Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận môn lịch sử báo chí việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.41 KB, 32 trang )

PHẦN I:LỜI MỞ ĐẦU
Bộ môn lịch sử báo chí Việt Nam cũng giống như những nhánh khác
của lịch sử nói chung như lịch sử văn học ,lịch sử các sự kiện kinh tế ,lịch
sử các phong trào xã hội ,nó không thể tạo dựng và lý giải nếu không tham
chiếu thường xuyên đến sự tiến hóa tổng quát của các xã hội ,mà trong tất
cả các đề tài nghiên cứu lịch sử ,tờ báo có lẽ là thứ liên quan mật thiết nhất
đến tình hình chính trị ,kinh tế ,đến tổ chức xã hội và trình độ văn hóa của
đất nước và thời đại mà nó phản ánh .Lịch sử báo chí Việt Nam còn là một
khoa học bổ trợ cho lịch sử hiện đại và đương đại .Là tư liệu lưu trữ hàng
ngày ,các báo là nguồn đầy đủ nhất và do tính muôn hình muôn vẻ của nó
là nguồn khách quan nhất của lịch sử nói chung ,là nhân chứng và là người
trong cuộc của đời sống quốc gia ,báo chí là những tư liệu phong phú vô
kể nó dựng lại đời sống báo chí một thời đã qua ,biết bao thăng trầm nhưng
những gì mà một thời đã qua với những sự kiện nóng hổi của một thời quá
khứ và cả những mối quan tâm hàng ngày của các thế hệ xa xưa cùng sự
say mê của các nhà báo .
Đồng thời trang bị những kiến thức cơ bản đối với sinh viên chuyên
ngành báo chí có cái nhìn tổng quan về quá trình hình thành và phát triển
của báo chí Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử .Giúp sinh viên thấy được
lịch sử báo chí như một bộ phận của lịch sử dân tộc .Gắn liền với sự phát
triển của báo chí Việt Nam là sự phát triển về tư tưởng ,văn hóa ,ngôn ngữ
ở mỗi thời kỳ lịch sử báo chí đều có những dấu ấn riêng biệt.
Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã
hội, nghề nghiệp, là diễn đàn tin cậy của nhân dân. Báo chí tuyên truyền,
phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản ánh nguyện
vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Báo chí cũng là một vũ khí sắc
bén chống lại kẻ thù của nhân dân. 84 năm qua, kể từ số báo Thanh niên
đầu tiên (21/6/1925), báo chí Việt Nam không ngừng phát triển phong phú

1



và đa dạng. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
dân tộc ta Báo chí có vai trò đặc biệt trong đời sống chính trị-xã hội; báo
chí cách mạng là công cụ cực kỳ quan trọng để vận động, tổ chức, tập hợp
lực lượng cách mạng và là vũ khí đấu tranh sắc bén chống chế độ áp bức,
thực dân, thúc đẩy quá trình vận động cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo chí nước ta đã tham gia tích cực vào
cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từ trong máu lửa của các cuộc
kháng chiến, hàng trăm nhà báo-chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trên chiến
trường, góp phần tô thắm trang sử vẻ vang của báo chí cách mạng Việt
Nam và dân tộc Việt Nam.Bước vào thời kỳ đổi mới, báo chí nước ta tiếp
tục có những đóng góp quan trọng trong việc tuyên truyền, tổ chức và vận
động thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, tạo bầu không khí dân chủ, cởi
mở trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại...Các nhà
báo đã bám sát thực tế, thông tin kịp thời và phân tích sâu sắc những sự
kiện mới, phát hiện và phản ánh trung thực những điển hình tiên tiến, cổ vũ
nhân tố mới, dũng cảm đấu tranh chống những biểu hiện trì trệ, tiêu cực; đề
xuất phương hướng giải quyết những vấn đề thiết thực mà xã hội quan tâm,
đóng góp xứng đáng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của
công cuộc đổi mới.

PHẦN II: PHÁC THẢO DIỆN MẠO CƠ BẢN
CỦA BÁO CHÍ TỪ NĂM (1954-1975)

1.Bối cảnh lịch sử
1.1: Tình hình thế giới
Trên vũ đài chính trị quốc tế những năm sau chiến tranh thế giới lần
thứ II, một hệ thống xã hội mới xuất hiện với hàng loạt nước dân chủ nhân
dân chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội mà Liên Xô là một

hình mẫu lớn. Năm 1949 được coi là năm quyết định của quá trình thay đổi
2


căn bản tình hình thế giới sau đại chiến với việc Liên Xô phá vỡ độc quyền
hạt nhân của Mỹ, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ra đời. Cán cân so
sánh lực lượng trên thế giới nghiêng hẳn về phía các nước chống chủ nghĩa
đế quốc.
Thế giới tiến bộ và cách mạng từ cuối thập kỷ 50 đầu thập kỷ 60
bước vào thời kỳ phát triển với thế và lực mới của mình trong đó Liên Xô
là người có công đầu trong việc kiến thiết và gìn giữ hòa bình. Nhưng lúc
ấy châu Âu đã bị chia làm đôi, cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu, hệ thống xã
hội mới ra đời cũng bước vào thời kỳ đối đầu với chủ nghĩa đế quốc.Cũng
sau chiến tranh thế giới lần II, phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ
La-tinh phát triển thành cơn bão táp cách mạng, phá vỡ từng mảng thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc. Những cuộc đấu tranh vũ trang, những lực
lượng tiến và cách mạng chiếm ưu thế trong dân tộc, xu hướng độc lập dân chủ - hòa bình - trung lập… Đó là những nét mới trong tiến trình phát
triển của phong trào.
Các nước Việt Nam, Cu Ba là những ngọn cờ đầu trong phong trào giải
phóng dân tộc, sau khi giành được độc lập đã tiến thẳng lên CNXH không
qua giai đọan phát triển TBCN.
Chiến tranh thế giới qua đi, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, nhiều
nước đế quốc, cả thắng trận và bại trận bị tàn phá nghiêm trọng, nhưng đế
quốc Mỹ lại trở nên giàu có hơn bao giờ hết. Là một trong những nước lớn
góp phần quyết định vào thắng lợi của phe Đồng minh trong chiến tranh,
lại là nước giàu mạnh nhất sau chiến tranh, Hoa Kỳ đã giương lên ngọn cờ
sen đầm quốc tế và muốn áp đặt tự do kiểu Mỹ ở khắp nơi trên thế
giới.Chiến lược toàn cầu của Mỹ phản ánh một tham vọng muốn xác lập
sức mạnh của đế quốc Hoa Kỳ trên tất cả mọi khu vực của thế giới. Mục
tiêu trong các kế hoạch chiến lược của Mỹ lúc này là:

Tiêu diệt chủ nghĩa xã hội trọng tâm là Liên Xô và các nước Đông Âu
Dập tắt phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ La-tinh trọng tâm là
3


Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á và Cu Ba trong khu vực Mỹ La-tinh.
Lôi kéo, khống chế các nước đồng minh trọng tâm là Tây Âu - Nhật Bản.
Chiến lược toàn cầu của Mỹ sử dụng 3 phương thức chủ yếu: chiến tranh
lạnh, chạy đua vũ trang và thực hiện chủ nghĩa thực mới… Chiến tranh
lạnh, chạy đua vũ trang và chạy đua vũ trang tạo ra sự đối đầu giữa hai hệ
thống thế giới, Mỹ sẽ lôi kéo các nước phe Mỹ vào cuộc chiến chống Liên
Xô và phe xã hội chủ nghĩa; chủ nghĩa thực dân mới sẽ thay thế lối thống
trị thuộc địa mà phương Tây nay đã lỗi thời.
Ba chỗ dựa trọng yếu của chiến lược toàn cầu của Mỹ lúc này là:
Viện trợ kinh tế - quân sự - xây dựng hệ thống liên minh phòng thủ - củng
cố lực lượng quân sự mạnh. Sau kế hoạch Marshall chi 50 tỷ dollar vào
việc phục hồi các nước tư bản, Mỹ tiếp tục đẩy mạnh viện trợ cho các
nước, tính bình quân mỗi năm trong thời kỳ 8 năm 1953 - 1960 là 5 tỷ
dollar. Trong đó số viện trợ quân sự gần 3 tỷ dollar với tỷ lệ theo ưu tiên
cho các khu vực là: Tây Âu 54%, Đông Nam Á và Viễn Đông 24,2%,
Trung Cận Đông 14,9%, các nơi khác 6%.
Những khối liên minh song phương và đa phương do Mỹ đứng đầu
hoặc bảo trợ lần lượt ra đời như: khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) thành
lập năm 1949, khối Đông Nam Á (SEATO) ra đời năm 1954, khối Trung
Cận Đông (CENTO) hình thành năm 1955, khối Nam Thái Bình Dương
(ANZUC) lập ra năm 1951… Ngoài ra còn các Hiệp ước tay đôi giữa Mỹ
và một số nước ở Đông Á, Nam Á, Đông Nam Á. Về lực lượng quân sự,
những năm 1953 - 1960 Mỹ cũng đề ra nhiều ý nghĩa chính trị và kinh tế
cho Mỹ lúc này. Quân số giảm đi nhưng căn cứ quân sự ở nước ngoài lại
được tăng cường. Sau chiến tranh Mỹ có hơn 2.200 căn cứ quân sự có mặt

ở khắp các châu lục, 7 hạm đội trải ra khắp các đại dương, phái đoàn quan
sự và cố vấn Mỹ hoạt động ở 45 nước trên thế giới, nhiều loại vũ khí trang
bị mới được ra đời như máy bay ném bom chiến lược B52, B47, tên lửa

4


vượt đại châu có đầu đạn hạt nhân, tên lửa tầm trung, tàu ngầm nguyên tử
trang bị tên lửa hạt nhân chiến thuật…

1.2: Tình hình Việt Nam
Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ đã triển khai chiến lược
toàn cầu từ rất sớm, trong đó Việt Nam là một trong những trọng điểm.
Việt Nam nằm trong khu vực có tiềm năng lớn về kinh tế vì rất giàu
khoáng sản, nguyên nhiên liệu, lại có nguồn nhân lực lao động dồi dào.
Việt Nam còn có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự cho cả vùng Đông
Nam Á. Đất liền nối với nhiều quốc gia và đi sâu vào tận miền Trung Á.
Biển có những đảo và hải cảng không những thuận tiện giao thông, dễ sự
dụng tàu thuyền, mà còn có khả năng khống chế cả vùng rộng lớn. Việt
Nam lại là tiêu điểm của phong trào giải phóng dân tộc đang sôi sục ở châu
Á.Sau Cách Mạng Tháng Tám khi Việt Nam Dân Cộng Hòa một nhà nước
công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, cục diện chính trị trên bán đảo
Đông Dương thay đổi lớn, bất lợi cho chủ nghĩa đế quốc. Đã có sự tập hợp
các lực lượng phản cách mạng chống lại lượng cách mạng, nhưng chúng đã
không thành công. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã kết thúc
thắng lợi với việc giải phóng nửa nước ở miền Bắc, đi lên chủ nghĩa xã
hội.Việt Nam còn là nơi ấp ủ những mưu toan của Mỹ từ lâu .Có thể nói
Việt Nam là nơi tập trung quyền lợi sống còn, là đất dụng võ của họ.
Sau Hiệp định Giơnevo 1954 vấn đề lập lại hòa bình ở Đông
Dương ,hình thái chính trị ở Việt Nam có sự thay đổi đất nước Việt Nam

bị chia làm hai miền.Từ vĩ tuyến 17 trở ra ,nhân dân miền Bắc hào hứng
bắt tay hàn gắn vết thương chiến tranh ,khôi phục và phát triển kinh tế
,đồng thời chi viện cho cuộc đấu tranh của đồng bào mình ở miền Nam
để đấu tranh chống Mỹ can thiệp và chế độ bù nhìn tay sai.
Nhân dân hai miền đều nhận thức được rằng hiệp định Giownevo
không đem lại kết quả đầy đủ nhưng đã thật sự chấm dứt ách thống trị của
5


thực dân Pháp ,nên nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định để tiến tới lựa chọn
một chính phủ và thể chế chính trị phù hợp với quyền lợi cơ bản và nguyện
vọng thiêng liêng của dân tộc ta bằng cuộc tổng tuyển cử tự do và dân chủ
vào tháng 7 năm 1956.
Chính phủ và nhân dân ta đã làm hết sức mình để đạt được mục tiêu
độc lập ,hòa bình ,thống nhất đất nước và không còn chiến tranh nữa.Thế
nhưng,đế cướp Mỹ lại dã tâm chống lại sự nghiệp giải phóng dân tộc và
thống nhất đất nước ta.Với những hoạt động xây dựng chủ nghĩa thực dân
mới, tấn công đánh phá lực lượng và phong trào cách mạng, trong mấy năm
1954 - 1959 Mỹ - Diệm đã biến miền Nam Việt Nam từ một chiến trường
chống chủ nghĩa thực dân thành một chiến trường phản kích lại các lực
lượng cách mạng. Âm mưu chiến lược của Mỹ là biến miền Nam Việt Nam
thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự, một bàn đạp để tấn công
miền Bắc và phe xã hội chủ nghĩa từ phía Nam, ngăn chặn sự bành trướng
của chủ nghĩa cộng sản đang lan tràn xuống vùng Đông Nam Á.
Mỹ đã thi thố ở Việt Nam 4 chiến lược chiến tranh, ứng dụng từ 3
lần thay đổi chiến lược toàn cầu, do 5 đời tổng thống kế tiếp nhau thực hiện
từ năm 1953 đến năm 1975. Đó là sự lựa chọn đúng nơi, đúng lúc, đúng đối
tượng tiến hành chiến tranh của Mỹ. Chưa bao giờ Mỹ huy động được sức
mạnh của cả nước Mỹ cùng các nước phe Mỹ, trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự như là trong thời kỳ họ

tiến hành chiến tranh Việt Nam. Ý chí và quyết tâm của Mỹ khi đánh Việt
Nam không phải chỉ nhằm khuất phục một dân tộc, dập tắt một ngọn lửa
đấu tranh vì độc lập tự do, mà còn nhằm đe dọa nhiều nước khác, đồng thời
thể nghiệm sức mạnh của Hoa Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XX.Cách mạng
Việt Nam vừa giành thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến 9 năm chống
chủ nghĩa thực dân Pháp, nay lại đứng trước kẻ thù mới vừa lớn mạnh vừa
đầy tham vọng. Nửa nước ở miền Bắc được giải phóng và có lực lượng
cách mạng của cả nước tập trung về. Do đó niềm Bắc có nhiệm vụ phải
6


