Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP CHO vấn đề TIÊU THỤ NÔNG sản ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.56 KB, 31 trang )

Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

MỤC LỤC
PHẦN I................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU................................................................................................. 1
PHẦN II: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI.........................................................3
PHẦN III: Nội dung nghiên cứu...........................................................5
1. Những biến đổi, phát triển của thị trường tiêu thụ nông sản..............5
2. Những tồn tại trong tiêu thụ nông sản và nguyên nhân......................8
2.1. Những tồn tại trong tiêu thụ nông sản...............................................8
2.2. Các nguyên nhân.............................................................................10
3. Một số đề xuất nhằm thúc đẩy, phát triển, tiêu thụ nông sản...........12
3.1. Những căn cứ đề xuất......................................................................12
3.2. Các đề xuất nhằm thúc đẩy, phát triển thị trường tiêu thụ nông, sản
phẩm........................................................................................................16

PHẦN IV: KẾT LUẬN........................................................................ 29
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................30


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

PHẦN I
MỞ ĐẦU
Trong hơn 25 năm qua, thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và
nhà nước, kinh tế Việt nam đã có những bước chuyển mình to lớn cả về chất
và về lượng. Trong đó có thể nói nông nghiệp là lĩnh vực đạt được nhiều
thành tựu to lớn nhất, nổi bật nhất, có những bước phát triển khá mạnh mẽ và
toàn diện.Tốc độ tăng trưởng bình quân của nông nghiệp, thuỷ sản đạt kết quả
cao, riêng lương thực năm 2009 tăng 2,5 triệu tấn so với năm 2008, đáp ứng
cơ bản nhu cầu lương thực và thực phẩm trong nước, giữ vững an ninh lương


thực quốc gia. Trong một thời gian không dài, từ một nền nông nghiệp tự cấp,
tự túc ,nông nghiệp đã vươn lên trở thành một ngành sản xuất hàng hoá lớn,
có sức cạnh tranh ngày càng cao trong quá trình hội nhập quốc tế.
Cùng với những thành tựu đạt được trong nông nghiệp ,đời sống nông
dân và bộ mặt nông thôn Việt Nam cũng có những biến đổi tích cực : Cơ sở
hạ tầng nông thôn được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người đã đạt
715USA năm 2009, tỷ lệ nghèo đói giảm từ 14,7% ( năm 2007) xuống còn
11,7% (năm 2008), nhiều bệnh viện, trường học mới được xây dựng lên ở
nhiều vùng nông thôn trong cả nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được,nếu so sánh với yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và so với các nước trong khu
vực thì nông nghiệp và nông thôn nước ta còn nhiều yếu kém và thách thức
như : Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn, tình trạng nghèo đói còn gay
gắt ở vùng sâu, vùng xa; cơ sở hạ tầng ở nông thôn chưa đáp ứng được yêu
cầu của một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn....
Trong những khó khăn, thách thức kể trên,vấn đề tiêu thụ nông sản sau
thu hoạch đang là vấn đề bức xúc nhất không chỉ đối với nông dân mà còn là
trăn trở của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách.Tại sao được
1


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

mùa mà người nông dân không phấn khởi? Đây là một câu hỏi lớn, một trong
những vấn đề cấp thiết phải được giải quyết tức thời, nhằm đưa nền nông
nghiệp Việt Nam có thể phát triển ngang tầm với nông nghiệp của các nước
phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Thực hiện đề tài: “Thực trạng và giải pháp cho vấn đề tiêu thụ nông
sản ở Việt nam” , nhằm giúp em góp thêm một tiếng nói riêng và có một
cách nhìn nhận chính xác về những tồn tại, yếu kém trong khâu tiêu thụ sản

phẩm nông nghiệp, và một số đề xuất của bản thân nhằm góp một phần nào
đó đưa nền sản xuất nông nghiệp Việt nam có những bước tiến mới , phát
triển ngang tầm với các quốc gia khác, thực sự trở thành ngành sản xuất hàng
hoá chính trong nền kinh tế quốc dân.

2


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

PHẦN II:
TỔNG QUAN ĐỀ TÀI
Tiêu thụ nông sản phẩm là một khâu rất quan trọng trong quá trình tái
sản xuất nông nghiệp. Nó là khâu cuối cùng kết thúc quá trình sản xuất,tức là
giải quyết khâu đầu ra của quá trình sản xuất. Từ quá trình tiêu thụ sản
phẩm,sẽ thu được nguồn tiền để bù đắp các chi phí tham gia vào quá trình
sản xuất và tái sản xuất mở rộng.
Tiêu thụ nông sản là giai đoạn làm cho sản phẩm ra khỏi quá trình sản
xuất và bước vào lưu thông, đưa sản phẩm từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực
tiêu dùng. Nếu tổ chức tốt và có hiệu quả việc tiêu thụ nông sản sẽ có tác
dụng mạnh mẽ đến quá trình sản xuất. Tiêu thụ hết và kịp thời sản phẩm làm
ra là một tín hiệu tốt cho doanh nghiệp bổ sung, điều chỉnh kế hoạch sản xuất
cho quá trình tiếp theo. Giá trị sản phẩm được thực hiện cho phép doanh
nghiệp sử dụng hợp lí vốn sản xuất, tránh ứ đọng vốn và nhanh chóng và kịp
thời sản phẩm làm ra còn rút ngắn được thời gian lưu kho, lưu thông và chu kì
sản xuất kinh doanh của sản phẩm. Như vậy, tiêu thụ tốt sản phẩm là cơ sở
thông tin về thị trường cho người sản xuất. Ngược lại sản phẩm không tiêu
thụ được là tín hiệu xấu đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm ra nguyên nhân để từ
đó có những giải pháp kịp thời điều chỉnh cho phù hợp.
Đối với lĩnh vực tiêu dùng ,tiêu thụ tốt sản phẩm sẽ đáp ứng kịp thời nhu

cầu tiêu dùng, đồng thời còn có tác dụng điều chỉnh và hướng dẫn tiêu dùng
mới ,đặc biệt đối với những sản phẩm mới. Trong điều kiện kinh tế thị trường,
sản xuất phải hướng tới tiêu dùng và lấy tiêu dùng làm mục tiêu để tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò quan trọng
hàng đầu trong cầu nối này. Thông qua tiêu thụ sản phẩm, các nhà sản xuất sẽ
nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng về số lượng, chất lượng, mẫu mã
,chủng loại mặt hàng. Tiêu thụ sản phẩm là một hoạt động nằm trong lĩnh vực
lưu thông, có nhiệm vụ chuyển tải những kết quả của lĩnh vực sản xuất sang
3


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

lĩnh vực tiêu dùng. Vì vậy tiêu thụ sản phẩm kịp thời và nhanh chóng là tiền
đề quan trọng trong thực hiện phân phối sản phẩm và kết thúc quá trình sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
Đây là một khâu không thể thiếu được đối với bất kì hoạt động sản xuất
nào, vì vậy vấn đề này phải luôn được đặt vào một trong những vấn đề phải
quan tâm giải quyết hàng đầu và phải luôn có những chính sách thích hợp để
thúc đẩy phát triển.

