Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Thương Mại Carbon Trên Thế Giới Và Những Đề Xuất Cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 100 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết
tắt
AAU
BĐKH
CCX
CER
CDM
COP
DNA
DOE
EB
ECCHCMC
EEA
ERU
ETS
EC
EU
EUA
EU ETS
FS
ICAP
IETA
IPCC
JCM
JI
LHQ
MRV


NĐT
NGO
NSW
GGAS

Nghĩa tiếng Anh
Assigned Amount Unit
Chicago Climate Exchange
Certified Emissions Reduction
Clean Development Mechanism
Conference of Parties
Designated National
Authorities
Designated Operational
Entities
Executive Board
Energy Conservation Center
Hochiminh City
European Environment Agency
Emission Reduction Unit
Emissions Trading
Scheme/System
European Commission
European Union
European Union Allowances
European Union Emissions
Trading Scheme/System
Feasibility Studies
International Carbon Action
Partnership

International Emissions
Trading Association
Intergovernmental Panel on
Climate Change
Joint Crediting Mechanism
Joint Implementation
Monitoring and Measurement,
Reporting and Verification
Non-governmental
Organization
New South Wales Greenhouse
Gas Abatement Scheme

Nghĩa tiếng Việt
Đơn vị lượng chỉ định
Biến đổi khí hậu
Thị trường trao đổi khí hậu
Chicago
Chứng nhận giảm thải
Cơ chế phát triển sạch
Hội nghị các bên
Cơ quan đầu mối quốc gia
Đơn vị vận hành chuyên trách
Ban điều hành Liên hợp quốc về Cơ
chế phát triển sạch
Trung tâm tiết kiệm năng lượng TP
HCM
Cơ quan môi trường châu Âu
Đơn vị giảm phát thải
Hệ thống thương mại khí thải

Hội đồng châu Âu
Liên minh châu Âu
Giấy phép EU
Hệ thống thương mại khí thải châu
Âu
Các dự án nghiên cứu tính khả thi
Hợp tác hành động carbon quốc tế
Hiệp hội thương mại khí thải thế
giới
Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi
khí hậu
Cơ chế tín dụng chung
Cơ chế đồng thực hiện
Liên hợp quốc
Theo dõi, báo cáo, thẩm định
Nghị định thư
Tổ chức phi chính phủ
Cơ chế giảm thiểu khí nhà kính tại
New South Wales


OECD
PDD
RGGI
SZ DRC
SZ ETS
UNFCC
C
tCO2e
TNMT

WB

Organisation for Economic Cooperation and Development
Project design document
Regional Greenhouse Gas
Initiative
Shenzhen Development and
Reform Committee
Shenzhen ETS
United Nations Framework
Convention on Climate Change
Ton of CO2 equivalent
World Bank

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh
tế
Văn kiện thiết kế dự án (CDM)
Cơ chế giảm thiểu khí nhà kính của
Mỹ
Ủy ban Cải cách và Phát triển Thẩm
Quyến
Thị trường thương mại khí thải
Thẩm Quyến
Công ước khung của Liên hợp quốc
về Biến đổi Khí hậu
Tấn CO2 tương đương
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Ngân hàng Thế giới



DANH MỤC BẢNG BIỂU

Tên bảng

Trang

Bảng 1.1 Ví dụ về thương mại carbon

12

Bảng 1.2 Danh sách các nước thuộc phụ lục I

17

Bảng 1.3 So sánh giữa thị trường bắt buộc và thị trường tự nguyện

22

Bảng 1.4 Phân loại thương mại carbon

25

Bảng 2.1 Các lĩnh vực điều chỉnh bởi EU ETS

32

Bảng 2.2 Hạn ngạch giai đoạn II của EU ETS

36


Bảng 2.3 Các dự án đã được EB cho đăng ký, phân loại theo lĩnh vực,
tính đến 31/10/2012

53

Bảng 2.4 Danh sách 20 tổ chức mua CER nhiều nhất

55

Bảng 2.5 So sánh CDM và JCM

61


DANH MỤC HÌNH VẼ
Tên hình

Trang

Hình 1.1 Hiệu ứng nhà kính

8

Hình 1.2 Sự gia tăng mật độ khí nhà kính từ 1850-2013

9

Hình 1.3 Nguồn phát thải và hấp thụ carbon trên thế giới

10


Hình 1.4 Sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu từ 1850 – 2010

14

Hình 1.5 Thay đổi trong mực nước biển trung bình toàn câu

15

Hình 1.6 Liên hệ giữa các cơ chế thương mại carbon

24

Hình 2.1 Các cơ chế ETS bắt buộc đã hình thành trên thế giới

29

Hình 2.2 Tỷ lệ doanh nghiệp tham gia EU ETS theo quốc gia

33

Hình 2.3 Số lượng giấy phép được bán hoặc đấu giá trong EU ETS

35

Hình 2.4 Lượng xả thải trung bình năm của EU ETS trong giai đoạn II

38

Hình 2.5 Tỷ lệ phát thải theo quốc gia của EU ETS trong giai đoạn II


39

Hình 2.6 Tỷ lệ phát thải theo ngành của EU ETS trong giai đoạn II

39

Hình 2.7 Lượng xả thải thực tế lĩnh vực của EU ETS

40

Hình 2.8 Lượng tín chỉ carbon quốc tế EU ETS mua trong giai đoạn II

41

Hình 2.9 Khối lượng giao dịch trong 2 giai đoạn đầu EU ETS

42

Hình 2.10 Giá giấy phép trên thị trường EU ETS

43

Hình 2.11 Khối lượng giao dịch và giá giấy phép 4 tháng đầu của SZ ETS

51

Hình 2.12 Các dự án CDM theo khu vực và quốc gia đến tháng 10/2012

54


Hình 2.13 Giá CER trên thế giới từ 2008-2012

56

Hình 2.14 Sơ đồ tóm tắt cơ chế hoạt động của các dự án JCM/BOCM

58

Hình 3.1 Cơ cấu các lĩnh vực thực hiện dự án CDM tại Việt Nam

68


6

LỜI MỞ ĐẦU
1. Về tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu mà nguyên nhân chính là sự
tăng quá mức lượng khí nhà kính trong khí quyển do các hoạt động của con
người đang là thách thức lớn và mối quan tâm chung của toàn thế giới. Ứng phó
với Biến đổi khí hậu (BĐKH) đã trở thành mối quan tâm chung của toàn nhân
loại cũng như nhiệm vụ chiến lược của Việt Nam.
Việc ứng phó với BĐKH về cơ bản được quy về nhiệm vụ cắt giảm tổng
lượng khí nhà kính (quy về CO2 tương đương) phát thải trên toàn cầu, bất kể ở
khu vực hay quốc gia nào. Tuy nhiên, chính vì việc cắt giảm này chỉ cần được
thực hiện mà không quan trọng là ở khu vực đặc biệt nào, nên không có sự phân
định trách nhiệm rõ ràng giữa các quốc gia.
Thương mại carbon là cơ chế thị trường đưa ra khái niệm về các đơn vị
phát thải khí nhà kính có thể mua bán được. Đây chính là hệ thống giúp phân