nhanh chóng hoàn thành nốt những nhiệm vụ còn lại của Cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân để bước tiếp sang cuộc cách mạng mới, đưa miền Bắc
lên chủ nghĩa xã hội. Nửa nước còn lại ở miền Nam chưa được giải phóng,
cách mạng lại bị mất thế lực, quần chúng nhân dân đang tiếp tục bị khủng
bố đàn áp. Vì thế miền Nam có nhiệm vụ phải gây dựng lại lực lượng và
phong trào cách mạng, tiếp tục cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
để giải phóng miền Nam, giành tự do độc lập.Hai miền của một đất nước bị
cắt tiến hành đồng thời “hai cuộc cách mạng” khác nhau, dưới sự lãnh đạo
của một đảng thống nhất là Đảng Lao Động Việt Nam. Cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ trước mắt là xây dựng miền Bắc vững
mạnh toàn diện, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam, miền Bắc
là hậu phương to lớn, là chỗ dựa căn bản nhất cho toàn dân tộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có
nhiệm vụ trước mắt là đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới
của đế quốc Mỹ và tay sai, miền Nam là tiền tuyến lớn, là chiến trường
chính của cuộc kháng chiến.Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có ý
nghĩa quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của Cùch mạng Việt
Nam, trước hết là đối với sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Cuộc
đấu tranh chóng Mỹ ở miền Nam có ý nghĩa quyết định trực tiếp đối với

việc giải phóng miền Nam giành tự do độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc.
Cả hai miền Nam Bắc có nhiệm vụ chung là giải phóng miền Nam,
bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc để xây dựng một
Việt Nam hòa bình - thống nhất - độc lập - dân chủ và giàu mạnh. Cuộc
chiến tranh xâm lược của Mỹ kéo dài hơn 20 năm buộc nhân dân Việt Nam
phải chọn con đường cách mạng bạo lực để gạt bỏ mọi trở ngại trên con
đường hòa bình - thống nhất Tổ quốc.
Chấp nhận cuộc đụng đầu với Mỹ, người Việt Nam cũng sớm nhận
thức được tính chất quyết liệt của cuộc chiến tranh không cân sức này,
cùng những thuận lợi khó khăn đối với cuộc chiến đấu chính nghĩa của
7


mình. Sức mạnh tổng hợp của Cách mạng Việt Nam thời kỳ đánh Mỹ, đem
đối chọi với sức mạnh Mỹ dựa vào tham vọng và những ưu thế của khoa
học kỹ thuật. Thực tế cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam
những năm 1954 - 1975 đã cho thấy: không vũ lực nào đè bẹp được một
dân tộc thiết tha với độc lập tự do.Bằng mọi âm mưu thủ đoạn chiến lược
,thủ đoạn nham hiểm và độc ác để hòng đàn áp để hủy diệt dân tộc Việt
Nam ,đẩy xã hội chúng ta trở về thời kỳ đồ đá .Tin tưởng vào sức mạnh
chính nghĩa ,nhân dân Việt Nam vừa kiên quyết đấu tranh vừa tỏ rõ chí
thiện nhiều lần đưa ra những giải pháp mở đường cho Mỹ rút khỏi cuộc
chiến trong danh dự nhưng chúng đều bác bỏ và tham vọng đến bươc
đường cùng ,Mỹ đã bị xa lầy ở Việt Nam.
Như Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổng kết ngay sau khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ vừa kết thúc thắng lợi: “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng
thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước
mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trang chói lọi nhất, một biểu
tượng sáng ngời về sự toàn thắng của Chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí
tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế

kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu
sắc”.Kết thúc cuộc kháng chiến 21 năm nhân dân ta cũng kết thúc quá trình
30 năm chiến tranh cách mạng, chấm dứt hơn 1 thế kỷ bị thực dân đế quốc
thống trị. Non sông thu về một mối, Nam - Bắc sum họp một nhà trong độc
lập tự do. Truyền thống yêu nước bất khuất, kiên cường của dân tộc lại ghi
thêm những trang sử mới oanh liệt và hào hùng.
Kết thúc một cuộc chiến tranh lâu dài nhất, tốn kém nhất, quy mô
nhất, ác liệt dã man nhất kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Mỹ bị đảo
lộn chiến lược toàn cầu và bước vào “thời kỳ sau Việt Nam” thật nặng nề.
Trong lúc ấy một nước Việt Nam thống nhất ra đời cái tên mới “Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” và bước vào thời kỳ xây dựng đất nước như
nguyện ước của Bác Hồ “to đẹp hơn, đàng hoàng hơn”.
8


1.3: Tình hình báo chí trong những năm tháng
kháng chiến chống Mỹ
Năm 1954-1975 là một giai đoạn đặc biệt của lịch sử Việt Nam , gắn
liền với sự kiện đất nước bị chia cắt, hình thành các thể chế chính trị và các
lực lượng xã hội khác nhau. Theo đó, một cách đương nhiên, dòng chảy
của đời sống báo chí Việt Nam đã có một bước ngoặt quan trọng và rõ rệt
hơn các giai đoạn trước đó: nó có sự phân nhánh thích ứng với một bối
cảnh chính trị xã hội như vậy.
Tháng 7 năm 1954 cuộc kháng chiến của ta thắng lợi bọn Việt gian
tay sai của thực dân Pháp cùng báo chí của chúng phải cuốn gói vào Miền
Nam theo bọn quan thầy .Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng
,bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ,nhân dân ta được hưởng
quyền tự do báo chí .Ngày 14 tháng 12 năm 1956 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký
sắc lệnh số 282/SL về chế độ báo chí .Sắc lệnh này đã được Quốc hội nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa biểu quyết thông qua kỳ họp thứ 6 ngày

20/05/1957 .Sắc lệnh gồm 9 điều quy định về tính chất ,nghĩa vụ quyền lợi
của báo chí .
Báo chí cách mạng trong những năm kháng chiến chống Mỹ đã có
những cơ hội thuận lợi để phát triển thế nhưng cũng gặp không ít những
khó khăn ,thách thức ,rào cản vô cùng khắc nghiệt ,trong nước có hai bộ
phận báo chí cùng hướng tới mục tiêu giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước ,đó là bộ phân báo chí cách mạng miền Bắc phát triển trong điều
kiện của chế độ dân chủ nhân dân ,đạt dưới sự lãnh đạo của Đảng ,còn bộ
phận báo chí cách mạng miền Nam phát triển trong hoàn cảnh vô cùng khó
khăn của cuộc chiến tranh và sự khủng bố ,đần áp của đội quân xâm lược
Mỹ và chế độ ngụy quyền Sài Gòn .Do hoàn cảnh lịch sử trong những năm
chống Mỹ các nhà báo hai miền Nam ,Bắc có tổ chức riêng của mình song
đều chung một cội nguồn do Đảng lãnh đạo .

9


Nhìn đại thể, sẽ có hai khu vực báo chí của thời kỳ này:Báo chí
miền Bắc và Báo chí miền Nam Tuy nhiên, sự phân chia mang tính lịch sử
độc đáo và phức tạp lại thể hiện rõ nhất ở báo chí miền Nam .Báo chí khu
vực này tiếp tục phân nhánh thành hai khu vực nhỏ hơn: Báo chí cách
mạng miền Nam và báo chí Sài Gòn.
Nhắc đến tư cách pháp nhân của các khu vực báo chí thời kỳ này là
để nói đến những mối quan hệ tương tác hoặc đối đầu giữa chúng. Sẽ dễ
dàng nhận thấy sự gắn bó giữa báo chí miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa và báo
chí miền Nam với tư cách là tiếng nói của Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam một sự gắn bó sẻ chia trên mọi phương diện, chưa từng có trong
tiến trình lịch sử báo chí nước nhà, được manh nha từ giai đoạn kháng
chiến chống Pháp trước đó. Hai mảng báo chí này khác nhau về tên gọi, về
những nhiệm vụ cụ thể trước mắt nhưng thống nhất về bản chất và mục