4


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

PHẦN III:
Nội dung nghiên cứu

1. Những biến đổi, phát triển của thị trường tiêu thụ nông sản.

* Trong nước:
Sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam rất đa dạng, phong phú và phức
tạp, nhưng trong những năm qua nhờ tổ chức tốt kênh tiêu thụ sản phẩm nên
đã góp phần vào tăng trưởng nền kinh tế. Trước đây việc tiêu thụ nông sản
phẩm ở Việt Nam do Nhà nước tổ chức rất chặt chẽ và khép kín. Hệ thống
kênh tiêu thụ như vậy có tác dụng cho kháng chiến và cho phân phối nhưng
mặt khác đã làm sản xuất chậm phát triển, lưu thông chậm, giảm sức mua,
từng vùng từng địa phương chỉ biết mình, không được tự do mua bán.
Đến nay nhờ có chính sách tự do hóa thương mại nên mọi người, mọi
thành phần kinh tế đều đã được tự do tham gia vào các kênh tiêu thụ nông sản
phẩm. Ngược lại với tình hình trước đây do Nhà nước tổ chức quản lý chặt
chẽ thì hiện nay kênh tiêu thụ sản phẩm có đặc điểm chủ yếu là do tư nhân
quản lý chi phối. Các kênh gián tiếp bước đầu phát triển khá như: kênh lương
thực, thực phẩm cung cấp đi các nước, kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ
đạo trong xuất khẩu. Mạng lưới tiêu thụ tuy chưa đồng đều giữa các vùng
nhưng cũng đã góp phần phân phối một lượng lớn khối lượng nông sản phẩm.
Phát triển thị trường nông nghiệp trong Giai đoạn đổi mới: Nhờ có Nghị
quyết 10 của Bộ Chính trị ra đời (5/4/1988) với nội dung là xác định giao
ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân, hóa giá trâu bò cày kéo, tài sản cố định có
giá trị lớn. Xóa bỏ phân phối theo ngày công, hộ nông dân được coi là đơn vị
kinh tế tự chủ, nhờ vậy sản xuất nông nghiệp hàng hoá đạt được thành tựu to
lớn. Chúng ta đã bước đầu khắc phục được tình trạng khủng hoảng về thị
trường trong tiêu thụ nông sản, kinh tế nông nghiệp trong nước phát triển,
quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng đã nâng cao vị thế của Việt Nam
5


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

trên trường quốc tế. Các chính sách, cơ chế hỗ trợ khuyến khích phát triển

thương nhân, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, xúc tiến thương mại, kích cầu,
cải thiện môi trường đầu tư, cải thiện kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất kinh
doanh và đời sống trong nông nghiệp nông thôn... đã góp phần làm phong phú
và sống động hoạt động thương mại trên thị trường nông nghiệp nông thôn.
* Biến đổi của thị trường tiêu thụ quốc tế:
Với phương châm xuất khẩu để tăng trưởng kinh tế, trong 10 năm qua,
xuất khẩu nông sản nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Kim ngạch
xuất khẩu nông sản tăng khá nhanh, đạt tốc độ tăng bình quân cao. Cho đến
nay, kim ngạch xuất khẩu nông sản chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước đạt 15 tỉ USA năm 2009 và là một trong những nguồn thu
ngoại tệ chủ yếu ở nước ta.
Với điều kiện của một nền nông nghiệp nhiệt đới phát triển trên cơ sở
khai thác tài nguyên sinh học đa dạng, Việt Nam có khả năng cung cấp cho
thị trường quốc tế chủng loại hàng hoá nông sản đa dạng, từ lương thực, thực
phẩm, đến các loại nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Đồng thời, việc hội
nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới, việc phát triển xuất khẩu các
sản phẩm nông nghiệp hoặc các sản phẩm có nguồn gốc nông nghiệp trở
thành yêu cầu tất yếu.
Trong những năm qua, việc xuất khẩu các loại hàng hoá này có những
kết quả tích cực cả trên phương diện chủng loại hàng hoá, khối lượng và
phạm vi thị trường. Nhiều sản phẩm đã thâm nhập được vào những thị trường
có đòi hỏi khắt khe về chất lượng, như thị trường EU, Nhật Bản. Tuy vậy,
việc mở rộng thị trường quốc tế cho phát triển sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp chế biến vẫn đang là vấn đề nan giải. Để tham gia có hiệu quả vào các
quan hệ thương mại quốc tế, đòi hỏi chi phí sản xuất hàng hoá nông sản trong
nước phải thấp hơn, hoặc ngang bằng với những nước có điều kiện tương tự.
Muốn đạt yêu cầu này đòi hỏi phải có sự chuyển biến mạnh mẽ về năng suất
lao động nông nghiệp, năng suất ruộng đất và năng suất vật nuôi .
6



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Đồng thời, phải xác định rõ hơn cơ cấu sản phẩm nông nghiệp và sản
phẩm có nguồn gốc nông nghiệp xuất khẩu phù hợp với yêu cầu thị trường
trong từng giai đoạn phát triển, trong đó xác định rõ các sản phẩm chủ lực
xuất khẩu. Phải phấn đấu làm cho các sản phẩm xuất khẩu có khả năng đáp
ứng toàn diện nhu cầu của thị trường, trong đó chú trọng những thị trường có
đòi hỏi đặc biệt khắt khe, như Nhật Bản, Tây Âu, Bắc Mỹ. Chỉ có lấy những
yêu cầu của các thị trường đó làm hướng đích, mới có quyết tâm chiến lược
với những bước đi thích hợp tạo cho hàng hoá nông sản nước ta có thế cạnh
tranh cao trên thị trường khu vực và thế giới.
Bên cạnh những kết qu¶ đạt được thì thị trường trong nước còn ở trình
độ thấp, thị trường nông thôn chưa phát triển, chưa thiết lập được mối liên kết
giữa ngêi sản xuất và thương nhân, giữa thương mại nhà nước Trung ương và
các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế, giữa xuất khẩu và nhập khẩu...
để tạo ra các kênh lưu thông hàng hoá hợp lý và ổn định từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm. Thị trường trong nước chưa thực sự làm cơ sở vững chắc để
mở rộng và tham gia quá trình hội nhập với thị trường quốc tế. Khả năng cạnh
tranh của nhiều doanh nghiệp, nhiều mặt hàng còn yếu. Thương nghiệp tư
nhân tuy đông đảo nhưng nhỏ bé, hoạt động kinh doanh và sử dụng nguồn
lực hiệu quả thấp, chưa xuất hiện nhiều mô hình kinh doanh đạt hiệu quả cao.
Quy mô thị trường nhỏ bé, khả năng cạnh tranh trên thị trường của hàng hoá
nông sản Việt Nam, của các doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Các chính sách về
thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản còn nhiều bất cập. Nhà nước cần tạo
môi trường hành lang pháp lý và điều kiện để phát triển sản xuất hàng hoá và
tạo cơ sở cho thị trường phát triển. Nhà nước điều tiết quản lý thị trường bằng
các công cụ quản lý vĩ mô theo luật định và tích cực chuẩn bị cho các doanh
nghiệp tham gia hội nhập một cách có hiệu quả nhất phù hợp với từng giai
đoạn phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp.


