Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

Ảnh hưởng của hiệp định thương mại việt mỹ đến các công ty của việt nam xuất khẩu vào thị trường mỹ full

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.72 KB, 130 trang )

1

LỜI NÓI ĐẦU
1.Sự cần thiết khách quan cho đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện nay, hội nhập kinh tế quốc
tế đang là xu thế tất yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới hiện nay. Việt Nam đã và
đang tích cực hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, thông qua việc gia nhập Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tham gia diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC), diễn đàn hợp tác kinh tế Á-Âu (ASEM). Đặc biệt Việt Nam đã
ký Hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ.
Hiệp định thương mại VN - Hoa Kỳ ký ngày 13/7/2000 và chính thức có hiệu
lực từ ngày 11/12/2001 đã mở ra triển vọng thương mại mới giữa hai nước, phá bỏ
phân biệt đối xử về thuế quan tạo cơ hội cho hàng hoá VN được xuất khẩu nhiều hơn
nữa vào thị trường Hoa Kỳ.Tuy nhiên, để thực hiện được việc này thì hàng hoá của
VN phải vượt qua rất nhiều khó khăn, thách thức nhất là về khả năng cạnh tranh,
năng suất, chất lượng sản phẩm, thị trường tiêu thụ và khả năng vận dụng marketing
vào kinh doanh.
Muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này, trong điều kiện mà nền kinh tế
VN còn đang ở mức thấp, tính cạnh tranh kém hiệu quả thì cần phải nghiên cứu kỹ
thị trường này. Đánh giá được chính xác khả năng thực tế của hàng hoá VN thâm
nhập thị trường đó để đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sang thị
trường Mỹ.
Để góp phần tìm hiểu kỹ về Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và thị trường Hoa
Kỳ, một trong những thị trường quan trọng đối với hoạt động xuất nhập khẩu của VN,
từ đó tôi quyết định chọn đề tài “Ảnh Hưởng Của Hiệp Định Thương Mại Việt Mỹ Đến Các Công Ty Của Việt Nam Xuất Khẩu Vào Thị Trường Mỹ”
2.Mục tiêu, nội dung và phương pháp nghiên cứu


2

2.1.Mục tiêu của đề tài: Đề tài chỉ nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến tác


động, ảnh hưởng của Hiệp định thương mại VN - Hoa Kỳ đến các công ty xuất khẩu
VN đã tham gia xuất khẩu 6 mặt hàng chủ lực sang thị trường Mỹ, nghiên cứu các cơ
chế chính sách ảnh hưởng tới khả năng xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Tài liệu thống
kê lấy số liệu từ năm 1994 đến hết năm 2012.
2.2.Nội dung nghiên cứu: kết cấu của đề tài gồm ba chương
Chương 1: Cơ sở lý luận Hiệp định thương mại song phương và Hiệp định thương
mại Việt-Mỹ
Chương 2: Ảnh hưởng của Hiệp định thương mại Việt-Mỹ đến các công ty của
Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ
Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của công ty VN vào thị
trường Mỹ
2.3.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp luận: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả sử dụng
phương pháp duy vật biện chứng, sử dụng mối liên hệ phổ biến trong sự vận động và
phát triển
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các
phương pháp cơ bản như sau:
2.3.2.1. Phương pháp phân tích thống kê:
Với Phương pháp này tác giả dùng phương pháp phân tích để đánh giá các số
liệu thống kê lấy từ các nguồn:
-Từ Niên giám Thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam.
-Từ Phòng Thương Mại Mỹ (AMCHAM) Chi nhánh TP.Hồ Chí MInh.
-Từ Thời Báo Kinh tế Sài Gòn.


3

-Từ Internet
-Sách Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế, của GS.TS. Võ Thanh Thu xuất bản các năm
2008, 2010.

-Sách Chiến Lược Thâm Nhập Thị Trường Mỹ, của GS.TS. Võ Thanh Thu, tái
bản năm 2012.
-Sách Kinh Tế Đối Ngoại, Những Nguyên Lý & Vận Dụng Tại Việt Nam, của
PGS.TS. Hà Thị Ngọc Oanh tái bản 2010.
-Sách Cẩm Nang Rào Cản Thương Mại Quốc Tế Đối Với Hàng Nông Lâm
Thủy Sản Xuất Khẩu Của VN, của GS.TS. Võ Thanh Thu xuất bản: 02/2011.
-Sách Việt Nam Với WTO Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2008.
-Sách Cẩm Nang Phòng Ngừa & Đối Phó Với Các Vụ Kiện Chống Bán Phá
Giá Đối Với Hàng Xuất Khẩu Việt Nam, của GS.TS. Võ Thanh Thu, xuất bản năm
2008.
-Sách Hỏi Đáp Về Hiệp Định Thương Mại Việt-Mỹ của TS. Lê Thành Châu,
tái bản năm 2010.
Thu thập tài liệu, số liệu, nghiên cứu sách báo, tạp chí thống kê thành dự liệu
sơ cấp. Tổng hợp, phân tích , đánh giá thành dự liệu thứ cấp.
2.3.2.1. Phương pháp khảo sát điều tra thực tế:
Để đề tài có căn cứ thực tiễn, tác giả có tiến hành gởi 400 phiếu khảo sát đến
các hiệp hội: dệt may, đồ gỗ, giày dép, dầu thô, thủy sản và cà phê chuyển đến các
công ty có xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Mỹ, nhận được phúc đáp từ 112 công
ty. Sau đó đối chiếu kết quả với dự liệu sơ cấp, thứ cấp để minh chứng rằng Hiệp định
Thương mại song phương Việt - Mỹ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu
của các công ty VN vào thị trường Mỹ.


4

Để hoàn thành luận văn này ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được
sự giúp đỡ của các hiệp hội: dệt may, đồ gỗ, giày dép, dầu thô, thủy sản và cà phê, các
công ty có xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Mỹ, thầy hướng dẫn Ts. Trần Anh
Dũng và các thầy từ phòng QLKH sau Đại Học, thuộc trường Đại Học Kỷ Thuật
Công Nghệ Hutech, các thầy, cô trong ban giám hiệu và hội đồng của trường đại học

kỹ thuật công nghệ TP.HCM Hutech

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI SONG PHƯƠNG
VÀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT-MỸ.
1.1.Những vấn đề chung về Hiệp định thương mại song phương:
1.1.1.Khái niệm:
Hiệp định thương mại song phương: Để thực hiện được chính sách ngoại
thương và tạo ra các điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các công ty xuất-nhập khẩu
trong nước, chính phủ các nước thực hiện ký kết các hiệp định thương mại.
Hiệp định thương mại song phương là văn bản thỏa thuận giữa hai bên, hai
quốc gia về các vấn đề quan hệ thương mại, hàng rào thuế quan và phi thuế quan áp
dụng. Quyền sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ, quan hệ đầu tư có liên quan đến
thương mại, giải quyết tranh chấp...
Hiệp định thương mại song phương cũng được coi là công cụ điều tiết ngoại
thương: Hiệp định thương mại được xây dựng dựa vào yêu cầu phát trển kinh tế của
quốc gia trong từng giai đoạn phát triển kinh tế. Những hiệp định thương mại song
phương được chính phủ xem xét kỹ lưỡng và được Quốc hội phê chuẩn.
Hiệp định thương mại song phương giúp đẩy nhanh tiến trình hội nhập của mổi
quốc gia, mở rộng thị trường thương mại và đầu tư thuận lợi.