đích. Báo chí yêu nước tiến bộ, về cơ bản vẫn có sự chỉ đạo của cách mạng
thông qua bộ phận trí vận trong các đô thị miền Nam , đặc biệt là ở Sài
Gòn. Như vậy, nhìn một cách chung nhất chỉ còn sự phân chiến tuyến giữa
báo chí Cách mạng và XHCN với báo chí chính quyền ngụy Sài Gòn. Đây
là cuộc đối đầu vô cùng quyết liệt mang đậm dấu ấn lịch sử suốt 21 năm
đất nước bị chia cắt, nó tác động dữ dội đến toàn bộ đời sống báo chí Việt
Nam giai đoạn này, chi phối từ thái độ lựa chọn của các nhà báo đến những
phương cách hoạt động nghề nghiệp của họ. Hơn thế nữa, những hoạt động
báo chí ở Việt Nam lúc này còn có những tác động rất đáng kể tới giới
truyền thông quốc tế, thu hút được sự chú ý của họ về mọi mặt của dời
sống trong hoàn cảnh đặc biệt là có chiến tranh . Mức độ quyết liệt của
cuộc đối đầu lần này diễn ra chưa từng có. Nếu chúng ta đã làm tất cả
những gì có thể làm được trên mặt trận báo chí tư tưởng để góp phần vào
sức mạnh tổng lực của toàn dân tộc trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ,
thì phía bên kia, chính quyền Sài Gòn với sự trợ giúp đắc lực của Mỹ cũng
không một ngày buông lơi thứ vũ khí này. Chẳng hạn, Nha báo chí của họ
10


luôn trực thuộc Phủ Tổng thống và vào thời điểm ác liệt nhất của cuộc
chiến tranh, họ đã đổi tên Bộ thông tin thành Bộ chiến tranh tâm lý, công
khai đưa bộ máy truyền thông vào tham chiến. Chính CIA cũng đã từng thú
nhận, họ đã tạo ra các chiến dịch thông tin “đen” ra sao để chống phá cách
mạng Việt Nam .
Tất cả những ai quan tâm đến đời sống báo chí Việt Nam thời kỳ
1954-1975 đều nhận thấy sự phức tạp của nó; với các nhà nghiên cứu thì
trước mắt họ còn là một sự ngổn ngang, bề bộn về tư liệu, nhân chứng và
cả những cách nhìn nhận, đánh giá báo chí miền Bắc XHCN và báo chí
cách mạng miền Nam về cơ bản đã có sự đánh giá thống nhất, bởi trước hết
bản thân nó không quá phức .Cách đánh giá về báo chí chính quyền ngụy

Sài Gòn cũng dễ đi đến thống nhất, bởi bản chất của nó là đối lập với báo
chí Cách mạng và XHCN, nó là báo chí của “phía bên kia” chiến tuyến.
Tuy nhiên, để hiểu sâu sắc và toàn diện về nhóm báo chí này thì lại không
dễ, nó còn phụ thuộc vào tư liệu và cách phân loại tư liệu, phụ thuộc vào sự
hiểu biết về tất cả những gì diễn ra sau những tờ báo đó, được vận hành bởi
một guồng máy có bàn tay của các chuyên gia truyền thông và chuyên gia
tâm lý chiến đến từ nước Mỹ và một số quốc gia khác. Cách đánh giá về
nhóm báo chí yêu nước tiến bộ lại có những khó khăn khác. Bên cạnh một
số nhà báo cách mạng được “đánh” vào làm nòng cốt ở Sài Gòn, lực lượng
nhà báo của nhóm báo chí này còn được hình thành từ nhiều nguồn do
được vận động hoặc chỉ là tự phát . Họ đa dạng về thành phần, quan điểm,
chủ yếu gặp nhau ở tinh thần dân tộc và ghét ngoại bang,căm thù quân xâm
lược. Những tờ báo do họ chủ trương hoặc góp mặt, vì thế, hơn hết cần
được nhìn nhận một cách điềm tĩnh, khoa học, khách quan và cả sự thân
thiện. Còn một khó khăn nữa ở đây là vấn đề tư liệu. Những tờ báo như thế
phần lớn đã thất lạc. Rất nhiều tờ báo của phong trào học sinh - sinh
viên, phật tử… đã biến mất, chỉ còn sống trong ký ức của những người
trong cuộc.
11


Xuyên suốt một quãng thời gian hai thập niên với hàng trăm sự kiện
báo chí đáng lưu ý, hàng ngàn tờ báo và cơ quan truyền thông đài phát
thanh, truyền hình, trung tâm tin tức, phim tư liệu chiến tranh… cùng với
sự tham gia của đông đảo nhà báo hoạt động trong các dòng báo chí kể
trên - đời sống báo chí Việt Nam thời kỳ 1954-1975 quả thật đã chứa đựng
trong lòng nó bóng dáng của một giai đoạn lịch sử dân tộc đặc biệt,
chứa đựng những bài học kinh nghiệm nhiều khi được đổi bằng xương
máu cho công
việc làm báo và quản lý báo chí , những bài học vẫn chưa hết ý nghĩa trong

tiến trình phát triển của nền báo chí nước ta.
Về báo chí miền Bắc .Đội ngũ nhà báo được hình thành từ hai
nguồn: những nhà báo đã trải qua kháng chiến chống Pháp và những nhà
báo thế hệ mới. Có cơ sở đào tạo báo chí chuyên nghiệp. Từ những năm
1960, đội ngũ này và các phương tiện làm báo còn được chi viện cho báo
chí cách mạng miền Nam . Hội nhà báo được tổ chức lại, chính quy hơn
và tiếp tục giữ vai trò một nhà báo . Báo chí phát triển mạnh: các tờ báo từ
chiến khu đưa về xuất bản tại Hà Nội và vẫn giữ vai trò chủ đạo, một số tờ
báo tư nhân được cải tạo vào năm 1960, xuất hiện nhiều tờ báo mới đáp
ứng nhu cầu của đời sống và dân trí khoảng 50 tờ báo và bản tin địa
phương; 50 tờ báo, tập san của các ngành; 24tờ báo của các tổ chức xã
hội…- những con số này ngày càng tăng về sau. Các cơ quan truyền thông
khác đã có sẵn được phát triển theo quy mô lớn và hiện đại hơn đài Tiếng
nói Việt Nam và hệ thống đài địa phương, khu vực. Việt Nam thông tấn xã
và các phân xã ở khắp nước và nước ngoài. Năm 1970, đài THVN ra đời.
Quan hệ quốc tế được mở rộng: có báo chí đối ngoại, các nhà báo và các
hãng thông tấn lớn trên thế giới có mặt tại Hà Nội. Báo chí chuyển từ thời
bình sang thời chiến từ 1964 và những bài học kinh nghiệm của một nền
báo chí chiến đấu và xây dựng.

12


Về báo chí cách mạng miền Nam Đội ngũ nhà báo được hình thành từ
nhiều nguồn: các nhà báo đã trải quan kháng chiến chống Pháp, các nhà
báo được đào tạo tại chỗ, lực lượng nhà báo được chi viện từ miền Bắc và
một số nhà báo từ các đô thị đi theo cách mạng. Hoàn cảnh tác nghiệp của
họ gian khổ như mọi nhà báo chiến tranh.Báo chí nhanh chóng có mặt: từ
những năm đầu 1960 đã có khoảng 40 tờ báo và tạp chí cấp miền của Mặt
trận dân tộc giải phóng, khoảng 40 bản tin của các địa phương in bằng bốn

