Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Chứng minh rằng sự ra đời của đảng cộng sản VN ngày 3 2 1930 là một tất yếu khách quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.08 KB, 30 trang )

Câu hỏi I:
Chứng minh rằng sự ra đời của ĐCSVN ngày 3-2-1930 là một tất yếu
khách quan?
Đồng chí hãy nêu nhận thức của bản thân về vai trò lãnh đạo của
ĐCSVN đối với dân tộc và cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?
Bài làm
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là một tất yếu khách
quan, tất yếu lịch sử, là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc trong thời đại mới; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa MácLênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; là kết
quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử; là kết quả của
quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của các chiến sĩ
cách mạng đứng đầu là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Tháng 2 năm 1930
chính là thời điểm xuất hiện các điều kiện cần và đủ để Đảng ra đời.
I.

Sự ra đời của Đảng là kết quả của quá trình lựa chọn con đường

cứu nước
1.

Hoàn cảnh quốc tế

- Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ
giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa)
 Đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó chính là nguyên nhân sâu xa
dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương
1


Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa,


mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các
nước đế quốc. Đến năm 1914, các nước đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ,
Nhật chiếm một khu vực thuộc địa rộng 65 triệu km2 với số dân 523,4 triệu
người (so với diện tích các nước đó là 16,5 triệu km2 và dân số 437,2 triệu).
Riêng diện tích các thuộc địa của Pháp là 10,6 triệu km2 với số dân 55,5
triệu (so với diện tích nước Pháp là 0,5 triệu km2 và dân số 39,6 triệu người)
- Các nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao
động, bên ngoài thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự
thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động
các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ
nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh chống xâm lược
diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
- Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát
triển mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học
với tư cách là vũ khí tư tưởng lý luận của giai cấp công nhân trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về
sau được Lênin phát triển và trở thành chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa
Mác – Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra Đảng cộng
sản. Sự ra đời của Đảng cộng sản là tất yếu khách quan đáp ứng cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân chống áp bức, bóc lột
- Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, dẫn đến sự ra đời
của Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết (1922). Đối với nước Nga,
đó là cuộc cách mạng vô sản, nhưng đối với các dân tộc thuộc địa trong đế
2


quốc Nga thì đó còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thuộc
địa.Chính điều nãy đã thôi thúc Nguyễn Ái Quốc đến với nước Nga, và ở
đây người đã tạo nên bước ngoặt lịch sử cho nhân dân An Nam, tại đất nước

Nga xa xôi này Người đã tìm đến với bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin và tìm ra con
đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.
Những tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến
Việt Nam (một quốc gia đang là thuộc địa của bọn thực dân Pháp).Trước
trình hình đó Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa MácLênin và thực tiễn thắng lợi của CM Nga vào thực tiễn cách mạng nước ta
dẫn đến sự ra đời của đảng Cộng sản
2. Hoàn cảnh trong nước
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Sau khi
tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân
Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị thực dân.
Về kinh tế :
Thực dân Pháp tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài
nguyên(mỏ than, mỏ thiếc, mỏ kẽm…,) xây dựng một số cơ sở công nghiệp
(điện, nước); xây dựng hệ thống đường bộ, đường thủy, bến cảng phục vụ
cho chính sách khai thác thuộc địa của nước Pháp chưa kể chúng còn bóc lột
nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa…. Và do sự du
nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt Nam
có sự biến đổi: quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những
đô thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Nhưng thực dân
Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào
3


nước ta, mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chính vì thế, nước Việt
Nam không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được,
nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề
vào kinh tế Pháp.
Về chính trị:
Chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng

nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp,
từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống
sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án..;
biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai. Chúng tiếp tục thi hành
chính sách chia để trị rất thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một
chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó với nước Lào và nước Campuchia để
lập ra liên bang Đông Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta trên bản đồ thế
giới
Về văn hóa:
Chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, vong
bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Mọi hoạt
động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng
bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt
Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị.
Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ
đến tình hình xã hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu
sắc hơn.


Giai cấp địa chủ phong kiến thì đã tồn tại hơn ngàn năm. Nay do

chính sách kinh tế và chính trị phản động của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ
4


càng bị phân hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung và đại địa chủ. Có
một số địa chủ bị phá sản. do không thể chiệu đựng nổi chính sách thống trị
tàn bạo về chính trị, chèn ép về kinh tế và cộng hưởng với tinh thần yêu
nước chống ngoại xâm, nên một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ
mâu thuẫn với đế quốc về quyền lợi dân tộc nên đã tham gia đấu tranh chống

thực dân và bọn phản động tay sai.


Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số. Họ bị đế quốc, phong

kiến địa chủ và tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề. Chính sách độc quyền
kinh tế, mua rẻ bán đắt, tô cao, thuế nặng, chế độ cho vay nặng lãi... của đế
quốc và phong kiến đã đẩy nông dân vào con đường bần cùng hóa không lối
thoát. Một số ít bán sức lao động, làm thuê trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn
điền hoặc bị bắt đi làm phu tại các thuộc địa khác của đế quốc Pháp. Còn số
đông vẫn phải gắn vào đồng ruộng và gánh chịu sự bóc lột vô cùng nặng nề
ngay trên mảnh đất mà trước đây là sở hữu của chính họ. Vì bị mất nước và
mất ruộng đất nên nông dân có mâu thuẫn với đế quốc và phong kiến, đặc
biệt sâu sắc nhất với đế quốc và bọn tay sai phản động. Họ vừa có yêu cầu
độc lập dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu về độc lập dân
tộc là bức thiết nhất.


Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của

thực dân Pháp. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ
là một tầng lớp nhỏ bé. Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai
cấp rõ rệt. Ra đời trong điều kiện bị tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay
gắt, nên số lượng tư sản Việt Nam không nhiều, thế lực kinh tế nhỏ bé, thế
lực chính trị yếu đuối
5


Như vậy, tình trạng khủng hoảng kinh tế -xã hội , đặc biệt là các mâu thuẫn
dân tộc và giai cấp đã dẫn đến nhu cầu đấu tranh để tự giải phóng. Độc lập

dân tộc và tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết cả nhân dân ta: là nhu
cầu bức thiết của dân tộc
Các phong trào đấu tranh chống lại thực dân Pháp.
- Từ sau ctranh thế giới I đến 1930 ptrào yêu nước VN tiêu biểu theo 2
khuynh hướng rõ rệt: Khuynh hướng TS và VS. Khuynh hướng TS bao gồm
các ptrào đấu tranh của giai cấp Tiểu Tư sản và tư sản dân tộc. Tiêu biểu:
Chấn hưng nội hoá, bài trừ ngoại hoá, chống độc quyền thương cảng, đòi thả
Phan Bội Châu, để tang Phan Chân Trinh và đỉnh cao là cuộc KN của
VNQDĐ. Tất cả các ptrào đều diễn ra sôi nổi, mãnh liệt, nhưng cuối cùng
đều thất bại.
- Khuynh hướng Vô sản do ảnh hưởng của CM Tháng 10 NGa, những
hoạt động tích cực của QT CS và ảnh hưởng sự ra đời của Đảng CS Pháp,
ĐCS TQ và nhất là những hành động truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin của
NAQ từ 1921 - 1930 làm cho ptrào CM theo khuynh hướng VS ở nước ta
ngày càng ptriển mạnh mẽ, điển hình là hoạt động của các tổ chức: Hội
Thanh niên Đảng Tân Việt, đã có nhiều thanh niên yêu nước được giác ngộ
trở thành Đảng viên ĐCS.
Tóm lại, cuộc sống là những sự lựa chọn và lịch sử cách mạng cũng ko
ngoại lệ, lịch sử cách mạng VN lúc bấy giờ phải có sự lựa chọn đúng đắn
để cách mạng VN đi đến thành công và lịch sử đã chọn con đường cứu nước
theo khuynh hướng vô sản bởi tính chất tiến bộ của nó. Sự lựa chọn này tất

6


yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng Sản. Vì vậy, sự ra đời của Đảng là
kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước
II. Đảng ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
1.


Chủ nghĩa Mác-lênin.

Vai trò của Nguyễn Áí Quốc:
a)

Nguyễn Ái Quốc là người VN đầu tiên tìm thấy chủ nghĩa

Mác – Lênin và con đường giải phóng dân tộc theo đường lối CMVS.
- Sau những năm bôn ba ở hầu khắp các nước ở năm châu, Nguyễn Aí
Quốc trở lại Pháp:
- Ngày 18 - 6 - 1919 Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Véc-xai Bản yêu
sách của nhân dân An Nam đòi Pháp và các nước đồng minh thừa nhận các
quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của nhân dân An Nam.
- Bản yêu sách không được Hội nghi Véc-xai chấp nhận.
- Sự thật đó cho thấy những lời tuyên bố của các nhà chính trị đế quốc về
quyền tự do dân chủ và quyền tự quyết của các dân tộc chỉ là sự lừa bịp
→ Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng
của bản thân mình.
- Giữa năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê-Nin. "Luận cương của Lênin
làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui
mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như
đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây
là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”

