Tải bản đầy đủ (.pdf) (202 trang)

Chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 202 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Công nghệ là công cụ để phát triển kinh tế, xã hội một cách nhanh chóng và
bền vững trong môi trường cạnh tranh quốc tế, điều này đã được các quốc gia trên
thế giới thừa nhận. Công nghệ lạc hậu thường dẫn đến năng suất lao động thấp, tiêu
hao nguyên vật liệu, năng lượng cao, nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, sản phẩm
khó đáp ứng được yêu cầu, nhu cầu của thị trường và tính cạnh tranh của sản phẩm
không cao. Công nghệ được coi là yếu tố tác động trực tiếp tới năng suất, chất
lượng sản phẩm và ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, sự phát
triển thịnh vượng của quốc gia. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, các doanh
nghiệp muốn phát triển bền vững, tạo dựng uy tín và phát triển thương hiệu của
mình thì không thể không tiến hành các hoạt động ĐMCN.
Nhà nghiên cứu quản lý nổi tiếng Perter Drucker đã khẳng định “Đổi mới
công nghệ đã trở thành một công cụ quan trọng của kinh doanh hiện đại”, điều đó
có nghĩa là ĐMCN đã trở thành yếu tố ưu tiên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định
đến sự thành bại của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trên thực
tế, để ĐMCN ngoài việc doanh nghiệp phải hiểu rõ được quá trình đổi mới và các
yếu tố ảnh huởng trực tiếp, gián tiếp hay các yếu tố bên trong và bên ngoài ảnh
hưởng tới ĐMCN thì cũng phải thấy được những khó khăn nhất định để khắc phục
như nguồn vốn để tiếp nhận công nghệ, cách đánh giá công nghệ, cách lựa chọn
công nghệ thích hợp, phương thức chuyển giao công nghệ, nguồn nhân lực cần có
để phục vụ cho quá trình ĐMCN, cũng như phải nắm rõ các chính sách, cơ chế của
Nhà nước trong hoạt động ĐMCN, v.v.
Hiện nay, chính sách nhà nước về ĐMCN của Việt Nam nói chung và Hà
Nội nói riêng đã khẳng định được nhận thức của Nhà nước và thành phố Hà Nội
trong việc thúc đẩy hoạt động ĐMCN của các doanh nghiệp. Hoạt động ĐMCN sở
dĩ có sức lan tỏa rộng; bởi vì, thứ nhất xét từ giác độ Nhà nước trong việc quản lý
ĐMCN sẽ góp phần hạn chế tác động tiêu cực của công nghệ tới môi trường và tới
lợi ích của xã hội; thứ hai, xét từ giác độ doanh nghiệp sẽ góp phần nâng cao năng




2

lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Đến nay, hoạt động ĐMCN của
doanh nghiệp nói chung và chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN nói riêng đã
được trình bày ở các khía cạnh, các quan điểm, các đối tượng nghiên cứu, các
trường phái khác nhau bằng những phương pháp nghiên cứu khác nhau thông qua
các công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước. Các công trình này đã có những
đóng góp thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, các nghiên cứu này vẫn
chưa cung cấp được các thông tin đầy đủ về các yếu tố ảnh hưởng, các tiêu chí đánh
giá chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN theo cách tiếp cận
công cụ chính sách, đứng trên giác độ quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
nói chung và ĐMCN nói riêng. Đây là nội dung cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung để
hoàn thiện hơn. Qua đó, luận án bổ sung làm rõ khái niệm ĐMCN phù hợp với điều
kiện và hoàn cảnh của Việt Nam, từ đó đề xuất các nhóm tiêu chí đánh giá chính
sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN.
Kết luận số 234-TB/TW ngày 1/4/2009 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số
22/2008/NQ-CP ngày 28/5/2009 của Chính phủ đã xác định nhiệm vụ phải tập
trung đẩy nhanh tốc độ ĐMCN trong các ngành kinh tế.. Ngày 10/5/2011, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 677/QĐ-TTg về việc phê duyệt
“Chương trình ĐMCN Quốc gia đến năm 2020”; theo đó mục tiêu của chương trình
đến năm 2015 thì số lượng doanh nghiệp thực hiện ĐMCN tăng trung bình
10%/năm và đến năm 2020 số lượng doanh nghiệp thực hiện ĐMCN tăng trung
bình 15%/năm, trong đó có 5% doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Thủ tướng
cũng đã ban hành quyết định số 418/QĐ-TTg, ngày 11/4/2012 phê duyệt “Chiến
lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2012”; theo đó ĐMCN là
một yếu tố quan trọng, góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Như vậy, ĐMCN đang là
vấn đề được thực tiễn rất quan tâm.
Hà Nội là thủ đô của Việt Nam, là vùng kinh tế trọng điểm, là trung tâm đầu

não về chính trị, văn hoá, giáo dục của cả nước, đồng thời có tiềm năng phát triển
về kinh tế, xã hội, công nghệ trong tương lai. Luận án lựa chọn các doanh nghiệp
trên địa bàn Hà Nội nhằm ba mục đích: (i) phù hợp với khả năng tiến hành khảo sát


3

thực địa của nghiên cứu sinh, (ii) đảm bảo được tính đại diện của mẫu khảo sát và
(iii) đóng góp phần nhỏ trong việc phân tích, hoàn thiện chính sách nhà nước nhằm
thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN trong thời gian vừa qua, từ đó đưa ra các kiến nghị
về chính sách nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN nói chung và các doanh nghiệp
trên địa bàn Hà Nội ĐMCN nói riêng.
Vì những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Chính sách nhà nước
nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ: nghiên cứu trường hợp các doanh
nghiệp trên địa bàn Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới luận án1
Qua quá trình tìm hiểu của nghiên cứu sinh, đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu liên quan tới hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, chính sách ĐMCN,
chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN ở ngoài nước và trong nước. Mỗi công
trình nghiên cứu đều có đóng góp tích cực ở các giác độ tiếp cận khác nhau cả về
mặt lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở quan trọng để nghiên cứu sinh phát hiện được
khoảng trống trong hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, chính sách thúc đẩy
ĐMCN nhằm gợi mở và phục vụ cho quá trình nghiên cứu của luận án.

3. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Mục tiêu nghiên cứu của luận án: (i) xây dựng khung lý thuyết về chính sách
nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN trên cơ sở kế thừa và phát triển các
công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, cũng như nghiên cứu kinh nghiệm của
một số quốc gia trên thế giới về chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp

ĐMCN; (ii) phân tích thực trạng ĐMCN, đánh giá chính sách nhà nước nhằm thúc
đẩy doanh nghiệp ĐMCN giai đoạn 2000 đến 2012 (nghiên cứu trường hợp các
doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội); (iii) đề xuất một số nhóm giải pháp hoàn thiện
chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN.
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận án sẽ trả lời các câu hỏi sau:
- Đổi mới công nghệ là gì? Hành vi của doanh nghiệp trong việc ra quyết
định ĐMCN phụ thuộc vào những yếu tố nào?
1

Phần này được trình bày chi tiết trong Chương 1, mục 1.1


4

- Chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ cần
được hiểu như thế nào và nó bao gồm những loại chính sách nào?
- Kể từ khi Luật KH&CN được ban hành (2000), chính sách nhà nước về
ĐMCN đã có tác động như thế nào tới hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp (nghiên
cứu trường hợp các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội)?
- Việc ban hành, thực thi chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp
ĐMCN bị chi phối bởi những yếu tố nào?
- Nhà nước cần làm gì, thứ tự ưu tiên ra sao để hoàn thiện chính sách nhằm
thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN?
Từ những mục tiêu thể hiện ở các câu hỏi nêu trên, luận án phải thực hiện
được các nhiệm vụ, nội dung sau:
- Thứ nhất, luận án nghiên cứu tổng quan các đề tài, công trình nghiên cứu
liên quan tới chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN ở ngoài
nước và trong nước dựa trên các giác độ tiếp cận khác nhau.
- Thứ hai, luận án hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách nhà nước nhằm
thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN.