thứ tiếng Pháp, Anh, Trung Quốc và Khơme. Xuất hiện các cơ quan thông
tin mới: Thông tấn xã giải phóng ra đời 1961; Đài phát thanh Giải phóng
1962, ngoài ra còn có vai trò của Hãng phim Giải phóng. Báo chí cách
mạng miền Nam lúc này được xây dựng theo mô hình báo chí miền Bắc
(Nhân dân - Cờ Giải phóng, Quân đội nhân dân - Quân giải phóng, Phụ nữ
Việt Nam - Phụ nữ giải phóng…). Thiết lập được mối quan hệ với báo chí
quốc tế: tháng 1- 1962 Hội nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam ra đời.
Các nhà báo nước ngoài đã có mặt tại căn cứ cách mạng; sự giúp đỡ
phương tiện của bạn bè XHCN… Một nền báo chí hình thành và phát triển
trong khói lửa chiến tranh; tư cách chiến sĩ của những người làm báo; sự
gắn bó khăng khít và độc đáo của nó với báo chí miền Bắc- đó là những
điểm nổi bật của báo chí cách mạng miền Nam giai đoạn này.
Về báo chí yêu nước, tiến bộ trong lòng các đô thị.Đội ngũ nhà báo
đa dạng: một số “nằm vùng” từ thời chống Pháp, một số được đưa vào Sài
Gòn
theo dạng hồi cư một số hình thành từ các phong trào học sinh - sinh viên
yêu nước, một số vốn có cảm tình với cách mạng và kháng chiến… Cũng
có trường hợp đi thẳng từ Hà Nội (Nguyễn Văn Bổng và tờ Tin Văn, 1967).
Nhiều tờ báo mới được xuất bản nhưng chủ yếu là tranh thủ sử dụng những
tờ đã có sẵn. Phương thức hoạt động của nhà báo cực kỳ linh hoạt, thích
hợp với từng thời kỳ biết kết hợp văn và báo, mượn các danh nghĩa để hoạt
động: các phong trào, các tổ chức. Nội dung báo chí luôn bám sát tình hình
13


chính trị và thời cuộc diễn ra sôi động trong lòng các đô thị.Khôn khéo
tranh thủ uy tín của các hãng thông tấn và các nhà báo nước ngoài có mặt ở
Sài Gòn trong việc đưa tin ra thế giới. Thành công đáng ghi nhận là suốt 20
năm trong vùng chiếm đóng, luôn luôn có một phong trào báo chí chống
đối chế độ Mỹ ngụy với một lối làm báo sắc sảo và hoàn toàn thích hợp với

hoàn cảnh sống của những người làm báo.
Về báo chí của chính quyền Sài Gòn. Lực lượng nhà báo nòng cốt
lúc đầu là các nhà báo đã từng làm việc cho chính quyền ngụy thời Pháp và
một số cây bút di cư từ miền Bắc. Về sau lực lượng này được bổ sung các
thế hệ nhà báo trẻ được đào tạo bài bản về nghề nghiệp và quan điểm
chống cộng, trong nước và từ nước ngoài. Phương tiện và điều kiện làm
báo đạt tới mức tối ưu: hầu hết những phương tiện làm báo hiện đại nhất
lúc bấy giờ đều có mặt khá sớm ở Sài Gòn chẳng hạn, từ 1967 họ đã được
trang bị máy in ốpsét nhiều màu, trong khi báo chí miền bắc 7 năm sau mới
có điều kiện thử nghiệm phương tiện này. Người Mỹ, thông qua chính
quyền Sài Gòn, đã không tiếc tiền để tung ra hàng loạt tờ báo chống cộng
và lôi kéo các nhà báo, cải tổ hoặc cho ra đời những cơ quan truyền thông
mới: Việt tấn xã, Đài phát thanh Sài Gòn và các đài tâm lý chiến. Có cả
một chính sách với những hoạch định cụ thể nhằm đưa báo chí vào guồng
máy chiến tranh để chống phá cách mạng và đàn áp, kiểm soát các khuynh
hướng tiến bộ, yêu nước.
Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có một công trình nghiên cứu toàn
diện nào về báo chí giai đoạn này. Một công trình nghiên cứu quy mô như
thế là hết sức cần thiết vì nó không chỉ tái hiện diện mạo một chặng đường
trong quá trình lịch sử báo chí dân tộc, mà còn có thể rút ra từ đó những bài
học mang ý nghĩa nghề nghiệp quý giá đối với các thế hệ nhà báo hôm nay
và mai sau. Công trình ấy cần có sự đóng góp trí tuệ của nhiều nhà nghiên
cứu và các nhà báo tâm huyết, là một việc làm không thể chậm trễ hơn nữa

14


khi mà cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử dân tộc đã lùi xa ba
thập niên.


2. Báo chí Miền Bắc trong thời kháng chiến chống Mỹ
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân
tộc Việt Nam ,báo chí luôn là người bạn đồng hành trên suốt hành trình
ấy,để có được những thước phim,những tư liệu,hình ảnh ,bài báo về một
thời đã qua của lịch sử ,có những nhà báo đã anh dũng hi sinh trên chiến
trường khi đang tác nghiệp .Để đến hôm nay thế hệ sau những người làm
báo,những nhà báo tương lai hãy nhìn,hãy sống và làm việc theo đúng
nghĩa lý của mình.Báo chí luôn là một mặt trận tư tưởng văn hóa ,là tiếng
nói,là cơ quan ngôn luận và đây cũng chính là món ăn tinh thần không thể
thiếu của mỗi chúng ta.
Chặng đường kháng chiến chống Pháp qua đi ta lại tiếp nối 21 kháng chiến
chống Mỹ là nhân chứng sống còn của lịch sử ,của nền báo chí cách mạng
Việt Nam .Ngay từ khi cách mạng tháng 8 thành công năm 1945 mặc dù
còn phải đối mặt với những khó khăn thử thách,thù trong giặc ngoài ,toàn
Đảng toàn dân ta một lòng chung tay chung tay chung sức đánh thắng từng
kẻ thù .Đứng giữa hoàn cảnh báo chí khó khăn về mọi mặt song chưa bao
giờ báo chí được sống trong môi trường dân chủ như thời kỳ này . Với
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng nước ta
chuyển sang giai đoạn mới. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, từ căn
bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Miền Nam còn ở dưới ách thống trị của đế quốc
Mỹ và tay sai, phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

15


Từ giữa những năm 1946 báo chí tiếp tục tăng về số lượng và chất

lượng và quan tâm đến vấn đề chính trị trọng đại của đất nước với hàng
loạt tờ báo ra đời như : Báo sự thật ,báo độc lập ,báo lao động ,thông tấn xã
Việt Nam ,báo nhân dân,báo quân đội nhân dân ,báo văn nghệ .Tiếp bước
sự phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như chất lượng của báo chí .Khi
ta bước vào tiếp quản thủ đô (10/10/1954) báo Nhân dân và nhiều tờ báo
khác đã lần lượt chuyển về Hà Nội .Theo sự phân công mới ,báo Nhân dân
chuyển thành nhật báo .Để đáp ứng yêu cầu của công tác tư tưởng giai đoạn
mới ,ngoài việc tiếp tục xuất bản báo Nhân dân ,Trung ương Đảng quyết
định xuất bản tạp chí lý luận của Đảng .
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II họp
tháng 3-1955 đã nhận định: qua 8-9 năm kháng chiến, Đảng ta đã được rèn
luyện và lớn lên nhiều. Sự lãnh đạo của Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng
và tổ chức đều có tiến bộ rõ rệt. Tuy vậy, trước tình hình đang thay đổi
mạnh mẽ, từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, từ nông thôn chuyển vào
thành thị, từ phân tán chuyển đến tập trung, trong Đảng bộc lộ những biểu
hiện hữu khuynh và “tả” khuynh. Công tác tư tưởng và lý luận chưa đáp
ứng đúng mức yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Để “giúp vào việc nghiên
cứu chính sách và giáo dục tư tưởng, bước đầu xây dựng công tác lý luận
của Đảng”, Hội nghị Trung ương 7 đã ra nghị quyết xuất bản tạp chí Học
tập.Đề án xuất bản được Bộ Chính trị thông qua, đã nêu rõ tính chất nhiệm
vụ, đối tượng và phương châm biên tập của tạp chí.
Tạp chí Học tập là “cơ quan lý luận và chính trị của Đảng”, do Trung ương
Đảng trực tiếp lãnh đạo. Nhiệm vụ của tạp chí là “lấy học thuyết Mác - Lênin làm cơ sở, kết hợp chặt chẽ lý luận Mác - Lê-nin với thực tiễn cách
mạng nước ta để tuyên truyền, giáo dục đường lối, phương châm, chính
sách của Đảng một cách sâu sắc”; Tạp chí còn có nhiệm vụ “hướng dẫn cán
bộ học tập theo chương trình do Đảng quy định”. Đối tượng phục vụ của
tạp chí là: “Cán bộ Đảng từ trung cấp trở lên, những cán bộ ngoài Đảng và
16