chia trách nhiệm và đặt ra áp lực cũng như cơ hội về tài chính cho các quốc gia
khi thực hiện cắt giảm khí nhà kính, qua đó thúc đẩy các hành động cắt giảm trên
toàn thế giới. Thương mại carbon hiện nay đang được đánh giá là cơ chế hiệu
quả nhất ứng phó với Biến đổi khí hậu.
Sự ra đời của thương mại carbon gắn liền với các nỗ lực đàm phán toàn cầu
nhằm ứng phó với BĐKH. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất năm 1992 ở Brazil,
155 nước tham gia đã ký kết Công ước khung của LHQ về BĐKH (UNFCCC) và
trong hội nghị các bên lần thứ 3 của UNFCCC tại Tokyo, Nhật Bản, Nghị định thư
của Công ước đã được thông qua, gọi là Nghị định thư Kyoto, thiết lập mức cắt
giảm khí nhà kính bắt buộc với các nước công nghiệp phát triển.
Hình thức thương mại carbon đang được áp dụng chủ yếu tại Việt Nam là
Cơ chế phát triển sạch (CDM – Clean Development Mechanism) thuộc khuôn khổ
Nghị định thư Kyoto, song trong bối cảnh giai đoạn cam kết thứ nhất của NĐT đã
hết hiệu lực và một Hiệp ước Quốc tế mới thay thế chưa chính thức ra đời thì việc
tham gia vào CDM gặp phải nhiều khó khăn. Việc hiểu rõ các thị trường carbon
trên thế giới sẽ giúp Việt Nam có sự chuẩn bị phù hợp cho những thỏa thuận
quốc tế và xu hướng toàn cầu mới.


7
Kể cả khi thế giới không thể đi tới một thỏa thuận thống nhất trong COP21
2015 (Hội nghị các bên lần thứ 21của Công ước khung của LHQ về Biến đổi khí
hậu) tại Paris như đã định, thì các điều luật và cơ chế trao đổi mua bán khí thải
carbon ở quy mô vùng, khu vực, quốc gia vẫn đã, đang và sẽ hình thành. Các nhà
nước cũng như các doanh nghiệp cần nắm được xu hướng và thực trạng về
thương mại carbon trên thế giới, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Chính vì vậy, khóa luận đã lựa chọn đề tài “Thương mại carbon trên thế giới
và những đề xuất cho Việt Nam”, với mong muốn từ bài học của các nước trên thế
giới khi tham gia thương mại carbon, đưa ra những đề xuất cho Việt Nam trong
việc sử dụng phù hợp công cụ này trong những nỗ lực ứng phó với BĐKH tại Việt

Nam, trong khi vẫn đảm bảo sự thích nghi với bối cảnh quốc tế.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
• Mục đích: Trên cơ sở phân tích thực trạng thương mại carbon trên thế giới, khóa
luận rút ra nhưng bài học kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam nhằm vận dụng
thương mại carbon vào các hoạt động ứng phó với BĐKH và phù hợp với xu
hướng quốc tế.
• Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu thực trạng và xu hướng thương mại carbon ở các khu vực khác nhau
-

trên thế giới
Rút ra bài học kinh nghiệm
Xác định các yếu tố tác động đến thương mại carbon trên thế giới
Tìm hiểu thực trạng thương mại carbon tại Việt Nam
Đề xuất cho thị trường carbon Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

• Đối tượng nghiên cứu: Thương mại carbon ở một số thị trường tiêu biểu trên thế
giới và ở Việt Nam
• Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi nội dung:
Trên thế giới hiện nay có nhiều hình thức “áp giá carbon”, tức gắn cho hoạt
động xả thải một cái giá nhằm tạo áp lực tài chính cho các nhà xả thải (gọi là các
công cụ dựa vào thị trường – market-based), song không phải tất cả các hình


8
thức đó đều là thương mại carbon. Khóa luận sẽ không nghiên cứu các công cụ
giảm phát thải dựa vào thị trường như thuế carbon, hay cách thức tiếp cận “áp
giá carbon” trong phương pháp tài chính dựa vào kết quả (RBF – Result based

Finance) và các dự án REDD+ trong lâm nghiệp (Reducing Emissions from
Deforestation and Forest Degradation).
Ngoài ra, trong phạm vi nội dung thương mại carbon, khóa luận sẽ không đi
sâu phân tích tất cả các thị trường hiện có, do thương mại carbon trên thế giới
hiện nay gồm hàng chục thị trường cấp khu vực, quốc gia và dưới quốc gia khác
nhau, mà chỉ phân tích thị trường rộng lớn, lâu năm và có ảnh hưởng nhất là EU
ETS của châu Âu cùng với một số thị trường mới có tính ứng dụng hoặc đem lại
cơ hội cho Việt Nam của Trung Quốc, Nhật Bản, do mục đích của nghiên cứu là
-

học tập kinh nghiệm và phát hiện cơ hội cho Việt Nam.
Phạm vi không gian:
Khóa luận giới thiệu khái quát tình hình chung của thương mại carbon trên
toàn cầu theo hướng phát hiện xu hướng, các ví dụ được nghiên cứu chi tiết hơn

-

được khoanh vùng trong phạm vi Liên minh châu Âu, Trung Quốc và Nhật Bản.
Phạm vi thời gian:
Các số liệu được thu thập trong giai đoạn từ 2005-2014, tập trung nhiều
vào giai đoạn 2008-2012 và giai đoạn sau 2012.
Lý do chọn thời điểm 2005 là vì đây là thời điểm ra đời của thị trường
thương mại khí thải châu Âu (EU ETS) và là năm NĐT Kyoto bắt đầu có hiệu lực.
Nghị định thư Kyoto được ký kết vào cuối năm 1997 chính là cơ chế toàn cầu đầu
tiên mở ra thị trường buôn bán quyền phát thải khí nhà kính trên toàn cầu, dù ý
tưởng về thị trường này đã xuất hiện trước đó. Từ khi Nghị định thư Kyoto có
hiệu lực vào năm 2005, các dự án đặt nền tảng cho thị trường carbon quốc tế đã
được hình thành.
Lý do chọn giai đoạn 2008 – 2012 là vì đây là thời kỳ cam kết đầu tiên trong
khuôn khổ Nghị định thư Kyoto, cũng là giai đoạn II của EU ETS, giai đoạn hoạt

động tích cực và nhiều kinh nghiệm được rút ra của thị trường này.
Giai đoạn sau 2012 là thời gian có nhiều thay đổi lớn trong thương mại
carbon trên thế giới. Các nghiên cứu trong thời gian này có thể đưa ra so sánh
với giai đoạn 2008-2012.
Ngoài ra, khóa luận đưa ra đề xuất cho giai đoạn 2015-2020.