7


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

2. Những tồn tại trong tiêu thụ nông sản và nguyên nhân.
2.1. Những tồn tại trong tiêu thụ nông sản.
Thứ nhất, hầu hết các loại nông sản sau thu hoạch đều có tình trạng tồn
đọng . Thực tế cho thấy,khi chưa đến vụ thu hoạch thì hàng hoá trở nên khan
hiếm , có thể có hiện tượng đột biến về giá cả, nhưng khi vào vụ thu hoạch thì
bắt đầu xuất hiện tình trạng dư thừa sản phẩm , giá nông sản tụt xuống thê
thảm , gây thiệt hại cho người kinh doanh , đặc biệt là người nông dân .
Đây chính là điều phản ánh sự yếu kém trong sản xuất nông nghiệp ở
nước ta, luôn luôn động viên tăng cường sản xuất, tăng sản lượng nhưng
không hề chủ động trong việc nắm thông tin về đầu ra, hay chủ động về thông
tin về giá cả của các loại nông sản.
Thứ hai, điều kiện trao đổi hàng hoá bất lợi cho nông dân. Trong tất cả
các kênh phân phối liên quan đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân
ở nông thôn đều có sự tham gia phổ biến của tiểu thương, dẫn đến điều bất
hợp lý là phân phối sản phẩm qua quá nhiều khâu trung gian, dẫn đến làm
chậm quá trình lưu thông sản phẩm gây ách tắc dẫn đến tồn đọng giả tạo.
Điều đó thể hiện rõ nét trong sự chênh lệch về giá cả hàng hoá nông sản và
giá cả hàng hoá công nghiệp và dịch vụ. Trong khi giá nông sản tăng chậm
hoặc không tăng, thậm chí giảm sút thì giá cả các loại hàng hoá mà người
nông dân phải mua lại ổn định hoặc gia tăng. Như vậy, khi mất mùa hay được
mùa, người nông dân luôn phải đối mặt với sự lo lắng, phiền muộn là bị người
mua ép giá. Họ không có sự lựa chọn nào khác là phải chấp nhận những điều
kiện rất phi lý do người mua đặt ra.
Để giải quyết tình trạng này, Nhà nước cũng đã ban hành một số chính

sách bảo hộ quyền lợi của nông dân trong trao đổi hàng hoá, ấn định mức giá
tối thiểu của các mặt hàng nông sản, hỗ trợ các doanh nghiệp thương mại nhà
nước thu mua hàng hoá của nông dân trong vụ thu hoạch. Tuy nhiên, chính
sách này chỉ có tác dụng nhất thời và còn nhiều bất cập, hạn chế trong quá
trình thực hiện.
8


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Thứ ba, mặc dù sản xuất ra nhiều loại nông sản, nhưng người dân vẫn
chưa bám sát nhu cầu của thị trường. Trong sản xuất nông nghiệp phổ biến
vẫn là “ bán cái mình có chưa phải bán cái thị trường cần”, mang đậm nét tình
trạng xuất phát từ cung, tức là xuất phát từ khả năng và truyền thống sản xuất,
chưa hoàn toàn sản xuất theo yêu cầu. Phương hướng sản xuất này quá lỗi
thời, chỉ phù hợp với điều kiện cung nhỏ hơn cầu, sản xuất và tiêu dùng khép
kín trong phạm vi quốc gia, thậm chí trong từng vùng. Nhưng trong điều kiện
hội nhập kinh tế như ngày nay, nguyên tắc cơ bản chi phối sản xuất phải là
“sản xuất và đưa ra thị trường cái mà thị trường cần, chứ không phải đưa ra
thị trường cái mà mình có”. Thực tế trong tiêu thụ nông sản ở cả nội địa và
xuất khẩu, nhiều nông sản đưa ra không được người mua chấp nhận, chính là
do không phù hợp về chủng loại, số lượng, chất lượng của nhiều loại nông sản
thực phẩm, dẫn đến tình trạng người tiêu dùng ngày càng cảnh giác với nhiều
loại nông sản về khả năng bảo đảm an toàn và vệ sinh thực phẩm.
Thứ tư, mặc dù nông thôn là địa bàn rộng lớn nhưng sức mua lại hạn
chế, nhất là sức mua các mặt hàng nông sản đã qua chế biến. Không phải là
người dân không có nhu cầu tiêu dùng mặt hàng này, mà là thu nhập của họ
quá thấp để có thể mua lại các sản phẩm mà chính họ đã làm ra. Thực tế, vào
các siêu thị bán các mặt hàng chế biến từ nông sản, ta có thể dễ dàng thấy các
mặt hàng , mẫu mã chẳng thua kém đồ ngoại nhập, nhưng chỉ mới qua khâu

chế biến thôi mà giá cả đã quá xa vời đối với người nông dân. Vậy thì, liệu
người nông dân có dám “chạm tay” vào các sản phẩm mình đã làm ra. Đến
khi nào thu nhập của người nông dân được cải thiện để có thể được hưởng thụ
những gì đáng ra phải thuộc về họ, ít nhất cũng là đầy đủ các nhu cầu thiết
yếu của cuộc sống.
Thứ năm, năng lực chế biến nông sản thực phẩm và công nghệ bảo quản
sau thu hoạch còn nhiều hạn chế, gây ra hiện tượng ế thừa giả, gây thất thu
cho nông dân. Ta có thể thấy rõ điều này qua sự thua thiệt không đáng có về
cả giá bán và chất lượng của các sản phẩm xuất khẩu. Mặc dù đã có nhiều cố
9


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

gắng trong việc đầu tư đổi mới, trang bị thêm một số thiết bị hiện đại ,nhưng
vẫn phải thừa nhận rằng các sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến của ta còn
có một khối lượng lớn chưa đạt được tiêu chuẩn gắt gao của thị trường thế
giới, các sản phẩm đó hoặc không đạt tiêu chuẩn hoặc bị khách hàng ép giá,
mua với giá rẻ hơn so với các sản phẩm cùng loại của các nước khác . Chính
vì sự yếu kém này còn dẫn đến hậu quả bản thân công nghiệp chế biến cũng
đang gặp ách tắc về tiêu thụ hàng hoá của mình, do vậy không đủ sức đóng
vai trò kích thích phát triển tiêu thụ hàng hoá trong nông nghiệp.
Thứ sáu, việc tiêu thụ nông sản còn gặp khó khăn về điều kiện giao lưu
hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Yếu tố cơ bản trong điều kiện này
là sự phát triển còn thấp kém của giao thông vận tải. Tuy đã có những cải
thiện nhất định, nhưng hệ thống hạ tầng kĩ thuật nói chung, hệ thống giao
thông nói riêng của chúng ta còn quá thấp so với yêu cầu khai thác các vùng
có tiềm năng nông nghiệp và mở rộng giao lưu trao đổi hàng hoá. Ngoài ra
các nơi diễn ra giao dịch hàng hoá như chợ, trung tâm thương mại còn chưa
được đầu tư thoả đáng ,qui mô và điều kiện chưa đáp ứng được các yêu cầu

trao đổi.
Những tồn tại, ách tắc trong quá trình tiêu thụ nông sản đang là một
trong những trở ngại lớn trong sự phát triển sản xuất nông nghiệp ở nước ta.
Cần phải xác định được nguyên nhân trung tâm của các tồn tại trên, để từ đó
có những giải pháp hữu hiệu và tức thời để đẩy nhanh, bền vững và có hiệu
quả sản xuất nông nghiệp cũng như sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2.2. Các nguyên nhân.
Các nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp thì có nhiều, xét cả về mặt chủ quan và khách quan. Tuy nhiên qua quá
trình phân tích những tồn tại trên, ta có thể đưa ra một số nhóm nguyên nhân
chính như sau:
* Nhóm nguyên nhân về sản xuất - chế biến:
10