những người trí thức thích nghiên cứu chính trị và có trình độ đọc hiểu
được”. Phương châm biên tập của tạp chí là “căn cứ vào nhiệm vụ trung
tâm và những công tác lớn của Đảng trong từng thời kỳ mà định trọng tâm
biên tập làm cho nội dung Tạp chí gắn chặt với chính sách và sinh hoạt
chính trị, sinh hoạt tư tưởng của Đảng”. Tạp chí “dựa trên cơ sở học thuyết
Mác - Lê-nin để giải thích đường lối, phương châm, chính sách của Đảng,
kết hợp với thực tế nước ta mà giáo dục lý luận. Cụ thể là căn cứ vào
những chính sách và công tác lớn của Đảng, trình bày những vấn đề lý luận
chung quanh chính sách và công tác ấy, nhằm vạch rõ cơ sở lý luận của nó,
rồi lại căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt Nam mà phân tích thêm, kết
hợp lý luận Mác - Lê-Nin với thực tế nước ta, làm cho cán bộ nắm vững
nội dung, thực chất của các chính sách của Đảng, đồng thời đấu tranh
chống những tư tưởng lạc hậu, sai lầm, trở ngại cho việc thực hiện các
chính sách”; tạp chí cần tập trung vào những vấn đề chính trong nước, đồng
thời dành một phần cần thiết cho những vấn đề quốc tế quan trọng.
Trong bài “Việc xuất bản tạp chí Học tập và công tác xây dựng
Đảng” đăng trong số đầu tiên của tạp chí, đồng chí Trường Chinh viết:
“Tạp chí Học tập phải đóng một vai trò xứng đáng trong công tác tư tưởng
và công tác tổ chức của Đảng, trong công tác xây dựng, phát triển và củng cố
Đảng. Nó phải đem lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà soi sáng những
chính sách lớn của Đảng, nâng cao nhận thức của cán bộ trong Đảng và
ngoài Đảng về tư tưởng, chính sách giúp cho họ tránh được những khuyết
điểm, sai lầm trong khi thi hành những chính sách ấy. Ngược lại, nó phải
góp phần làm cho cán bộ qua công tác cụ thể, chấp hành chính sách mà
củng cố được lập trường, nâng cao được trình độ tư tưởng và lý luận. Mong
rằng với tạp chí Học tập ra đời, Đảng ta sẽ đẩy mạnh phê bình, tự phê bình,
đẩy mạnh đấu tranh chống mọi khuynh hướng sai lầm trong khi chấp hành
đường lối, chính sách của Đảng và của Chính phủ, chống mọi sự xuyên tạc
chủ nghĩa Mác - Lê-nin và những lệch lạc về tư tưởng đã khá nhiều ở nước
17



ta hiện nay. Đồng thời, Đảng sẽ làm cho tư tưởng, lý luận của mình tiến
trước và chỉ đường cho công tác thực hành, khắc phục được chủ nghĩa
sự vụ, hẹp hòi hiện đang phổ biến trong cán bộ, đảng viên và cán bộ
ngoài Đảng”.
Bộ Chính trị đã cử ra một Ban Biên tập tạp chí do đồng chí
Trường Chinh làm Tổng Biên tập, đồng chí Trần Quang Huy làm Thư ký
tòa soạn. Sau một thời gian ngắn khẩn trương chuẩn bị, tạp chí Học tập ra
số 1 vào tháng 12-1955.Trong những năm đầu, tạp chí tập trung phục vụ
các nhiệm vụ công tác lớn của Đảng: đấu tranh đòi thi hành Hiệp nghị Giơne-vơ nhằm thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà; hoàn thành cải cách
ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, khôi phục kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội
chủ nghĩa và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về nhiệm vụ đấu tranh
thực hiện thống nhất nước nhà, trong nhiều xã luận, chuyên luận và trong
mục Miền Nam dưới ách thống trị của Mỹ - Diệm, tạp chí đã vạch trần âm
mưu của Mỹ - Diệm phá hoại Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, hòng chia cắt lâu dài
đất nước ta và nêu rõ những nhiệm vụ và phương hướng đấu tranh chống
lại những âm mưu đó.
Tạp chí đã có xã luận “Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân
miền Nam nhất định thắng lợi” (số 7-1960) và nhiều bài chuyên luận giới
thiệu nội dung và phương hướng của cuộc đấu tranh cách mạng ở miền
Nam theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15. Cuộc họp Bộ
Chính trị ngày 3-3-1962 Hội nghị nhận định: thời gian qua, mặc dù còn rất
nhiều thiếu thốn và gặp rất nhiều khó khăn, nhưng Bộ Biên tập đã phấn đấu
để xuất bản được tạp chí như thế là có sự cố gắng rất lớn. Tuy nhiên, chất
lượng tạp chí chưa cao, trình độ lý luận còn thấp, tính chiến đấu còn yếu.
Việc Bộ Biên tập tạp chí chưa được kiện toàn, việc thiếu tổng biên tập
chuyên trách có đủ thẩm quyền là nguyên nhân chính làm cho tạp chí chưa
đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng hiện nay. Cho nên phải


18


tăng cường ban biên tập, tăng cường cán bộ có năng lực cho Bộ Biên tập
tạp chí. Các đồng chí lãnh đạo của Đảng phải viết bài cho tạp chí. Hội nghị
xác định: Tạp chí Học tập có một vị trí rất quan trọng trong toàn bộ công
tác tư tưởng của Đảng, có thể nói nó là công cụ quan trọng bậc nhất, không
thể thiếu được; nó là “vũ khí hạng nặng”, là “công nghiệp nặng”, là “ngành
xây dựng cơ bản” trong công tác tư tưởng. Nó tác chiến trên mặt trận lý
luận, tư tưởng, nó đề cập đến tất cả các vấn đề, nhưng không đi vào học
thuật theo kiểu bác học. Hội nghị cũng bàn đến việc đổi tên tạp chí vì tên
Học tập có thể làm cho người ta hiểu lầm chức năng của tạp chí, nhưng
cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí khác đều thấy nên giữ
tên tạp chí là Học tập. Hội nghị đã vạch rõ nhiệm vụ của tạp chí Học tập.
Nhiệm vụ đó đã được ghi trong Chỉ thị số 41/CT-TW ngày 7-4-1962 của
Bộ Chính trị về “Cải tiến tạp chí lý luận của Đảng”: “Nhiệm vụ của tạp chí
Học tập là đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác
- Lê-nin làm cơ sở, kết hợp chặt chẽ lý luận Mác - Lê-nin với thực tiễn cách
mạng Việt Nam để tuyên truyền đường lối, phương châm, chính sách của Đảng
một cách sâu sắc; đem lý luận Mác - Lê-nin soi sáng những chủ trương, chính
sách lớn của Đảng, nâng cao nhận thức của cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng
về tư tưởng chính sách, giúp họ tránh những khuyết điểm, sai lầm trong khi thi
hành chính sách của Đảng và của Nhà nước. Tạp chí phải căn cứ vào chức năng
của mình mà tuyên truyền cho Nghị quyết của Đại hội lần thứ III của Đảng và
nghị quyết của các cuộc hội nghị Trung ương Đảng. Tạp chí phải góp phần đắc
lực vào việc thực hiện hai nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam hiện nay là xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (mà trung tâm là công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa) và giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay
sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ
trong cả nước. Tạp chí phải góp phần vào việc tổng kết kinh nghiệm công tác