5

Hiệp định thương mại song phương tác động đến sự thay đổi các cơ chế, chính
sách thương mại theo hướng hội nhập và mang tính nhất quán, đơn giản và minh
bạch.
Các hiệp định thương mại song phương thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường,
đặc biệt có ý nghĩa ở các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam.
Hiệp định thương mại song phương được coi là công cụ bảo vệ quyền lợi kinh

tế quốc gia vì hầu hết các hiệp định thương mại đều đề cập đến các biện pháp tự vệ
hợp pháp có thể áp dụng, đề cập các biện pháp xử lý tranh chấp, các điều kiện ưu đãi
đối với các nước kém phát triển hơn...
Tuy nhiên hệ quả của các hiệp định thương mại song phương là buộc các nước
phải mở cửa nền kinh tế, chấp nhận cạnh tranh bình đẳng với hàng nhập khẩu và lợi
thế sẽ thuộc về hàng hóa nào có tính cạnh tranh cao. Việc nghiên cứu kỹ nội dung
hiệp định thương mại song phương sẽ giúp các nhà quản lý ở tầm vĩ mô, hoạch định
chính sách phát triển thương mại nói chung phù hợp với các cam kết đã ký. Còn đối
với các công ty nghiên cứu kỹ các hiệp định thương mại song phương sẽ giúp nắm bắt
các cơ hội, hạn chế các khó khăn, thách thức, phục vụ cho xây dựng các chiến lược
kinh doanh của công ty đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo Luật của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ không thể dành quy chế quan hệ thương mại
bình thường với những nước đang trong thời kỳ chuyển tiếp như Việt Nam mà không
có Hiệp định thương mại song phương gọi tắt là BTA.
Mục đích của Hiệp định này là đảm bảo cho những luật lệ thương mại được rõ
ràng, kích thích và làm gia tăng thương mại, giúp Việt Nam hội nhập kinh tế kể cả gia
nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Chắc chắn là không, Hoa Kỳ mong muốn
thiết lập mối quan hệ thương mại với Việt Nam trên nền tảng giống như Hoa Kỳ đã có
với các nước khác, trong đó các nền kinh tế đang phát triển như: Bungary, Mông Cổ...
Những mối quan hệ này dựa trên cơ sở các chuẩn mực quốc tế, gồm các tiêu chuẩn


6

của WTO. Hơn nữa Hoa Kỳ cũng nhận thấy Việt Nam cần có các giai đoạn chuyển
tiếp để đáp ứng các tiêu chuẩn này.
Việt Nam là nước đàm phán với Mỹ lâu nhất ( 4 năm) từ tháng 09/1996 đến
tháng 07/2000, với nhiều nội dung phức tạp, trong khi các nước khác đàm phán để ký
kết hiệp định thương mại song phương với Mỹ khá dễ dàng.
Việt Nam đã ký hiệp định thương mại song phương với trên 100 quốc gia

nhưng với Mỹ là đối tác đặc biệt hơn vì đây là quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh
nhất thế giới. Hơn nữa thực tế cho thấy bất cứ nước nào đều có quan hệ kinh tế với
Mỹ, nói cách khác đây là một quốc gia đa sản phẩm tiêu dùng nên nhu cầu thị trường
rất cao.
Đây là hiệp định thương mại song phương đầu tiên VN đàm phán theo tiêu
chuẩn WTO. Nói cách khác BTA là chuẩn bị tích cực cho tiến trình đàm phán, hội
nhập WTO của VN.
Sau khi ký Hiệp định thương mại này, VN phải thực hiện cam kết về việc hoàn
chỉnh về thể chế, chính sách thông qua quá trình xây dựng và hoàn chỉnh các bộ phù
hợp với thông lệ quốc tế, chi tiết bảng 1.1, phụ lục 4.
Hiệp định thương mại song phương sẽ có lợi cho Việt Nam:
Tăng trưởng kinh tế: các ngành công nghiệp mới sẽ phát triển nhảy vọt để đáp ứng
nhu cầu của thị trường khổng lồ của Hoa Kỳ, các dự báo được trình lên Ngân hàng thế
giới cho rằng Việt Nam có thể tăng số lượng hàng xuất sang Hoa Kỳ lên đến con số
vài chục tỷ USD. Ngoài ra còn có tác động tích cực khác đối với nền kinh tế Việt
Nam. Bằng cách cạnh tranh và cải cách trong nước kèm theo, Hiệp định sẽ giảm chi
phí và khuyến khích hiện đại hóa.
Việc làm: theo Thời báo Kinh Tế Sài Gòn phát hành ngày 17/03/2011, do phóng viên
Đậu Anh Tuấn thực hiện trong bài viết: “Kết quả điều tra Công ty XK VN và FDI ”
cho biết có 77% doanh nghiệp, các công ty mới thành lập sau khi Hiệp định thương


7

mại song phương Việt - Mỹ được ký kết và các ngành công nghiệp mới sẽ tạo ra hàng
trăm ngàn việc làm. Hàng sản xuất xuất khẩu của Việt Nam hiện vẫn là một phần nhỏ
trong nền kinh tế (chỉ chiếm 1.106USD/người năm 2011 so với 2.660USD/người ở
Thái Lan) đó là tiềm năng phát triển rất lớn.
Giáo dục đào tạo: người lao động Việt Nam sẽ được tiếp xúc với công nghệ và
phương pháp quản lý tiên tiến. Họ sẽ có nhiều cơ hội hơn về đào tạo nghề cũng như