- Thứ ba, thông qua kinh nghiệm về chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy
doanh nghiệp ĐMCN của một số quốc gia trên thế giới, Luận án rút ra một số bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Thứ tư, luận án phân tích thực trạng ĐMCN của các doanh nghiệp nói
chung và các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội nói riêng, từ đó chỉ ra những thành
tựu, hạn chế và nguyên nhân làm hạn chế hoạt động ĐMCN của các doanh nghiệp
trên địa bàn Hà Nội.
- Thứ năm, luận án đánh giá các chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh
nghiệp ĐMCN, từ đó chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân làm hạn
chế tác động của chính sách nhà nước đối với hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp.
- Thứ sáu, luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước
nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN nói chung và các doanh nghiệp trên địa bàn
Hà Nội nói riêng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam.


5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp
và các chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Luận án nghiên cứu, đánh giá chính sách nhà nước nhằm
thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN (bao gồm các chính sách của Trung ương và của địa
phương ban hành). Đối tượng thụ hưởng chính sách là các doanh nghiệp thực hiện
hoạt động ĐMCN, trong đó chú trọng nghiên cứu các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Hơn nữa, luận án đánh giá chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp
ĐMCN trên cơ sở nhận thức, đánh giá, phản hồi của doanh nghiệp về các chính
sách chung do Nhà nước đã ban hành; từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện nội

dung chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN.
Phạm vi không gian: Luận án thu thập số liệu thứ cấp về thực trạng ĐMCN
của các doanh nghiệp trên toàn quốc; tuy nhiên luận án giới hạn việc điều tra khảo
sát đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện các hoạt động ĐMCN để tạo ra
sản phẩm/qui trình mới và các hoạt động tiếp nhận công nghệ mới để cải tiến, đổi
mới sản phẩm/qui trình sản xuất trên địa bàn Hà Nội.
Về mặt thời gian: Luận án xem xét, đánh giá hoạt động ĐMCN của các
doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội và các chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh
nghiệp ĐMCN trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2012.

5. Phương pháp nghiên cứu2
Luận án kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng nhằm thực
hiện mục tiêu nghiên cứu. Để làm được điều này, nghiên cứu sinh tiến hành xây
dựng khung lý thuyết nghiên cứu, xây dựng qui trình nghiên cứu, lựa chọn phương
pháp thu thập dữ liệu (sơ cấp và thứ cấp) và xử lý dữ liệu.

2

Phần này được nghiên cứu chi tiết trong Chương 1, mục 1.2


6

- Xây dựng khung lý thuyết và qui trình nghiên cứu: luận án tiến hành thu
thập, đánh giá các công trình khoa học trong và ngoài nước liên quan tới hoạt động
ĐMCN của doanh nghiệp, từ đó xây dựng khung lý thuyết và quy trình nghiên cứu
của luận án phù hợp với mục tiêu nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập dữ liệu: đối với các dữ liệu thứ cấp, luận án tiến
hành thu thập, lựa chọn dữ liệu thông qua các công trình nghiên cứu trong nước,
ngoài nước, dữ liệu của các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp đã công bố

ở dạng bản cứng và bản điện tử liên quan tới ĐMCN. Dữ liệu sơ cấp được thu thập
thông qua phiếu điều tra gửi tới các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội, đồng thời
tiến hành phỏng vấn đối với một số cán bộ quản lý về KH&CN ở Trung ương và
thành phố Hà Nội.
- Phương pháp xử lý dữ liệu: luận án sử dụng phầm mềm SPSS 16 làm công
cụ để phân tích các dữ liệu thu thập được; đồng thời còn sử dụng các phương pháp
mô tả, thống kê, so sánh, đối chứng, tổng kết thực tiễn và chuyên gia.

6. Những đóng góp mới của luận án
Về mặt khoa học: Luận án làm rõ cơ sở lý luận về ĐMCN và chính sách nhà
nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN. Cụ thể: (i) đánh giá, lựa chọn khái niệm
công nghệ và bổ sung làm rõ khái niệm đổi mới công nghệ, (ii) bổ sung làm rõ khái
niệm chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN, (iii) chỉ ra các yếu
tố ảnh hưởng tới ĐMCN ở doanh nghiệp và các yếu tố ảnh hưởng tới chính sách
nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN, (iv) đề xuất các nhóm tiêu chí đánh
giá chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN.
Về mặt thực tiễn: Luận án đề xuất các nhóm giải pháp hoàn thiện chính sách
nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN theo cách tiếp các công cụ chính
sách phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận án còn là tài liệu tham khảo cho những
nghiên cứu tiếp theo về hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, về chính sách nhà
nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN.


7

7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, cam kết của tác giả, các phụ lục, các tài liệu
tham khảo. Luận án chia thành 5 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu về chính sách

nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ
Chương 2: Cơ sở lý luận về chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh
nghiệp đổi mới công nghệ
Chương 3: Kinh nghiệm quốc tế về chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy
doanh nghiệp đổi mới công nghệ
Chương 4: Phân tích thực trạng chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh
nghiệp trên địa bàn Hà Nội đổi mới công nghệ
Chương 5: Giải pháp hoàn thiện chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh
nghiệp đổi mới công nghệ


8

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VỀ
CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC NHẰM THÚC ĐẨY
DOANH NGHIỆP ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới luận án
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở nước ngoài về hoạt động
ĐMCN của doanh nghiệp, chính sách đổi mới công nghệ, cũng như chính sách nhà
nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN với nhiều quan điểm và cách tiếp cận
khác nhau. Luận án này chia các nghiên cứu thành 2 nhóm chính: (i) nhóm nghiên
cứu về ĐMCN, vai trò của ĐMCN và các yếu tố ảnh hưởng tới ĐMCN của doanh
nghiệp, (ii) nhóm nghiên cứu về vai trò của nhà nước và chính sách nhà nước đối
với ĐMCN. Cụ thể như sau:

(i) Nhóm nghiên cứu về ĐMCN, vai trò của ĐMCN và các yếu tố ảnh
hưởng tới ĐMCN của doanh nghiệp

Đổi mới công nghệ là một hệ thống các hoạt động phức tạp nhằm chuyển đổi
các ý tưởng và kiến thức khoa học thành thực thể vật chất và các ứng dụng trong
hiện thực. Đó là quá trình biến đổi tri thức thành các sản phẩm và dịch vụ hữu ích
có tác động tới sự phát triển của nền kinh tế và bao gồm tám lĩnh vực: (1) nghiên
cứu cơ bản, (2) nghiên cứu ứng dụng, (3) triển khai công nghệ, (4) thực thi công
nghệ, (5) sản xuất, (6) marketing, (7) truyền bá, và (8) mở rộng công nghệ (Tarek M
Khalil, 2002). Mặt khác, ĐMCN là một hoạt động đồng thời tác động với nhau một
cách không tuyến tính; nó không chỉ bao gồm khoa học, kỹ thuật mà bao gồm cả
ảnh hưởng của xã hội, nhà nước, thể chế chính trị, văn hóa, kinh tế, chính sách công
để tạo ra của cải và chịu ảnh hưởng của ba quĩ đạo tới hạn, đó là: vượt qua đường
biên giới, sự xuất hiện các công nghệ mới, kiến thức và trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên,
M.A.Schilling (2009) lại cho rằng ĐMCN là tập hợp các ý tưởng sáng tạo và đòi