9
4. Tình hình nghiên cứu
Tình hình nghiên cứu trong nước:
Ngoài hoạt động cắt giảm trong nước đối với các nước có nghĩa vụ cắt giảm
phát thải khí nhà kính, NĐT Kyoto đã đưa ra 3 cơ chế mềm dẻo nhằm giúp các
quốc gia này linh hoạt hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình là Cơ chế cùng
thực hiện JI; Buôn bán quyền phát thải quốc tế IET; và Cơ chế phát triển sạch
CDM. Trong số 3 cơ chế nêu trên, cơ hội hợp tác giữa nhóm nước cam kết và các
nước đang phát triển chỉ tồn tại ở Cơ chế 3 là CDM. Do đó, các nghiên cứu liên
quan đến thị trường carbon tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào CDM.
Đề tài nghiên cứu “Giảm khí gây hiệu ứng nhà kính thông qua hoạt động
trồng rừng – Sử dụng cơ chế CDM trong ngành lâm nghiệp – Kinh nghiệm của
Việt Nam”, Vũ Tân Phương, Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường lâm
nghiệp RCFEE trực thuộc Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam FSIV và Đỗ Thị
Ngọc Bích, Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam VFU, 2007: Bước đầu phân tích
những tiềm năng về các dự án theo CDM thuộc lĩnh vực lâm nghiệp.
Luận văn thạc sĩ “Cơ chế phát triển sạch theo NĐT Kyoto, khả năng và triển
vọng tham gia của Việt Nam”, Phùng Thanh Tú, Đại học Ngoại thương, 2007:
Nghiên cứu chi tiết về Cơ chế phát triển sạch, từ bối cảnh hình thành, lĩnh vực
thực hiện dự án CDM, chu trình và cấu trúc dự án tới thực trạng các dự án CDM
của Việt Nam tính tới năm 2007 đồng thời đưa ra nhận định và đề xuất cho giai
đoạn sau 2007. Để thực hiện điều đó, nghiên cứu cũng đã giới thiệu tổng thể về
thị trường carbon thế giới, song số liệu chỉ cập nhật tới năm 2006 và không có

nhận định xu hướng cũng như rút ra bài học từ thị trường carbon tại các khu vực
khác nhau trên thế giới.
Đề tài nghiên cứu “Tiềm năng CDM trong công nghiệp xi măng Việt Nam”,
nhóm nghiên cứu gồm Công ty RCEE, Tổng Công ty Xi măng VNCC và Hiệp hội Vật
liệu xây dựng VABM, 2007: Khảo sát đánh giá tiềm năng phát triển các dự án
theo Cơ chế phát triển sạch tại các nhà máy xi măng hiện đang hoạt động hoặc
đang trong quá trình xây dựng tại Việt Nam, từ đó đề xuất các biện pháp triển
khai phù hợp với thực trạng và thông lệ của ngành xi măng Việt Nam.


10
Luận văn thạc sĩ “Triển vọng kinh tế từ CDM lâm nghiệp tại Việt Nam”, Đỗ
Thị Hương Thảo, Đại học Ngoại thương, 2008: Nghiên cứu lĩnh vực CDM lâm
nghiệp, các điều kiện triển khai dự án tại Việt Nam.
Khóa luận tốt nghiệp“Thương mại hóa khí thải carbon và tiềm năng tham
gia thị trường của Việt Nam”, Lã Thị Thanh Nga, Đại học Ngoại thương, 2009:
Nghiên cứu đã trình bày sự hình thành và ý nghĩa của thị trường carbon, giới
thiệu một số thị trường carbon trên thế giới và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng
tới khả năng tham gia thị trường của Việt Nam. Tuy nhiên, các số liệu trên thế
giới chỉ được cập nhật tới năm 2007 và tại Việt Nam là 2008. Thị trường carbon
Việt Nam trong nghiên cứu này được tiếp cận từ góc độ đánh giá tiềm năng tham
gia, sự chuẩn bị. Ngoài ra, các thị trường carbon trên thế giới được giới thiệu sơ
lược chỉ nhằm cung cấp cái nhìn tổng thể về thị trường carbon toàn cầu chứ
không hướng tới rút ra bài học và áp dụng cho Việt Nam.
Có thể thấy rõ rằng các nghiên cứu ở Việt Nam liên quan đến thương mại
carbon hầu như tập trung vào CDM và đi sâu vào một lĩnh vực áp dụng cụ thể.
Tuy nhiên, hiện nay CDM đã không còn hấp dẫn và bộc lộ rất nhiều hạn chế, các
dự án CDM gần như không có đăng ký mới và những dự án đã đăng ký cũng rất
khó khăn để tìm kiếm nguồn cầu tín chỉ carbon thu được. Bên cạnh việc cập nhật
số liệu tới năm 2014 và nghiên cứu tổng quan thay vì đi sâu vào một lĩnh vực cụ

thể nào, khóa luận này sẽ tìm hiểu các cơ chế khác trong thương mại carbon
ngoài CDM, trong đó có một phần thị trường tự nguyện và thị trường mua bán
giấy phép nhằm rút ra kinh nghiệm và phát hiện cơ hội tham gia cho Việt Nam.
Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài:
Thương mại carbon được hình thành từ một Hiệp ước Quốc tế, do đó
thường xuyên có các báo cáo, thống kê, phân tích, nghiên cứu thường niên của
các tổ chức Quốc tế uy tín như World Bank, IPCC, UNFCCC, IETA, Forest Trends,
v.v… Ngoài ra do thị trường carbon có ý nghĩa rất lớn với các doanh nghiệp kinh
doanh quốc tế trên toàn cầu nên công ty kiểm toán lớn và uy tín như EY, KPMG,
PwC,…cũng thường xuyên có các nghiên cứu chuyên sâu về các khía cạnh kinh tế
của thương mại carbon.


