Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

tình huống trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.95 KB, 17 trang )

Đề bài
A và B là người địa phương đã đánh C là quân nhân của đơn vị quân đội đóng trên
địa bàn phường M Quận K và gây thương tích cho C. Sauk hi được bệnh viện sơ
cứu, C đã đến cơ quan công an phường tố giác về hành vi phạm tội của A và B
Công an phường lập biên bản và báo tin cho cơ quan điều tra.
Câu hỏi:
Câu 1. Hãy xác định cơ quan có thẩm quyền điều tra
Câu 2. Cơ quan điều tra cần phải tiến hành những hoạt động nào để quyết định
việc khởi tố vụ án hình sự
Câu 3. Trong trường hợp cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án, hãy xác
định cơ sở khởi tố vụ án
Câu 4. Cơ quan điều tra ra quyết định đề nghị quy tố A theo Khoản 2 Điều 104
BLHS và đình chỉ điều tra với B. Viện Kiểm sát khi nghiên cứu hồ sơ thấy quyết
định đình chỉ điều tra đối với B không có căn cứ thì phải giải quyết như thế nào?
Câu 5. Giả sử, trong giai đoạn truy tố, C chỉ rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án đối với
A. Viện kiểm sát giải quyết như thế nào?
Câu 6: Tại phiên tòa sơ thẩm, trong khi xét hỏi, A yêu cầu triệu tập thêm người
làm chứng, yêu cầu cảu A có đc Hội đồng xét xử chấp nhận không? Tại sao?
Câu 7: Giả sử sau khi xét hỏi, Viện kiểm sát rút quyết định truy tố đối với B, giữ
nguyên quyết định truy tố đối với A. Hội đồng xét xử giải quyết thế nào?
Câu 8: Tòa Án cấp sơ thẩm ra bản án tuyên 12 tháng tù đối với A và tuyên B
không có tội. Nếu A,B đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử giải quyết như thế nào?
Câu 9: Chỉ có A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử phúc thẩm
thấy có đủ căn cứ cho A hưởng án treo thì phải quyết định như thế nào?


Câu 10: Bản án phúc thẩm bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng
tăng hình phạt với A. Trong trừơng hợp có căn cứ tăng hình phạt, Hội đồng giám
đốc thẩm giải quyết như thế nào?



Câu 1. Hãy xác định cơ quan có thẩm quyền điều tra
Cơ quan có thẩm quyền điều tra trong tình huống là cơ quan điều tra quân
sự khu vực quận K. Có thể khẳng định như vậy bởi vì:
Thứ nhất, theo đề bài ta thấy: A và B là người dân (người ngoài quân đội) đã
đánh C là quân nhân (người trong quân đội). Hành vi của A và B được coi là gây
thiệt hại cho quân đội, vậy vụ án này thuộc thẩm quyền điều tra của Tòa án Quân
sự khu vực quận K vì áp dụng khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh tổ chức Tòa án Quân sự
năm 2002 thì Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo
là:
“1. Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị
trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu;
dân quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và
những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực
tiếp quản lý.
2. Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này
mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội”.
Mặt khác, khoản b Điểm 2 Mục I Thông tư liên tịch 01/2005/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA Hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của Tòa án
quân sự đã giải thích gây thiệt hại cho Quân đội: “...là gây thiệt hại đến tính mạng,
sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm của những người quy định tại khoản 1 Điều
3 của Pháp lệnh tổ chức Tòa án Quân sự năm 2002...” ;
Thứ hai, theo đề bài A và B đánh C trên địa bàn phường M, quận K nên áp
dụng khoản 4 Điều 110 BLTTHS 2003 quy định: “Cơ quan điều tra có thẩm
quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của
mình....Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra
những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân
dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực; ...”. Theo đó, Cơ quan điều tra quân sự
khu vực quận K có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự này.