9

hỏi sự cần thiết phải kết hợp ý tưởng sáng tạo, nguồn lực và kỹ năng để hiện thực
hóa ý tưởng đó thành sản phẩm mới, qui trình mới.
Vai trò của ĐMCN đối với tăng trưởng kinh tế của một quốc gia:
- Đổi mới công nghệ tác động tới xã hội như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
(GDP) và tăng năng lực cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa (M.A.Schilling,
2009); đồng thời tốc độ ĐMCN đã trở thành yếu tố hàng đầu ảnh hưởng tới tốc
độ tăng trưởng kinh tế và tạo ra sự thịnh vượng của quốc gia. Nhiều công trình
nghiên cứu đã kết luận rằng tiến bộ công nghệ thông qua ĐMCN là nguồn gốc và
là động lực của tăng trưởng kinh tế (Robert Solow, 1987; Boskin and Lau, 1992)
[121],[122]. Từ đó cho thấy, tiến bộ của nền văn minh xã hội loài người được
gắn liền với tiến bộ của công nghệ.
- Đổi mới công nghệ tạo ra các cơ hội kinh doanh, đồng thời cũng tạo ra
những cơ chế trong tăng trưởng kinh tế. Nó chính là cơ sở và điểm khởi đầu cho
một chu trình phát triển kinh tế và được gọi là chu trình sóng dài của nền kinh tế,

trong đó có nhấn mạnh tới tiến bộ của KH&CN mới dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế
mới Trong công trình viết về kỷ nguyên kỹ thuật số đã khẳng định ĐMCN vẫn là
yếu tố chủ đạo trong việc tạo ra của cải và đem lại sự tăng trưởng kinh tế (Laure
Morel Guimaraes, Tarek M Khalil, Yasser A Hosni, 2005) [111]. Như vậy, công
nghệ và ĐMCN là một trong các yếu tố giữ vai trò quan trọng đối với quá trình tạo
ra sự thịnh vượng và tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.
Các yếu tố tổng hợp ảnh hưởng tới hoạt động ĐMCN và quá trình ĐMCN
của doanh nghiệp:
- Tarek M.Khalil (2002) đã nghiên cứu và đưa ra bảy yếu tố chi phối ảnh
hưởng tới tốc độ ĐMCN, đó là: (1) tình trạng hiện tại của tri thức khoa học, (2) mức
độ tăng trưởng của khoa học, (3) loại công nghệ, (4) các pha trong chu kỳ sống, (5)
mức độ hứa hẹn của chính sách, (6) khả năng hợp tác tiến bộ công nghệ và (vii) tốc
độ lan truyền của các sáng chế. Hơn nữa, tác giả cũng đưa ra tám nhân tố ảnh hưởng
tới hoạt động ĐMCN trong ngành công nghiệp, đó là, (1) sự thay đổi của môi


10

trường quốc tế, (2) tiến bộ trong truyền thông, (3) nghiên cứu & triển khai đa diện
và liên tục, (4) thời gian tiếp thị, (5) sự thúc đẩy từ giáo dục, (6) sự thay đổi trong
sự tương tác với thể chế, (7) những thay đổi trong cấu trúc tổ chức, và (8) sự lan tỏa
của các nguồn lực cho việc phát triển và thâm nhập công nghệ.
- Ảnh hưởng của khoa học tới ĐMCN: Cho tới cuối thế kỷ 18 mối quan hệ
giữa KH&CN còn tương đối độc lập, nhưng nhiều nhà khoa học đã quan sát thấy có
sự phát triển song song giữa khoa học và công nghệ. Trong thế kỷ 20 thì hầu hết các
công nghệ đều có nguồn gốc từ các khám phá khoa học, chỉ khi khoa học và công
nghệ tác động lẫn nhau mới tạo lên sự phát triển bùng nổ của công nghệ. Hay nói
cách khác, khi nói tới khoa học là đề cập tới phát minh khoa học, còn khi nói tới
công nghệ là đề cập tới sáng chế công nghệ; đây là hai vấn đề có quan hệ mật thiết
và ảnh hưởng lẫn nhau. Công nghệ mới ra đời thông qua hoạt động ĐMCN hỗ trợ

cho các phát minh khoa học, các phát minh khoa học là cơ sở dẫn tới các sáng chế
và thực hiện ĐMCN thành công [123]. Khi khoa học càng phát triển thì sẽ làm cho
vòng đời công nghệ giảm xuống từ đó thúc đẩy hoạt động ĐMCN (M.A. Schilling,
2009). Hoạt động đổi mới được Fredrick Betz (1998) cho rằng đó là sự phát minh,
phát triển và đưa vào thị trường sản phẩm mới, qui trình mới hoặc là dịch vụ mới có
chứa công nghệ mới. Mặt khác, khi KH&CN tiếp cận thị trường chúng sẽ ảnh
hưởng tới doanh nghiệp và cuộc sống của con người, đồng thời thị trường có thể
chấp nhận hay loại bỏ chúng.
- Ảnh hưởng của thị trường tới ĐMCN và nhấn mạnh vai trò của xã hội đối
với ĐMCN của doanh nghiệp: Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng ĐMCN bắt đầu từ ý
tưởng và kết thúc là chúng được thương mại hóa, nghĩa là chúng được đưa ra thị
trường. Để thị trường chấp nhận thì hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp phải đóng
góp và tạo nên giá trị gia tăng cho khách hàng; hay nói cách khác mọi đổi mới đều
xuất phát từ nhu cầu của xã hội hay phục vụ nhu cầu của xã hội đồng thời xã hội là
nơi cung cấp nguồn lực cho đổi mới và cũng là nơi tiếp nhận thành quả của đổi mới
[105], [112], [121]. Vì vậy ĐMCN thực sự thành công khi và chỉ khi chúng được
thương mại hóa, đưa ra thị trường và được thị trường chấp nhận.


11

- Một số nghiên cứu chỉ ra rằng lợi thế so sánh của doanh nghiệp không chỉ
phụ thuộc vào nguồn lực mà doanh nghiệp đó sở hữu mà còn phụ thuộc vào mối
quan hệ mà doanh nghiệp có được. Mối quan hệ mà doanh nghiệp có được đó,
theo một số nhà nghiên cứu gọi là vốn xã hội (tổng hợp [76]): theo Nahapiet &
Ghoshal (1998), vốn xã hội giúp cho doanh nghiệp giảm được chi phí giao dịch
bằng việc tiết kiệm được chi phí thông tin và cộng tác. Qua nghiên cứu tác động
của vốn xã hội tới ĐMCN ở một số doanh nghiệp công nghệ cao, Ylirenco và ctg
(2001) đã phát hiện ra mối quan hệ tương hỗ giữa doanh nghiệp, khách hàng chính
của doanh nghiệp và kiến thức mà doanh nghiệp nhận được từ các mối quan hệ

với khách hàng. Kiến thức nhận được thông qua các mối quan hệ có thể được sử
dụng để nâng cấp các sản phẩm, hiểu được các công nghệ phụ trợ và nâng cao khả
năng cạnh tranh nhằm tạo ra sự khác biệt trong phát triển công nghệ của doanh
nghiệp. Như vậy, các mối quan hệ trên góp phần gia tăng hiệu quả sản xuất kinh
doanh đối với doanh nghiệp và vốn xã hội có thể đóng vai trò quan trọng góp phần
tạo nên sự thành công của doanh nghiệp và là yếu tố thúc đẩy hoạt động ĐMCN
của doanh nghiệp.