7


- Tác phẩm của Lênin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành

độc lập cho dân tộc và tự do cho đồng bào.
→ muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì phải đi theo con đường cách
mạng vô sản.
Qua đó cho ta thấy chính:
- CN Mác-Lênin trang bị về lý luận, chỉ ra mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ,
phương pháp khoa học soi đường dẫn lối cho giai cấp Vô sản và quần chúng
lao động tiến hành đấu tranh CM hoá, xoá bỏ chế độ xã hội cũ - chế độ áp
bức bóc lột, xây dựng chế độ XH mới XHCN và CSCN
- CN Mác - Lênin còn chỉ ra rằng trong cuộc đấu tranh giai cấp và trong
sự nghiệp xây dựng XH mới giai cấp công nhân phải lập ra Đảng VS của
mình. Đảng đó phải là Bộ tham mưu, là đội quân tiên phong của giai cấp
CN, trung thành với lợi ích của giai cấp CN và của DT. Đảng đó phải là
Đảng kiểu mới của giai cấp CN.
- CN Mác - Lê nin xác định đúng đắn vấn đề động lực CM, liên minh giai
cấp, vị trí CM thuộc địa, phương pháp CM bạo lực… đó là cơ sở cho cương
lĩnh Cách mạng của Đảng sau này.
- NAQ đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho DTVN, con đường
giải phóng theo học thuyết Mác- Lênin "Độc lập DT gắn liền với CNXH,
giải phóng DT đồng thời với giải phóng giai cấp”.
b.

Nguyễn Ái Quốc thực hiện công cuộc truyền bá chủ nghĩa

Mác-Lênin vào VN.
Tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa để đoàn kết các lực
lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân, Cơ quan ngôn luận là báo
“Người cùng khổ”
8



Người viết bài cho báo nhân đạo,đời sống công nhân, đặc biệt là ” Bản án
chế độ thực dân pháp”...
→ Bí mật chuyển về Việt Nam đã góp phần thúc đẩy phong trào dân tộc
trong nước phát triển mạnh mẽ hơn.
c.

Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho

việc thành lập Đảng:
- Trực tiếp đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lí luận
cách mạng giải phóng dân tộc vào Việt Nam.
- Tháng 6 - 1925, Người sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và
lấy Cộng sản đoàn làm nòng cốt.
- Nhờ hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, phong trào cách mạng ở trong nước ngày càng phát triển
sôi nổi, khuynh hướng các mạng vô sản dần dần chiếm ưu thế trong phong
trào dân tộc.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong nước đòi hỏi phải
có một đảng cách mạng tiên phong đủ sức lãnh đạo và đưa phong trào tiếp
tục tiến lên.
Đáp ứng nhu cầu đó, 1929 ở Việt Nam đã lần lượt xuất hiện ba tổ chức
cộng sản là:
 Đông Dương Cộng sản đảng
 An Nam Cộng sản đảng
 Đông Dương Cộng sản liên đoàn
→ Đã đánh dấu sự phát triển vượt bậc của phong trào cách mạng nước ta.
2.

Phong trào công nhân:


9


Giai cấp công nhân Việt Nam, mà tuyệt đại bộ phận là xuất thân từ nông
dân lao động và những tầng lớp lao động khác
→ Có mối liên hệ tự nhiên với đông đảo nhân dân lao động bị mất nước,
sống nô lệ nên cũng là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân xây dựng
nên khối liên minh công nông vững chắc và khối đoàn kết dân tộc rộng rãi
bảo đảm cho sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách
mạng
Lịch sử Việt Nam cũng chứng minh rằng, giai cấp công nhân Việt Nam ra
đời chưa được bao lâu ngay cả khi nó chưa có Đảng mà đã tổ chức một cách
tự phát nhiều cuộc đấu tranh chống bọn tư bản thực dân và được nhân dân
ủng hộ.
Điển hình: Cuộc bãi công của 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn năm 1922 mà
Nguyễn ái Quốc coi đó mới chỉ là "do bản năng tự vệ" của những người
công nhân "không được giáo dục và tổ chức" nhưng đã là "dấu hiệu...của
thời đại"
* Trong hai năm 1926 – 1927: Nhiều cuộc bãi công của công nhân viên
chức đã nổ ra liên tiếp ở nhiều nơi như: Nhà máy sợi Nam Định, đồn điền
cao su Cam Triêm, Phú Riềng, đồn điền cà phê Rayan (Thái Nguyên).
* Trong hai năm 1928 – 1929: Có đến 40 cuộc đấu tranh nổ ra trên khắp
cả nước, tiêu biểu như các cuộc bãi công của công nhân ở nhà máy ximăng,
sợi Hải Phòng, nhà máy sợi Nam Định, nhà máy diêm - cưa Bến Thủy, đóng
xe lửa Trường Thi (Vinh), Xưởng sửa chữa ôtô Avia (Hà Nội), Xưởng đóng,
sửa chữa tàu Ba Son (Sài Gòn), Đồn điền Phú Riềng.
- Đặc điểm của phong trào công nhân trong giai đoạn này là đã vượt ra
khỏi phạm vi của một nhà máy, công xưởng, bước đầu có sự liên kết giữa
10