phát triển nghề nghiệp.
Đầu tư nước ngoài: việc ký kết Hiệp định thương mại song phương sẽ thu hút sự
quan tâm của toàn thế giới. Nó được coi là cam kết hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Việt Nam sẽ dành thêm nhiều cơ hội tiếp cận với các nguồn tài chính, phương thức
quản lý hiện đại, thông tin thị trường và công nghệ tiên tiến. Hiệp định thương mại
song phương sẽ giúp tạo lập một sân chơi công bằng cho tất cả các doanh nghiệp. Nó
cũng mở ra cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp tận dụng thị trường rộng lớn của Hoa
Kỳ.
Công nghệ: đầu tư nước ngoài và sự cải thiện về bảo hộ trí tuệ được tăng cường sẽ
khuyến khích công nghệ đổ vào Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ sử dụng
công nghệ hiện đại hơn trong các quy trình sản xuất phát triển nông thôn: Hiệp định
thương mại song phương sẽ khuyến khích nông nghiệp và tăng thu nhập từ nghề
nông. Ví dụ: hạ thấp mức thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc
sẽ tăng cường sản xuất và hạ giá thành sản phẩm gia súc, lượng xuất khẩu nông sản sẽ
tăng.
Chất lượng cuộc sống sẽ được nâng cao: giống như mọi quốc gia tham gia mậu dịch
khác, ở Việt Nam khi thu nhập tăng thì tỷ lệ chi phí mua hàng hóa dịch vụ sẽ giảm đối
với một người có thu nhập bình thường. Ví dụ: 10 kg gạo tương đương với 20% thu
nhập bình quân đầu người ở Việt Nam, nhưng chỉ là 3% ở Thái Lan. Thu nhập từ thuế


8

sẽ tăng lên, khuyến khích chi tiêu cho giáo dục, y tế, đường sá, nhà máy cấp nước,
điện sinh hoạt đem lại lợi ích cho nhân dân.
Thương mại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: thương mại là chìa khóa mở ra con
đường đi đến thịnh vượng. Các nhà kinh tế đã từ lâu hiểu rằng thương mại làm tăng
của cải. Trên thực tế, thương mại tạo ra của cải ngay trong các quốc gia và giữa các
quốc gia với nhau. Đó là vì thương mại khuyến khích các địa phương, tỉnh và quốc
gia chuyên sâu vào những hàng hóa họ có thể sản xuất khá hiệu quả, những mặt hàng

có lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh của một quốc gia nằm trong lực lượng lao động, tài
nguyên thiên nhiên, văn hóa và kiến thức của người dân quốc gia đó. Những nước có
nguồn công nhân rẻ có xu hướng tập trung vào các ngành nghề sử dụng nhiều nhân
công.
Thương mại hai chiều: làm giảm giá thành, mở rộng sản xuất, tăng tuyển dụng nhân
công, tăng thu nhập và phúc lợi xã hội của hai nước. Thương mại không bao giờ đem
lại lợi ích cho quốc gia này còn quốc gia kia bị thiệt. Với một số người, khó có thể tin
rằng thương mại tự do thực sự làm tăng thu nhập của cải của tất cả các quốc gia,
nhưng lịch sử đã chứng minh điều này. Thực tế thì tất cả các quốc gia giàu có trên thế
giới đều dành được vị trí chủ yếu nhờ một yếu tố, họ là những quốc gia có nền thương
mại lớn. Không một quốc gia nào đạt mức tăng trưởng kinh tế bền vững mà không hạ
thấp hàng rào thương mại nước mình. Nếu một nước đóng cửa thị trường, nước đó sẽ
buộc người lao động làm việc vất vả hơn và thu nhập ít hơn. Rốt cuộc các ngành công
nghiệp nước đó phải chịu lỗ và suy thoái.
1.1.2.Quá trình phát triển của Hiệp định thương mại song phương:
Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 230 quốc gia trên thế giới và đã
ký trên 200 hiệp định thương mại song phương và đa phương. Chỉ riêng sự kiện Việt
Nam là thành viên chính thức của WTO tháng 01/2007 mặc nhiên chúng ta phải chấp
nhận thực hiện gần 60 hiệp định đa phương của tổ chức này.


9

Để tăng trưởng kinh tế, các quốc gia phải mở cửa thị trường với nhau. Nhận
thức được thực tế cơ bản này những nước ASEAN đồng ý mở cửa thị trường khu vực
của họ, giống như thị trường khu vực rộng lớn đã mở cửa ở châu Âu và châu Mỹ. Thu
nhập bình quân đầu người của Việt Nam hiện nay chỉ đạt trên dưới
1.500USD/người/năm, thấp hơn nhiều so với các nước láng giềng. Việt Nam không
thể chờ đợi tới khi các điều kiện kinh tế của mình được cải thiện để mở cửa. Không
thể tăng cường năng lực của các công ty Việt Nam bằng cách che đậy khỏi cạnh tranh

quốc tế, mà hoàn toàn ngược lại. Cách duy nhất để kiểm chứng Việt Nam tiến hành
công nghiệp hóa và hiện đại hóa là đưa nền công nghiệp mình tiếp cận với cạnh tranh
trong nước và quốc tế, tiếp cận với những thị trường mới và công nghệ tốt hơn thông
qua thương mại.
Hiệp định thương mại song phương là một lộ trình tạo ra những thay đổi dần
dần trong nhiều năm tới. Việt Nam phải thực hiện thay đổi đó, dù thế nào chăng nữa,
để hội nhập kinh tế, tự do hóa thương mại cùng các hình thức cải tổ khác, những thay
đổi này có lợi chứ không có hại, đó là những thành tựu mà chúng ta hy vọng, dự đoán
sẽ có được từ những thay đổi đó. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ có rất nhiều chứ không
phải chỉ một vài doanh nghiệp trong mọi ngành. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ mở
rộng và phát đạt. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ tạo ra nhiều việc làm, hạ giá
thành hàng hóa và dịch vụ. Trong tương lai các ngành công nghiệp sẽ sử dụng công
nghệ mới để tăng năng suất lao động bình quân. Lương bổng cho công nhân sẽ tăng
lên vì họ sản xuất nhiều sản phẩm hơn. Người dân có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn cho
thể thao và các hoạt động giải trí khác. Các ngành giải trí, du lịch thể thao cũng đem
lại thu nhập và việc làm.
Một hệ thống tài chính lành mạnh và hiệu quả sẽ chuyển các khoản tiền tiết
kiệm đến những mục đích sinh lãi nhiều nhất. Sẽ có nhiều người hơn mở tài khoản
ngân hàng, tiết kiệm trong nước tăng lên và việc dành được những khoản vay dễ dàng
hơn với mức lãi suất thấp hơn. Thực hành công tác kế toán cũng được chuẩn hóa, luật


10

pháp và các quy định sẽ thoáng hơn và rõ ràng hơn, các thủ tục được tinh giảm của
chính phủ trong việc phê chuẩn và cấp phép sẽ giảm bớt quan liêu và tham nhũng.
Các quan chức nhà nước sẽ được trả lương cao và được trang bị kiến thức tốt hơn.
1.1.3.Phát triển thương mại quốc tế ở VN hiện nay:
Theo đường lối, chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước dựa trên
nhũng quan điểm cơ bản là:

Đại Hội Đảng lần thứ IV khẳng định đường lối “ đa phương đa dạng hoá quan
hệ kinh tế quốc tế” nghĩa là: “ VN sẵn sàng làm bạn với những ai muốn bắt tay xây
dựng nền kinh tế hùng mạnh ”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 ( 29/12/1997 ) nêu rõ: “ VN chủ
động hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, khẩn trương đàm phán với Mỹ để
ký được Hiệp định thương mại ”. Vì thế Bộ Chính Trị trực tiếp chỉ đạo các cuộc đàm
phán song phương với Mỹ, trong bối cảnh có nhiều ý kiến khác nhau, có những ý kiến
ủng hộ quan điểm mới, có những ý kiến không đồng tình do lịch sử quan hệ Việt- Mỹ
còn lưu lại.
Bộ Chính Trị đã xác định cuộc đàm phán này là phức tạp vì không chỉ mang
tính chất kinh tế & thương mại mà còn mang cả ý nghĩa chính trị vì mục đích là: nhằm
mục đích kinh tế - xã hội của VN.
Vì thế hiệp định này phải được Quốc hội thông qua ( thay vì những hiệp định
trước đây, do Bộ Thương mại chịu trách nhiệm soạn thảo và ký kết) và được coi là
hiệp định đồ sộ nhất đối với cả 2 nước từ trước tới nay.
Từ những năm 90, với đà phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và sự
bùng nổ của công nghệ thông tin, lực lượng sản xuất đã có bước phát triển vượt bậc
trên phạm vi toàn cầu. Các công ty xuyên quốc gia với tiềm lực tài chính to lớn và khả
năng công nghệ dồi giàu gia tăng hoạt động.


11

Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và sự gia tăng hoạt động của các
công ty xuyên quốc gia là hai yếu tố tác động đến bức tranh kinh tế thế giới trong thời
đại ngày nay. Hai yếu tố này, một mặt đặt ra nhu cầu, mặt khác tạo ra khả năng tổ
chức lại thị trường trên phạm vi toàn cầu. Nói cách khác, hai yếu tố này thúc đẩy toàn
cầu hóa kinh tế. Sự mở rộng thị trường gắn với sự phát triển lực lượng sản xuất và
tính chất của quá trình này đã được C.Marx chỉ ra trong tuyên ngôn Đảng cộng sản.
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch

vụ được dịch chuyển tự do hơn từ nước này sang nước khác, thông qua các cam kết
mở rộng thị trường. Các cam kết này có thể là giữa hai nước theo Hiệp định mậu dịch
tự do song phương (BTA), có thể giữa các nhóm độc lập theo Hiệp định mậu dịch tự
do khu vực (RTA) hoặc rộng hơn.
Tùy theo thỏa thuận giữa hai đối tác tham gia Hiệp định mà phạm vi và độ sâu
của các Hiệp định có thể khác nhau nhưng nội dung cơ bản của các Hiệp định này là
các bên cam kết mở cửa thị trường về thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và những
nguyên tắc, luật lệ phải tuân thủ để bảo đảm mở cửa thị trường một cách công bằng.
Đến năm 2005 trên thế giới, đã có 312 Hiệp định mậu dịch song phương và
khu vực được ký kết. Trong đó có 170 Hiệp định có hiệu lực. Không dừng lại ở hiện
trạng, nhiều nước đang đàm phán về BTA, RTA, mặc dù điều này không dễ dàng. Bởi
đây là quá trình chứa đựng nhiều mâu thuẫn, có sự xung đột lợi ích giữa các nước, các
nhóm nước và là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế
thế giới hợp lý hơn, công bằng hơn.
Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương ( Trans-Pacific Partnership-TPP )
ban đầu gồm 11 quốc gia thành viên: Mỹ, Việt Nam, Úc, Brunei, Chile, Malaysia,
NewZealand, Peru, Singapore, Canada và Mexico, hiện có 2 quốc gia là Nhật là 12
thành viên cũng bày tỏ ý định tham gia TPP, còn Philippines, Hàn Quốc và Đài Loan
dự kiến cũng sẽ tham gia TPP trong vòng 10 năm tới. Theo Reuters cho rằng :" Nếu
hiệp định thương mại TPP được ký kết, nó sẽ bao trùm một thị trường lớn hơn Liên


12

Minh Châu Âu ( EU ) và BRICS, với tổng sản lượng: 27.000 tỉ USD, chiếm khoảng
40% sản lượng kinh tế toàn cầu". Qua 4 năm và 16 vòng đàm phán, hy vọng cuối
năm 2013 được phê chuẩn và có hiệu lực thực thi.
1.1.4.Lợi ích của VN trong quan hệ thương mại với Mỹ:
Điều quan trọng là quốc gia nào không tham gia vào tiến trình này quốc gia đó
sẽ không có địa vị bình đẳng trong việc bàn thảo và xây dựng định chế của nền

thương mại thế giới, không có điều kiện để bảo vệ mình. Nhận thức được tình hình
đó, nhiều nước kể cả các nước trước đây vẫn thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch
nghiêm ngặt đã tiến hành cải cách kinh tế, mở cửa với bên ngoài tham gia vào quá
trình đàm phán Hiệp định thương mại song phương.
Thực hiện đường lối của Đảng, chúng ta đã phát triển mạnh quan hệ toàn diện
mở cửa buôn bán với Trung Quốc, gia nhập Hiệp hội các nước ASEAN, tham gia
Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN, diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), là sáng lập viên Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM). Cùng với các nước
ASEAN ký Hiệp định thành lập khu mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc; ASEANHàn Quốc; ASEAN-Ấn Độ; ASEAN-Úc và New Zealand. Cuối cùng là Hiệp định
thương mại song phương Việt-Mỹ được ký kết ngày 13-7-2000 và có hiệu lực từ ngày
11-12-2001. Đã mở ra triển vọng thương mại cho hai nước.
Tổng kết gần 11 năm kể từ Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực ( 2001
- 2012 ), chúng ta rõ Hiệp định có ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế VN trên các
khía cạnh sau:
Cùng với các Hiệp định WTO, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ thúc đẩy xây
dựng và đổi mới hệ thống pháp luật theo hướng hội nhập, đầy đủ, đồng bộ và minh
bạch đưa nền kinh tế VN phát triển nhanh theo hướng thị trường.


13

Hiệp định thương mại Việt - Mỹ xây dựng trên những nguyên tắc và nội dung
của WTO, việc thực thi Hiệp định đã giúp Việt Nam gia nhập WTO, việc thực thi
Hiệp định đã giúp VN gia nhập WTO vào tháng 01/ 2007.
Môi trường kinh doanh VN được cải thiện theo hướng bình đẳng, dễ dự đoán
và công khai. Doanh nghiệp phải chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, vai
trò và vị thế của doanh nghiệp tư nhân được tăng cường. Từ ngày 01/07/2006 tất cả
các thành phần kinh tế: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ
phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước, hợp tác xã ... đều chuyển sang hoạt động
theo luật Đầu tư và luật Doanh nghiệp chung.