Câu 2. Cơ quan điều tra cần phải tiến hành những hoạt động nào để

quyết định việc khởi tố vụ án hình sự
Để đưa ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, cơ quan điều tra cần phải tiến
hành những hoạt động sau đây .
Thứ nhất, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Cơ quan điều tra là cơ quan bảo vệ pháp luật nên mọi tin tức tội phạm xảy
ra trên địa bàn của mình, cơ quan điều tra cần phải nắm rõ để có biện pháp phòng
ngừa và đấu tranh xử lý tội phạm. Khi có người tố giác tội phạm cơ quan điều tra
cần tạo điều kiện thuận lợi cho người tố giác và nhanh chóng tiếp nhận để có biện
pháp giải quyết tiếp theo. Trường hợp mà tố giác không thuộc thẩm quyền giải
quyết của cơ quan mình cũng không được từ chối mà phải tiếp nhận rồi chuyển
đến cho cơ quan có thẩm quyền. Nếu cần phải tiến hành các biện pháp cần thiết để
ngăn chặn các hành vi phạm tội thì trong phạm vi quyền hạn của mình phải tiến
hành để hạn chế tác hại của tội phạm. Trong trường hợp này, A và B là người địa
phương đánh C là quân nhân của đơn vị quân đội đóng ở phường M quận K, gây
thương tích cho C. Khi C khai báo đến công an phường thì công an phường M cần
tạo điều kiện cho C để làm rõ được sự việc trên để có bước giải quyết tiếp theo
phù hơp. Công an phường M sẽ lập biên bản sự việc và báo tin ngay cho cơ quan
điều tra có thẩm quyền giải quyết.
Thứ hai, kiểm tra

xác minh các tin tức về tội phạm. Theo điều 103

BLTTHS 2003 quy định: “Kể từ thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố
giác,tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách
nhiệm của mình phải kiểm tra , xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc
quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin
báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm
tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể
dài hơn, nhưng không quá hai tháng”. Theo quy định này, cơ quan điều tra cần
phải xác minh lại sự việc do C tố giác xem có đúng hay không và tính theo thời

hạn đã được quy định. Những biện pháp để xác minh kiểm tra nguồn tin bao gồm:


- Tiến hành kiểm tra giấy tờ tùy thân, hộ khẩu, đăng kí tạm trú của người bị
tố cáo, trong trường hợp này là A và B; yêu cầu các cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội hoặc công dân có liên quan đến sự việc cung cấp những tài liệu cần thiết.
- Yêu cầu các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân có liên quan
giải thích rõ các dấu hiệu tội phạm . Khi yêu cầu giải thích, cơ quan khởi tố không
được áp dụng biện pháp hỏi cung hoặc cưỡng chế tố tụng đối với người được yêu
cầu giải thích.
Sau khi kiểm tra, xác minh thì kết qủa giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
hoặc kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước phải được cơ quan điều tra gửi cho
VKS cùng cấp và thông báo cho cơ quan tổ chức đã báo tin hoặc người tố giác
biết. Từ đó quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Câu 3. Trong trường hợp cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án, hãy
xác định cơ sở khởi tố vụ án
Cơ sở khởi tố vụ án là những nguồn tin mà dựa vào đó cơ quan có thẩm
quyền khởi tố xác định khởi tố xác định dấu hiệu tội phạm. Để tránh những oan sai
có thể xảy ra, luật quy định chỉ được quyết định khởi tố vụ án khi đã xác định có
dấu hiệu tội phạm nhưng không phải trong mọi trường hợp khi có tội phạm xảy ra
thì cơ quan có thẩm quyền cũng trực tiếp phát hiện được dấu hiệu tội phạm, rất
nhiều trường hợp phải thông qua các nguồn tin mà dựa vào đó dấu hiệu của tội
phạm mới được xác định. Các nguồn tin này là những cơ sở ban đầu để cơ quan có
thẩm quyền kiểm tra, xác minh nhằm xác định dấu hiệu của tội phạm. Dấu hiệu
của tội phạm được xác định thông qua các nguồn tin (cơ sở) do luật định có giá trị
pháp lý để khởi tố vụ án. Nếu không dựa vào những cơ sở do luật định thì cơ quan
có thẩm quyền cũng không thể có được các căn cứ để khởi tố vụ án. Mọi thông tin
không được xác định từ các cơ sở do luật địnhthì không thể coi là căn cứ khởi tố
vụ án hình sự. Điều 100 BLTTHS 2003 quy định căn cứ khởi tố vụ án hình sự trên
cơ sở sau đây:

“1. Tố giác của công dân;
2. Tin báo của cơ quan tổ chức;


3. Tin báo trên các trên các phương tiện thồn tin đại chúng;
4. Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm
lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân
đội nhân dân được giao nhiệm vụ được tiến hành một số nhiệm vụ hoạt động điều
tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;
5. Người phạm tội tự thú.”
Trong trường hợp này, C là quân nhân của đơn vị quân đội phường M, đồng
thời là người bị hại. Việc C đã đến cơ quan công an phường tố giác về hành vi
phạm tội của A và B cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án thuộc trường hợp
tố giác của công dân được quy định tai khoản 1 Điều 100 BLTTHS: “Tố giác về
tội phạm là việc công dân tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của một người nào đó
mà họ cho rằng đó là tội phạm.”.
Như vậy, trong trường hợp này cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án,
thì cơ sở để khởi tố vụ án là có tố giác của công dân.
Câu 4. Cơ quan điều tra ra quyết định đề nghị quy tố A theo Khoản 2 Điều
104 BLHS và đình chỉ điều tra với B. Viện Kiểm sát khi nghiên cứu hồ sơ
thấy quyết định đình chỉ điều tra đối với B không có căn cứ thì phải giải
quyết như thế nào?
Sau khi Cơ quan điều tra ra quyết định đề nghị truy tố A theo khoản 2 điều
104 BLHS và đình chỉ điều tra đối với B, Viện kiểm sát khi nghiên cứu hồ sơ thấy
quyết định đình chỉ điều tra đối với B không có căn cứ thì khi đó Viện kiểm sát
hủy quyết định đình chỉ đối với B của Cơ quan điều tra đồng thời yêu cầu Cơ quan
điều tra phục hồi điều tra.
Theo khoản 4 Điều 164 BLTTHS 2003 quy định vể đình chỉ điều tra như
sau : “Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ
điều tra của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì

Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo


thẩm quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì huỷ bỏ
quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu
thấy đủ căn cứ để truy tố thì huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định
truy tố. Thời hạn ra quyết định truy tố được thực hiện theo quy định tại Điều 166
của Bộ luật này.”
Cụ thể trong trường hợp này Viện kiểm sát trong khi nghiên cứu hồ sơ thấy
quyết định đình chỉ điều tra đối với B không có căn cứ thì khi đó Viện kiểm sát
hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra phục hồi điều tra.
Hơn nữa trong thông tư liên tich số :05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP Về quan
hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong thực hiện một số quy
định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có quy định cụ thể về việc đình chỉ
điều tra tại khoản 19 như sau: “Trong quá trình điều tra xác định đủ căn cứ đình
chỉ điều tra bị can về hành vi nào đã bị khởi tố thì Cơ quan điều tra ra quyết định
đình chỉ điều tra bị can đối với hành vi đó. Trước khi ra quyết định đình chỉ điều
tra, Điều tra viên phải phối hợp với Kiểm sát viên rà soát lại các chứng cứ và các
căn cứ đình chỉ điều tra; nếu thấy không đủ căn cứ để đình chỉ điều tra thì Cơ
quan điều tra tiếp tục điều tra; nếu thấy đủ căn cứ truy tố thì Cơ quan điều tra
làm kết luận điều tra đề nghị truy tố bị can.”
Như vậy, để tránh sự mâu thuẫn và kéo dài thời gian tố tụng thì các cơ quan
tiến hành tố tụng cần phối hợp một cách có hiệu quả, cụ thể trong trường hợp trên,
cơ quan điều tra trước khi ra quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can B thì Điều
tra viên phải phối hợp với Kiểm sát viên rà soát lại chứng cứ và các căn cứ đình
chỉ điều tra, từ đó rút ngắn thời gian tiến hành tố tụng, đồng thời đảm bảo tính
khách quan của vụ việc.
Câu 5. Giả sử, trong giai đoạn truy tố, C chỉ rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án đối
với A. Viện kiểm sát giải quyết như thế nào?