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

- Sản xuất nông nghiệp của nước ta vẫn còn mang nặng tính tự cung, tự
cấp .
- Cơ sở hạ tầng cho vùng nguyên liệu và chế biến nông sản chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn.
- Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có chuyển biến mới nhưng
vẫn còn chậm và chưa rõ ràng, chưa thoát khỏi tính chất thuần nông, độc
canh, tỷ suất hàng hóa còn thấp, cơ cấu sản xuất chậm biến đổi và chưa phát
huy được lợi thế của các vùng sinh thái. Sản xuất nông nghiệp chưa thực sự
gắn bó với công nghiệp chế biến. Ngành nghề dịch vụ trong nông thôn phát
triển chậm, chưa hình thành được thế phân công lao động tại chỗ trong nông
thôn.
- Công nghệ sau thu hoạch nhìn chung đang ở trong tình trạng cũ kỹ, lạc

hậu; chế biến tiêu hao nguyên liệu cao nhưng chất lượng thấp, chưa đáp ứng
được yêu cầu cả trong nước lẫn nước ngoài. Cơ cấu mặt hàng đơn điệu, không
có sự khác biệt so với các nước trong khu vực nên bị thua thiệt và ít có lợi thế
trong cạnh tranh trên thị trường.
* Nhóm nguyên nhân về tiêu thụ và thị trường:
- Thị trường nông sản bị thả nổi và không ổn định nên kém phát triển
- Hiện nay nông sản xuất khẩu ở dạng thô chiếm tỉ lệ cao. Do vậy thị
trường xuất khẩu của chúng ta tuy nhiều nhưng thiếu các bạn hàng lớn và
không vững chắc. Nhiều mặt hàng phải xuất qua trung gian nên bị ép giá, hiệu
quả không cao, mất lãi ròng, dẫn đến thu nhập của người sản xuất và xuất
khẩu thấp.
- Khả năng cạnh tranh của nông sản Việt nam chưa cao do chưa phù hợp
với nhu cầu tiêu dùng của thị trường và chất lượng thường kém hơn các sản
phẩm cùng loại của các nước khác.
Công tác nghiên cứu thị trường,xúc tiến thương mại, tiếp thị mở rộng thị
trường còn nhiều yếu kém ,các doanh nghiệp lại không năng động trong quá
trình tiếp xúc với thị trường.
11


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

* Nhóm nguyên nhân về cơ sở hạ tầng:
- Cơ sở hạ tầng ở đây trước hết là giao thông ,vận tải, nghĩa rộng hơn là
các hệ thống chợ,trung tâm thương mại, giao dịch, các công trình thuỷ lợi.
đây là các yếu tố hết sức quan trọng đối với đời sống và sản xuất, quyết định
rất lớn đối với quá trình tiêu thụ nông sản, nhưng vẫn chưa có những chính
sách đầu tư thoả đáng, vì vậy còn rất thiếu sự đồng bộ, lạc hậu.
- Tuy cơ sở hạ tầng của nông thôn có cải thiện sau hơn 20 năm đổi mới,
nhưng thực tế là còn nhiều khu vực còn thiếu các công trình cơ sở hạ tầng cơ

bản. Sự thấp kém cơ sở hạ tầng này tập trung chủ yếu ở các xã Trung du,
miền núi phía Bắc, khu IV cũ, Duyên hải miền Trung và Tây nguyên.
* Nhóm nguyên nhân về hệ thống chính sách:
- Hiện nay, có một số chính sách do nhà nước đề ra đã không còn phù
hợp với điều kiện kinh tế mới, nhưng vẫn chưa được điều chỉnh, nhất là các
chính sách về thị trường,tín dụng, về phát triển khoa học công nghệ,đào tạo
nhân lực trong nông nghiệp ,nông thôn ; làm kìm hãm phát triển sản xuất
nông nghiệp nói chung, tiêu thụ nông sản nói riêng.
- Hệ thống quản lí Nhà nước còn nhiều bất cập, quan tâm nhiều đến chỉ
đạo sản xuất , nhưng chưa làm tốt nhiệm vụ gắn sản xuất với thị trường, chưa
tìm được những đầu ra ổn định và lâu dài cho tiêu thụ nông sản, chưa làm tốt
công tác quản lí chất lượng nông sản hàng hoá,công tác tiếp thị sản phẩm.
3. Một số đề xuất nhằm thúc đẩy, phát triển, tiêu thụ nông sản.
3.1. Những căn cứ đề xuất
* Xuất phát từ bối cảnh thị trường trong nước và quốc tế có những biến
động to lớn trong những năm qua, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông
nghiệp, đặc biệt là trong tiêu thụ nông sản.
- Thị trường tiêu thụ trong nước:

12


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Nếu trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây, Nhà nước hoàn toàn
bao tiêu sản phẩm, các Hợp tác xã sản xuất theo kế hoạch được Nhà nước
giao, thì trong thời gian qua, thị trường nông sản có xu hướng gần như bị thả
nổi, người nông dân phải tự lo liệu việc tiêu thụ hàng hoá sản xuất ra. Nhà
nước đã đặt ra nhiều chính sách để hạn chế sự thả nổi trên, nhưng hầu hết các
chính sách đều thiếu những luận chứng khoa học rõ ràng, đầy đủ, dẫn đến các

chính sách chỉ có hiệu lực trong nhất thời. Điều này gây bất lợi cho cả người
nông dân và cho cả phía Nhà nước, vì người nông dân trực tiếp chịu sự điều
tiết tự phát của thị trường, bị thiệt thòi trong quá trình trao đổi, còn những
mục tiêu định hướng của Nhà nước cũng không thu được kết quả cao.
Đứng trước tình hình đó, muốn nền nông nghiệp tiếp tục phát triển và
hoàn thiện, đòi hỏi Nhà nước, các nhà hoạch định chính sách phải có những
định hướng chung, và cả những định hướng cụ thể cho nông sản ở từng vùng,
dựa trên những phân tích dự báo thị trường cụ thể và khoa học.
- Thị trường nông sản xuất khẩu:
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, thương mại
nông nghiệp Việt Nam cũng như thế giới đang có những sự vận động mới mẻ,
đưa tới cho chúng ta cả nhưng cơ hội cũng như thách thức to lớn. Là quốc gia
được thiên nhiên ưu đãi cho nhiều điều kiện phát triển một nền sản xuất nông
nghiệp đa dạng, từ lương thực, thực phẩm, đến các loại nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến, trong những năm vừa qua, ngành xuất khẩu nông sản đã có
những bước tiến vượt bậc, trở thành một trong những ngành chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng thu nhập quốc dân, kim ngạch xuất khẩu tăng khá nhanh. Tuy
nhiên, tốc độ tăng của giá trị xuất khẩu hàng nông sản vẫn giảm sút so với
mức tăng của giá trị xuất khẩu hàng hoá. Điều này thể hiện những hạn chế
trong việc gia tăng giá trị xuất khẩu hàng nông sản chưa tương xứng với tiềm
năng sản xuất các sản phẩm nông nghiệp ở nước ta. Điểm tồn tại lớn nhất hiện
nay trong xuất khẩu nông sản nước ta là sức cạnh tranh của các mặt hàng xuất
khẩu. So với các nước khác, nếu xuất khẩu cùng loại mặt hàng thì giá cả của
13