(ii) Nhóm nghiên cứu về vai trò của nhà nước và chính sách nhà nước
đối với ĐMCN
Chính phủ giữ vai trò quan trọng trong việc kích thích các ngành công
nghiệp đầu tư cho hoạt động R&D để dẫn tới ĐMCN (H.J.Thamhain, 2005). Đổi
mới công nghệ diễn ra ở doanh nghiệp do doanh nghiệp thực hiện và vì lợi ích của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, nỗ lực riêng của doanh nghiệp là chưa đủ mà cần phải có
sự phối hợp của Nhà nước trong việc nâng cao nhận thức về các cơ hội công nghệ
mới, tăng cường và hỗ trợ trong toàn bộ hệ thống đổi mới để hạn chế các rủi ro có
thể xảy ra trong quá trình ĐMCN [9, tr2]. Nhà nước thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN
thông qua các chính sách khuyến khích như hỗ trợ về tài chính, hỗ trợ về thông tin,
thị trường, đào tạo nhân lực công nghệ hoặc thông qua các chính sách buộc các
doanh nghiệp phải ĐMCN nếu muốn tồn tại thể hiện ở quyền và nghĩa vụ của doanh
nghiệp theo Luật.


12

Về trách nhiệm của Nhà nước trong việc hoạch định, tổ chức và thực thi các
chính sách liên quan để hỗ trợ các doanh nghiệp ĐMCN. Cụ thể: Y.R.Kim (2001)
và Eriksson (2005) về mô hình phát triển công nghệ và chính sách ĐMCN của Hàn
Quốc, trong đó nhấn mạnh tới ý chí sẵn sàng thay đổi của người Hàn Quốc và nhấn
mạnh tới các chính sách hướng vào ngành công nghiệp; Intarakummerd P (2002) về

hệ thống đổi mới quốc gia của Thái Lan; Jomo K.S (2001) về chính sách phát triển
công nghệ ở Malaysia; Jop.Holdren (2010) về tạo lập môi trường công nghệ thuận
lợi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động ĐMCN ở Mỹ, v.v.
Việc đánh giá tác động chính sách của Nhà nước đối với hoạt động ĐMCN
dựa trên các phương pháp khác nhau lại cho kết quả khác nhau (tổng hợp [3,
tr25]), cụ thể: Scott, Levin và Reiss (1984) cho các doanh nghiệp Mỹ, Holemans
và Sleuwaegen (1988) cho các doanh nghiệp Bỉ, Antonelli (1989) cho các doanh
nghiệp Ý, Kleette và Moen (1997) cho các doanh nghiệp Nauy, Dominique
Guellec and Bruno van Pottelsberghe de la Potterie (1997) cho các doanh nghiệp
thuộc 17 nước OECD. Các nghiên cứu này đã sử dụng mô hình hồi qui để xem xét
tác động từ chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho hoạt động R&D của doanh
nghiệp. Kết quả cho thấy có mối quan hệ thuận chiều và có ý nghĩa thống kê giữa
hai biến này. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Lichtenberge (1988), Carmichael
(1981), Nadiri (1980) lại cho thấy tương quan nghịch. Nghiên cứu này chỉ ra rằng
hỗ trợ của Nhà nước quan hệ nghịch với đầu tư R&D nếu những khoản hỗ trợ đó
được triển khai dưới cách thức chỉ định, tức là không có sự cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp để có được sự hỗ trợ. Có nghĩa là sự hỗ trợ của Nhà nước cho R&D
chỉ hiệu quả khi doanh nghiệp thực sự có nhu cầu tiến hành các hoạt động R&D.
Mối quan hệ này sẽ tỷ lệ thuận nếu có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp thực hiện hoạt động ĐMCN được Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích
về thuế như giảm hoặc miễn thuế cho các hoạt động R&D, nhập khẩu công nghệ
mới. Các ưu đãi này có tác động tích cực đối với đầu tư ĐMCN của doanh nghiệp
nhưng chỉ trong thời gian ngắn.


13

Như vậy, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã khái quát được ĐMCN,
hoạt động ĐMCN, vai trò của ĐMCN và các yếu tố ảnh hưởng tới ĐMCN của
doanh nghiệp; đồng thời khẳng định được vai trò tích cực, quan trọng của Nhà nước

và chính sách nhà nước trong việc hoạch định, tổ chức thực thi các chính sách
ĐMCN nhằm hỗ trợ, khuyến khích và thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước
Các công trình nghiên cứu ở trong nước có thể chia thành ba nhóm: (i) nhóm
nghiên cứu về ĐMCN, năng lực công nghệ và các yếu tố ảnh hưởng tới ĐMCN của
doanh nghiệp, (ii) nhóm nghiên cứu về vai trò của nhà nước và chính sách nhà nước
đối với ĐMCN, (iii) nhóm nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về ĐMCN và chính
sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam. Cụ thể như sau:

(i) Nhóm nghiên cứu về ĐMCN, trình độ công nghệ, năng lực công
nghệ và các yếu tố ảnh hưởng tới ĐMCN của doanh nghiệp
Đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp đã được nghiên cứu thông qua các luận
án tiến sỹ trong thời gian vừa qua như: (1) Phương hướng và các giải pháp cơ bản
thúc đẩy đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp công nghiệp thuộc Tổng công ty
Bưu chính viễn thông Việt Nam (Nguyễn Huyền Sơn, 2004); (2) Phương hướng và
biện pháp ĐMCN trong các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu tỉnh Khánh
Hòa (Dương Trí Thảo, 2004); (3) Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư
đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp in quân đội (Ngô Minh Sơn 2002). Nhìn
chung các luận án này cũng đã khái quát được thực trạng ĐMCN ở các doanh
nghiệp công nghiệp thuộc Tổng công ty Bưu chính viễn thông, các doanh nghiệp
chế biến thủy sản xuất khẩu tỉnh Khánh Hòa, các doanh nghiệp in quân đội. Từ đó
đưa ra các giải pháp như cơ cấu lại tổ chức, phát triển nguồn nhân lực, tìm kiếm
phát triển thị trường đầu ra cho công nghệ, đa dạng hóa nguồn tài chính phục vụ đổi
mới, hoàn thiện lựa chọn qui trình ĐMCN, nâng cao hoạt động đầu tư ĐMCN. Tuy
nhiên, các luận án trên cũng chưa làm rõ được các tiêu chí đánh giá chính sách nhà
nước tới hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, thực trạng ĐMCN của các doanh



14

nghiệp trên địa bàn Hà Nội, cũng như đánh giá của các doanh nghiệp trên địa bàn
Hà Nội về chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN.
Nghiên cứu trình độ công nghệ của doanh nghiệp: để xây dựng chính sách
KH&CN nói chung và ĐMCN nói riêng cho doanh nghiệp thì một trong những yếu
tố quan trọng là đánh giá trình độ công nghệ của doanh nghiệp. Vấn đề này đã thu
hút được sự quan tâm của nhiều cá nhân, tổ chức tham gia với những phương pháp
đánh giá khác nhau như phương pháp Focus Group, phương pháp SMART đánh giá
trình độ công nghệ tỉnh Gia Lai, phương pháp AHP. Các phương pháp khác nhau sẽ
cho kết quả khác nhau khi đánh giá công nghệ theo bốn thành phần (Phần kỹ thuật,
phần con người; phần thông tin và phần tổ chức); tuy nhiên cả ba phương pháp trên
đều đánh giá dựa trên mức độ vận hành và mức độ hiện đại của phần kỹ thuật nên
kết quả không có sự sai khác nhiều [36],[40],[75].
Nghiên cứu năng lực công nghệ của doanh nghiệp làm cơ sở để doanh
nghiệp tiến hành các hoạt động ĐMCN: trong một đề tài nghiên cứu năng lực công
nghệ đã đưa ra bốn chỉ tiêu đánh giá năng lực ĐMCN dựa trên cách tiếp cận của
ESCAP (1989), các chỉ tiêu đánh giá bao gồm: (i) năng lực thích nghi công nghệ
nhập, (ii) năng lực sao chép công nghệ đang phổ biến trên thị trường để tiến hành
ĐMCN, (iii) năng lực tiến hành những cải tiến nhỏ đến lớn về sản phẩm và qui trình
công nghệ, (iv) năng lực tiến hành nghiên cứu và triển khai thiết kế quá trình công
nghệ và sáng tạo ra công nghệ hoàn toàn mới [4]. Tuy nhiên, phương pháp đánh giá
năng lực ĐMCN còn thiếu hệ thống về phương pháp, nhiều tiêu chí, khái niệm,
chuẩn so sánh còn chưa thống nhất (Hội thảo về đánh giá trình độ công nghệ sản
xuất do bộ KH&CN tổ chức tháng 2/2009). Cụ thể theo tài liệu hướng dẫn của
WEF, chỉ số chung về năng lực công nghệ đối với các nước phát triển là chỉ số sáng
tạo công nghệ và chỉ số về công nghệ thông tin - truyền thông, còn đối với các nước
đang phát triển là chỉ số về ĐMCN, chỉ số chuyển giao công nghệ và chỉ số công
nghệ thông tin - truyền thông (Tạ Doãn Trịnh, 2007 & Tăng Văn Khiên, 2008).
Trung tâm APCTT khi tiến hành đánh giá năng lực công nghệ đã tập trung vào đánh