11
“Global Green New Deal”, 2009, UNEP. Xuất bản bởi Chương trình Môi
trường LHQ, đây là một nghiên cứu trong khuôn khổ dự án “Nền kinh tế xanh” về
các chính sách trên toàn cầu về ứng phó với BĐKH, bao gồm cả thương mại
carbon và các công cụ khác chia theo lĩnh vực như Năng lượng, Sử dụng đất,
Nông nghiệp, Thuế và trợ cấp, Luật môi trường, v.v…
“State and Trend of the Carbon Market 2012”, Carbon Finance at the WB
“Mapping Carbon Pricing Initiatives”, Carbon Finance at the WB, 2013
“State and Trends of Carbon Pricing 2014”, WB Group Climate Change
Ba tài liệu kể trên là các báo cáo thường niên của World Bank về tình hình
thị trường carbon trên thế giới, gồm tất cả các hình thức “áp giá carbon” như
thương mại carbon, thuế carbon, công cụ tài chính dựa vào kết quả RBF, các cơ
chế dựa vào thị trường mới NMM, v.v… với các số liệu cập nhật đến hết tháng 4
của năm phát hành, những phân tích sâu sắc và những nhận xét tổng quát của
các chuyên gia tại World Bank.
“The future of globalcarbon markets: The prospect of an international
agreement and its impacts on business”, 2013, E&Y. Đây là nghiên cứu của tập

đoàn kiểm toán Ernst & Young, một trong những sản phẩm của “Các dịch vụ về
Biến đổi khí hậu và Phát triển bền vững” tại E&Y. Nghiên cứu đã đề cập tới các hệ
thống thương mại khí thải trên thế giới, các cơ chế mềm dẻo trong khuôn khổ
NĐT Kyoto, thị trường carbon tự nguyện, chính sách quốc tế trong lĩnh vực
thương mại carbon và các cơ chế thị trường mới, chủ yếu dưới góc nhìn của
doanh nghiệp, đồng thời phân tích vai trò và tác động của khu vực tư nhân trong
thương mại carbon.
“Maneuvering the Mosaic: State of the Voluntary Carbon Markets 2013”,
Forest Trends’ Ecosystem Marketplace
“Sharing the Stage: State of the Voluntary Carbon Markets 2014”, Forest
Trends’ Ecosystem Marketplace
Hai báo cáo trên đây thuộc những kết quả nghiên cứu hàng năm của Dự án
Ecosystem Marketplace của Tổ chức phi lợi nhuận Forest Trends, nghiên cứu chi
tiết và toàn diện về thị trường carbon tự nguyện trong lâm nghiệp, cập nhật theo
từng năm.
“Greenhouse Gas Market 2013”, IETA
“Greenhouse Gas Market 2014”, IETA


12
Hai báo cáo thường niên của Hiệp hội Thương mại Khí thải Quốc tế IETA đã
phân tích thực trạng, nhận định xu hướng và dự đoán sự phát triển của từng thị
trường carbon khu vực và quốc gia, đồng thời đưa ra nhận định tổng quát cho
tình hình thương mại carbon chung trên thế giới với số liệu cập nhật theo từng
năm.
Các nghiên cứu trên thế giới đã phân tích chi tiết và đầy đủ về thực trạng
hoạt động thương mại carbon trên thế giới với số liệu cập nhật, lý giải nguyên
nhân, đánh giá tổng quát và nhận định xu hướng. Tuy nhiên, các nghiên cứu này
không nhằm rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam trong thời gian
tới.

5. Phương pháp nghiên cứu
Một số phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong khóa luận là:
• Phương pháp phân tích
• Phương pháp tổng hợp
• Phương pháp so sánh
Các số liệu sử dụng trong khóa luận là dữ liệu thứ cấp, được tổng hợp từ
các nguồn trong Tài liệu tham khảo.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài mục lục, các danh mục, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính
của khóa luận gồm 3 phần:
Chương 1 : Khái quát về thương mại carbon
Chương 2. Thực trạng thương mại carbon trên thế giới
Chương 3. Thương mại carbon tại Việt Nam và một số đề xuất


13

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ THƯƠNG MẠI CARBON
1.1.

Một số khái niệm liên quan
Thương mại carbon là một cách thức dựa vào thị trường (market-based)
nhằm ứng phó với Biến đổi khí hậu (BĐKH), hiện tượng toàn cầu gây ra bởi Hiệu
ứng nhà kính. Hiện nay, thương mại carbon đang được đánh giá là một trong
những cách thức hiệu quả nhất thúc đẩy các chính phủ, doanh nghiệp và cả cộng
đồng tham gia vào những nỗ lực cắt giảm khí nhà kính. Vậy Hiệu ứng nhà kính và
Biến đổi khí hậu là gì? Thương mại carbon là cách thức ứng phó như thế nào và
vì sao đây là cách thức ứng phó hiệu quả với BĐKH?


1.1.1. Hiệu ứng nhà kính
Hiệu ứng nhà kính (Greenhouse effect), xuất phát từ “effet de serre” trong
tiếng Pháp dùng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi năng lượng bức xạ của tia sáng mặt
trời xuyên qua cửa sổ hoặc mái nhà bằng kính và làm không gian bên trong nóng
lên, là một quá trình tự nhiên giúp làm ấm bề mặt Trái đất. Một phần năng lượng
Mặt trời chiếu đến Trái đất sẽ bức xạ ngược trở lại trong khi phần còn lại được
hấp thụ vào đất, đại dương và được giữ lại bởi các khí nhà kính (nhiều nhất là 3
khí CO2, N2O, CH4, ngoài ra có H2O, O3, HFCs, PFCs, SF6,…). Chính phần năng lượng
được hấp thụ này giúp tăng nhiệt độ bề mặt Trái đất, cho phép sự sống tồn tại
(Nếu không có hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ Trái đất chỉ là -15 oC).
Hình 1.1 Hiệu ứng nhà kính

Tuy nhiên, hoạt động của con người, chủ yếu là hoạt động đốt các nhiên liệu
hóa thạch, đang làm gia tăng mật độ khí nhà kính quá mức tự nhiên, khiến cho
Trái đất nóng lên, gây ra Biến đổi khí hậu. Đây được gọi là Hiệu ứng nhà kính


14
tăng cường (Enhanced greenhouse effect). Theo Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH
(IPCC), “Khí nhà kính nhân tạo đã tăng đột biến từ thời kỳ tiền công nghiệp, chủ
yếu do tăng trưởng kinh tế và dân số, và hiện nay đang cao ở ngưỡng kỷ lục. Mật
độ các khí carbon dioxide, methane và nitrous oxide đạt mức chưa hề có tiền lệ
trong vòng ít nhất 800.000 năm trở lại đây”
Hình 1.2 Sự gia tăng mật độ 3 loại khí nhà kính chính từ 1850-2013

Nguồn: IPCC Synthesis Report Climate Change 2014
Trong các loại khí nhà kính, CO2 chiếm lượng lớn nhất cũng như tác động
nhiều nhất tới sự nóng lên của Trái đất, do đó tác động của các loại khí nhà kính
khác đều được quy đổi ra CO2 tương đương (CO2e – Equivalent CO2).