Thị trường Mỹ được mở rộng trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của VN.
Nếu 1994 kim ngạch thương mại hai chiều giữa VN và Hoa Kỳ hầu như bằng 0 vì Mỹ
ban hành chính sách cấm vận kinh tế VN, đặc biệt sau khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực thì tốc độ thương mại giữa hai nước tăng nhanh chóng. Chi tiết Bảng
2.6 và 2.7, phụ lục 4 ).
Sau 12 năm Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực, năm 2012 thương
mại hai chiều giữa Mỹ và Việt Nam đã lên đến 24,3 tỉ USD ( trong đó VN xuất 19,6
và nhập từ Mỹ 4,7 tỉ USD ) tăng gần 17 lần kể từ khi Hiệp định thương mại song
phương có hiệu lực năm 2001.
Sau khi được ký kết vào ngày 13/07/2000 và chính thức có hiệu lực ngày
11/12/2001, Hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã mở ra một tương lai tươi sáng cho
thương mại giữa hai nước phá bỏ phân biệt đối xử về thuế quan tạo cơ hội cho hàng
hóa Việt Nam được xuất khẩu nhiều hơn vào thị trường Hoa Kỳ.
Đến năm 01/2007 sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO,
chính phủ Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao trên 170 nước, có quan hệ thương
mại với 230 nước, trong đó VN đã xuất khẩu sang 180 nước và nhập khẩu từ 120
quốc gia. Ngoài các Hiệp định đa phương quan trọng như WTO, ASEAN, APEC ...


14

để thúc đẩy nhanh có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu, chính phủ VN đã
ký gần 100 hiệp định thương mại song phương khác, trong số này, Hiệp định thương
mại Việt-Mỹ có vai trò đặc biệt quan trọng, việc thực thi các nội dung của hiệp định
này sẽ tác động lớn đến nền kinh tế VN vì:
Nội dung hiệp định sẽ được thể chế bằng luật, bằng các văn bản mang tính
pháp lý buộc các bên phải thực hiện. Ủy ban hỗn hợp VN và Hoa Kỳ giám sát việc
thực thi hiệp định. Những nội dung nào của Hiệp định thương mại Việt-Mỹ (BTA)
chưa có trong luật phải được xây dựng mới. Những luật và văn bản pháp quy nào hiện
hành trái với cam kết BTA thì phải được chỉnh sửa. Theo rà soát Bộ Tư pháp VN,
tổng số văn bản pháp luật của VN cần chỉnh sửa và ban hành mới theo BTA gần 100.

Nội dung Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, so với các hiệp định thương mại
song phương khác, toàn diện hơn, nó đề cập chẳng những đến thương mại hàng hóa
mà còn thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư, minh bạch và công khai hóa
chính sách của thương mại nhà nước.
Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được soạn thảo dựa trên các tiêu chuẩn, nội
dung của tổ chức thương mại thế giới (WTO) dành cho các nước kém phát triển, cho
nên ký được Hiệp định thương mại Việt-Mỹ là một bước tiến quan trọng giúp cho VN
gia nhập tổ chức WTO vào tháng 01/2007.
Dưới sự ảnh hưởng của Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, hệ thống pháp lý điều
tiết nền kinh tế và thương mại của VN sẽ thay đổi theo hướng: đầy đủ, minh bạch, tiếp
cận với các chuẩn mực quốc tế để tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi
cho các doanh nghiệp thuộc các khu vực kinh tế phát triển.
Ngoài ra, Mỹ là nước có nền kinh tế và thương mại lớn nhất thế giới: Mỹ
chiếm gần 50% sản lượng công nghiệp, trên 20% trị giá xuất nhập khẩu của thế giới.
Năm 2008 Mỹ xuất khẩu trên 1.287,4 tỉ USD, nhập khẩu gần 2.169,5 tỉ USD
(www.wto.org). Năm 2009 GDP của nước Mỹ lên đến 14.200 tỉ USD (số liệu của


15

WTO công bố năm 2010) cho nên ký hiệp định với Mỹ mở ra thị trường thuận lợi có
dung lượng lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Nước Mỹ có vai trò nòng cốt, chi phối hoạt động của các định chế tài chánh và
thương mại quốc tế như : IMF, WTO, WB, ADB... cho nên ký hiệp định thương mại
với Mỹ tạo ra khả năng tăng cường sự ảnh hưởng thuận lợi của các tổ chức trên với
nền kinh tế của VN và giúp đẩy nhanh tiến trình hội nhập của nước ta với khu vực và
thế giới.
Các nguyên tắc đàm phán và ký kết Hiệp định thương mại Việt-Mỹ :
Theo tinh thần chỉ thị của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng
quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ thể hiện trong Hiệp ước dựa trên 5 nguyên

tắc cơ bản :
- Tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ
của mỗi nước, bình đẳng cùng có lợi.
- Việc Hoa Kỳ và Việt Nam dành cho nhau Quy chế bình thường hóa quan hệ
thương mại vĩnh viễn (PNTR) không phải chỉ đem lại lợi ích cho phía Việt Nam mà
cho cả phía Hoa Kỳ, cho các công ty của Hoa Kỳ.
- Việt Nam tôn trọng các luật lệ và tập quán quốc tế sẽ từng bước điều chỉnh,
bổ sung các luật lệ, cơ chế của mình theo hướng đó, phù hợp với mức độ phát triển
của nền kinh tế, hoàn cảnh, điều kiện của Việt Nam.
- Việt Nam chấp nhận tuân thủ các quy định của Hiệp định về thương mại thuế
quan của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), nhưng sẽ thực hiện từng bước phù hợp
với phát triển nền kinh tế có tận dụng những ngoại lệ giành cho một nước đang phát
triển với thu nhập thấp.
- Việt Nam là nước đang phát triển, đang chuyển đổi nền kinh tế, do đó có
quyền được hưởng sự hỗ trợ của các nước phát triển, trong đó có Hoa Kỳ những nội


16

dung mà Hoa Kỳ không đặt ra với các nước thì không được đòi hỏi Việt Nam phải
đáp ứng.
Tiến trình đàm phán Hiệp định thương mại Việt-Mỹ:
Ngày 03-02-1994 chính phủ Hoa Kỳ công bố bỏ lệnh cấm vận đối với Việt
Nam.
Từ tháng 9-1996 đến ngày 03-7-2000 hai bên Việt Nam và Hoa Kỳ tiến hành
11 vòng đàm phán để soạn thảo nội dung của Hiệp định thương mại song phương
Việt-Mỹ ( BTA ).
Ngày 13-7-2000 đại diện hai nước ký kết Hiệp định thương mại Việt-Mỹ
Tháng 11-2001 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua Hiệp định
thương mại Việt-Mỹ.