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

hàng xuất khẩu Việt Nam bao giờ cũng thấp hơn nhiều. Các mặt hàng của
Việt Nam thường có chất lượng thấp, mức độ chế biến chưa cao và mang tính

đơn điệu. Ngoài nguyên nhân do chúng ta chưa tiếp cận được đến những thị
trường cuối cùng, có thể kể đến nguyên nhân là danh mục mặt hàng xuất khẩu
của chúng ta quá nhiều nhưng chỉ chú trọng quá mức vào các sản phẩm sẵn có
để sản xuất và xuất khẩu các nông sản khác chậm cải tiến giá trị thương mại
của các sản phẩm để đưa ra thị trường.
Bên cạnh đó là sự khó khăn trong việc tìm kiếm một thị trường tiêu thụ
ổn định và lâu dài cho tiêu thụ nông sản . Sau sự sụp đổ của thị trường các
nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và các nước Đông Âu từ cuối những năm
1990, đã xuất hiện sự chuyển hướng thị trường xuất khẩu hàng nông sản sang
các khu vực thị trường khác, trong đó chủ yếu tập trung vào các nước
ASEAN và các nước châu Á khác. Phần lớn các thị trường này là thị trường
tái xuất hoặc thị trường không ổn định. Do vậy vấn đề tìm kiếm thị trường
xuất khẩu ổn định và thị trường tiêu thụ cuối cùng là vấn đề sống còn đối với
phát triển xuất khẩu nông sản ở Việt Nam hiện nay.
* Căn cứ vào kết quả nghiên cứu thực trạng tiêu thụ nông sản ở nước ta.
Như trên đã nói ,từ khi đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, bước vào hội nhập
kinh tế quốc tế, vấn đề tiêu thụ nông sản ở nước ta đã có những biến chuyển
tích cực, tuy vậy vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Xét trên bình diện
chung, thị trường nông thôn nước ta được hình thành và phát triển mang tính
tự phát, mang sắc thái của nền kinh tế nhỏ, phân tán. Vấn đề nghiên cứu và
tìm kiếm thị trường, xác định qui mô, yêu cầu chất lượng tính toán chi phí,giá
cả như thế nào là những vấn đề mà người nông dân gặp không ít khó khăn.
Thực tế là Nhà nước luôn động viên người nông dân mở rộng sản xuất, nâng
cao sản lượng, nhưng không tìm cho họ một đầu ra ổn định, dẫn đến người
nông dân luôn là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất.Thậm chí có lúc họ phải
triệt phá cây đang độ thu hoạch để trồng loại cây khác, loại bỏ giống vật nuôi
này để thay bằng giống vật nuôi khác cốt sao để có thể tiêu thụ được sản
14



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

phẩm. Như vậy đã làm thiệt hại hàng trăm tỉ đồng cho nhà nước và bản thân
người nông dân.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhiều nơi đang thực hiện
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá ,việc hình
thành vùng lúa xuất khẩu ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Đồng bằng Sông
Hồng, các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả, mở rộng các làng
nghề truyền thống; nhưng vẫn gặp khó khăn trong việc tìm đầu ra.Trên thực
tế, việc tìm kiếm thị trường vẫn tuỳ thuộc vào khả năng của nông dân, chưa
thực sự được sự đầu tư và hỗ trợ từ phía các cơ quan có chức năng. Khi
người nông dân sản xuất ra sản phẩm hàng hoá ,thương nhân cần thì mua, nếu
không cần thì bỏ mặc người dân tự xoay xở với hàng hoá của mình, hoặc chèn
ép người nông dân phải bán với mức giá rẻ mạt.
Không những thế, sản phẩm nông nghiệp là những sản phẩm dễ thối
hỏng và khó bảo quản, muốn để được lâu dài và chờ tiêu thụ thì yêu cầu phải
có một quá trình chế biến và bảo quản. Tuy nhiên, thực tế ở nước ta là công
nghệ chế biến còn quá lạc hậu và thấp kém về qui mô, không có khả năng tiêu
thụ được lượng nông sản hàng hoá với số lượng khi được mùa , trúng vụ.
Cũng chính vì vậy ,sản phẩm chế biến ra thường có giá cao ,dẫn đến làm giảm
khả năng cạnh tranh của nông sản trên thị trường so với các sản phẩm cùng
loại của các nước khác.
Xuất phát từ những căn cứ trên, chúng ta thấy rằng thị trường tiêu thụ
hàng nông sản cũng như thị trường nông nghiệp, nông thôn còn chưa thực sự
phát triển . Để có thể thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp và nông thôn cần phải sớm tìm ra ngay những hướng đi
và giải pháp thích hợp, trước mắt là tìm ra các giải pháp nhằm thúc đẩy , phát
triển thị trường tiêu thụ nông sản phẩm.

15



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

3.2. Các đề xuất nhằm thúc đẩy, phát triển thị trường tiêu thụ nông, sản
phẩm.
a. Nâng cao chất lượng nông sản và hoàn thiện quy cách, mẫu mã.
Một trong những nguyên nhân có tính bao trùm cản trở khả năng và hiệu
quả xuất khẩu nông sản là do chất lượng sản phẩm không cao, không ổn định,
không đồng đều, khối lượng phân tán nhỏ bé, mẫu mã không hấp dẫn... Do
vậy giải pháp về nâng cao chất lượng sản phẩm là giải pháp cơ bản, có tính
chiến lược lâu dài, cần phải thực hiện kịp thời các nội dung sau:
* Quy hoạch và đầu tư một cách đồng bộ tạo vùng sản xuất hàng hóa tập
trung và vùng nguyên liệu có chất lượng cao phục vụ cho chế biến và xuất
khẩu.
* Nâng cao đầu tư và áp dụng các tiến bộ khoa học- công nghệ, trước hết
là cải tiến công tác giống nhằm tạo các giống có năng suất cao, chất lượng tốt,
cải tiến biện pháp canh tác để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, bảo vệ
môi trường, sản xuất các sản phẩm sạch.
* Đầu tư đổi mới công nghệ chế biến bảo quản, cần xây dựng các
chương trình: "hỗ trợ đổi mới công nghệ trong nông nghiệp nói chung, đối với
những mặt hàng nông sản xuất khẩu nói riêng". Tập trung chủ yếu vào khâu
thu hoạch, bảo quản, chế biến với những công nghệ tiên tiến, hiện đại, đẩy
mạnh chế biến và tinh chế nông sản, đa dạng hóa sản phẩm chế biến, đáp ứng
yêu cầu và thị hiếu ngày càng đa dạng của thị trường.
b. Phát triển công nghệ chế biến, bảo quản nông sản.
Trong những năm qua, mặc dù sản xuất nông nghiệp tăng lên, tạo nguồn
nguyên liệu dồi dào cho phát triển công nghiệp chế biến, nhưng cũng chưa
hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu phát triển của công nghiệp chế biến cả về
tiêu chuẩn nguyên liệu lẫn cơ cấu sản phẩm... Hoạt động của ngành công

nghiệp chế biến nông sản ở nước ta chưa đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp
phát triển nông nghiệp, nhất là trong giai đoạn đầu của đổi mới kinh tế, bộc lộ
rõ nét sự bất cập của công nghiệp chế biến với yêu cầu phát triển của một nền
16