1.1.2. Biến đổi khí hậu
Theo IPCC, “Biến đổi khí hậu là sự biến đổi rõ rệt và đột biến về trạng thái
trung bình hoặc mức độ biến động của khí hậu, diễn ra trong một thời gian dài
(hàng thập kỷ hoặc dài hơn)”.
Theo Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (UNFCCC), “Biến đổi khí
hậu là sự thay đổi khí hậu gây ra trực tiếp hoặc gián tiếp bởi hoạt động của con
người làm thay đổi thành phần khí quyển trái đất quan sát được trong những
khoảng thời gian đáng kể” (Điều 1, Công ước khung về BĐKH).
Như vậy, 2 định nghĩa trên đều xác định BĐKH là những biến động khí hậu
bất thường diễn ra trong thời gian dài, những biến động bất thường này là
nguyên nhân chính gây ra các thảm họa thiên nhiên, dẫn đến băng tan, nước biển


15
dâng, v.v… Tuy nhiên định nghĩa của UNFCCC đã khẳng định vai trò của con
người trong việc gây ra hiện tượng này.
Theo hình 1.3, mặc dù các hoạt động của tự nhiên thải ra lượng carbon vô
cùng lớn, nhưng chính tự nhiên lại có thể hấp thụ lại một lượng lớn hơn để cân
bằng lại. (Đây là lý do rừng và đại dương trở thành những bể chứa carbon carbon sinks - chính trên trái đất). Do vậy, có thể thấy nguyên nhân chính gây ra
Hiệu ứng nhà kính tăng cường và hiện tượng Biến đổi khí hậu chính là con
người, cụ thể là các hoạt động phát thải khí nhà kính mà chủ yếu là CO 2. Theo đó,
việc ứng phó với BĐKH chủ yếu phụ thuộc vào các phương pháp do con người
tạo ra và thực hiện, sử dụng thang đo là lượng khí nhà kính (lượng carbon) giảm
thiểu hoặc hấp thu lại được. Thương mại carbon chính là một phương pháp như
thế.
Hình 1.3 Nguồn phát thải và hấp thụ carbon trên thế giới

Nguồn: Guide to Climate Skepticism, John Cook, 2010
Hình bên trái: Vòng tuần hoàn carbon không hoàn chỉnh
Hình bên phải: Vòng tuần hoàn carbon hoàn chỉnh

Fossil Fuel Burning: Hoạt động đốt các nhiên liệu hóa thạch
Vegetation & Land: Cây cối và đất đai
Ocean: Đại dương

1.1.3. Thương mại carbon
Theo Từ điển Kinh doanh Cambridge (Cambridge Business English
Dictionary), “thương mại carbon”, hay “thương mại khí thải carbon” (carbon


16
trading / carbon emissions trading) là “một hệ thống mua bán quyền phát thải
CO2 vào môi trường. Các công ty hoặc các quốc gia thỏa thuận một hạn mức khí
thải CO2 nhất định và có thể mua quyền phát thải từ các công ty hoặc quốc gia
khác để có thể phát thải vượt hạn mức đó”.
Theo World Bank (WB): “Mua bán carbon là một giao dịch mua bán trong
đó một bên trả cho bên kia để nhận được khoản giảm thải một lượng khí nhà
kính mà theo đó người mua có thể sử dụng để đạt được mục tiêu của mình”.
Như vậy, về bản chất, thương mại carbon là mua bán quyền phát thải.
Trong khi định nghĩa của Từ điển Kinh doanh Cambridge đề cập đến “một hạn
mức khí thải” và gắn việc mua bán carbon với một mục tiêu cụ thể, là không vượt
quá hạn mức đã đặt ra, thì định nghĩa của WB đề cập tới mục tiêu nói chung,
mang nghĩa rộng hơn. Trên thực tế, phần lớn các giao dịch trong thương mại
carbon là nhằm mục tiêu mà từ điển Cambridge đã đề cập đến, tức nhằm không
vượt quá hạn mức khí thải đã định, trong đó những người mua chính là các công
ty hoặc quốc gia có cam kết về một hạn mức khí thải nhất định. Đây cũng là nền
tảng hình thành thương mại carbon trên thế giới. Vấn đề này sẽ được làm rõ ở
phần 1.2 Cơ sở hình thành thương mại carbon. Ngoài ra, mua bán carbon có thể
nhằm mục tiêu khác, tức là người mua không nhất thiết phải bị áp một hạn mức
phát thải nhất định (thị trường tự nguyện).
Thông thường, trong hệ thống thương mại carbon, một tổ chức quốc tế,

hoặc khu vực, hoặc quốc gia sẽ đặt ra giới hạn về lượng carbon được phép phát
thải cho mỗi quốc gia hoặc tổ chức thành viên, đo bằng các giấy phép xả thải
(permits or allowances) được coi như hàng hóa, quốc gia hoặc tổ chức nào không
cả thải chạm ngưỡng đã quy định có thể bán lượng giấy phép còn thừa của mình.
Mỗi giấy phép xả thải tương ứng với một tấn CO2 tương đương (tCO2e). Chính
giới hạn lượng phát thải được quy định này đã tạo ra cơ chế thương mại và
hạn mức (cap and trade).
Ngoài ra, thương mại carbon cũng có thể được tiến hành bằng cách mua
bán các chứng nhận giảm thải (emissions reductions) thu được từ các dự án
giảm phát thải carbon (bằng cách chuyển đổi sang năng lượng sạch hoặc cải tiến
công nghệ trực tiếp giảm phát thải) hoặc hấp thụ ngược lại lượng carbon đã


17
phát thải. Hình thức thương mại carbon dựa vào dự án này còn được gọi là bù
trừ carbon (carbon offsets). Mỗi chứng nhận giảm thải cũng tương ứng với một
tấn CO2 tương đương (tCO2e).
Các giấy phép và chứng nhận giảm thải nói trên được gọi chung là các tín
chỉ carbon (carbon credits) và thị trường mua bán các tín chỉ carbon gọi là thị
trường carbon.
Dưới đây là một ví dụ đơn giản minh họa cho thương mại carbon.
Bảng 1.1 Thương mại carbon – Phương pháp giảm KNK tiết kiệm
nhất
Khi không có thương mại carbon
Công ty A và công ty B đều phải
giảm 10 đơn vị khí thải