Trong tình huống trên, C rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án đối với A thì Viện
kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can A theo Khoản 1 và Khoản 3
Điều 169 BLTTHS 2003.
Truy tố là giai đoạn tố tụng, trong đó Viện kiểm sát tiến hành các hoạt động
cần thiết nhằm truy tố bị can hoặc ra những quyết định tố tụng khác để giải quyết
đúng đắn vụ án. Trong thời hạn quyết định việc truy tố, viện kiểm sát phải rq một
trong những quyết định sau: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ vụ án, truy tố bị can…
Trong tình huống nêu ra ở đề bài thì chính C (người bị hại) là người đã đến
cơ quan công an phường tố giác về hành vi phạm tội. Vậy chính C là người đã yêu
cầu khởi tố vụ án, vì vậy C có quyền rút đơn yêu cầu khởi tố

. Trong giai đoạn

truy tố, C chỉ rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án đối với A thì theo Khoản 1 Đ169
BLTTHS: “Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn
cứ quy định tại khoản 2 Điều 105…”. Mặt khác, Khoản 2 Điều 105 BLTTHS 2003
quy định: “Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở
phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ”. Và nếu việc C rút yêu cầu khởi tố
đối với A là hoàn toàn tự nguyện thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án,
còn nếu đơn rút yêu cầu khởi tố của C là trái với ý muốn, do bị ép buộc cưỡng bức
thì viện kiểm sát có thể ra quyết định truy tố đối với bị can A. Tuy nhiên trong tình
huống trên không nói gì đến việc C rút đơn yêu cầu có phải trái ý muốn không vì
vậy coi là C tự nguyện rút đơn vì vậy nên Viện kiểm sát sẽ ra quyết định đình chỉ
vụ án đối với bị can A.
Khoản 3 Điều 169 BLTTHS 2003 quy định: “Trong trường hợp vụ án có
nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án không liên quan đến
tất cả các bị can thì có thể đình chỉ hoặc tạm đình chỉ với từng bị can”. Vậy đối
với tình huống trên thì Viện kiểm sát quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can A

(chấm dứt tiến hành tố tụng đối với bị can A) và tiếp tục thực hiện những hoạt
động cần thiết để ra quyết định truy tố hoặc quyết định tố tụng khác đối với bị can
B.


Câu 6: Tại phiên tòa sơ thẩm, trong khi xét hỏi, A yêu cầu triệu tập thêm
người làm chứng, yêu cầu cảu A có đc Hội đồng xét xử chấp nhận không? Tại
sao?
Trong trường hợp này Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu triệu tập
thêm người làm chứng của A. Bởi lẽ:
Thứ nhất, phiên tòa sơ thẩm đang diễn ra ở giai đoạn xét hỏi, trong giai
đoạn này bị cáo có nghĩa vụ trả lời đúng sự thật những gì mà Hội đồng xét xử,
kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo về quyền lợi của đương sự hỏi bị cáo.
Chương XX BLTTHS năm 2003 quy định về thủ tục xét hỏi trong phiên tòa,
chương này quy định quyền, nghĩa vụ của các bên khi tham gia xét hỏi tại phiên
tòa, các hoạt động diễn ra tại phiên tòa trong giai đoạn xét hỏi, tuy nhiên trong
chương này không có một quy định nào quy định bị cáo có quyền yêu cầu triệu tập
thêm người làm chứng mặc vì thế bị cáo không có quyền triệu tập thêm người làm
chứng rong giai đoạn xét hỏi dù có thể người làm chứng này có thể làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến việc xác định sự thật của vụ án.
Thứ hai, quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng là một trong những
quyền của bị cáo được thực hiện tại giai đoạn bắt đầu phiên tòa, cụ thể điều 205
BLTTHS năm 2003 quy định “Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên và những
người tham gia tố tụng xem ai có yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc
yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét hay không. Nếu có người tham
gia tố tụng vắng mặt thì chủ tọa phiên tòa cũng phải hỏi xem có ai yêu cầu hoãn
phiên tòa hay không. Nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết
định.” Theo đó nếu A muốn yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng thì A phải
thực hiện tại giai đoạn bắt đầu phiên tòa. Trong trường hợp này A đã không thực
hiện quyền này mà đến khi bước vào giai đoạn xét xử A mới yêu cầu triệu tập

thêm người làm chứng,
Từ hai lí do trên cho nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu triệu tập
thêm người làm chứng của A.
Tuy nhiên, nếu A yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng mới mà việc yêu
cầu triệu tập thêm người làm chứng này có thể ảnh hưởng đến việc xác minh sự