nhiều ngành, nhiều địa phương và đã trở thành một phong trào liên tục,
mạnh mẽ.
-Điều đó chứng tỏ trình độ giác ngộ của công nhân đã nâng lên rõ rệt và
giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập.
- Phong trào công nhân ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử tồn tại
tự nhiên. Muốn trở thành phong trào tự giác nó phải được vũ trang bằng lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; Vũ khí lý luận và tư tưởng của giai cấp công
nhân.
- Nhìn chung, trong thời kì 1926 – 1929, phong trào công nhân Việt Nam
đã có những bước tiến bộ mới so với trước. Các cuộc bãi công nổ ra rầm rộ,
sôi nổi và quyết liệt hơn. Những cuộc đấu tranh tự phát đã giảm đi và thay
vào đó là những cuộc đấu tranh có ý thức, có tổ chức với quy mô ngày càng
lớn.
- Công nhân đấu tranh không chỉ nhằm đòi các quyền lợi kinh tế (như
tăng lương, giảm giờ làm, đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt), mà còn nhằm cả
mục đích chính trị(chống lại chinh sách áp bức, bóc lột của bọn chủ tư bản
và chính quyền thực dân phong kiến).
- Họ cũng đã biết đoàn kết nhau lại để đấu tranh có phương pháp, có tổ
chức và kế hoạch. Chính bọn thực dân đã phải thừa nhận: “Từ đây, hành
động tập thể của những người lao động đã thay thế cho những vụ âm mưu
của các hội kín”.
- Cùng với các cuộc đấu tranh ngày càng trở nên quyết liệt, giai cấp công
nhân còn có nhiều hoạt động biểu lộ tinh thần cách mạng, ý thức quốc tế của
mình. Trong các dịp kỷ niệm ngày Quốc tế lao động(1/5/1929) và Cách

11


mạng tháng Mười Nga(7/11/1929), công nhân nhiều nơi đã tổ chức mít tinh,

treo cờ đỏ, rải truyền đơn tuyên truyền cách mạng.
- Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân ngày càng có sức thu
hút, lôi cuốn mạnh mẽ đối với nhiều tầng lớp nhân dân khác, nhất là nông
dân, đi vào đấu tranh chống đế quốc phong kiến.
- Từ 1927-1929 đã nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của nông dân chống sưu
cao thuế nặng, chống các thủ đoạn cướp đoạt ruộng đất của bọn cường hào
ác bá. Điển hình là các Phong trào công nhân, phong trào đấu tranh của nông
dân và các tầng lớp thị dân càng phát triển sôi nổi thì càng đòi hỏi phải có
người tổ chức và lãnh đạo. Nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có
đủ khả năng tập hợp lực lương dân tộc và gánh vác vai trò lãnh đạo sự
nghiệp giải phóng đất nước được đặt ra, và ngày càng trở nên bức xúc đối
với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
→ Chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng thành và đang trở thành một
lực lượng độc lập. Tình hình khách quan ấy đòi hỏi phải có một Đảng cộng
sản lãnh đạo.
→ Sự thành lập Đảng cộng sản là quy luật của sự vận động của phong
trào công nhân từ tự phát thành tự giác, nó được trang bị bằng lý luận cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
3.

Phong trào yêu nước

- Trước năm 1930, phong trào yêu nước ở Việt Nam nổ ra mạnh mẽ
nhưng đều bị thất bại, do bị khủng hoảng về đường lối cách mạng. Tình hình
đang đặt ra yêu cầu cần phải có đảng của giai cấp tiên tiến nhất với đường
lối đúng đắn để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

12



- Với sự soi sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cứu nước của
Nguyễn ái Quốc, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt nam
những năm 20 phát triển mạnh mẽ. Phong trào công nhân chuyển dần từ tự
phát thành tự giác. Sự phát tiển của phong trào cách mạng đòi hỏi sự ra đời
của những tổ chức cộng sản. Tháng 3/1929, chi bộ cộng sản đầu tiên được
thành lập tại Hà nội. Hội Việt nam cách mạng thanh niên, một tổ chức tiền
thân của Đảng, đã có vai trò tích cực thúc đẩy phong trào cách mạng phát
triển song không còn thích hợp trước sự phát triển về chất của phong trào.
Sau đại hội tháng 5/1929 của Hội, các tổ chức cộng sản lần lượt ra đời ở Việt
nam. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, các tổ chức này đã mắc phải một
số tiêu cực sau:
 Đã đả kích lẫn nhau, Đông Dương Cộng sản Đảng cho An Nam
Cộng sản Đảng là “hoạt đầu, giả cách mạng”; An Nam Cộng sản Đảng
lại cho Đông Dương Cộng sản Đảng chưa “thật sự là cộng sản”, “chưa
thật sự là Bônsêvich”…
 Làm giảm uy tín của các tổ chức cộng sản
 Gây ảnh hưởng tiêu cực đến phong trào cách mạng đang lên.
 Ở một nước mà có 3 tổ chức cộng sản sẽ không tránh khỏi phân
tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành
động.
Tình hình đó gây tổn hại lớn cho sự phát triển của phong trào cách mạng,
vừa gây nên tâm trạng nghi ngờ hoang mang trong quần chúng.
→ Đây được xem là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc thành lập
Đảng Cộng Sản