Khi có thương mại carbon
Công ty B giảm 20 đon vị khí thải
Công ty A mua của công ty B quyền

phát thải 10 đơn vị khí thải với giá
75$/đơn vị
Chi phí của công ty B là
1000$ - 750$ = 250$
Chi phí của công ty A là 750$

Chi phí giảm thải của công ty A là
100$/đơn vị khí thải, tổng là 1000$
Chi phí giảm thải của công ty B là
50$/đơn vị khí thải, tổng là 500$
Tổng chi phí 2 công ty là 1500$
Tổng chi phí 2 công ty là 1000$
Nguồn: Climate Change Research Report 2009 –
The Chartered Insurance Institute

Như vậy, theo ví dụ trên, với kết quả như nhau là tổng lượng giảm thải của
2 công ty là 20 đơn vị khí thải, khi không có thương mại carbon, chi phí là 1500$,
khi có thương mại carbon thì chi phí này chỉ là 1000$. Phần chi phí tiết kiệm
được thể hiện ý nghĩa kinh tế của thương mại carbon cũng như giải thích về mặt
lý thuyết vì sao thương mại carbon đem lại động lực giảm thải cho các tổ chức,
chính phủ,…
So sánh thương mại carbon với thuế carbon
Để hiểu rõ hơn khái niệm thương mại carbon, có thể so sánh với một cách
thức giảm phát thải khí nhà kính theo cách tiếp cận dựa vào thị trường khác, đó
là thuế carbon.
Thuế carbon là cách thức các chính phủ đánh thuế lên lượng khí nhà kính
thải ra, có thể bằng cách tăng thêm một khoản phụ thu trong phí các nhiên liệu


18

chứa carbon và các nguồn ô nhiễm khác như các quy trình công nghiệp. Thuế
carbon đưa ra sự định giá dựa vào cái giá thực sự mà cả nền kinh tế, cộng đồng
và hành tinh phải tiêu tốn cho phát thải khí nhà kính và hiện tượng Trái đất nóng
lên. Đây là động lực khuyến khách sự ra đời và chuyển dịch sang các công nghệ
sạch, sản phẩm tiết kiệm năng lượng và các giải pháp xanh khác. Ưu điểm của
thuế carbon, bên cạnh khuyến khích công nghệ sạch, còn là tăng nguồn thu cho
chính phủ và dễ áp dụng hơn trên diện rộng. Nhược điểm của phương pháp này
là các nhà sản xuất có thể lách luật để trốn thuế hoặc tăng giá thành sản phẩm
để trả thuế, tức là người tiêu dùng cuối cùng sẽ là người chịu thuế.
Không thể khẳng định thuế carbon hay thương mại carbon hiệu quả hơn
bởi tác động của các công cụ này phụ thuộc chủ yếu vào cách nó được thiết kế
chứ không phải vào bản chất về mặt lý thuyết của mỗi công cụ.
Điểm khác biệt cơ bản nhất giữa hai cách thức này là thương mại carbon
với cơ chế thương mại và hạn mức đặt ra một giới hạn về lượng phát thải nhất
định, trong khi thuế carbon không kiểm soát được về lượng. Đây là ưu thế nổi
trội của thương mại carbon, trong khi ưu việt của thuế carbon khi so sánh hai
cách thức nằm ở tính dễ dàng triển khai và sự kiểm soát về giá. Thương mại
carbon đòi hỏi nhiều thời gian và luật lệ hơn để có thể tiến hành, vì cách thức này
yêu cầu sự hình thành một thị trường để trao đổi giấy phép xả thải hoặc chứng
nhận giảm thải; đồng thời mức giá trong thương mại carbon thường xuyên thay
đổi và có khác biệt rất lớn theo thời gian, khu vực cũng như loại giao dịch.
1.2.

Cơ sở hình thành thương mại carbon
Sự kết hợp giữa sự nóng lên toàn cầu và mức độ nhận thức về môi trường
ngày càng cao đang tạo ra tiềm năng về một thị trường khổng lồ về thương mại
tín chỉ phát thải (Craig Mellow, Institutional investor, 2008, trang 96). Như vậy
cơ sở hình thành thương mại carbon gồm “sự nóng lên toàn cầu”, hay thực trạng
BĐKH toàn cầu và “mức độ nhận thức về môi trường ngày càng cao”, biểu hiện ở
sự thành lập các cơ quan, công ước, nghị định, diễn đàn, hội nghị quốc tế về

BĐKH. Trong đó, Nghị định thư Kyoto ra đời tiếp nối Công ước khung của Liên


19
hợp quốc về BĐKH được coi là thỏa thuận quốc tế đầu tiên đặt nền tảng cho sự
hình thành thị trường carbon toàn cầu. Phần 1.2 sẽ làm rõ hai cơ sở này.
1.2.1. Tình hình Biến đổi Khí hậu toàn cầu
“Hệ thống khí hậu đang nóng lên là điều hết sức rõ ràng, từ những năm
1950, rất nhiều thay đổi được quan sát thấy là không hề có tiền lệ trong vòng
hàng thập kỷ đến hàng thiên niên kỷ nay. Khí quyển và đại dương nóng lên, lượng
băng và tuyết giảm đi, và mực nước biển dâng lên” (IPCC, 2014: Climate Change
2014: Synthesis Report). Dưới đây là những nghiên cứu về biểu hiện của BĐKH do
IPCC thực hiện được trình bày trong báo cáo tổng hợp mới nhất này.
Mặt đất và bề mặt đại dương nóng lên
Hình 1.4 Sự gia tăng bất thường của nhiệt độ trung bình toàn cầu của
mặt đất và bề mặt đại dương giai đoạn 1850 – 2010

Nguồn: IPCC Synthesis Report Climate Change 2014
Bề mặt Trái đất đang nóng lên liên tục sau mỗi thập kỷ trong vòng 30 năm
gần đây, nóng hơn bất cứ thập kỷ nào trước đó kể từ năm 1850. Giai đoạn từ
năm 1983 đến năm 2012 dường như là giai đoạn 30 năm nóng nhất trong vòng
1400 năm trở lại đây ở Bắc bán cầu. Số liệu về nhiệt độ trung bình kết hợp giữa
bề mặt trái đất và đại dương được thể hiện ở hình 1.4 cho thấy nhiệt độ đã tăng
0,85oC (từ 0,65 lên 1,06) trong giai đoạn từ 1880 đến 2012.
Phần nhiệt lượng do đại dương nóng lên chiếm đến hơn 90% năng lượng
tích lũy trong hệ thống khí hậu từ 1971 đến 2010. Tính trên toàn cầu, phần nước
mặt (upper ocean, tức trong vòng 700 mét độ sâu tính từ mặt nước biển) nóng