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

nông nghiệp hàng hóa. Hầu hết thiết bị trong công nghiệp chế biến nông sản ở
nước ta đều cũ, hỏng, lạc hậu; danh mục sản phẩm được chế biến quá ít và
đơn điệu; tỷ lệ sản lượng nông sản chế biến quá thấp; chất lượng sản phẩm
chế biến chưa hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và ngoài
nước; tỷ lệ hao hụt nguyên liệu cao...
Mặt khác ,trên thị trường nội địa, các doanh nghiệp công nghiệp chế biến
nông sản là hộ tiêu thụ lớn nhất của nông nghiệp. Khả năng mở rộng phạm vi
thị trường này phụ thuộc trực tiếp vào quy mô, trình độ và cơ cấu các doanh
nghiệp công nghiệp chế biến nông sản. Bởi vậy, để tạo thị trường ngày càng
rộng và ổn định cho sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ nông sản, cần chú trọng
phát triển các doanh nghiệp công nghiệp này cùng với việc tháo gỡ những khó
khăn mà chúng đang gặp phải .
Từ đó nên tập trung thực hiện các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển
công nghệ chế biến ,bảo quản nông sản sau thu hoạch, nâng cao chất lượng
nông sản tiêu thụ trong nước và hướng đẩy mạnh xuất khẩu:
- Tăng cường năng lực chế biến hàng nông sản thông qua khuyến khích
chuyển dịch cơ cấu nông sản sang sản phẩm chế biến sâu, đầu tư đồng bộ và
nâng cấp thiết bị các cơ sở chế biến, kêu gọi đầu tư từ nước ngoài hoặc liên
doanh hoặc đầu tư tư nhân, cấp tín dụng cho xây dựng các cơ sở chế biến
nông sản.
- Đối với các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản, nên
khuyến khích các công ty chế biến, thương mại mở rộng các đại lý thu mua dưới các hình thức hợp đồng với nông dân. Tạo mô hình liên kết "thương mại chế biến - sản xuất nguyên liệu" .

- Nhà nước nên hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp quốc doanh chuyên
nhận bảo quản, thu mua,chế biến nông sản ngay trên địa bàn nông thôn. Các
doanh nghiệp này sẽ được tài trợ ban đầu (từ 3 - 5 năm) để có thể hoạt động.
Trong thời gian 3 - 5 năm tiếp theo sẽ chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế
thu bù chi, được miễn một số nghĩa vụ nộp ngân sách cho Nhà nước cho đến
17


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

khi có lãi. Sau đó trở đi, sẽ được chuyển thành các cơ sở tự hạch toán, hoạt
động trên cơ sở có lợi nhuận.
c. Tổ chức quy hoạch sản xuất, bố trí sản xuất tập trung, chuyên môn
hoá, đa dạng hoá các sản phẩm.
- Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với
thế mạnh của từng vùng:
Trước hết, Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công
nghiệp, Bộ Thương mại, các Bộ và địa phương căn cứ vào dự báo nhu cầu thị
trường trong và ngoài nước, thế mạnh của từng vùng và địa phương để tạo
môi trường và hành lang pháp lý cho những nơi này phát triển sản xuất hàng
hóa một cách ổn định, lâu dài.
Từng doanh nghiệp căn cứ vào các vùng sản xuất hàng hóa để tổ chức
sản xuất theo lợi thế so sánh cụ thể của cơ sở mình.
Đầu tư tập trung vào từng địa phương, từng sản phẩm, trong từng
khoảng thời gian cụ thể nhằm đạt được mục tiêu xác định, tránh chung chung,
dàn trải phân tán. ÁP dụng phương thức điều hành theo dự án để triển khai
các hoạt động nói trên, đó là dự án phát triển thị trường với từng loại sản
phẩm cụ thể, gắn chặt và khép kín từ khâu thị trường đến sản xuất, chế biến
và tiêu thụ sản phẩm.
- Xác định cây trồng, vật nuôi và ngành nghề :

Từng hộ nông dân, từng doanh nghiệp khi định hướng vùng sản xuất
hàng hoá phải căn cứ vào các mặt sau đây:
+Xác định nhu cầu và xu hướng phát triển nhu cầu của thị trường. Người
nông dân phải hiểu được tính quy luật phát triển nhu cầu để lựa chọn, bố trí
cây trồng, vật nuôi và ngành nghề cho phù hợp.
+ Điều kiện kinh tế của địa phương, của doanh nghiệp. Cần xem xét,
phân tích kỹ các điều kiện đất đai, khí hậu, lao động, tiền vốn, kinh nghiệm,
tập quán của địa phương để chọn phương án kinh doanh cho phù hợp.
18


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

+ Tình hình cạnh tranh trên thị trường. Cần xem trên thị trường có nhiều
hay ít nguời cùng sản xuất một loại sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị
trường thế nào? Ví dụ: ở địa phương ai trồng mận, trồng táo, trồng nhãn
nhưng liệu sản xuất táo, mận, nhãn có bán được không? bán ở đâu? chế biến
như thế nào? đối thủ cạnh tranh về sản phẩm đó? Các chính sách của Nhà
nước. Người nông dân cần phải nhanh nhậy, nắm bắt các chính sách (như
chính sách thuế, đất đai, tài chính, tín dụng...) để chớp thời cơ sản xuất - tiêu
thụ.
+ Tính toán kỹ hiệu quả. Người nông dân cần tính toán, so sánh xem cây,
con nào có thu nhập lãi cao hơn tính cho 1 ha, cho 1 đồng vốn bỏ ra hoặc 1
ngày lao động, qua đó chọn hướng kinh doanh có lợi nhất.
- Tổ chức sản xuất:
- Đẩy mạnh kinh tế hộ. Phải tạo mọi điều kiện để kinh tế hộ phát triển
thành kinh tế hàng hóa (thực hiện phân công lại lao động, ai giỏi nghề gì thì
làm nghề đó, thực hiện tích tụ ruộng đất) tiến tới các nông trại gia đình sản
xuất hàng hóa và liên kết các hộ thành vùng sản xuất hàng hóa mạnh. Ở nông
thôn Việt Nam hiện nay do tình trạng đất ít, người đông, thiếu việc làm nên

mọi người bám ruộng sản xuất để duy trì đời sống. Tình trạng đó dẫn đến
năng suất cây trồng thấp, chất lượng sản phẩm kém, khó nâng cao thu nhập và
khó tiêu thụ sản phẩm. Nền sản xuất manh mún, trên đồng ruộng quá nhiều
loại cây trồng (mỗi cây một ít), trong vườn sản xuất theo kiểu vườn tạp thì
khó tập trung thâm canh, hiệu quả thấp và đặc biệt khó tiêu thụ sản phẩm. Do
đó các hộ, các trang trại trên cơ sở tích tụ ruộng đất phải liên kết với nhau
thành vùng sản xuất hàng hóa lớn để sản xuất và tiêu thụ có hiệu quả hơn
- Tổ chức liên kết, hợp tác trong tiêu thụ. Khi đi vào sản xuất hàng hóa,
người nông dân phải đứng trước những khó khăn, thách thức là khi đem ra thị
trường bán, có thể lần này bán được giá, nhưng lần khác không bán được phải
đem về hoặc bán rẻ. Trong nông nghiệp thường có tình trạng lúc ngày mùa
thu hoạch, giá nông sản rất hạ, nhiều khi lỗ vốn. Nhưng nếu nông dân tự tiêu
19