Ngày 11-12-2001 Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thay mặt chính phủ Việt
Nam tại thủ đô Washington cùng với đại diện của chính phủ Mỹ tuyên bố Hiệp định
thương mại Việt-Mỹ bắt đầu có hiệu lực thực thi.
1.2. Tổng quan về Hiệp định thương mại Việt-Mỹ :
1.2.1. Bối cảnh đàm phán :
1.2.1.1.Bối cảnh chung:
Như chúng ta đã biết: cuộc chiến tranh của Mỹ ở VN là cuộc chiến tranh dài
nhất của quân đội Mỹ tham gia ở nước ngoài ( 8 năm ) và tiêu tốn 900 tỉ USD. Đồng
thời sau chiến tranh Mỹ đã để lại hậu quả nặng nề.Tuy nhiên cùng với xu hướng “ biến
chiến trường thành thị trường”, những thay đổi về tư duy trong quan hệ Việt - Mỹ
cũng phát triển theo chiều hướng hai bên cùng có lợi.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 nêu rõ VN chủ động hội nhập vào
nền kinh tế thế giới và khu vực, khẩn trương đàm phán với Mỹ để ký kết được Hiệp


17

định thương mại. Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo các cuộc đàm phán song phương với
Mỹ.
Ngày 21/11/1991 đàm phán đầu tiên về bình thường hoá quan hệ hai nước tại
Newyork. Ngày 03/02/1994 Chính phủ Mỹ tuyên bố bỏ lệnh cấm vận mua bán với
VN và lập cơ quan liên lạc giữa hai nước. Tháng 07/1995 hai bên tuyên bố thiết lập
quan hệ ngoại giao. Tháng 09/1996 bắt đầu tiến hành đàm phán Hiệp định thương mại
song phương. Ngày 10/03/1998 Mỹ tuyên bố bỏ áp dụng điều luật Jackson Vanic đối
với VN, góp phần thúc đẩy bình thường hoá qua hệ thương mại giữa hai nước. Năm
1999 hai bên dành cho nhau qui chế tối huệ quốc ( MFN ).
Ngày 13/07/2000 Lễ ký chính thức Hiệp định thương mại Việt - Mỹ tại
Washington kết thúc quá trình đàm phán kéo dài 4 năm, qua 10 vòng đàm phán. Đây
là Hiệp định thương mại song phương dựa trên các nguyên tắc của WTO.
Ngày 23/06/2004 Việt Nam được chọn vào danh sách 15 nước được ưu tiên

nhận viện trợ trong khuôn khổ cứu trợ AIDS, trị giá 15 tỉ USD giai đoạn 2004-2008.
Ngày 31/05/2006 hai bên ký Hiệp định thoả thuận VN gia nhập WTO. Ngày
09/12/2006 Tổng Thống Mỹ thông qua qui chế thương mại bình thường vĩnh viễn cho
VN, đánh dấu một bước quan trọng tiến trình bình thường hoá quan hệ với VN, hy
vọng sẽ đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia.
Quyết định sẽ đẩy mạnh quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai nước, đồng
thời đảm bảo rằng Mỹ được chia sẻ những lợi ích có được từ việc VN mới gia nhập
WTO, “ Việc thông qua PNTR không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn là một
cam kết hợp tác giữa Mỹ với Việt Nam để hàn gắn vết thương chiến tranh ” ( Rob
Simmons, đại biểu Đảng Cộng Hoà tiểu bang Connecticut, đồng thời cựu binh tham
chiến ở VN )


18

1.2.1.2.Việt Nam trước cơ hội, thách thức hội nhập khu vực và thế giới:
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá VII của Đảng tháng 6
năm 1996 khẳng định: “ Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng
mở, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại... Hợp tác nhiều mặt song phương và đa dạng
và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi...”.
Thực hiện các cam kết theo Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN, chúng ta phải
loại bỏ hàng rào phi thuế quan, giảm thuế nhập khẩu. Năm 2006 có 10.283 dòng thuế
chiếm 99,43% biểu thuế nhập khẩu ASEAN có thuế suất ở mức 0 - 5% nhưng các
ngành sản xuất của chúng ta vẫn phát triển với tốc độ cao. Trong nhiều năm qua sản
xuất công nghiệp tăng trung bình 15 - 16%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng trung bình
trên 20%/năm là nhân tố bảo đảm tăng trưởng kinh tế khá cao và liên tục tạo thêm
nhiều công ăn, việc làm.
Điều đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng lâu dài đến tiến trình đổi mới kinh tế
theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã từng bước xuất hiện lớp cán bộ trẻ có

trình độ chuyên môn cao, thông thạo ngoại ngữ, xuất hiện một độ ngũ những nhà
doanh nghiệp mới có kiến thức năng động và tự tin dám chấp nhận mạo hiểm, đối đầu
với cạnh tranh.Đây là nguồn lực quý báucho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá VII về hội nhập kinh tế
quốc tế, chúng ta đã hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm hình thành đồng bộ các yếu
tố của kinh tế thị trường, kiên trì đàm phán trên cả 2 kênh song phương ( Hiệp định
thương mại Việt-Mỹ, mở cửa thị trường ) và đa phương ( thực hiện các Hiệp định của
WTO ). Tham gia thực hiện các Hiệp định song phương và đa phương nước ta đứng
trước những cơ hội, thách thức sau:


19

Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ của Mỹ và các nước thành viên
với mức thuế nhập khẩu đã cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo
các Nghị định thư gia nhập, không bị phân biệt đối xử. Điều đó tạo diều kiện cho
chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu. Trong tương lai với sự lớn mạnh của doanh
nghiệp và nền kinh tế nước ta mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia.
Với nnền kinh tế có độ mở lớn, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì
điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai, minh bạch các thiết chế quản lý theo các
Hiệp định, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền
đề quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tề trong
nước mà còn thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ
sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách
phát triển.
1.2.1.3.Chính sách của Mỹ với ASEAN và Việt Nam:

Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia Mỹ cho thế kỷ 21 đã xác định, lợi ích
chiến lược của Mỹ ở Đông Nam Á là phát triển hợp tác khu vực và song phương cùng
các quan hệ kinh tế nhằm ngăn chặn và giải quyết các xung đột, nâng cao mức độ
tham gia của Mỹ trong nền kinh tế khu vực từ những mục tiêu cụ thể sau:
Dùng sức ép kinh tế và chính trị để buộc các bạn hàng phải mở cửa thị trường
của mình cho hàng hoá Mỹ, qua đó giảm thâm hụt cán cân thương mại với nước
ngoài.
Tăng cường mối quan hệ kinh tế với các thị trường mới nổi và các khu vực
kinh tế có trọng điểm như NAFTA, APEC trong đó có ASEAN, dùng WTO như là
một tổ chức để thực hiện chiến lược thương mại Mỹ.