của Đảng, đi đến những kết luận có tính chất lý luận để lãnh đạo phong trào
cách mạng Việt Nam. Nội dung của tạp chí cần phải tập trung vào những vấn đề
19


chính trong nước, đồng thời cần dành một phần cần thiết cho những vấn đề quốc
tế quan trọng.Tạp chí Học tập cần tích cực góp phần vào việc tổng kết kinh
nghiệm lịch sử của Đảng, viết về những vấn đề lớn trong lịch sử cách mạng
Việt Nam và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng ta.
Nhìn lại những năm 1955-1976, Tạp chí Học tập đã tích cực góp
phần đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống. Đáng
chú ý nhất là:Tạp chí đã tuyên truyền tập trung cho đường lối chống Mỹ,
cứu nước và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Gắn với nhiệm vụ
này, việc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng được tạp chí rất coi trọng.
Tạp chí đã góp phần đắc lực vào việc thực hiện các nhiệm vụ: sửa sai và
hoàn thành cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức; cải tạo xã hội chủ nghĩa
và xây dựng chủ nghĩa xã hội, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển
văn hóa, tiến hành ba cuộc cách mạng, thực hiện công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa làm cho miền Bắc trở thành cơ sở vững chắc cho công cuộc
chống Mỹ, cứu nước của toàn dân ta. Những nhiệm vụ đó không tách rời
việc củng cố nhà nước dân chủ nhân dân. Cùng với việc phục vụ công tác
xây dựng Đảng về tổ chức, tạp chí đã tích cực đấu tranh chống những tư
tưởng sai lầm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao phẩm
chất cách mạng cho mọi người, củng cố đoàn kết nhất trí trong Đảng. Tạp chí
đã đi đầu trong cuộc đấu tranh chống nhóm “Nhân văn - Giai phẩm”, bảo vệ
sự lãnh đạo của Đảng. Tạp chí đã tích cực tuyên truyền đường lối đối ngoại
và quan điểm quốc tế của Đảng; phê phán chủ nghĩa xét lại hiện đại, chủ
nghĩa cơ hội... bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bảo vệ
sự đoàn kết quốc tế; kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc, ủng hộ cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ

và tiến bộ xã hội.
Nói chung trong 21 năm qua (1955-1976), Tạp chí Học tập đã cố
gắng đóng góp vào công tác lý luận và tư tưởng của Đảng, và góp phần

20


tích cực vào việc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Trong những năm đế quốc Mỹ tăng cường và mở rộng
chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, nhiều năm tháng phải làm việc trong
điều kiện sơ tán, phân tán, khó khăn chồng chất, Tạp chí Học tập vẫn xuất
bản đều đặn và không ngừng cố gắng nâng cao chất lượng bài vở. Tuy
nhiên, nhìn chung trình độ lý luận của tạp chí vẫn còn hạn chế. Có thời
gian trên tạp chí có nhiều bài viết về công tác của ngành, nặng về phản
ánh tình hình, nêu nhiệm vụ công tác, thiếu tính khái quát. Mặt khác, do
nhận thức chưa theo kịp sự phát triển của cuộc sống, trên một số vấn đề
chưa vượt ra khỏi tư duy cũ, còn lệ thuộc vào một vài mô hình sẵn có. Có
những lúc không đem lý luận phân tích thực tiễn một cách đầy đủ và từ
phân tích thực tiễn mà rút ra kết luận thích đáng, cho nên chậm nhận ra
những nhân tố mới, sáng tạo trong phong trào của quần chúng, cũng như
thiếu nhạy cảm trước những điều không phù hợp trong một số chủ trương,
chính sách; từ đó không kịp thời phát hiện, đề xuất ý kiến với lãnh đạo, góp
tiếng nói tích cực vào việc bổ sung, sửa đổi một số chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Chính phủ cho phép một số tờ báo đã có từ trước trong nội thành
:Hà Nội hàng ngày ,Thời mới được tiếp tục .Một số tờ báo mới của tư nhân
cũng được phép xuất bản .Đặc biệt năm 1957 miền Bắc có 10 tờ báo tư
nhân .Sau ba năm khôi phục kinh tế ,miền Bắc bước vào thời kỳ cải tạo xã
hội chủ nghĩa .Việc cải tạo các tờ báo và các nhà in tư nhân băt đầu được
tiến hành Tờ thời mới và tờ thủ đô Hà Nội sáp nhật dưới một cái tên chung

là Hà Nội mới .
Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa về cơ bản hoàn thành thì báo chí miền
Bắc là báo chí xã hội chủ nghĩa thuần nhất ,tuyên truyền cho đường lối
chính sách của Đảng .Khác với báo chí tư sản là chạy theo những chuyện
giật gân ,ly kỳ ,báo chí xã hội chủ nghĩa phải có tính đảng ,tính dân tộc
,tính khoa học ,tính đại chúng ,đứng vững trên lập trường của giai cấp công
21


nhân ,phục vụ lợi ích của toàn thể nhân dân lao động ,kiên quyết đấu tranh
chống lại các thế lực thù địch .Trong sự nghiệp cách mạng, báo chí luôn
được coi là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, là vũ khí sắc bén trong
công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng cuộc sống mới cho
nhân dân.Vì vậy báo chí phải đảm những đặc điêm trên .Tiếng nói của báo
chí góp phần thống nhất được các chủ trương, phương pháp hành động
khác nhau nhằm đạt được mục đích, khắc phục những thiếu sót trong hoạt
động tư tưởng và thực tiễn của những người cộng sản, làm thức tỉnh quần
chúng. Lê-nin cho rằng, tờ báo không chỉ có vai trò phổ biến tư tưởng, giáo
dục chính trị, mà còn là nơi thu hút các đồng minh; tờ báo không những là
người tuyên truyền tập thể và cổ động tập thể mà còn là người tổ chức tập
thể. Đọc, phát hành rộng rãi các tờ báo cách mạng tức là đã ủng hộ cách
mạng, tiếp thu tư tưởng của Đảng. Báo chí cách mạng càng phát hành rộng
rãi càng chứng tỏ khả năng của một người tổ chức tập thể. Chính tờ báo là
sợi dây cơ bản, dựa vào nó phong trào cách mạng không ngừng phát triển,
tổ chức tăng lên theo cả chiều rộng và chiều sâu. Báo chí là người tuyên
truyền tất cả những cái mới, tiên tiến nảy sinh từ sự sáng tạo của quần
chúng. Giai đoạn xây dựng CNXH, nhiệm vụ cách mạng đã thay đổi, báo
chí cũng phải thay đổi cho phù hợp với nhiệm vụ mới của cách mạng. Vấn
đề căn bản là báo chí phải nói nhiều đến xây dựng đời sống mới, đến những
sự việc luôn xảy ra trong lĩnh vực đó, bởi vì, khi giai cấp vô sản giành được

chính quyền, bắt tay vào xây dựng xã hội mới thì chính trị đã hoàn toàn
sáng tỏ. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí gắn liền với các nguyên tắc
hoạt động của báo chí cách mạng. Trước hết là nguyên tắc tính Đảng của
báo chí cách mạng. Tính đảng của báo chí cách mạng do mục đích, chức
năng và vai trò của báo chí cách mạng quy định. Tính đảng đòi hỏi báo chí
cách mạng phải đấu tranh kiên quyết chống các tư tưởng thù địch, phản
động, đi ngược lại lợi ích của giai cấp vô sản và nhân dân lao động, phải
đấu tranh không khoan nhượng với các hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
22