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

thụ thì nhiều khi giá hạ vẫn phải bán để có vốn quay vòng khác, đặc biệt đối
với đại đa số nông dân trung bình và nghèo phải bán để trang trải chi tiêu...
Cũng trong tình trạng này, người nông dân phải bán lúa non hoặc chịu đi vay
nặng lãi hoặc bị các thành phần kinh tế khác ép giá. Bản thân người nông dân
có ít kinh nghiệm, nghệ thuật buôn bán, tìm hiểu thị trường, nên tiêu thụ sản
phẩm không hiệu quả. Muốn tiêu thụ có hiệu quả phải mở rộng thị trường,
không chỉ tiêu thụ ở địa phương mà phải mở rộng ra cả nước và xuất khẩu
hoặc liên kết, liên doanh với nước ngoài. Việc này vượt quá khả năng của
từng hộ nông dân. Để giải quyết những khó khăn và thách thức đó, muốn tiêu
thụ được hàng hóa nông nghiệp , phải xây dựng quan hệ bạn hàng cùng nhau
làm ăn lâu dài, ổn định, cùng phân chia lợi ích. Ngoài việc liên kết sản xuất
hàng hoá theo vùng, người nông dân phải liên kết, hợp tác để tăng sức cạnh
tranh trong tiêu thụ sản phẩm (tăng sức mạnh về vốn để dự trữ, chế biến, mở

rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước; phân công, chuyên môn hóa lao
động, nâng cao trình độ lành nghề trong buôn bán, giao tiếp , chiếm lĩnh thị
trường,...). Các hình thức liên kết, hợp tác thì có thể đa dạng: nhóm, tổ hợp
tác, HTX, nông trường, các công ty hoặc các Hiệp hội sản xuất (Hiệp hội nuôi
ong, Hiệp hội mía đường,...). Tùy điều kiện cụ thể từng nơi mà nông dân chọn
hình thức hợp tác thích hợp: ở miền núi có thể liên kết các tổ, nhóm hợp tác;
nhưng khi trình độ sản xuất đã khá lên, nhất là vùng đồng bằng, đô thị thì
hình thức hợp tác chủ yếu là hình thức HTX nông nghiệp kiểu mới. Trong
tình hình hợp tác mới, từng hộ nông dân vẫn tự chủ hợp tác sản xuất nông
nghiệp trên đất đai của mình, nhưng HTX sẽ giúp các hộ những việc không tự
làm được hoặc làm kém hiệu quả. Thương mại sẽ là hình thức mềm dẻo để
kết dính giữa các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.
- Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng hàng nông sản:
Nhu cầu thị trường ngày càng gia tăng về số lượng, chất lượng, cơ cấu
và tính kịp thời. Sở dĩ các nông sản phẩm của ta khó cạnh tranh được với các
loại sản phẩm cùng loại của nước ngoài là do chất lượng sản phẩm của ta
20


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

chưa cao, mặc dù giá thành không thua kém. Để nâng cao khả năng cạnh
tranh thì phải đầu tư hơn nữa vào việc nâng cao chất lượng cây, con giống, kỹ
thuật canh tác, gieo trồng, chăn nuôi.
d. Tổ chức hệ thống tiêu thụ, đặc biệt là các chợ, các trung tâm giao
dịch, trao đổi hàng hoá.
Thực tiễn đã khẳng định, chợ là điểm nút không thể thiếu trong lưu
thông hàng hoá, đặc biệt là đối với hàng nông sản,thực phẩm tươi sống. Chợ
là nơi phát luồng hàng nông sản- thực phẩm tới các địa điểm tiêu thụ ở các đô
thị, khu công nghiệp tập trung, và ngược lại cũng là nơi tập kết, phân phối, kết

thúc quá trình lưu thông hàng vật tư nông nghiệp và hàng công nghiệp tiêu
dùng.Theo ước tính của các nhà nghiên cứu thị trường, hiện nay hàng hoá lưu
thông qua chợ chiếm khoảng 40%, trong đó hàng thực phẩm tươi sống và rau
quả tươi chiếm khoảng 90%. Chợ cũng thúc đẩy khu vực kinh tế nông thôn
phát triển. Những loại hình chợ chuyên doanh, chợ bán buôn phát luồng đã
góp phần quan trọng vào việc định hướng cho sản xuất hàng hoá tập trung, tác
động tích cực đến cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp ,gắn sản xuất với thị
trường. Sự hình thành và phát triển của chợ cũng kéo theo sự phát triển các
ngành nghề sản xuất, ngành nghề truyền thống. Đây là tiền đề để từng bước
hình thành các trung tâm thương mại lớn trong tương lai ở khu vực nông thôn.
Từ đó trong giai đoạn kinh tế mới, ta cần có những định hướng và giải pháp
phát triển các chợ, các trung tâm giao dịch như sau:
* Cần coi trọng việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ lưu thông
hàng nông sản ngang bằng với xây dựng công trình cơ sở hạ tầng nông
nghiệp. Theo hướng đó, thực hiện phân cấp đầu tư xây dựng chợ giống như
đối với các công trình thuỷ lợi và cơ sở hạ tầng khác trên địa bàn nông thôn.
- Ở khu vực đô thị: Cần có kế hoạch mở rộng, đầu tư xây dựng một số
chợ trung tâm bán buôn, phục vụ tiêu thụ nông sản, rau quả, thuỷ-hải sản,
thực phẩm tươi sống, phát luồng cho các thị trường khu vực lân cận. Ngoài ra,
căn cứ vào qui mô sản xuất nông sản hàng hoá và sức mua trên địa bàn khu
21