thật của vụ án thì sau khi họp, Hội đồng xét xử sẽ ra quyết định tạm đình chỉ vụ án
và quyết định trả hồi sơ để điều tra bổ xung theo điểm a khoản 1 điều 179
BLTTHS 2003 “Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án
mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;”.
Vì thế trong trường hợp này Hội đồng xét sử không chấp nhận yêu cầu triệu
tập thêm người làm chứng của A. Tùy theo vai trò của người làm chứng trong vụ
án mà A yêu cầu thì Hội đồng xét xử có thể tiếp tục xét xử hoặc ra quyết định tạm
đình chỉ vụ án và quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ xung
Câu 7: Giả sử sau khi xét hỏi, Viện kiểm sát rút quyết định truy tố đối với B,
giữ nguyên quyết định truy tố đối với A. Hội đồng xét xử giải quyết thế nào?
Tại phiên toà, sau phần xét hỏi, Viện kiểm sát có thể rút toàn bộ hoặc một
phần quyết định truy tố (điều 195 BLTTHS) nhưng Hội đồng xét xử vẫn phải xét
xử toàn bộ vụ án: “Tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một
phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn, nhưng Hội đồng
xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án”
Trong trường hợp này Viện kiểm sát rút quyết định truy tố đối với B, giữ
nguyên quyết định truy tố đối với A.
Theo nhóm tôi thì đây là trường hợp Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định
truy tố đối với B. Tuy A và B cùng bị truy tố về một tội nhưng trong vụ án đồng
phạm song vị trí, vai trò, , mức độ tham gia trong vụ án, tính chất của hành vi,
nhân thân, khả năng giáo dục cải tạo… của mỗi bị cáo khác nhau. Do đó, không
thể tồn tại một quyết định truy tố cho chung cho cả hai bị cáo mà mỗi bị cáo sẽ có
một quyết định truy tố riêng. Hai quyết định truy tố này được thể hiện trong một

bản cáo trạng. Vì vậy, Viện kiểm sát rút quyết định truy tố bị cáo B tại phiên toà
phải được coi là trường hợp rút toàn bộ quyết định truy tố đối với B và rút một
phần bản cáo trạng.
Do đó trong tình huống này có thể xảy ra 2 trường hợp:
Trường hợp 1: Việc rút quyết định truy tố của Viện Kiểm sát là có căn cứ
pháp luật


Trong trường hợp này, theo điều 222 Bộ Luật tố tụng hình sự “… Trong
trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn
giải quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự quy định tại khoản 1 Điều này.
Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo
không có tội; nếu thấy việc rút truy tố không có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ
vụ án và kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.”
Theo đó, mặc dù Viện Kiểm sát đã rút toàn bộ truy tố đối với B nhưng Hội
đồng xét xử vẫn phải giải quyết các vấn đề khác của vụ án, ở đây là quyết định
truy tố A của Viện kiểm sát. Nếu có căn cứ B không phạm tội thì Hội đồng xét xử
sau khi nghị án phải tuyên bố B không có tội
Trường hợp 2: Việc rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát là không có
căn cứ pháp luật
Khoản 2 điều 222 BLTTHS năm 2003 “nếu thấy việc rút truy tố không có
căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp.”
Theo đó, trong trường hợp này, nếu Hội đồng xét xử xét thấy việc rút quyết
định truy tố của Viện kiểm sát là không có ăn cứ pháp luật thì Hội đồng xét xử sẽ
ra quyết định tạm đình chỉ vụ án đồng thời kiến nghị, chuyển hồ sơ lên Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp.
Câu 8: Tòa Án cấp sơ thẩm ra bản án tuyên 12 tháng tù đối với A và
tuyên B không có tội. Nếu A,B đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử giải quyết
như thế nào?