13





Từ 3 - 2 đến 7 - 2 - 1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị để

hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Hương Cảng ( Trung Quốc ).


Hội nghị nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành

đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.


Thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái

Quốc soạn thảo đã vạch ra đường lối, phương hướng cơ bản cho cách mạng
Việt Nam.
ĐCS VN ra đời 3/2/ 1930 không phải là 1 hiện tượng ngẫu nhiên mà
là kết quả của sự tác động, vận động và phát triển tất yếu, chín muồi của
3 nhân tố: CN Mác - Lênin với ptrào CN và ptrào yêu nước VN.
III. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với dân tộc và
cách mạng Việt Nam.
Hiện nay, trong giai đoạn cách mạng mới, thế giới đã có nhiều thay đổi và
diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển và hội nhập vẫn
là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp,
lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh, các nước lớn
dùng mọi thủ đoạn tinh vi, thậm chí cả hành động quân sự dưới mọi chiêu
bài để can thiệp, lấn lướt các quốc gia nhỏ, yếu thế và tội phạm công nghệ
cao tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh
lương thực, thiên tai, dịch bệnh,... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, không chỉ
còn là vấn đề của mỗi quốc gia mà muốn giải quyết được phải có sự chung
tay, góp sức của tất cả các nước trên thế giới. Song, chế độ chính trị, lợi ích
của mỗi nước lại khác nhau, số nước do Đảng Cộng sản là Đảng duy nhất

cầm quyền, lãnh đạo không còn nhiều, trong khi sự chia sẻ trên tinh thần
14


đoàn kết, hy sinh giúp đỡ của các nước có chế độ do Đảng Cộng sản cầm
quyền, lãnh đạo đối với nước ta cũng đã thay đổi nhiều. Tuy xu hướng hòa
bình, hữu nghị vẫn là chính, nhưng việc tính toán để bảo vệ quyền lợi của
mỗi quốc gia cũng thay đổi. Quốc gia nào cũng có toan tính riêng trong bối
cảnh phức tạp hơn. Toàn cầu hóa, hội nhập và cách mạng khoa học - công
nghệ, nhất là công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, làm cho thời gian như
ngắn lại, không gian như nhỏ đi, thúc đẩy hình thành xã hội thông tin và kinh
tế tri thức. Quá trình cấu trúc lại nền kinh tế thế giới và nền kinh tế của mỗi
quốc gia diễn ra mạnh mẽ theo chiều sâu, lấy chất lượng tăng trưởng làm
mục tiêu. Trong khi đó, cạnh tranh trên tất cả các lĩnh vực, cả ở thị trường tại
mỗi quốc gia và thị trường thế giới, giữa các nước ngày càng gay gắt. Đấu
tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp. Khu vực Thái Bình Dương,
trong đó có Đông - Nam Á là khu vực phát triển năng động nhưng vẫn tồn
tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo càng nóng
bỏng. Trong nước, tuy đã có thành tựu và kinh nghiệm của hơn 25 năm đổi
mới, tạo ra thế và lực mới cho đất nước, nhưng "nước ta vẫn phải đứng trước
nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ
nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có diễn biến phức tạp. Các thế
lực thù địch tiếp tục thực hiện "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử
dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính
trị ở nước ta".
15



Như vậy, trong bối cảnh, thời cơ và thách thức đan xen như hiện nay, vai
trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng càng cực kỳ quan trọng và luôn là nhân tố
hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Với trách nhiệm
dẫn dắt cả đất nước và dân tộc vượt qua những khó khăn thách thức ở hiện
tại và tương lai, toàn cầu hoá và hội nhập một cách có hiệu quả, tiếp thu một
cách tích cực khoa học công nghệ của thế giới, thoát khỏi nguy cơ tụt hậu và
suy thoái về kinh tế, ngăn chặn và triệt tiêu những suy thoái về chính trị, tư
tưởng, đạo dức, lối sống... Và hơn hết, Đảng nắm giữa một vai trò quan
trọng trong việc đưa đất nước “sánh ngang với cường quốc năm châu” như
lời dạy của chủ tích Hồ Chí Minh.