20

lên nhiều nhất, 75 mét sát mặt nước biển đã ấm lên 0,11 oC (từ 0,09 đến 0,13) sau
mỗi thập kỷ trong suốt giai đoạn 1971 đến 2010.
Acid hóa đại dương
Từ khi bắt đầu thời đại công nghiệp, lượng CO 2 hấp thu vào nước biển đã
gây ra hiện tượng acid hóa đại dương; chỉ số pH của mặt nước biển đã giảm 0,1
và lượng acid tăng lên 26%.
Băng tan
Trong giai đoạn từ 1992 – 2011, ở Greenland và Nam Cực, mật độ băng đã
giảm. Các tảng băng trôi chìm dần gần như trên toàn cầu. Diện tích băng ở Bắc
Cực cũng giảm sau mỗi mùa và giảm liên tục sau mỗi thập kỷ từ năm 1979, với
tốc độ khoảng 3,5 đến 4,1% mỗi thập kỷ (số liệu có mức độ tin cậy tương đối).
Nước biển dâng
Hình 1.5 Thay đổi trong mực nước biển trung bình toàn cầu

Nguồn: IPCC Synthesis Report Climate Change 2014
Trong giai đoạn từ 1901 đến 2010, mực nước biển trung bình tăng lên
0,19m (từ 0,17 tăng lên 0,21). Tốc độ tăng này tính từ giữa thế kỷ 19 lớn hơn tốc
độ trung bình của 2 thiên niên kỷ trước đó.


21
Trên đây chính là những “sự biến đổi rõ rệt và đột biến” diễn ra trong hệ
thống khí hậu, dẫn đến hậu quả là các thảm họa khí hậu mà siêu bão Sandy tại
châu Mỹ khiến hơn 100 người thiệt mạng vào năm 2012 và siêu bão Haiyan tại
Philippines làm khoảng 10000 người thiệt mạng vào năm 2013 là hai ví dụ. Theo
World Bank, các thảm họa thiên nhiên đã gây tổn thất gần 4000 tỷ USD trong 30
năm qua (tương đương hơn 130 tỷ USD mỗi năm). Vào những năm 1980, thiệt
hại hàng năm là khoảng 50 tỷ USD và trong thập niên gần đây nhất, con số đã
tăng gấp 4 lần lên 200 tỷ USD/năm. Và mức tổn thất này có thể sẽ lên tới 600 tỷ
USD/năm vào năm 2030.

Châu Á sẽ là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ BĐKH, đặc biệt là các
nước đang phát triển với năng lực ứng phó với BĐKH bị hạn chế, trong đó Việt
Nam thuộc nhóm các quốc gia bị đe dọa bởi BĐKH nặng nề nhất. Theo đánh giá
của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), nếu không hành động, đến năm 2100,
bốn quốc gia là Indonesia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam có thể sẽ bị mất đến
6,7% GDP hàng năm, gần gấp đôi thiệt hại trung bình của toàn thế giới.
“Riêng ở Việt Nam, nước biển dâng sẽ khiến 22 triệu người Việt Nam mất
nhà cửa với thiệt hại lên tới 10% GDP. Lũ lụt và bão tố mạnh hơn cũng có thể làm
chậm những tiến bộ trong phát triển con người ở những vùng dân cư chính yếu,
kể cả Đồng bằng sông Cửu Long. Lượng mưa dự kiến sẽ gia tăng và Việt Nam sẽ
đối mặt với những trận bão nhiệt đới mạnh hơn. Mực nước biển dự kiến sẽ dâng
cao 33 cm vào năm 2050 và 1 m vào năm 2100.” (Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên
Thế giới, Báo cáo “Cuộc chiến chống lại BĐKH: Đoàn kết nhân loại trong một thế
giới phân cách”, 2014).
Tóm lại, thực trạng BĐKH toàn cầu đang ở mức báo động, đe dọa tới cả
kinh tế, xã hội và môi trường của các quốc gia, mà các nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam, sẽ gánh chịu hậu quả nặng nề nhất.

1.2.2. UNFCCC - Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi Khí hậu


22
Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi Khí hậu là một hiệp ước
quốc tế được hình thành xuất phát từ những bằng chứng khoa học về tác động
của con người tới sự biến đổi khí hậu trái đất và hậu quả của những biến đổi này.
Năm 1990, Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH (IPCC – The Intergovernmental
Panel on Climate Change, thành lập năm 1988) đã cho ra mắt bản báo cáo đánh
giá đầu tiên. IPCC và Hội nghị Khí hậu Thế giới lần thứ 2 đã kêu gọi một hiệp ước
toàn cầu về BĐKH. Từ đây, Đại Hội đồng LHQ đã bắt đầu các cuộc đàm phán về
một Công ước khung.

Công ước đã được ký kết tại Hội nghị thượng đỉnh Trái đất (Earth Summit
or UNCED – The United Nations Conference on Environment and Development)
diễn ra tại Rio de Janeiro, Brazil từ ngày 3 đến 14 tháng 6 năm 1992 với mục tiêu
“ổn định các nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được
sự can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu (UNFCCC Điều 2).
Công ước đưa ra danh sách các nước thuộc phụ lục I là các nước công
nghiệp đã là thành viên của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển OECD năm
1992 cùng với một số nền kinh tế chuyển đổi như Nga, các nước Baltic (Latvia,
Litva, Estonia) và nhiều quốc gia Trung và Đông Âu. Đây được xác định là các
nước cần phải có những cam kết hành động mạnh mẽ nhất trong ứng phó với
BĐKH toàn cầu.
Bảng 1.2 Danh sách các nước thuộc phụ lục I (Nguồn: UNFCCC)
Australia
Áo
Belarus
Bỉ
Bulgaria
Canada