Đối với A: Vì A đang bị tạm giam nên Hội đồng xét xử ra quyết định tạm
giam A để đảm bảo việc thi hành án. Nếu A thời gian A đã bị tạm giam nhỏ hơn 12
tháng và đến ngày kết thúc phiên toà thời hạn tạm giam đã hết.
“Điều 228. Bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án
1. Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc
phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị


cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp được quy định tại khoản 4 và
khoản 5 Điều 227 của Bộ luật này...”
Nếu thời gian A đã bị tạm giam lớn hơn hoặc bằng 12 tháng thì căn cứ vào
Khoản 5 Điều 227 BLTTHS: “Thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị
cáo đã bị tạm giam”.Thì Hội đồng xét xử phải ra quyết định Trả tự do cho A ngay
tại phiên tòa.
Đối với B: Theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
“Điều 227. Trả tự do cho bị cáo
Trong những trường hợp sau đây, Hội đồng xét xử phải tuyên bố trả tự do
ngay tại phiên tòa cho bị cáo đang bị tạm giam, nếu họ không bị tạm giam về một
tội phạm khác:
1. Bị cáo không có tội;
2. Bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự hoặc được miễn hình phạt;
3. Bị cáo bị xử phạt bằng các hình phạt không phải là hình phạt tù;
4. Bị cáo bị xử phạt tù, nhưng được hưởng án treo;
5. Thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam.”
Như vậy khi hội đồng xét xử đã tuyên B không có tội thì Hội đồng xét xử
phải tuyên bố trả tự do cho B ngay tại phiên tòa, nếu B không bị tạm giam vì một
tội khác.
Câu 9: Chỉ có A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử phúc
thẩm thấy có đủ căn cứ cho A hưởng án treo thì phải quyết định như thế nào?
Trong trường hợp này Tòa án cấp phúc thẩm có quyền ra quyết định sửa bản

án. Tuy nhiên có thể xảy ra 2 trường hợp
Trường hợp 1: A là người chủ mưu, B là người giúp sức (vai trò của A quan
trọng hơn so với vai trò của B trong vụ án)
Trong trường hợp này theo khoản 2, điều 249 BLTTHS 2003 quy định:
“2. Nếu có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng
điều khoản Bộ luật Hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại


nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo
không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.”
Do vậy, A có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và đủ căn cứ, Tòa án cấp
phúc thẩm sẽ phải ra quyết định sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt và
cho A hưởng án treo. Ngoài ra mặc dù B là đồng phạm của A trong vụ án nhưng
vai trò của B ít quan trọng hơn vai trò của A trong vụ án mà hình phạt sau khi giảm
của A lại nhẹ hơn so với hình phạt của B thì mặc dù B không kháng cáo nhưng
Tòa án cấp phúc thẩm phải sửa bản án theo hướng giảm hình phạt đối với B
Trường hợp 2: A và B có vai trò như nhau trong vụ án
Áp dụng khoản 2 điều 249 BLTTHS 2003 thì trong trường hợp này Tòa án
cấp phúc thẩm phải ra quyết định sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình
phạt cho A. Tuy nhiên xét thấy B cũng có những căn cứ tương tự để giảm nhẹ hình
phạt thì Tòa án cấp phúc thẩm cũng phải sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ
hình phạt cho cả B. Còn nếu xét thấy những căn cứ trên không áp dụng được với B
thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ ra quyết định sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm
nhẹ hình phạt cho A.
Trường hợp 3: A là người giúp sức, B là chủ mưu (Vai trò của a ít quan
trọng hơn vai trò của B trong vụ án)
Áp dụng khoản 2 điều 249 BLTTHS 2003 Tóa án cấp phúc thẩm sẽ phải ra
quyết định sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt cho A. Tuy nhiên trong
trường hợp này B không được tòa án cấp phúc thẩm xem xét để giảm hình phạt vì
hành vi phạm tội của B mang tính chất nguy hiểm hơn so với A và trong thời gian

kháng cáo B đã không kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
Câu 10: Bản án phúc thẩm bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm theo
hướng tăng hình phạt với A. Trong trừơng hợp có căn cứ tăng hình phạt, Hội
đồng xét xử giám đốc thẩm giải quyết như thế nào?