Câu hỏi II
Phân tích luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống, nó do đấu tranh rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài
càng sáng vàng càng luyện càng trong”
Trong quá trình phấn đấu vào ĐCSVN lời dạy trên của Chủ tích Hồ Chí
Minh có ý nghĩa như thế nào đối với đồng chs?
Bài làm
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến việc giáo dục
về đạo đức, về nhân cách của người cán bộ cách mạng. Người nói “có cán bộ
tốt, việc gì cũng xong”. Người khẳng định đó là một chân lý. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định đạo đức có vị trí quan trọng đặc biệt đối với mỗi con
16


người. Đối với người cách mạng, nó là gốc, cái nền tảng của người cách
mạng. Người đã khẳng định điều này trong tác phẩm: “Sử đổi lề lối làm

việc”: “Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thi sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có
đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân”.
Chủ tích Hồ Chí Minh coi đạo đức là sức mạnh tinh thần to lớn. Vì đạo
đức là bộ phận của thế giới quan, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, có tác
dụng chỉ đạo trực tiếp hành vi ứng xử của con người trong thực tiễn. Người
viết: “làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp
vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ nặng nề, một cuộc đấu tranh rất
phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành
được nhiệm vụ vẻ vang.”
1. Đạo đức là gốc của người cách mạng
Công tác xây dựng đảng về đạo đức cách mạng luôn là mối quan tâm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước lúc đi xa, Người viết trong Di chúc: “Đảng ta
là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên là cán bộ phải thấm nhuần đạo đức
cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của
nhân dân”. Lời căn dặn vắn tắt cảu Người đã nói lên điều cốt tử nhất trong
xây dựng Đảng cầm quyền, quyết định vận mệnh của Đảng, của Nhà nước,
17


vận mệnh của cả chế độ - đó là đạo đức cách mạng. Theo Người, đạo đức là
“gốc” của người cách mạng. Cả cuộc đời Bác Hồ luôn rèn luyện mình để trở
thành người có đạo đức cách mạng, làm giàu truyền thống đạo đức dân tộc
Việt Nam.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, xây dựng công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước, những yêu cầu về đạo đức đối với cán bộ, đảng viên đòi hòi phải
được tăng cường rèn luyện, tu dưỡng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Có

đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt,
rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của
dân tộc và của loài người mà không ngần ngại hy sinh lợi ích riêng của cá
nhân mình. Đó la biểu hiện cao quý của đạo đức cách mạng. Bác nói: Có đạo
đức thì khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ tinh thần gia khổ,
khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho
tốt, chứ không tính toán, kèn cưa để hưởng thụ; không công thần không quan
liêu không kiêu ngạo, hủ hoá. Người còn nói: Đạo đức cách mạng không
phải từ trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hẳng ngày mà
phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong.
Ngày nay trong các văn bản, Đảng và nhà nước ta đã nhiều lần khẳng
định những phẩm chất tốt đẹp mới xuất hiện trong thời kì đổi mới, nhưng
cũng đồng thời nghiêm khắc chỉ ra thực trạng và mức độ suy thoái về đạo
đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và trong xã hội, diễn ra rất
tinh vi, ngày càng tăng, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cách mạng nước
18


ta thể hiện dưới các dạng như: chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, vụ lợi…
có xu hướng ngày càng phát triển, nạn tham nhũng, đưa và nhận hối lộ, bòn
rút của công diễn ra nhiều ngành, nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực; tệ quan
liêu, xa dân, lãnh đạm, vô cảm trước những khó khăn bức xúc, những yêu
cầu chính đảng của nhân dân, của doanh nghiệp; sống thiếu trung thực…
Thấy trước điều này, Người đã từng nhắc nhở: “Một dân tộc, một Đảng và
mỗi con gười, ngày hôm qua là vĩ địa, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định
hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ
không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Chủ tích Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng ta vừa là đạo đức vừa là văn
minh”, là người khởi xướng và lãnh đạo mọi sự đổi thay của đất nước qua

các giai đoạn lịch sử của cáh mạng. muốn đứa sự nghiệp cách mạng tiến đến
đích cuối cùng, trước hết Đảng phải thật sự đổi mới, tự chỉnh đốn. Tự đổi
mới, tự chỉnh đốn là khẳng định sự vận động nội tại của Đảng cầm quyền
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, là sư nhận diện đúng quy luật vận động,
phát triển của Đảng. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng hiện nay, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên phải tăng cường học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
2. Đẩy mạnh tự giáo dục, tự rèn luyện đao đức cách mạng của
cán bộ, đảng viên theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