giá các yếu tố như nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, các hoạt động
chuyển đổi công nghệ và cơ sở hạ tầng cho công nghệ phát triển.


15

Cho tới nay, chưa có sự thống nhất về phương pháp luận đánh giá trình độ
công nghệ, năng lực công nghệ của doanh nghiệp, đặc biệt là các tiêu chí đánh giá ở
Việt Nam; mặt khác quan điểm về đánh giá còn có sự khác nhau, các doanh nghiệp
là chủ thể của hoạt động ĐMCN nhưng lại chưa nhận thức đầy đủ về lĩnh vực này
(Nguyễn Hoàng Anh, 2009). Như vậy qua các nghiên cứu trên, các tác giả đã đưa ra
các phương pháp đánh giá trình độ công nghệ và khái quát được năng lực công nghệ
của doanh nghiệp; tuy nhiên chưa làm rõ được các tác động của chính sách Nhà
nước nhằm nâng cao năng lực công nghệ, làm cơ sở để khuyến khích, thúc đẩy
doanh nghiệp xúc tiến các hoạt động ĐMCN.
Hơn nữa, ĐMCN còn được nghiên cứu thông qua các công trình: (1) Nghiên
cứu về quản lý ĐMCN (Nguyễn Văn Phúc và các tác giả, 2002); (2) Điều tra khảo
sát hoạt động ĐMCN của các doanh nghiệp vốn trong nước (Nguyễn Võ Hưng,
Nguyễn Thanh Hà, 2003); (3) Điều tra khảo sát nhu cầu của doanh nghiệp nhỏ và
vừa các tỉnh phía Bắc (Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật doanh nghiệp nhỏ và vừa, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, 2007); (4) Nghiên cứu về đổi mới chính sách doanh nghiệp trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế (Hồ Sỹ Hùng và các tác giả, 2010), (5) Điều tra
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong khủng hoảng (VCCI, 2008), v.v.
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới ĐMCN của doanh nghiệp. Cụ thể:
- Nhân lực có tầm quan trọng quyết định ĐMCN, trong nhiều trường hợp còn
cấp bách hơn tài chính, đồng thời các yếu tố quyết định thành công của đổi mới là
tình hình thuận lợi của thị trường đối với sản phẩm có liên quan tới đổi mới và sau
đó là trình độ của đội ngũ lao động tại thời điểm đổi mới (Trần Ngọc Ca, 2000).
Tuy nhiên, CIEM/UNDP (2006) cho rằng yêu cầu về nâng cao chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm và yêu cầu nâng cao về năng suất mới là nhóm yếu tố có tác động

lớn nhất thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN; còn chính sách khuyến khích ĐMCN của
nhà nước lại là nhóm yếu tố có tác động yếu nhất. Tuy nhiên, việc khảo sát tình
hình doanh nghiệp liên quan tới ĐMCN lại được phản ánh gián tiếp qua lăng kính
chủ quan của những người được hỏi, trả lời phỏng vấn và hoàn toàn mang tính tự
nguyện, vì vậy kết quả khảo sát có thể có những hạn chế nhất định.


16

- Nguyễn Sỹ Lộc và các tác giả (2006) cho rằng muốn ĐMCN thành công,
các cấp quản lý nhà nước, nhà quản lý doanh nghiệp phải quan tâm tới những yếu tố
tác động trực tiếp và gián tiếp đến quá trình đổi mới, bao gồm: (1) nhóm yếu tố ảnh
hưởng tới nhu cầu công nghệ (yếu tố tâm lý xã hội, kinh tế và đặc tính địa phương
của nhà sử dụng công nghệ tiềm năng; yêu cầu của qui mô đầu tư cho việc ĐMCN;
lợi nhuận của đầu tư công nghệ mang lại; sự tương thích của công nghệ mới và
công nghệ đang sử dụng; lợi thế cạnh tranh có thể nhìn thấy được giữa công nghệ
mới và công nghệ cũ; sự phức tạp và hiệu quả của công nghệ mới; so sánh về chi
phí sản xuất và giá bán sản phẩm giữa công nghệ mới và cũ; môi trường quyết định
các yếu tố liên quan đến chính trị và tổ chức của đơn vị mua; số lượng người mua
và số lượng người mua tiềm năng), và (2) các yếu tố từ phía nhà cung cấp (các hoạt
động của cơ quan truyền bá công nghệ có liên quan tới giá, thị trường, lựa chọn thị
trường, tiếp thị, cơ sở hạ tầng; môi trường chuyển giao như phát triển cơ sở hạ tầng,
thông tin, ưu đãi, luật pháp; điều tiết của chính phủ). Như vậy, các tác giả đã nêu ra
được các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình ĐMCN, tuy nhiên chưa làm rõ được tầm
quan trọng của các yếu tố này trong hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp.
- Thị trường công nghệ là một yếu tố quan trọng tác động đến ĐMCN của
doanh nghiệp. Tuy nhiên hiện nay, thị trường công nghệ ở nước ta chưa đáp ứng
được yêu cầu mua bán, chuyển giao tri thức công nghệ, phí chuyển giao công nghệ
còn cao, thị trường này phụ thuộc rất lớn vào khung pháp lý và việc thương mại hóa
kết quả nghiên cứu. Thương mại hóa kết quả nghiên cứu là một quá trình lâu dài và

là một vấn đề mới ở nước ta, thành công của thương mại hóa phụ thuộc nhiều vào
năng lực đổi mới, năng lực tiếp thu và làm chủ công nghệ của doanh nghiệp
(Nguyễn Quang Tuấn, 2010); trong khi đó, năng lực công nghệ của các doanh
nghiệp Việt Nam không cao, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (Hồ Sỹ Hùng,
2009). Theo Hồ Đức Việt (2010), các yếu tố ảnh hưởng tới thị trường công nghệ
bao gồm: (1) năng lực và sự sẵn sàng của bên cung, (2) nhu cầu và năng lực tiếp
nhận công nghệ của bên cầu, (3) mức độ phát triển của của các tổ chức môi giới, tư
vấn công nghệ, (4) hệ thống văn bản, chính sách về thị trường công nghệ và (5) môi
trường công nghệ quốc gia đối với phát triển thị trường công nghệ. Vì vậy, tác động


17

của chính sách nhà nước, các tổ chức thông tin, tư vấn về KH&CN và dịch vụ
chuyển giao công nghệ là quan trọng nhằm phát triển thị trường công nghệ để hỗ trợ
các doanh nghiệp ĐMCN (Phạm Văn Dũng, 2010).
- Ngoài ra, ĐMCN còn phụ thuộc vào: (1) chiến lược kinh doanh, chiến lược
công nghệ của doanh nghiệp (Nguyễn Văn Thu, 2007), (2) vòng đời công nghệ và
thời điểm tiến hành ĐMCN (Tạ Doãn Trịnh, 2009), (3) vốn con người (Trần Thọ
Đạt & Đỗ Tuyết Nhung, 2008), (4) áp lực của các chính sách bảo vệ môi trường
buộc doanh nghiệp phải ĐMCN theo hướng hướng thân thiện với môi trường (Vũ
Xuân Nguyệt Hồng, 2008) và (5) quá trình đánh giá, lựa chọn, chuyển giao công
nghệ thành công (Nguyễn Công Liêm & Nguyễn Thanh Tuấn, 2007). Hơn nữa,
ĐMCN còn phụ thuộc vào môi trường công nghệ quốc gia (Bộ môn Quản lý công
nghệ, Đại học Kinh tế Quốc dân, 2003).

