Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tại sao hồ chí minh chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.44 KB, 17 trang )

Câu hỏi: Tại sao Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
ĐỀ CƯƠNG
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
1.1Quan điểm về nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
1.1.1 Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX, yêu
cầu phát triển LLSX => xây dựng QHSX phù hợp với trình độ LLSX.
1.1.2 Trong một giai đoạn lịch sử nhất định, không đơn thuần tồn tại
nhiều loại QHSX thích ứng với trình độ khác nhau của LLSX
=>xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần => xây dựng như thế
nào?
1.2 Quan điểm về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1 Quan điểm của Mác: quá độ trực tiếp từ giai đoạn phát triển CNTB lên
CNXH (theo tuần tự của xã hội loài người).
1.2.2 Quan điểm của Lênin: Do CNTB phát triển không đồng đều, sự
phát triển của phong trào dân tộc => quá độ gián tiếp (nhảy vọt) ở các
nước tiền tư bản.
2. Kinh nghiệm các nước (Chính sách kinh tế mới NEP ở Liên Xô
(1921-1925)
2.1 Xuất phát từ đặc điểm nền kinh tế nước Nga => Lênin chủ trương
xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
2.1.1 Nền kinh tế lạc hậu, nông dân chiếm 90% dân số, phần lớn nông
dân là người sản xuất hàng hóa nhỏ => kinh tế nông dân kiểu gia
trưởng
kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ
2.1.2 Chủ nghĩa tư bản tồn tại ở mức độ nhất định => kinh tế tư bản tư
nhân
2.1.3 Nhu cầu hỗ trợ cho CNXH và chính quyền Xô Viết, dưới dạng phát
triển LLSX và tăng khối lượng sản phẩm => kinh tế tư bản nhà nước
2.1.4 Mục tiêu xây dựng CNXH => thành phần kinh tế XHCN giữ vai


trò chủ đạo, nền tảng, định hướng
2.2 Bài học kinh nghiệm


2.2.1 Những thành tựu đạt được trên cơ sở xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần
2.2.2 Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là “lùi một bước
để tiến hai bước” lên CNXH
3. Thực tiễn Việt Nam
3.1 Xuất phát điểm là một nước có nền kinh tế lạc hậu sau khi giành
được độc lập đi lên CNXH => mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của
đất nước theo hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế xã hội thấp kém =>
giải quyết mâu thuẫn trên lĩnh vực kinh tế như thế nào?
3.2 Tiến thẳng lên CNXH trong điều kiện không kinh qua giai đoạn
phát triển TBCN => yêu cầu phải dựa trên những điều kiện cụ thể nhất
định, tôn trọng các quy luật phát triển, không đốt cháy giai đoạn.
=> mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo hướng tiến bộ
và thực trạng kinh tế xã hội thấp kém => giải quyết mâu thuẫn trên lĩnh vực
kinh tế như thế nào?
3.3 Xây dựng CNXH trong điều kiện vừa hòa bình, vừa chiến tranh
3.3.1 Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH
3.3.2 CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc
=> thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH.
4. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
4.1 Xuất phát từ đặc điểm nền kinh tế lạc hậu
=> kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế hợp tác xã
4.2 Xuất phát từ đặc điểm sự tồn tại của các nhân tố kinh tế TBCN
4.2.1 Không kinh qua giai đoạn phát triển CNTB => bỏ qua vai trò chủ
đạo của kinh tế TBCN.

4.2.2 Sự tồn tại một bộ phận tư sản công thương => kinh tế tư bản của tư
nhân
4.2.3 Khuyến khích tư nhân cải tạo XHCN => kinh tế tư bản nhà nước
4.3 Thực hiện nhiệm vụ chiến lược là CNXH => kinh tế quốc doanh
giữ vai trò chủ đạo, nền tảng, định hướng.
5. Tính đúng đắn của luận điểm (Xây dựng cơ cấu kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần trong Đổi mới kinh tế năm 1986)
5.1 Trước Đổi mới 1986:
5.1.1 Điều kiện nền sản xuất sau 1975