20

Với thị trường trong nước, chính phủ Mỹ chủ trương tăng cường sự can thiệp
của nhà nước vào điều tiết nền kinh tế, tăng đầu tư cho cơ sở hạ tầng và cho khu vực
tư nhân.
Từ những mục tiêu cơ bản đó, Mỹ đã đề ra 5 giải pháp cơ bản sau:
Thúc đẩy đàm phán đa phương nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở cửa
thị trường hàng hoá Mỹ mà trọng điểm ở đây là các Hiệp định của Mỹ trong NAFTA,
APEC và diễn đàn các nước châu Mỹ trừ Cuba.
Sử dụng đàm phán song phương gây sức ép để mở cửa các “thị trường không
tự nguyện ” như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc...
Sử dụng các thiết chế bảo hộ mậu dịch đơn phương ( điều khoản bổ xung
Super 301, điều khoản bổ xung Special 301 trong luật thương mại Mỹ cho phép Mỹ
đơn phương duy trì hàng rào thuế quan hoặc trả đũa những hoạt động buôn bán bất
bình đẳng, luật chống phá giá ( AD), điều khoản 337 về quyền sở hữu trí tuệ ) khi cần
thiết để chống lại những hoạt động buôn bán không trung thực như bán phá giá, trợ
cấp xuất khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu qua Mỹ.
Cần viện trợ với việc mở rộng hoạt động kinh tế và thành lập các quỹ tài trợ

cho xuất khẩu chứ không chỉ là các khoản viện trợ đơn thuần dành cho các nước kém
phát triển.
Bên cạnh đó, thông qua các cơ quan hỗ trợ xuất khẩu và đầu tư như:
Tổ chức phát triển Quốc tế (USAID) và ngân hàng EXIMBANK, Quỹ đầu tư
tư nhân hải ngoại (OPIC) để lập các quỹ với lãi suất thấp tài trợ cho các hoạt động
xuất nhập khẩu và đầu tư của Mỹ tại các “thị trường nóng” như thị trường hàng hoá,
thông tin liên lạc, giao thông, năng lượng thiết bị xây dựng ở các nước Châu Á như
Indonesia, Philippines, Thái Lan và Pakistan, nơi Nhật Bản và các nước Tây Âu đã và
đang sử dụng kết hợp các khoản tín dụng ưu đãi để trợ giúp các nhà xuất khẩu của họ.


21

Ủng hộ việc mở rộng quyền điều hành kinh tế đối ngoại cho các bang. Còn
chính quyền liên bang chỉ giải quyết những vấn đề mang tính chiến lược gắn với việc
bảo vệ lợi ích quốc gia, duy trì và phát triển tiềm năng khoa học kỹ thuật của các tổ
hợp công nghiệp Mỹ, bảo vệ lợi ích của các công ty, các ngành và nhóm xã hội khỏi
sự cạnh tranh không chính đáng của nước ngoài.
ASEAN có tiềm năng phát triển thành một thị trường lớn, năng động trong khu
vực. Theo dự báo, khu vực này đến năm 2010 sẽ bao gồm 686 triệu dân, tổng sản
phẩm lên đến 1,1 ngàn tỉ USD và thu nhập từ các dự án hạ tầng cơ sở bao gồm cả các
nước ASEAN lên đến 1000 tỉ USD. Chính vì vậy việc duy trì và tăng cường các quan
hệ kinh tế ngày càng có hiệu quả với ASEAN là một định hướng ưu tiên trong chính
sách của Mỹ ở trên, trong giai đoạn hiện nay. Mỹ đã mở rộng danh sách“các thị
trường mới nổi” sang cả các nước thành viên khối ASEAN. Danh sách này đã thể
hiện sự đánh giá lại của Mỹ đối với các thị trường bên ngoài và xem đây là điều kiện
hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Mỹ. Do đó, việc Mỹ chủ
trương cộng tác chặt chẽ với các nước ASEAN không phải là ngẫu nhiên khi tính đến
tiềm năng của khu vực này ngày càng tăng. Năm 1997, ASEAN chiếm 48 tỉ USD
trong xuất khẩu hàng hoá của Mỹ, ngang bằng với Trung Quốc và Đài Loan và Hồng

Kông gộp lại.
Trong báo cáo chiếm lược an ninh quốc gia Mỹ cho thế kỷ 21 Mỹ xem việc
duy trì ASEAN mạnh, đoàn kết, có khả năng bảo đảm ổn định và thịnh vượng trong
khu vực là một trong những chính sách cuả Mỹ ở Đông Nam Á. Định hướng này
được thể hiện rõ qua những nhận thức và hành động của Mỹ trước cuộc khủng hoảng
tài chính ở châu Á vốn bắt đầu chính từ khu vực Đông Nam Á. Mỹ hiểu rằng giải
quyết cuộc khủng hoảng tài chính châu Á là việc của dân chúng, Chính phủ và khu
vực tư nhân ở các nước bị tác động như Thái Lan, Indônesia, Malaysia nhưng Mỹ
cũng có trách nhiệm và đã chấp nhập trách nhiệm đó. Bên cạch việc để ngỏ cửa thị
trường Mỹ, bác bỏ mọi phản ứng mang tính bảo hộ mậu dịch, chấp nhận thâm hụt


22

thương mại gia tăng. Mỹ đã hỗ trợ cải cách và ổn định cả gói thông qua IMF cho Thái
Lan, Indonesia và những nước bị tác động mạnh mẽ nhất.
Chính quyền Mỹ, với sự cộng tác của cộng đồng kinh doanh Mỹ đã trợ giúp về
tài chính cho các sinh viên Thái Lan và Indonesia ở Mỹ. Mỹ còn viện trợ cả gói cho
Indonesia và Mỹ đã kêu gọi Ngân hàng thế giới (WB) tăng gấp đôi sự ủng hộ đối với
việc tìm kiếm việc làm, các nhu cầu cơ bản, giúp trẻ em và giúp người già ở các nước
đang bị khủng hoảng. Tuy nhiên, như chính giới Mỹ xác nhận, khi thực hiện các biện
pháp để giúp giải quyết khủng hoảng tài chính châu Á nói chung và khu vực ASEAN
nói riêng, Mỹ đang tự bảo vệ lợi ích của chính Mỹ. Bởi vì ASIAN đã, đang là đối tác
quan trọng của Mỹ.
1.2.2.Tiến trình đàm phán, ký kết Hiệp định thương mại Việt-Mỹ:
Từ trước năm 1986 VN là một quốc gia có nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp, vận hành theo cơ chế mệnh lệnh, hành chính. Điều này cũng chính là nguyên
nhân khiến cho nền kinh tế trì trệ, kém hiệu quả, kém linh hoạt và kém năng động.
Tuy nhiên trong những năm gần đây Chính phủ đã thay đổi cơ chế quản lý cùng với
xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng, sự ra đời của các liên minh

kinh tế, các khu vực mậu dịch tự do (NAFTA, AFTA). Việt Nam cũng đang dần đổi
mới để phù hợp với xu thế của thời đại bằng chính sách mở cửa nền kinh tế thu hút sự
đầu tư nước ngoài và với chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, hàng hoá của VN đã
có mặt trên nhiều thị trường nước ngoài. Ví dụ như : EU, Nhật Bản, Hàn Quốc,
ASEAN, NICS .
Mỹ: là một quốc gia có lịch sử hình thành non trẻ, có diện tích 9,3 triệu km2, là
nước có diện tích lớn thứ 4 trên thế giới sau Nga, Canada, và Trung Quốc. Mỹ nằm
trung tâm Bắc Mỹ: phía Bắc giáp Canada, phía Nam giáp Mexico, phía Đông giáp Đại
Tây Dương, phía Tây giáp Thái Bình Dương.