19


Chủ tích Hồ Chí Minh dạy: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng
cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.” Vì
vậy, quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thực chát là một quá trình tự
“luyện vàng”, để không ngừng hoàn thiện nhân cách người cán bộ, đảng
viên.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì người có sức mạnh mới gành được
nặng, đi được xa, người đảng viên phải có đạo đức cách mạng mới hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Do đó, cần giáo dục đạo đức cách mạng
cho đảng viên nhận ra được mục đích, động cơ vào Đảng, tự nguyện phục vụ
nhân dân và làm đúng chính sách của Đảng. Người từng dạy: Mỗi cán bộ
đảng viên từ trên xuống phải hiểu rằng mình vào Đảng là đề làm đầy tớ nhân
dân. Bác nhấn mạnh: Làm đầy tớ nhân dân chứ không phải quan nhân dân.
Người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của
mình là phấn đầu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn

toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên thế giới.
Quan tâm lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đội ngũ cán bộ,
đảng viên là làm sao thấm nhuần đạo đức cách mạng. Người đặc biệt chú
trong đến giáo dục những phẩm chất: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô
tư… Người yêu cầu đảng viên phải luôn trau dồi đức tính khiêm tốn, giản dị,
cần kiệm trong lao động, hoc tập, công tác, có đời tư trong sáng. Giáo dục
đạo đức cách mạng cho đảng viên phải chú trọng cả rèn đức luyện tài để họ
20


vừa có đạo đức, vừa có tài, vừa có phẩm chất vừa có năng lực. Có tài phải có
đức. “Có tài không có đức tham ô có hại cho Nhà nước. Có đức không có tài
nhưng ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì cho ai”.
Bác là tấm gương tiêu biểu nhất về rèn luyện đạo đức cách mạng, suốt đời
tận trung với nước, tận hiếu với dân, chịu đựng và chấp nhận mọi nguy nan
để tìm đường cứu nước, cứu dân; đồng cam cộng khổ với nhân dân trong
kháng chiến, kiến quốc, giành độc lập cho Tổ quốc, mưu cầu hạnh phúc cho
đồng bào. Từ tấm gương rèn luyện đạo đức cách mạng của Bác Hồ, chúng ta
thấy rằng, việc rèn luyện bền bỉ và luôn có ý thức trau dồi đạo đức cách
mạng là việc làm cần thiết và quan trọng bấc nhất đối với cán bộ, đảng viên.
Bởi vì, đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh
bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong.
Cán bộ, đảng viên cũng là người, cho nên trong công tác, hoạt động cách
mạng khó tránh khỏi sai lầm và khuyết điểm. Vì vậy, cán bộ, đảng viên phải
luôn luôn học tập, tu dưỡng để hoàn thiện bản thân và việc làm thường
xuyên, việc tu dưỡng đạo đức phải gắng với thực tiễn công tác, lao động, học
tập. Rèn luyện mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh như là việc phải rửa
mặt hàng ngày mà Bác đã chỉ ra.
Vấn đề mấu chốt, quyết định trong giáo dục, rèn luyện đạo đức của người

cán bộ, đảng viên là sự tự giáo dục, tự rèn luyện. Bởi vì cái tốt, cái xấu đều
có trong mỗi con người. Mà học cái tốt thì khó, vì như “người ta leo núi vất
21


vả khó nhọc mới lên đến đỉnh núi. Học cái xấu thì dễ như ở trên đỉnh chỉ
trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu”. Vì thế việc phấn đấu tu dưỡng
của người đảng viên kiên trì hàng ngày, để gạt bỏ những tính xấu như bệnh
tham lam, thiếu kỷ luật, gây hại cho Đảng, cho dân.
Trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã
giành được thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đảng đã giáo dục, nâng cao ý
thức, nhiệt tình cách mạng cho đội ngũ đảng viên, đồng thời phần đông đảng
viên cũng đã cố gắng vươn lên, tự rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức
cách mạng trong điều kiện mới.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng, công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ
cán bộ, đảng viên chưa ngăn chặn được tình trạng suy thoái về tư tưởng,
chính trị và đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Vì thế việc
bồi dưỡng nâng cao đạo đức cách mạng của Đảng là vấn đề quan trọng và
cấp bách. Hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo công cuộc đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong
bối cảnh thế giới có nhiều biến động. Sự nghiệp đó là của toàn Đảng, toàn
dân.
Để lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi cán
bộ, Đảng viên không những phải có những kiến thức mới, nhất là kiến thức
kinh tế, mà còn phải có đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng để
không chỉ thích nghi, mà còn làm chủ được cơ chế thị trường, biết phát huy
mặt tích cực và hạn chế tiêu cực của nó. Bộ chính trị phát động cuộc vận
22