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

vực, cần phát triển một số chợ chuyên doanh ở những vùng sản xuất tập trung
có khả năng chi phối mạng lưới chợ trong khu vực.
- Ở khu vực nông thôn: Chợ và thị tứ là hai mô hình tổ chức thị trường
chủ yếu. Vì vậy, cần phải xây dựng chợ và phát triển các thị tứ thành các cụm
kinh tế- thương mại- dịch vụ. Ở địa bàn thôn, xã,các chợ phải được tổ chức để

nông dân trực tiếp bán nông sản và mua vật tư, hàng tiêu dùng trên thị trường,
hạn chế sự chèn ép của các tư thương. Thương nghiệp nhà nước hỗ trợ các
hợp tác xã thương mại mở các điểm kinh doanh trong phạm vi chợ, tổ chức
các điểm nút mua gom nông sản và cung ứng vật tư, hàng tiêu dùng cho nông
dân.
- Ở khu vực miền núi: Xây dưng hệ thống chợ biên giới nhằm phục vụ
tốt nhu cầu sản xuất và đời sống của đồng bào các dân tộc, đồng thời góp
phần tích cực vào quá trình hội nhập của nền kinh tế nước ta với các nước
láng giềng.
* Bên cạnh việc xây dựng cac hệ thống chợ, trung tâm giao dịch thì cũng
rất cần thiết xây dựng một hệ thống kho bảo quản nông sản, đây là hệ thống
cơ sở hạ tầng không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Kho
không chỉ làm chức năng bảo quản để giảm tỉ lệ hao hụt sau khi thu hoạch mà
còn tạo điều kiện thực hiện nhiệm vụ cân đối, ổn định ,điều tiết nguồn hàng
trong lưu thông và xuất khẩu .
e. Tìm kiếm thị trường nước ngoài.
Với điều kiện của một nền nông nghiệp nhiệt đới phát triển trên cơ sở
khai thác tài nguyên sinh học đa dạng, Việt Nam có khả năng cung cấp cho
thị trường quốc tế chủng loại hàng hoá nông sản đa dạng, từ lương thực, thực
phẩm, đến các loại nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Trong những năm qua, việc xuất khẩu các loại hàng nông sản ra thị
trường thế giới đã có những kết quả tích cực cả trên phương diện chủng loại
hàng hoá, khối lượng và phạm vi thị trường. Nhiều sản phẩm đã thâm nhập
được vào những thị trường có đòi hỏi khắt khe về chất lượng, như thị trường
22


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

EU, Nhật Bản. Tuy vậy, việc mở rộng thị trường quốc tế cho phát triển sản

xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến vẫn đang là vấn đề nan giải, cần
tìm ra những hướng đi bền vững ổn định trong điều kiện mới:
* Để mở rộng thị trường quốc tế, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá
nông sản trên thị trường quốc tế, trước mắt cũng như lâu dài, cùng với việc
mở rộng hợp tác liên doanh với nước ngoài, ưu đãi các dự án nông nghiệp và
công nghiệp chế biến xuất khẩu, tăng cường công tác tiếp thị quốc tế, cần phải
đánh giá lại đúng thực chất lợi thế phát triển nông nghiệp để có định hướng
thị trường và sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường quốc tế. Đây là một
yêu cầu tối quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế
của hàng nông sản. Tài nguyên sinh học đa dạng và nhân công dồi dào với giá
rẻ không phải là lợi thế riêng có của nước ta mà còn của nhiều nước khác
trong khu vực và trên thế giới. Hơn nữa, nhiều nước lại có điều kiện hơn nước
ta trong việc khai thác lợi thế đó (trình độ công nghệ cao hơn, vốn liếng dồi
dào hơn, có kinh nghiệm hoạt động trên thị trường quốc tế hơn). Để tham gia
có hiệu quả vào các quan hệ thương mại quốc tế, đòi hỏi chi phí sản xuất hàng
hoá nông sản trong nước phải thấp hơn, hoặc ngang bằng với những nước có
điều kiện tương tự. Để đạt yêu cầu này đòi hỏi phải có sự chuyển biến mạnh
mẽ về năng suất lao động nông nghiệp, năng suất ruộng đất ,năng suất vật
nuôi, cũng như những bước phát triển vượt bậc của công nghệ chế biến nông
sản. Chính sách giá thấp này sẽ khai thác được hai lợi thế chủ yếu. Thứ nhất,
đó là lợi thế đạt được do mở rộng quy mô xuất khẩu nông sản. Đây là điều
kiện để tăng thị phần xuất khẩu so với các đối thủ cạnh tranh. Thứ hai, chính
sách giá thấp sẽ tạo điều kiện để cạnh tranh về giá có hiệu quả so với đối thủ
cạnh tranh. Do đó, chính sách giá nông sản xuất khẩu cần được đặt trong một
chiến lược cạnh tranh hữu hiệu. Nếu kiên trì áp dụng một chính sách giá cạnh
tranh như vậy trong một thời gian dài, chắc chắn sẽ có không ít đối thủ cạnh
tranh bị loại khỏi thị trường xuất khẩu nông sản.

23



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Tuy nhiên, nếu chỉ có sự tự vận động của doanh nghiệp xuất khẩu thì
không thể kéo dài chính sách giá như vậy, mà cần có sự phối hợp giữa chính
sách giá, chính sách thuế xuất khẩu và các công cụ hỗ trợ khác để điều tiết về
giá hàng nông sản xuất khẩu. Điều này thể hiện việc phát huy vai trò của
chính phủ trong việc bảo vệ lợi ích nhà xuất khẩu nông sản mà thực chất là
bảo vệ lợi ích quốc gia trong quan hệ thương mại quốc tế. Đối với những mặt
hàng nông sản Việt Nam có khối lượng xuất khẩu lớn, chính phủ cần sử dụng
công cụ thuế xuất khẩu để chi phối khối lượng cung cấp mặt hàng này trên thị
trường thế giới. Điều này đòi hỏi phải có một cơ chế phối hợp nhịp nhàng và
hữu hiệu giữa doanh nghiệp và chính phủ.
* Phải xác định rõ hơn cơ cấu sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm có
nguồn gốc nông nghiệp để xuất khẩu những sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị
trường trong từng giai đoạn phát triển, trong đó xác định rõ các sản phẩm chủ
lực xuất khẩu. Phải phấn đấu làm cho các sản phẩm xuất khẩu có khả năng
đáp ứng toàn diện nhu cầu của thị trường, trong đó chú trọng những thị
trường có đòi hỏi đặc biệt khắt khe như Nhật Bản, Tây Âu, Bắc Mỹ. Chỉ có
lấy những yêu cầu của các thị trường đó làm hướng đích, mới có quyết tâm
chiến lược với những bước đi thích hợp tạo cho hàng hoá nông sản nước ta có
thế cạnh tranh cao trên thị trường khu vực và thế giới.
* Để nâng cao hiệu quả của xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp chúng ta
không thể dừng lại ở trình độ xuất khẩu sản phẩm thô như hiện nay. Bởi vậy,
việc mở rộng thị trường quốc tế lại gắn bó chặt chẽ với việc phát triển công
nghiệp chế biến cả về quy mô và trình độ kỹ thuật.
g. Một số chính sách Nhà nước cần đặt ra để hỗ trợ tiêu thụ nông sản.
* Nhà nước phải hỗ trợ các thông tin về thị trường cho người sản xuất.
Nhà nước cần cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường và giá cả, những
định hướng sản xuất cơ bản cho từng vùng sản xuất nông nghiệp. Sự ra đời

của hệ thống tổ chức dự báo thị trường, tư vấn cho nông dân là rất cấp thiết.
Các tổ chức này sẽ đảm nhiệm việc nghiên cứu, phân tích và dự báo tình hình
24


×