23

Với dân số gần 310 triệu dân, nước có dân số đông hàng thứ 3 trên thế giới, với
thu nhập bình quân đầu người (GDP), chi tiết bảng 1.2, phụ lục 1.
Là một thị trường lớn nhất thế giới với kim ngạch nhập khẩu hàng năm
lên tới trên 2.329,6 tỉ USD.Đây là một thị trường cung cấp các sản phẩm máy móc,
công nghệ phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở VN. Do đó việc ký kết và thông
qua Hiệp định thương mại giữa hai nước là điều kiện cần thiết cho cả VN và Mỹ thúc
đẩy mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại song phương.
Việc ký kết Hiệp định thương mại VN - Hoa Kỳ là một quá trình dài mà
ở đó cả hai bên đã cùng nhẫn nại xích lại gần nhau để tìm ra tiếng nói chung. Quá
trình này bắt đầu từ tháng 10 năm 1995 khi Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ ngoại
giao VN và đại diện thương mại Mỹ thoả thuận, tập trung thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại và chuẩn bị đàm phán qua các vòng :
-

Vòng 1 : từ 2/9/1996 tại Hà Nội.

-


Vòng 2 : từ 9/12/1996 tại Hà Nội.

-

Vòng 3 : từ 12/4/1997 đến 17/4/1997 trao cho VN “văn bản dự thảo Hiệp
định” đề cập đến các vấn đề như:
1. Quy định về giá và điều tiết giá.
2. Hệ thống thuế.
3. Các trợ cấp đối với nền kinh tế nhất là đối với nông nghiệp.
4. Chế độ đầu tư.
5. Cán cân thanh toán.
6. Thuế quan nhập khẩu, bao gồm cả thuế quan ưu đãi, phí hải quan,
miễn thuế.


24

7. Các biện pháp tự vệ và các đền bù khác. (Chống bán phá giá, thuế
đối kháng).
8. Giấy phép nhập khẩu.
9. Các công ty, doanh nghiệp nhà nước.
10. Tiêu chuẩn và chứng nhận hàng hoá nhập khẩu, các tiêu chuẩn vệ
sinh dịch tễ khác.
11. Hoạt động kinh tế đối ngoại.
12. Hệ thống, thống kê và phát hành các ấn phẩm ngoại thương.
13. Hệ thống bảo vệ quyền tác giả.
14. Các bước tự do hoá thương mại trong tương lai được thể hiện trong
các quy định và các bộ luật quốc gia.
-


Vòng 4 : từ 6/10/1997 đến 11/10/1997 tại Washington.

-

Vòng 5 : từ 16/9/1998 đến 22/5/1998 tại Hà Nội.

-

Vòng 6 : từ 15/9/1999 đến 19/3/1999 tại Hà Nội các vòng đàm phán 5,6,7
hai bên tập chung trao đổi về thương mại dịch vụ và đầu tư.

-

Vòng 8 : từ 14/6/1999 đến 18/6/1999 tại Washington.

-

Vòng 9 : từ 23/7/1999 đến 25/7/1999 tại Hà Nội, gặp mặt cấp Bộ trưởng,
Hiệp định đã được thoả thuận về nguyên tắc.

-

Vòng 10: từ 28/8/1999 đến 2/9/1999 tại Washington, xử lý các vấn đề về
kỹ thuật.

-

Vòng 11: từ 3/7/2000 tại Washington , hoàn tất hiệp định.

1.2.2.1.Kết quả đạt được qua các vòng đàm phán:



25

Qua các vòng đàm phán, hai bên đều thể hiện sự thúc đẩy nhanh quá
trình đàm phán ký kết Hiệp định thương mại. Không chỉ là lợi ích trước mắt mà còn
vì lợi ích lâu dài của cả hai bên.Vào tháng 9/2001 Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã
được Hạ viện Mỹ thông qua và Thượng viện thông qua.Hiệp định dài gần 120 trang,
gồm 7 chương, 72 điều và 9 phụ lục, đề cập đến 4 nội dung chủ yếu: thương mại hàng
hóa, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ và quan hệ đầu tư. Đồng thời quan hệ thương
mại ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là tiêu chuẩn của WTO và có tính đến đặc điểm
kinh tế của mỗi nước để quy định khác nhau về khung thời gian thực hiện các điều
khoản của Hiệp định. Do VN là nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nên kèm theo
bản Hiệp định là 9 bản phụ lục có quy định lộ trình thực hiện thích hợp cho VN .
Hiệp định được xây dựng trên hai khái niệm quan trọng. Khái niệm Tối
huệ quốc (đồng nghĩa với quan hệ thương mại bình thường) mang ý nghĩa hai bên đối
xử hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước kia không kém phần thuận lợi hơn so với cách
đối xử với hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước thứ ba (đương nhiên không kể đến các
nước nằm trong Liên minh thuế quan hoặc Khu vực mậu dịch tự do mà hai bên tham
gia, ví dụ Mỹ sẽ không được hưởng những ưu đãi của ta dành cho các nước tham gia
khu vực mậu dịch ASEAN (AFTA) và ta cũng không được hưởng những ưu đãi mà
Mỹ dành cho các nước trong Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Còn khái
niệm Đối xử quốc gia thì nâng mức này lên như đối xử với công ty trong nước. Hai
khái niệm này quan trọng vì chúng được đề cập đến hầu hết ở các chương của bản
hiệp định. Ngoài ra, các phụ lục được dùng để liệt kê các trường hợp loại trừ, chưa
hoặc vĩnh viễn không áp dụng các khái niệm trên.
1.2.2.2.Ý nghĩa của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ:
Theo ông Mark E.Manyin, nhà nghiên cứu, phân tích các vấn đề Châu
Á thì việc thực thi Hiệp Định Thương Mại sẽ mang lại những lợi ích to lớn sau đây:



×