Theo điều 285 BLTTHS 2003 thì Hội đồng giám đốc thẩm có thẩm quyền
ra một trong ba quyết định sau đây:
“1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật;
2. Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án ;
3. Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử
lại.”
Trong tình huống này có thể xảy ra hai trường hợp:
Trường hợp 1: Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm không được Hội
đồng giám đóc thẩm chấp nhận
Vì đây là kháng nghị theo hướng tăng hình phạt đối với A, có nghĩa là
kháng nghị theo ướng không có lợi cho người bị kết án vì thế quy định pháp luật
có quy định về thời hạn kháng nghị trong trường hợp này. Khoản 1 điều 278
BLTTHS quy định “Việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án
chỉ được tiến hành trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản án hoặc quyết định có
hiệu lực pháp luật.”. Theo đó nếu thời gian kháng nghị giám đốc thẩm trong
trường hợp này quá thời hạn 1 năm kể từ ngày bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp
luật thì Hội đồng giám đốc thẩm sẽ không chấp nhận kháng nghị
Trường hợp 2: Kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm được Hội đồng
Giám đốc thẩm chấp nhận.
Nếu thời gian kháng nghị giám đốc thẩm trong trường hợp này trong thời
hạn 1 năm kể từ ngày bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật và có một trong
những căn cứ được quy định tại điều 287 BLTTHS thì Hội đồng giám đốc thẩm
hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để điều tra lại

hoặc xét xử lại. Nếu cần xét xử lại thì tùy trường hợp, Hội đồng giám đốc thẩm có
thể quyết định xét xử lại từ cấp sơ thẩm hoặc cấp phúc thẩm. Điều 287 quy định:
“Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị


kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại, nếu có một trong những căn cứ quy
định tại Điều 273 của Bộ luật này. Nếu cần xét xử lại thì tùy trường hợp, Hội đồng
giám đốc thẩm có thể quyết định xét xử lại từ cấp sơ thẩm hoặc cấp phúc thẩm.”
Mà theo điều 273 BLTTHS 2003 thì bốn căn cứ đó là:
“1. Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ;
2. Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách
quan của vụ án;
3. Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét
xử;
4. Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự.”
Trong tình huống này bản án phúc thẩm bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm theo hướng tăng hình phạt với A và Hội đồng giám đốc thẩm xác định có căn
cứ tăng hình phạt như vậy có nghĩa là bán án của Tòa phúc thẩm có sự sai lầm
nghiêm trọng trong việc áp dụng bộ luật hình sự (khoản 4 điều 273).
Mà ở đây ta hiểu sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng bộ luật hình sự có thể là
một trong những trường hợp sau đây:
- Không áp dụng điều khoản bộ luật hình sự cần áp dụng
- Giải thích không đúng nội dung của điều khoản bộ luật hình sự dẫn đến
việc áp dụng không đúng
- Mức hình phạt áp dụng không phù hợp với tính chất, mức độ nghiêm trọng
của hành vi phạm tội(quá nặng hoặc quá nhẹ)
- Mức hình phạt áp dụng vượt quá mức hình phạt cao nhất của khung hình
phạt được quy định trong bộ luật hình sự
- Áp dụng loại hình phạt không được quy định trong bộ luật hình sự
Xét vào trong tình huống bài cho ta thấy rõ ràng bản án phúc thẩm đã có sự

sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng bộ luật hình sự do Hội đồng giám đốc
thẩm có tìm thấy căn cứ tăng hình phạt cho A có nghĩa là trong bản án đã có hiệu


lực pháp luật đã mức hình phạt áp dụng không phù hợp với tính chất, mức độ
nghiêm trọng của hành vi phạm tội.
Như vậy Hội đồng giám đốc thẩm sẽ ra quyết định hủy bản án đã có hiệu
lực pháp luật để xét xử lại.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật TTHS Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2015.
2. Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009
2. BLTTHS của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2003
3. Pháp lệnh tổ chức toà án quân sự năm 2002
4. Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an số 01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC -BQPBCA ngày 18/5/2005 về thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự
5. Thông tư liên tịch của Viện kiểm sát tối cao, Bộ công an và Bộ quốc
phòng số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp
giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của
BLTTHS năm 2003
6. Nghị Quyết Số 04/2004/NQ-HĐTP Hướng dẫn thi hành một số quy định
trong Phần thứ ba "Xét xử sơ thẩm" của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, ngày
05/11/2004 của Hội Đồng Thẩm Phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao
7. Quyết định, đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án, xem online tại:
/>



×