(ii) Nhóm nghiên cứu về vai trò của nhà nước và chính sách nhà nước
đối với ĐMCN
Nguyễn Minh Hạnh (2001) [87-tr83], trong công trình nghiên cứu về nâng
cao hiệu quả một số chính sách thuế và tín dụng khuyến khích doanh nghiệp ĐMCN

đã chỉ ra rằng hiệu quả của chính sách Nhà nước là chưa cao bởi vì: (1) chính sách
chú trọng tới các doanh nghiệp Nhà nước hơn là doanh nghiệp tư nhân, (2) trình độ
hạnh toán, kế toán của doanh nghiệp còn hạn chế và (3) các chính sách chưa chú
trọng tới loại hình và qui mô doanh nghiệp. Vì vậy, cần chỉnh sửa những khuyến
khích về thuế và tín dụng, cụ thể là cần sửa đổi Nghị định 119/199/NĐ-CP cho phù
hợp với hoạt động ĐMCN ở doanh nghiệp; theo đó Nhà nước nên tiếp tục thực hiện
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu khoa học nhằm từng bước nâng cao
năng lực nội sinh của doanh nghiệp (Cao Thị Thu Anh, 2007).
Nguyễn Việt Hòa và các tác giả (2007, 2011), trong nghiên cứu tác động của
cơ chế, chính sách công đến việc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào KH&CN
đã cho biết các chính sách mà doanh nghiệp quan tâm, các chính sách mà DN ít
quan tâm, từ đó đưa ra phương thức tác động của cơ chế chính sách công và các giải
pháp chính sách nhằm giải quyết các vướng mắc đối với các doanh nghiệp đầu tư
vào KH&CN, đồng thời đưa ra các định hướng chính sách cho hoạt động ĐMCN ở


18

doanh nghiệp. Vì vậy, đã đến lúc cần thay đổi một cách căn bản quan niệm về đối
tượng và cách tiếp cận quản lý nhà nước về KH&CN theo phương pháp tiếp cận
quốc gia về đổi mới và điều này sẽ dẫn đến tất yếu phải thay đổi chức năng, nhiệm
vụ của Bộ chủ quản từ thực hành tác nghiệp sang chủ yếu là tham gia điều phối các
mạng lưới liên kết trong hệ thống đổi mới (Nguyễn Mạnh Quân, 2009).Theo đó, khi
xây dựng chính sách ĐMCN nên coi doanh nghiệp là đối tượng phục vụ chứ không
phải là đối tượng bị quản lý, đồng thời nâng cao vai trò của doanh nghiệp trong hoạt
động R&D thực hiện ĐMCN thành công, đồng thời cần có sự đối thoại của doanh
nghiệp khi Nhà nước xây dựng các chính sách đổi mới.
Lê Xuân Bá và các tác giả (2008) đã nghiên cứu chính sách huy động các
nguồn vốn cho đầu tư ĐMCN của doanh nghiệp; theo đó có thể chia ra làm ba loại
chính sách: (1) chính sách huy động của Nhà nước từ ngân sách nhằm hỗ trợ trực

tiếp cho doanh nghiệp đầu tư ĐMCN, (2) chính sách gián tiếp khuyến khích doanh
nghiệp bỏ vốn ĐMCN và (3) chính sách huy động các nguồn vốn xã hội khác. Từ
đó đề xuất và thực hiện chương trình quốc gia hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ
nâng cao năng lực đầu tư ĐMCN, bởi vì, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường khó
khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn để đầu tư ĐMCN. Tuy nhiên, năng lực vốn cho
ĐMCN phụ thuộc vào số lượng tổ chức tín dụng mà doanh nghiệp có quan hệ, khả
năng huy động vốn từ các tổ chức tín dụng, khả năng về nguồn vốn tự có của doanh
nghiệp (Nguyễn Hoàng Anh, 2009).
Hoàng Xuân Long (2011) đã nghiên cứu về chính sách của địa phương nhằm
khuyến khích doanh nghiệp hoạt động KH&CN trên địa bàn. Qua đó đã khái quát
những xu hướng ảnh hưởng tới chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp do
địa phương ban hành, cũng như phân tích nội dung và hình thức các chính sách
khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động KH&CN do địa phương ban hành;
đồng thời đề xuất các giải pháp xây dựng chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh
nghiệp hoạt động KH&CN của địa phương.
Nguyễn Quang Tuấn (2011) đã nghiên cứu vai trò và ảnh hưởng của chính
sách nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển thị trường công nghệ. Qua đó, để thúc
đẩy doanh nghiệp ĐMCN thì Nhà nước cần có các chính sách kích cung, kích cầu


19

và khuyến khích phát triển các định chế trung gian của thị trường công nghệ; đặc
biệt cần có các chính sách kích cầu công nghệ của doanh nghiệp và phát triển các
định chế trung gian gắn kết giữa cung và cầu.
Bên cạnh đó, đối với các nghiên cứu chính sách nguồn nhân lực phục vụ cho
hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, các tác giả tập trung nghiên cứu về trình độ
quản lý và kỹ năng (Nguyễn Mạnh Quân, 2008), qua đó thấy được tầm quan trọng
của liên kết giữa đào tạo với thực tiễn sản xuất kinh doanh (Hoàng Xuân Long,
2011) và các chính sách khuyến khích nhân lực KH&CN tham gia ĐMCN ở các

doanh nghiệp (Mai Hà, 2009). Ngoài ra, còn một số nghiên cứu như: (1) các cơ chế
chính sách thúc đẩy đầu tư ĐMCN và ứng dụng công nghệ cao (CIEM, 2004); (2)
chính sách đầu tư và chi tiêu tài chính cho phát triển khoa học và công nghệ (Bùi
Thiên Sơn, 2010), v.v.

(iii) Nhóm nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về ĐMCN và chính sách
thúc đẩy ĐMCN, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Tổng luận “Hệ thống đổi mới quốc gia của Trung Quốc” đã phân tích về thể
chế, chính sách, nguồn lực của hệ thống đổi mới quốc gia trong đó nhấn mạnh vai
trò ĐMCN nhằm tăng cường năng lực đổi mới của các doanh nghiệp. Qua đó cho
thấy ĐMCN của doanh nghiệp là một trong ba mục tiêu về chính sách để Trung
Quốc thực hiện tham vọng trở thành siêu cường về công nghệ (tăng cường năng lực
ĐMCN, phát triển công nghệ cao và hỗ trợ công nghiệp hóa nền kinh tế). Vì vậy,
Chính phủ Trung Quốc đã tập trung mọi nguồn lực thông qua các biện pháp chính
sách nhằm cải tổ hệ thống KH&CN trong nước, thúc đẩy phát triển hệ thống đổi
mới quốc gia, thực hiện các chương trình nghiên cứu, triển khai trọng điểm nhằm
đạt được mục tiêu nêu trên [73].
Trần Ngọc Ca và các tác giả (2000; 2011), đã nghiên cứu kinh nghiệm quốc
tế về chính sách ĐMCN cho doanh nghiệp, từ đó khuyến nghị việc xây dựng chính
sách ĐMCN cho các doanh nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu cũng chỉ ra phương pháp
phân tích hiện trạng đổi mới và chính sách hỗ trợ ĐMCN, cũng như đánh giá môi
trường chính sách cho ĐMCN; qua đó, đưa ra các kiến nghị chính sách phù hợp với
môi trường quốc tế và các cam kết quốc tế.


