc dù đối với học sinh phổ thông trung học
thì sự quan tâm của cha mẹ đến vấn đề học tập của con cái chỉ ở mức độ nhắc
nhở, đôn đốc con học hành chứ không kèm cặp, chỉ bảo cụ thể như đối với học
sinh cấp dưới. Sự quan tâm ấy ở mức độ thường xuyên chiếm tỷ lệ cao nhất
(54,2%), mức độ thỉnh thoảng chiếm tỷ lệ thấp hơn (35,8%), và không bao giờ
quan tâm tới việc học của con chiếm tỷ lệ rất ít (10%). Sự quan tâm của các bậc
cha mẹ ở mức độ "thỉnh thoảng" cũng khá cao vì ở bậc PTTH họ coi con cái
mình đã trưởng thành, muốn để con được tự chủ, tự giác trong học tập. Tuy
chưa phải 100% các bậc cha mẹ đều luôn quan tâm đến việc học hành của con
song với mức độ quan tâm thờng xuyên như trên đã cho chúng ta thấy ở một
chừng mực nào đó truyền thống coi trọng học vấn của người dân Hà Nội vẫn
còn tồn tại mặc dù bên cạnh đó vẫn có những tư tưởng sai lệch về vấn đề này.
Con cái là niềm tự hào của cha mẹ, việc đầu tư cho con về mặt vật chất ở mỗi
gia đình là khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế nhưng sự quan tâm mà
bất kỳ bậc làm cha làm mẹ nào cũng có thể đó là việc dành thời gian để quan

tâm tới việc học tập của con.
Bên cạnh đó 35,8% chỉ thỉnh thoảng mới chú ý tới việc học hành của con
và số rất ít không bao giờ quan tâm đến việc học hành của con cái. Liệu có phải
sự quan tâm của các bậc phụ huynh này chỉ ở nghĩa vụ bắt buộc, phải chăng họ
không lo lắng cho tương lai của con em họ? Khi tìm hiểu vấn đề này được biết:
"Con trai tôi học đến cấp III rồi nên giờ giấc học tập của nó để nó tự giác là
chính... Không phải tôi không quan tâm đến việc giáo dục con cái nhưng công
việc bán hàng bận rộn từ sáng sớm đến tối, nhà lại chỉ có hai mẹ con nên không
thể bảo ban, đôn đốc việc học cho nó được..." [Phỏng vấn sâu số 3]. Qua ý kiến


trên chúng ta thấy các bậc cha mẹ không phải là không quan tâm tới việc học
của con nhưng do hoàn cảnh gia đình nên việc quan tâm còn bị hạn chế. Theo
kết quả điều tra thì đối với những gia đình có cha mẹ làm cán bộ viên chức nhà
nước, mức độ quan tâm tới việc học tập của con thường xuyên hơn so với
những gia đình làm nghề buôn bán - dịch vụ. Bởi lẽ tính chất công việc buôn
bán đòi hỏi có nhiều thời gian chứ không chỉ đi làm 8 tiếng như cán bộ, viên
chức nhà nước nên thời gian dành cho con cái bị hạn chế là điều tất yếu. Đặc
biệt đối với những gia đình thiếu khuyết do cha mẹ chia tay hay do mất mát
một trong hai người thì việc quan tâm chăm sóc đương nhiên là thiếu hụt không
đầy đủ như những gia đình bình thường. Nhìn chung, các bậc cha mẹ luôn quan
tâm, lo lắng cho tương lai của con. Điều đó thể hiện qua những mong muốn, dự
định bậc học của cha mẹ đối với con cái.
Về dự định bậc học cho con cái, số đông trong các gia đình ở phường
Tràng Tiền, các bậc cha mẹ đều mong cho con mình có trình độ cao, đạt đến
bậc học có thể tham gia tốt vào thị trường lao động trong xã hội công nghiệp
(Xem biểu đồ 1).
80%

72.8%

68.1%

70%
60%
50%
40%
30%

18.0%

20%

11.5%
10%

3.9%5.8%

11.8%
8.1%

0%
Trªn §H

Con trai
Con gái

C§-§H

THCN


PTTH


Biểu đồ 1: Dự định bậc học cho con cái (%)