Cùng với tính Đảng, tính nhân dân là nguyên tắc cơ bản tiếp theo của báo
chí cách mạng. Báo chí phải sống trong nhân dân và trung thực chia sẻ với
nhân dân niềm hy vọng và sự lo lắng của họ, tình yêu và lòng căm thù của
họ, nỗi vui và nỗi buồn của họ. Báo chí cách mạng phải hiểu sâu sắc cuộc
sống của nhân dân, từ đó mới có thể nói lên, thể hiện đúng những tư tưởng
và tình cảm hàng ngày của nhân dân đang suy nghĩ thật sự theo cách của
nhân dân. Tính nhân dân của báo chí cách mạng biểu hiện ở mối liên hệ
giữa báo chí với đông đảo tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân lao động người sáng tạo chân chính của lịch sử. Báo chí phải phản ánh, đánh giá các
hiện tượng và sự kiện của đời sống theo lập trường của nhân dân lao động,
đại diện và bảo vệ cho quyền lợi của nhân dân, trực tiếp tham gia vào cuộc
đấu tranh của nhân dân vì sự công bằng, dân chủ và tiến bộ xã hội.Theo đó,
tính nhân dân không hề mâu thuẫn mà thống nhất với tính Đảng. Trong
cuộc sống, sự gặp gỡ giữa lòng dân với ý Đảng tạo thành sức mạnh, vượt
qua mọi khó khăn để đạt mục tiêu của cách mạng. Trong hoạt động báo chí,
những tác phẩm thông tin, lý giải các sự kiện nóng hổi, những vấn đề sát
sườn đặt ra từ đời sống dưới ánh sáng đường lối, quan điểm của Đảng vô
sản, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân trở thành những
tác phẩm gây được tiếng vang lớn, có hiệu quả cao, được đông đảo quần chúng lao
động đồng tình.Với chức năng công cụ của công tác tư tưởng của Đảng, để

báo chí thực hiện hoàn thành nhiệm vụ của mình, Đảng phải thông tin
những vấn đề cần thiết cho báo chí một cách kịp thời và chính xác, coi
thông tin cho báo chí cũng là thông tin cho toàn Đảng và cho xã hội. Được
cung cấp các thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời là cơ sở để báo chí đảm
bảo tính đảng, tính chân thật ngay từ khâu đầu tiên. Để báo chí làm tốt chức
năng thông tin đại chúng của mình, giúp quần chúng cập nhật thông tin,
bản thân báo chí phải là người được tiếp nhận thông tin đầu tiên. Tin tức
càng chính xác, việc xử lý càng thuận lợi. Nhận thức rõ cung cấp thông tin
chính xác, kịp thời cho báo chí là nội dung lãnh đạo quan trọng. Để báo chí
23


có thông tin xác thực, đúng với bản chất sự việc, hiểu được đầy đủ các
nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến các thành tích hoặc khuyết
điểm, biết nên đưa tin, bình luận như thế nào là đúng, không ai khác, chính
là các cấp ủy đảng có quyền trực tiếp cung cấp thông tin cho báo chí. Việc
cung cấp thông tin đầy đủ chính xác, kịp thời cho báo chí thì hiệu quả lãnh
đạo của Đảng đối với xã hội sẽ cao hơn. Bên cạnh đó, nhờ có thông tin
ngược chiều, nhiều chiều từ báo chí, các quyết định của Đảng sẽ phản ánh
đúng quy luật hơn, đảm bảo tính hiện thực, tính khả thi cao, ý Đảng sẽ luôn
phù hợp với lòng dân.
Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc .Báo chí Việt Nam
hướng mọi hoạt động vào nhiệm vụ góp phần cổ vũ toàn dân đánh thắng
giặc Mỹ đồng thời đẩy mạnh hoạt động sản xuất nông nghiệp và xây dựng
những cơ sở đầu tiên của công nghiệp .Đây là hai nhiệm vụ song song
mang tính chiến lược
Trong bầu không khí tự do ,báo chí miền Bắc từng bước phát triển
cân đối ,ngoài những cơ quan thông tin ngôn luận chung ,có báo chí của
các đảng phái chính trị như báo độc lập của Đảng dân chủ ,tạp chí Tổ Quốc
của Đảng Xã hội .

Báo chí của tổ chức chính trị xã hội ,báo chí văn học ,báo chí khoa
học ,nghệ thuật ,báo chí giành riêng cho phụ nữ ,thiếu nhi… hệ thống phát
thanh quốc gia không ngừng mở rộng ,truyền hình bắt đầu được xây dựng
Từ ngày 30/7 đến ngày 2/8/1964 để có một lý do trực tiếp thuyết phục,
Quốc hộ Mỹ cho phép quân đội của họ mở rộng chiến tranh chống nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tổng thống Mỹ Yolhson đã cho lực lượng
hạm đội 7 ở Thái Bình Dương gây ra sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”. Ngay sau đó
“Nghị quyết vịnh Bắc Bộ” được thông qua, trở thành lời tuyên chiến của
chính phủ Mỹ. Giới hiếu chiến Mỹ đã đánh lừa dư luận Mỹ, sau đó ngày
5/8/1964 đã mưu toan đánh trận phủ đầu vào miền Bắc bằng không quân,
gây sức ép buộc các lực lượng cách mạng ở miền Nam phải ngưng lại cuộc
24


tiến công.Những trận tiến công “Mũi tên xuyên” của không quân Mỹ cuối
cùng không thực hiện được mục tiêu đánh phủ đầu. Sau ngày 5/8 lịch sử
ấy, Mỹ tiếp tục cho không quân, hải quân đánh phá miền Bắc, trọng điểm
là đường vận tải chiến lược Trường Sơn. Song miền bắc cũng kịp thời ứng
phó bằng hai công việc khẩn cấp nhất: chi viện tích cực hơn nữa cho miền
Nam và chiến đấu chống không quân, hải quân Mỹ theo khẩu hiệu hành
động của Nguyễn Viết Xuân: “Nhằm thằng quân thù mà bắn”.
Mỹ leo thang chiến tranh Việt Nam - cả nước kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, Đảng Lao Động Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) của
BCHTW (khóa 3) ngày 23/2/1965 đã xác định: Cả nước đang có chiến
tranh với đế quốc Mỹ…, “Cả nước đều phải tham gia đánh giặc, miền Nam
là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn”, “Sự nghiệp vĩ đại của dân
tộc ta là giải phóng cả nước và thống nhất tổ quốc đồng thời làm nghĩa
quốc tế rất lớn: đánh bại cuộc thí nghiệm có tính chất quốc tế của bọn đế
quốc do Mỹ cầm đầu”..Ngày 31/3/1965, phong trào thi đua đặc biệt được
phát động mang tên “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Ngày

17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân từ Bắc chí Nam chống
Mỹ cứu nước với quyết tâm sắt đá: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10
năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí
nghiệp có thể bị tàn phá song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không
có gì quý hợn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng
lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.Cả dân tộc bước vào trận
chiến đấu vì độc lập tự do, đó là hình ảnh rõ nét nhất về Việt Nam từ năm
1965.Tiếng nói của báo chí xã hội chủ nghĩa vẫn được xuất bản đều đặn để
phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta .Báo chí trở thành công cụ
nhạy bén nhất phát triển không ngừng cả về số lượng và chất lượng như
năm 1957 ,Miền Bắc có 134 tờ báo (5 tờ báo hàng ngày ,5 tờ báo tuần /2
kỳ ,10 tờ báo tuần /1 kỳ ,6 tờ tháng /2 kỳ ,13 tờ tháng /1 kỳ ,50 tờ báo
ngành ,45 tờ báo địa phương )
25


×