20

Hoàng Văn Tuyên (2006) đã khái quát quá trình phát triển chính sách đổi
mới, trong đó có chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN ở một số quốc gia Châu
Âu và Châu Á. Từ đó đề xuất khung chính sách đổi mới ở Việt Nam dựa trên chính

sách đổi mới của OECD. Qua đó nhấn mạnh các hoạt động thúc đẩy đổi mới như
phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn lực và văn hóa đổi mới, tinh thần kinh
thương, khuyến khích truyền bá tri thức, tạo khung khổ pháp luật, hỗ trợ tài chính
cho đổi mới, v.v.
Trần Văn Tùng (2007) đã khái quát kinh nghiệm ĐMCN của các nước Đông
Á như Hàn Quốc, Malaixia, Singapo, Đài Loan, Inđônêxia. Từ đó đưa ra một số
khuyến nghị về quá trình ĐMCN và nhấn mạnh vai trò của chính phủ trong việc
hoạch định chính sách, xây dựng hệ thống hỗ trợ ĐMCN quốc gia, cơ cấu lại hệ
thống nghiên cứu, triển khai nhằm thúc đẩy ĐMCN.
Như vậy, các công trình nghiên cứu trong nước đã khái quát được các quan
niệm về ĐMCN, trình độ công nghệ, năng lực công nghệ, các yếu tố ảnh hưởng tới
hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp; đồng thời đã nhấn mạnh được vai trò của Nhà
nước trong hoạt động ĐMCN của doanh nghiệp, cũng như đã được ra được một số
kinh nghiệm quốc tế về hoạt động ĐMCN và chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy
doanh nghiệp ĐMCN.

1.1.3. Kết luận rút ra từ tổng quan nghiên cứu
Dựa trên các quan điểm nghiên cứu, bối cảnh nghiên cứu, phương pháp
nghiên cứu và cách tiếp cận khác nhau. Các công trình nghiên cứu ở trong nước,
cũng như ở ngoài nước đã có những đóng góp lớn về hoạt động ĐMCN, chính sách
ĐMCN, chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN. Qua đó đã khái quát được trình
độ công nghệ, tác động của của ĐMCN, các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động ĐMCN
của doanh nghiệp, kinh nghiệm về hoạt động ĐMCN, chính sách ĐMCN; đồng thời
khẳng định vai trò và chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN.
Mặc dù các nghiên cứu ở trong và ngoài nước đã có những đóng góp nhất
định về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, các công trình này chưa thống nhất được
quan niệm ĐMCN trong điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam; các nghiên cứu về
ĐMCN, chính sách ĐMCN, chính sách thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN còn rời rạc,



21

chưa làm rõ được các tiêu chí, mục tiêu chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh
nghiệp ĐMCN từ nhận thức của doanh nghiệp về hoạt động ĐMCN đến tính lan tỏa
do ĐMCN mang lại cho xã hội, cụ thể như: nâng cao nhận thức của doanh nghiệp
về các hoạt động ĐMCN, nâng cao mức đầu tư và gia tăng các hoạt động ĐMCN
của doanh nghiệp, nâng cao năng lực công nghệ, năng lực cạnh tranh và các hoạt
động của doanh nghiệp, đạt được các hiệu ứng lan tỏa do hoạt động đổi mới công
nghệ của doanh nghiệp đem lại. Đồng thời, chưa làm rõ được các chính sách bộ
phận theo cách tiếp cận công cụ chính sách nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN.
Trên cơ sở đó, luận án làm rõ, đề xuất quan điểm về ĐMCN, các hoạt động ĐMCN,
các tiêu chí đánh giá chính sách, trên cơ sở phù hợp với mục tiêu chính sách nhà
nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN theo cách tiếp cận công cụ chính sách,
đứng trên phương diện quản lý nhà nước.

1.2. Phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Khung lý thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở tổng quan nghiên cứu các công trình liên quan tới ĐMCN ở trong
nước và ngoài nước. Luận án đưa ra khung lý thuyết nghiên cứu sau (Hình 1.1):
Các

chính

sách

nhà

nước

nhằm


của doanh nghiệp:

thúc

đẩy

doanh

- Đổi mới toàn bộ máy

Mục tiêu CSNN thúc đẩy
DN ĐMCN:
- Nâng cao nhận thức của DN

móc, thiết bị, dây

về ĐMCN

chuyền công nghệ

- Gia tăng số lượng DN thực

- Chính sách tạo

- Đổi mới phần quan

hiện các hoạt động ĐMCN

môi trường thể chế


trọng của công nghệ

- Nâng cao mức đầu tư của

bằng công nghệ khác

DN cho ĐMCN

tiên tiến hơn

- Nâng cao năng lực công

- Đầu tư cho các hoạt

nghệ, năng lực cạnh tranh và

động R&D nhằm đổi

nâng cao hiệu quả hoạt động

mới

của doanh nghiệp

nghiệp ĐMCN:

- Chính sách kinh tế
- Chính sách đào
tạo, thông tin, tuyên

truyền

Hoạt động ĐMCN

phẩm

qui

trình/sản

- Đạt được hiệu ứng lan tỏa

Hình 1.1: Khung lý thuyết nghiên cứu về CSNN nhằm thúc đẩy DN ĐMCN


22

Trên thực tế, chúng ta có nhiều cách phân loại chính sách khác nhau (xem
mục 2.2.4). Luận án này phân loại chính sách theo công cụ chính sách; qua đó chính
sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN bao gồm ba nhóm chính sách
chủ yếu: chính sách tạo môi trường thể chế, chính sách kinh tế và chính sách đào
tạo, thông tin, truyền truyền. Các chính sách này sẽ tác động tới các hoạt động
ĐMCN của doanh nghiệp (xem mục 2.1.1.2, hình 2.2). Các doanh nghiệp thực hiện
các hoạt động ĐMCN sẽ dẫn tới đạt được các mục tiêu của chính sách nhà nước
nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN (xem mục 2.2.2).

1.2.2. Quy trình nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu, luận án tiến hành theo quy trình
nghiên cứu sau (Hình 1.2):
Nghiên cứu tài liệu, tài

liệu trong nước và ngoài
nước liên quan tới
ĐMCN

Xây dựng khung lý

Kiến

thuyết

Phỏng vấn các chuyên
gia trong lĩnh vực
ĐMCN làm việc trong
các viện nghiên cứu,
trường đại học, cơ quan
QLNN về khoa học và
công nghệ