Biểu đồ trên cho chúng ta thấy phần lớn các bậc cha mẹ đều muốn con
mình học đến bậc đại học - cao đẳng, chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn so với các bậc
học khác. Điều đó chứng tỏ trong các gia đình đô thị hiện nay, hầu hết các bậc
cha mẹ đã nhận thức được giá trị và tầm quan trọng của học vấn đối với con
cái. Mặt khác điều kiện về kinh tế - xã hội ở đô thị khác so với nông thôn nên
cha mẹ nào cũng muốn con mình học đến bậc đại học để có được kiến thức, để
sau này xin việc và không phải làm những công việc nặng nhọc. Kiến thức
cũng là của cải quý giá mà bố mẹ để lại cho con cái. Muốn có cuộc sống tương
lai tốt thì cần phải có kiến thức. Những gia đình biết rõ thực lực của con nên
không hướng con theo học tiếp. "... Con gái tôi năm nay học lớp 12, khả năng
của con tôi khó mà thi đỗ được đại học... Mong muốn là một chuyện nhưng
cũng phải tính đến chuyện xin việc mà tôi thì không quen biết rộng, thôi thì để
nó tốt nghiệp xong rồi giúp bố mẹ bán hàng ở nhà vậy..." [Phỏng vấn sâu số 4].
Tuy nhiên tỷ lệ không hướng con theo học tiếp chiếm rất ít: 8,1% với con trai
và 11,8% với con gái. Biểu đồ trên còn cho thấy có một số cha mẹ định hướng
cho con vào các trường trung học chuyên nghiệp, chiếm 18,0% với con trai và
1,5% với con gái. Sở dĩ tỷ lệ của con trai cao hơn con gái ở bậc PTCN là vì cơ
cấu các trường THCN ở Hà Nội chủ yếu là các trường đào tạo về cơ khí máy
móc, chỉ phù hợp với khả năng của con trai. Và có cha mẹ muốn con học bậc
trên đại học chiếm tỷ lệ 3,9% với con gái và 5,8% với con trai. Việc dự định
cho con học cao như vậy xác định tư tưởng của cha mẹ là muốn con có học
hàm, học vị cao để sau này con đường tiến thân dễ dàng. Trong xã hội hiện đại,
những người tài giỏi rất được trọng dụng, không phân biệt giới tính. Tư tưởng
"trọng nam khinh nữ" đã dần được xóa bỏ trước những đòi hỏi về tri thức, vai
trò của người phụ nữ ngày càng được đề cao. Bởi vậy mà trong việc định hướng

bậc học cho con cha mẹ không có sự phân biệt giữa con trai và con gái. Mong
muốn của cha mẹ là con cái được thành đạt nên với những gia đình có học đại
học, trên đại học thì cha mẹ cảm thấy rất mãn nguyện và đáng tự hào. Cũng
chính bởi những mong muốn như vậy mà đôi khi việc định hướng bậc học cho


con mang tính hình thức, sĩ diện đã tạo ra một sức ép quá tải cho con. Vì vậy
nhiều học sinh phổ thông trung học hiện nay chưa có động cơ học lên, thể hiện:
các em chưa có khát vọng, hoài bão vươn lên trong học tập, chưa có mục đích
học tập rõ ràng. Thực tế nhiều bậc cha mẹ chưa quan tâm tới việc hình thành ở
con nhu cầu hiểu biết, động cơ học không ngừng để tự khẳng định mình, giúp
con có phương pháp và kỹ năng tự học, biến các thông tin thu được thành tri
thức của bản thân.
Nhìn chung qua những phân tích ở trên chúng ta thấy rằng cha mẹ hiện
nay có mong muốn và dự định cho con học đại học không phân biệt đó là con
trai hay gái. Xu hướng nhận thức của các bậc cha mẹ về tầm quan trọng của
học vấn ngày càng theo chiều hướng tích cực. Họ hiểu rằng chỉ có học tập mới
giúp con họ có tương lai tốt đẹp, cuộc sống vững vàng hơn với nghề nghiệp sau
này. Song vấn đề nhận thức về việc định hướng bậc học cho con còn phụ thuộc
vào trình độ học vấn của các bậc cha mẹ
Trình độ học vấn của cha mẹ cao hay thấp có ảnh hưởng nhất định đến
việc dự định bậc học cho con (xem bảng 3)
Bảng 3. Dự định bậc học cho con gái xét theo học vấn của cha mẹ (%)
Dự định bậc
học cho con
Học vấn của
cha mẹ

CĐ- ĐH- trên ĐH
THCN

PTTH
PTCS

Trên ĐH

CĐ- ĐH

THCN

PHTH

8,4
1,3
1,4
0

83,7
72,0
70,6
71,9

6,7
18,9
21,1
20,7

1,2
7,8
6,9
7,4


Bảng 4: Dự định bậc học cho con trai xét theo học vấn của cha mẹ (%)
Dự định bậc
học cho con
Trên ĐH
Học vấn
của cha mẹ
CĐ- ĐH- trên ĐH
8,7
THCN
1,1
PTTH
1,3
PTCS
0,2