động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đạo Hồ Chí Minh” đã chỉ ra
những yêu cầu về việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, trong đó phải
chú trọng “nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân” là cấp
thiết và rất quan trọng.
Góp phần thực hiện cuộc vận động “Học và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”, cấp uỷ các cấp cần thật sự quan tâm giáo dục đảng viên
thông qua chương trình hành động. Trong đó cần xác định việc tu dưỡng
hằng ngày của đảng viên về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa
cá nhân. Vì kinh tế thị trường ngày càng phát triển, giao lưu hợp tác quốc tế
càng mở rộng thì chủ nghĩa cá nhân càng có cơ hội phát triển. Do đó các tổ
chức đảng cần phải coi trọng chống chủ nghĩa cá nhân biểu hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau, nhất là đối với những đảng viên có chức vụ, quyền
hành; chống sự lạm quyề và lộng quyền của cán bộ, công chức để hạn chế
mặt tría, tiêu cực của cơ chế thị trường, chống suy thoái về đạo đức, lối sống.
Cần vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, trong đó
đặt vấn đề giáo dụ đạo đức là biện pháp quan trọng hàng đầu và thường
xuyên, với chương trình, kế hoạch cụ thể và không chỉ trong học tập nghị
quyết, chủ trương của Đảng mà ngay cả trong sinh hoạt đảng thường kỳ của
các tổ chức đảng; trong cơ quan nhà nước và đoàn thể nhân dân.
Đặc biệt chú trọng phê bình và tự phê bình đối với đảng viên và tổ chức
đảng cơ sở nhằm ngăn ngừa và chống lại những biểu hiện tiêu cực về đạo
đức. Phát huy và thực hành dân chủ rộng rãi trong sinh hoạt đảng, góp phần
vào việc nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ. Thực hiện tốt phân
23


công, hướng dẫn, kiểm tra đảng viên chấp hành nhiệm vụ, phát huy vai trò
tiên phong gương mẫu trong công tác, học tập và lối sống, giữ mối liên hệ
với quấn chúng nơi cong tác với chi bộ và nhân dân nơi cư trú.
Trong sinh hoạt Đảng quan tâm nêu gương tổ chức đảng, đảng viên trong

việc nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, ngăn ngừa suy thoái đoạ đức,
chống tham nhũng, lãng phí. Đồng thời xử lý nghiêm tổ chức đảng, đảng
viên vi phạm kỷ luật Đảng, để củng cố, chỉnh đốn Đảng. Xây dựng cơ chế và
những quy định khả thi, quản lý chặt chẽ đối với các đảng viên có quan hệ
nhiều đến tiền bạc, hàng hoá, tài sản của Nhà nước, của nhân dân, thường
xuyên làm tốt công tác kiểm tra của Đảng và giám sát của dân.
Học tập và làm theo tâm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi người đảng
viên cần thực hiện lời khuyên của người “dù công tác to hay nhỏ, địa vị cao
hay thấp, ở đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng”. Bởi lẽ muốn
hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước, phải
xung phong làm gương mẫu. Điểm nổi bật trong tư tưởng đạo đức và hành vi
đạo đức của Bác Hồ là yêu thương, kính trọng nhân dân, hoà với nhân dân,
đoàn kết, tổ chức nhân dân thực hiện những mục tiêu của cách mạng, đem lại
lợi ích cho nhân dân.
Vì thế, hiện nay giao dục, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của người đảng
viên là phải hoà bình với nhân dân, làm cầu nối giữa dân với Đảng để hiểu
quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, làm cho dân tin, tổ chức tuyên

24


truyền vận động quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của
Đảng.
Vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong rèn luyền đạo đức hiện nay là sự tự
giác của đảng viên, cán bộ. Người cán bộ, đảng viên phải tự mình phấn đấu
rèn luyện đạo đức, đồng tời chi bộ đảng phải có quy chế quản lý đối với
đảng viên, thường xuyên kiểm tra việc rèn luyện đạo đức nhằm giúp đảng
viên tu dưỡng, xứng đáng với danh hiệu đảng viên – Đảng do Chủ tịch Hồ
Chí Minh xây dựng và rèn luyện.
4. Ý nghĩa của lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trog quá trình phấn đấu vào ĐCSVN, lời dạy trên của Bác có ý nghĩa sâu
sắc và thiết thức đối với tôi nói riêng và thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay nói
chung.
Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta theo định hưỡng xã hội
chủ nghĩa đã và đang đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng cho thế hệ trẻ hiện
nay là phải có kiến thức chuyên môn cao, có tư tưởng chính trị vững vàng,
có năng lực tư duy độc lập để giải quyết những vấn đề khoa học – kỹ thuật,
sản xuất, văn hoá, giáo dục… đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Như vậy, hơn lúc nào hết đòi hỏi chúng tôi – thế hệ trẻ của dân tộc ngoài
việc chăm lo giáo dục trí thức, chuyên môn, cần phải tăng cường quan tâm
giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng theo Tư tưởng và tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh.
25


×