Liechtenstein
Lithuana
Luxembourg
Malta
Monaco
Hà Lan

Croatia
CH Síp
CH Séc
Đan Mạch


New Zealand
Na Uy
Ba Lan
Bồ Đào Nha


23
Estonia
EU
Phần Lan
Pháp
Đức

Romania
Nga
Slovakia
Slovenia
Tây Ban Nha

Hy Lạp
Hungary
Iceland
Ireland
Italy
Nhật Bản

Thụy Điển
Thụy Sĩ
Thổ Nhĩ Kỳ

Ukraine
Anh
Mỹ

Latvia

Ngày ký kết Công ước là 09/05/1992 và ngày Công ước bắt đầu hiệu lực là
21/03/1994. Các bên tham gia công ước họp mặt hàng năm trong Hội nghị các
bên (COP – Conference of Parties) để đánh giá tiến trình ứng phó với BĐKH và
đặt ra các cơ chế điều hành hoạt động ứng phó với BĐKH toàn cầu. COP1 được tổ
chức bắt đầu từ năm 1995 tại Berlin, Đức, đến nay đã trải qua 20 kỳ họp. Dưới
đây là các mốc quan trọng của Hội nghị các bên:
+ COP3 năm 1997 tại Kyoto, Nhật Bản: Thông qua NĐT Kyoto
+ COP 7 năm 2001 tại Marrakesh, Morocco: Hiệp định Marrakesh đưa ra các
quy định về thực thi Công ước và Nghị định thư
+ COP 13 năm 2007 tại Bali, Indonesia: Thông qua Lộ trình Bali và Kế hoạch
hành động Bali về một hiệp ước toàn cầu mới thay thế khi NĐT Kyoto hết hạn
+ COP 16 năm 2010 tại Cancun, Mexico: Thông qua thỏa thuận Cancun
thành lập Quỹ Khí hậu xanh, qua đó cộng đồng quốc tế tài trợ cho các quốc gia
chịu ảnh hưởng nặng nhất từ BĐKH
+ COP 17 năm 2011 tại Durban, Nam Phi: Thông qua thỏa thuận Durban sẽ
có hiệu lực từ năm 2020, bước kế tiếp của NĐT Kyoto


24
+ COP 18 năm 2012 tại Doha, Qatar: Thông qua Bản sửa đổi Doha đối với
NĐT Kyoto
+ COP 19 năm 2013 tại Warsaw, Ba Lan: Thông qua các quyết định về thỏa
thuận Durban, Quỹ Khí hậu Xanh, Khung Warsaw cho REDD+
Tính tới hiện nay, Nghị định thư Kyoto vẫn là thỏa thuận duy nhất có tính

ràng buộc pháp lý trong việc cắt giảm khí nhà kính. Đây cũng là thỏa thuận quốc
tế chính thức đầu tiên đặt nền tảng cho thương mại carbon.
1.2.3. Kyoto Protocol – Nghị định thư Kyoto
Nghị định thư Kyoto là một thỏa thuận quốc tế gắn với Công ước khung của
Liên hợp quốc về BĐKH, trong đó các bên tham gia cam kết về các mục tiêu giảm
khí thải bắt buộc trên toàn cầu. Hiện nay có 195 quốc gia thành viên của Công
ước và 192 quốc gia tham gia vào Nghị định thư.
Sự ra đời – COP 3 năm 1997 tại Kyoto
Nghị định thư được thông qua tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày 11/12/1997
và bắt đầu có hiệu lực từ 16/02/2005. Các điều lệ chi tiết về việc thực hiện NĐT
được thông qua tại COP 7 ở Marrakesh, Morocco năm 2001. Giai đoạn cam kết
đầu tiên của NĐT là từ 2008 – 2012.
Nhận thấy các nước phát triển phải chịu trách nhiệm chính cho mật độ khí
nhà kính dày đặc trong khí quyển hiện nay do hơn 150 năm công nghiệp hóa,
NĐT đã quy định các ràng buộc đầy thử thách với các nước phát triển theo
nguyên tắc “trách nhiệm chung nhưng có sự phân biệt” (common but
differentiated responsibilities). Các nước công nghiệp tham gia NĐT (hay các
nước trong Phụ lục I của Công ước khung) có nghĩa vụ giảm phát thải khí nhà
kính thấp hơn mức năm 1990 khoảng 5,2% (khoảng 2800 – 4800 triệu tCO 2e). Cụ
thể, mức giảm phát thải đặt ra cho EU là 8%, Mỹ là 7% và Nhật Bản là 6%. Các
nước không thuộc phụ lục I, chủ yếu là các nước đang phát triển, không bị áp
cam kết giảm phát thải mà chỉ phải báo cáo tình trạng giảm phát thải định kỳ.


25
Sự sửa đổi – COP 18 năm 2012 tại Doha, Qatar
Ngày 08/12/2012, Sửa đổi Doha đối với NĐT Kyoto đã được thông qua, bao
gồm các cam kết mới cho các quốc gia thuộc phụ lục I đồng ý cam kết trong giai
đoạn 2 từ 01/01/2013 đến 31/12/2020, danh sách các khí nhà kính cần được các
bên báo cáo trong giai đoạn cam kết thứ 2, và chỉnh sửa nhiều điều khoản trong

NĐT.
Nếu như trong giai đoạn cam kết đầu tiên, 37 quốc gia công nghiệp hóa và
Cộng đồng Châu Âu đã cam kết cắt giảm lượng khí nhà kính 5% so với mức năm
1990 thì trong giai đoạn cam kết thứ hai, các bên tham gia cam kết giảm khí thải
nhà kính ít nhất 18% so với mức năm 1990; tuy nhiên, các bên tham gia giai
đoạn hai có sự thay đổi so với giai đoạn đầu tiên.
Các cơ chế của Nghị định thư
Để đạt mục tiêu giảm phát thải như NĐT đặt ra, các quốc gia phải giảm
lượng khí nhà kính trong các hoạt động trong nước. Tuy nhiên, NĐT cũng đưa ra
3 cơ chế mềm dảo (flexible mechanisms) nhằm giúp các nước đạt mục tiêu một
cách tiết kiệm hơn và thúc đẩy đầu tư xanh. Đây chính là những cơ chế nền tảng
cho sự hình thành thương mại carbon trên toàn cầu.
Ba cơ chế bao gồm:
Thương mại khí thải thế giới (IET – International Emissions Trading): là
một cơ chế thương mại và hạn mức (cap and trade), đặt ra hạn ngạch khí thải cố
định cho các quốc gia thành viên dưới hình thức ban hành số lượng giấy phép xả
thải tương đương lượng khí thải cho phép, gọi là AAU (Assigned Amount Unit).
Mỗi AAU tương ứng với 1 tCO2e.
Cơ chế phát triển sạch (CDM – Clean Development Mechanism): là một cơ
chế giao dịch carbon dựa vào dự án, trong đó người mua là các nước thuộc phụ
lục I của NĐT, tức các nước có cam kết về mức giảm thải và người bán là các
nước đang phát triển. Dự án được thực hiện với sự đầu tư của người mua, mỗi
tCO2e giảm được tương đương một chứng nhận giảm thải CER (Certified


×