nghị

các

về

chính

giải pháp hoàn

nhà


nước

thiện chính sách

đẩy

nhà nước nhằm

doanh nghiệp đổi

thúc đẩy doanh

mới công nghệ

nghiệp đổi mới

sách
nhằm

thúc

công nghệ
Phân

tích

thực

Đánh giá chính


trạng đổi mới công

sách

nghệ

doanh

nhằm thúc đẩy

Điều tra bằng phiếu hỏi

nghiệp nói chung

doanh nghiệp trên

đối với các doanh nghiệp

và doanh nghiệp

địa bàn Hà Nội

trên địa bàn Hà Nội

trên địa bàn Hà Nội

đổi

nói riêng


nghệ

của

nhà nước

mới

công

Hình 1.2: Quy trình nghiên cứu về CSNN nhằm thúc đẩy DN ĐMCN


23

1.2.3. Phương pháp thu thập dữ liệu
1.2.3.1. Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
Luận án thu thập, phân loại các tài liệu đã được công bố thông qua các công
trình nghiên cứu trong nước và ngoài nước liên quan tới hoạt động ĐMCN và chính
sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN như các đề án, đề tài, giáo
trình, sách tham khảo, các bài báo khoa học chuyên ngành, các luận án tiến sỹ; đồng
thời thu thập, phân loại các văn bản pháp luật của Nhà nước về KH&CN nói chung
và ĐMCN của doanh nghiệp nói riêng đã ban hành như Luật KH&CN (2000), Luật
Chuyển giao công nghệ (2006), Luật Công nghệ cao (2008) và các Nghị định,
Quyết định, Chỉ thị, Nghị quyết, Thông tư liên quan tới hoạt động ĐMCN.
Luận án còn khai thác và sử dụng các số liệu trực tuyến trên Internet của
Tổng cục thống kế, Bộ KH&CN, các tổ chức phi chính phủ, trung tâm hỗ trợ pháp
lý, thông tin về công nghệ, các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp; đồng thời sử
dụng các quan điểm đánh giá, nhận định của các chuyên gia, các nhà hoạch định
chính sách ĐMCN, các tổ chức KH&CN và đánh giá của các doanh nghiệp về

chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN đã công bố.
Sau khi có các dữ liệu thứ cấp, nghiên cứu sinh tiến hành đánh giá, lựa chọn,
sử dụng dữ liệu phù hợp, kết hợp với phỏng vấn điện thoại, hỏi ý kiến một số
chuyên gia về ĐMCN làm cơ sở và căn cứ quan trọng để hình thành nên khung lý
thuyết nghiên cứu; đồng thời đánh giá được một phần thực trạng ĐMCN của doanh
nghiệp và thực trạng tác động của chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp
ĐMCN từ năm 2000 đến 2012.

1.2.3.2. Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp
Luận án tiến hành điều tra bằng phiếu hỏi đối với doanh nghiệp và phỏng
vấn viết (phương pháp anket), phỏng vấn bằng điện thoại đối với các cán bộ làm
việc trong cơ quan quản lý nhà nước về ĐMCN; các phiếu điều tra được thiết kế có
sự tham khảo các tài liệu sau: (i) hướng dẫn của Oslo về chỉ số ĐMCN, (ii) phiếu
thu thập thông tin về sử dụng công nghệ trong sản xuất của Tổng cục thống kê, (iii)
các mẫu phiếu điều tra của Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách KH&CN liên
quan tới chính sách ĐMCN và thực trạng ĐMCN, (iv) mẫu phiếu điều tra năng lực


24

công nghệ của bộ môn Quản lý công nghệ, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, (v)
mẫu phiếu điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương về chính sách
thúc đẩy đầu tư ĐMCN, (vi) Mẫu phiếu điều tra của Phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam liên quan tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong khủng
hoảng và các mẫu phiếu điều tra khác.
Kích thước mẫu: Nghiên cứu sinh gửi 150 phiếu đến các doanh nghiệp nhỏ
và vừa trên địa bàn Hà Nội (doanh nghiệp nhỏ và vừa được phân theo qui mô lao
động và vốn, dựa vào Nghị định 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ) và thu về được
119 phiếu (chọn mẫu ngẫu nhiên có hệ thống và mẫu thuận tiện); đồng thời phỏng
vấn viết, phỏng vấn qua điện thoại có chọn lọc 10 cán bộ làm việc trong các cơ

quan QLNN về ĐMCN (các đơn vị chức năng thuộc Bộ KH&CN, sở KH&CN Hà
Nội) sau khi họ đồng ý tham gia (nội dung điều tra, phỏng vấn được thể hiện ở Phụ
lục 1 và Phụ lục 2 của luận án).
Luận án lựa chọn các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội để khảo
sát. Bởi vì hiện nay số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ giữ vai trò quan trọng trong
nền kinh tế, chiếm khoảng 96% cả về qui mô và vốn (GSO, 2011); trong khi đó
năng lực để tiến hành các hoạt động ĐMCN không cao, trình độ công nghệ và mức
đầu tư cho ĐMCN của doanh nghiệp còn thấp (xem mục 4.1.2). Vì thế, chính sách
nhà nước cần hướng tới các doanh nghiệp này để thúc đẩy ĐMCN, từng bước nâng
cao chất lượng sản phẩm, năng lực nội sinh công nghệ, nâng cao vị thế cạnh cạnh,
góp phần phát triển đất nước.
Thời gian thực hiện: là 5 tháng, phiếu hỏi được thiết kế thử nghiệm từ tháng
1 đến tháng 2/2012 và bắt sử dụng rộng rãi từ tháng 3/2012. Các doanh nghiệp và
cơ quan QLNN về ĐMCN đã được nghiên cứu trước để có những thông tin cập
nhật nhất, chính xác nhất về hoạt động ĐMCN, chính sách ĐMCN.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, nghiên cứu sinh đã gặp một số khó khăn
nhất định như: (i) khó khăn trong việc thu xếp thời gian phỏng vấn hoặc điền vào
phiếu điều tra hoặc trả lời điện thoại; (ii) khó khăn trong việc thu thập dữ liệu trong
và sau khi phỏng vấn do người được phỏng vấn bận và cử người trả lời lại không
bao quát được các kế hoạch tương lai, đánh giá các văn bản luật, các yếu tố tác động


25

tới ĐMCN; (iii) cơ quan QLNN về ĐMCN không sẵn sàng cung cấp những thông
tin nhạy cảm như điểm yếu trong hoạt động QLNN về ĐMCN, các chính sách có
thể được ban hành trong tương lai; hay các doanh nghiệp không sẵn sàng cung cấp
thông tin về doanh thu, đầu tư cho ĐMCN, quá trình đào tạo, kế hoạch ĐMCN của
doanh nghiệp trong tương lai.


1.2.4. Phương pháp xử lý dữ liệu
Sau khi thu thập được các dữ liệu thứ cấp và sơ cấp, nghiên cứu sinh tiến
hành kiểm tra, làm sạch các dữ liệu cả trước, trong và sau khi mã hóa dữ liệu, nhập
dữ liệu; tiếp đến, sử dụng phầm mềm SPSS 16 làm công cụ để xử lý dữ liệu phục vụ
cho mục tiêu nghiên cứu.
Ngoài ra để xử lý dữ liệu, nghiên cứu sinh còn sử dụng phương pháp mô tả,
thống kê, so sánh, đối chứng, tổng kết thực tiễn và chuyên gia; từ đó đưa ra những
kết luận về thực trạng ĐMCN, thực trạng chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy
doanh nghiệp ĐMCN.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 của luận án đã làm rõ được các nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất, luận án đã khái quát các công trình nghiên cứu ở trong và ngoài
nước liên quan tới ĐMCN và chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp
ĐMCN. Các công trình này tập trung nghiên cứu các nội dung về ĐMCN, trình độ
công nghệ, năng lực công nghệ, vai trò của ĐMCN và các yếu tố ảnh hưởng tới
ĐMCN của doanh nghiệp, cũng như vai trò của nhà nước và chính sách nhà nước
đối với hoạt động ĐMCN.
- Thứ hai, trên cơ sở tổng quan nghiên cứu các công trình trong và ngoài
nước, luận án đưa ra khung lý thuyết nghiên cứu, qui trình nghiên cứu, phương
pháp thu thập dữ liệu, phương pháp xử lý dữ liệụ.
Căn cứ vào tổng quan nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, nghiên cứu sinh
thấy được khoảng trống cần nghiên cứu và xác định được cách tiếp cận để thực hiện
mục tiêu nghiên cứu về chính sách nhà nước nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ĐMCN.


×