CĐ- ĐH

THCN

PHTH

82,4
67,2
63,1
68.0

7,9
24,3
28,5

25,6

1,0
7,4
7,1
6,2


Qua hai bảng số liệu trên để nhận thấy học vấn của các bậc cha mẹ khác
nhau để ảnh hưởng tới việc định hướng bậc học cho con cái cũng khác nhau.
Nhóm cha mẹ có trình độ học vấn cao (cao đẳng- đại học và trên đại học)
thường có dự định cho con học đại học và trên đại học. Họ nhận thức được rõ
tầm quan trọng của việc học tập, họ hiểu được rằng ở bậc đại học con cái họ
tiếp thu những kiến thức rất quan trọng phục vụ cho cuộc sống sau này. Chính
vì vậy họ biết cách truyền đạt những kiến thức của mình cho con và tạo điều
kiện thuận lợi để con học tập đạt kết quả tốt. Còn đối với nhóm cha mẹ có trình
độ học vấn thấp thì việc định hướng bậc học cho con cái có nhiều hạn chế do
thiếu hiểu biết, nhận thức chưa đúng đắn về vấn đề học tập.
Qua bảng số liệu trên ta thấy tỷ lệ dự định cho con học cao đẳng, đại học
tăng dần lên từ những bâc cha mẹ có trình độ học vấn thấp đến những bậc cha
mẹ có học vấn cao. Điều này cho ta thấy cha mẹ có trình độ học vấn cao thì
mong muốn, dự định cho con học cao. Họ nhìn thấu đáo được vấn đề học tập có
ảnh hưởng rất lớn đến tương lai, nghề nghiệp của con cái sau này như thế nào.
Còn những bậc cha mẹ có trình độ hoc vấn thấp do hạn chế hiểu biết nên đôi
khi nghĩ rằng học cao chẳng để làm gì, ra trường chưa chắc đã xin được việc.
Chính suy nghĩ tiêu cực đó lại có ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của con
cái, hình thành nên trong đầu óc con em họ những quan niệm sai lệch về vấn đề
học tập. Nhóm cha mẹ có trình độ đại học và trên đại học dự định cho con học
đến bậc đại học chiếm tỷ lệ cao nhất (83,7% đối với con gái, 82,4% đối với con
trai) và rất ít người trong số họ chỉ dự định cho con học chỉ hết PHTH (1,2%

với con gái và 1,0% với con trai). Nhóm cha mẹ có trình độ học vấn phổ thông
dự định cho con vào đại học là thấp hơn cả so với những nhóm khác (70,6% đối
với con gái 63,1% đối với con trai). Tuy nhiên tỷ lệ đó không quá chênh lệch so
với các nhóm khác. Điều đó càng chứng tỏ rằng nhận thức của các bậc cha mẹ
về vấn đề học tập của con cái theo chiều hướng tích cực ngày càng tăng. Những
gia đình mà cha mẹ có trình độ học vấn cao thì điều kiện kinh tế gia đình cũng
có thể đáp ứng được đối với việc cho con theo học, tạo điều kiện thuận lợi cả về
vật chất, thời gian cũng như truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm học tập
cho con. Còn những bậc cha mẹ có trình độ học vấn thấp thì thường gắn với cái


nghèo, nghèo về kiến thức, nghèo về kinh tế và như vậy họ cũng gặp rất nhiều
khó khăn khi cho con theo học. Họ băn khoăn tính đến chuyện có lo đủ tiền cho
con học được không, liệu có xin được việc hay không. Nhiều bậc cha mẹ mải lo
làm ăn buôn bán, vất vả lo cho cuộc sống của gia đình mà quên đi trách nhiệm
rất quan trọng là quan tâm tới việc học tập của con cái. So sánh bảng 3 và 4 ta
cũng nhận thấy các nhóm cha mẹ dù ở trình độ học vấn nào cũng không có sự
phân biệt giữa con trai và con gái. Họ đều nhận thức được rằng con trai hay con
gái cũng cần phải có học vấn.
Nói tóm lại: Các bậc cha mẹ tuy ở những nhóm học vấn khác nhau
nhưng đều có những dự định cho con ở những bậc học cao. Bên cạnh đó có một
số ít các bậc cha mẹ do nhận thức hạn chế nên có cách nhìn sai lệch và có
những tư tưởng không tốt đối với vấn đề cấp học của con cái.
Một yếu tố không kém phần quan trọng có ảnh hưởng đến việc dự định
bậc học cho con cái đó là nghề nghiệp của cha mẹ.
ở các nghề nghiệp khác nhau cha mẹ có sự định hướng bậc học cho con
cái cũng khác nhau. Do ảnh hưởng của yếu tố nghề nghiệp mà bên cạnh những
tác động tích cực cũng có những tác động tiêu cực đối với việc học tập của con.
Chúng ta xem bảng 5



×