5.1.2 Đại hội Đảng lần thứ IV (12-1976): “xóa bỏ chế độ sở hữu tư bản…
cải tạo chế độ sở hữu cá thể…phát triển kinh tế quốc doanh…xây dựng
nhanh chóng kinh tế tập thể”
Đại hội Đảng lần thứ V (3-1982): tiếp tục quan điểm trên.
=> cơ cấu kinh tế với hai thành phần kinh tế: quốc doanh và tập thể.
=> chủ trương mang tính chủ quan, nóng vội, gây ra những hậu quả cho
nền kinh tế
5.2 Quan điểm Đổi mới 1986:
5.2.1 Điều kiện nền sản xuất sau 10 năm thống nhất đất nước
5.2.2 Đại hội Đảng lần thứ VI: “Cần có chính sách sử dụng và cải tạo
đúng đắn các thành phần kinh tế… trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai
trò chủ đạo” => thừa nhận tồn tại nhiều thành phần kinh tế”.
Tiếp tục hoàn thiện quan điểm qua các kì đại hội, Đại hội X xác
định 5 thành phần kinh tế ở nước ta.
=> nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần, đa sở hữu.
=> phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, tác động tích cực tới nền
kinh tế.
(Bảng số liệu đóng góp của các thành phần kinh tế giai đoạn 1986 1995)
5.3 Kết luận lại tính đúng đắn của luận điểm từ thực tiễn Đổi mới năm

1986 ở Việt Nam.

BÀI LÀM
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống những quan điểm lý
luận tư tưởng về chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, cách mạng xã hội, về đạo đức, phong cách,… Trong đó có quan
điểm chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phân trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam.
Trước Hồ Chí Minh, quan điểm về kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần và thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được chủ nghĩa MácLênin xây dựng.


Quan điểm về kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hình thành trên
hai cơ sở. Thứ nhất, xuất phát từ mối quan hệ thống nhất biện chứng
giữa lực lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX), trong đó
LLSX quyết định QHSX và QHSX tác động trở lại LLSX. LLSX và
QHSX là hai mặt cơ bản tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó LLSX là
nội dung vật chất còn QHSX là “hình thức xã hội” của quá trình sản
xuất. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định của LLSX, tất yếu
đòi hỏi phải có QHSX phù hợp. Chỉ có như vậy, LLSX mới được duy trì,
khai thác – sử dụng và không ngừng phát triển.QHSX luôn luôn có khả
năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của LLSX. Sự tác động này
có thể là tích cực hay tiêu cực phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù
hợp của QHSX với trình độ LLSX. Thứ hai, sự vận động thực tế của xã
hội là một quá trình phức tạp, tại một giai đoạn nhất định của lịch sử xã
hôi, có sự tồn tại đan xen giữa các nhân tố cũ và mới, nền kinh tế vốn dĩ
không đồng đều về trình dộ cảu LLSX. Và theo yêu cầu của quy luật
QHSX phải phù hợp với trình độ LLSX thì tất yếu tồn tại nhiều loại
QHSX, có những thành phần kinh tế cơ bản của xã hội, thành phần tàn
dư của xã hội cũ và những manh nha cơ sở kinh tế của xã hội mới. Do

đó, chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra tính tất yếu xây dựng nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần. Cụ thể, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định nội dung về mặt kinh tế, trong đó có
việc xác lập nên kinh tế nhiều thành phần trên cơ sở khách quan của sự
tồn tại nhiều loại hình sở hữu về TLSX với những hình thức tổ chức kinh
tế đa dạng, đan xen hỗn hợp. Các thành phần kinh tế tồ tại trong mối
quan hệ vừa thống nhất vừa mâu thuẫn và đấu tranh với nhau. Mâu thuẫn
giữa các thành phần kinh tế đó chỉ có thể được giải quyết trong tiến trình
xây dựng CNXH.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin,
có hai con được quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Con được thứ nhất, theo
quan điểm của Mác, là con đường quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội
từ những nước tư bản ở trình độ cao. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng
trên nên sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao. Quá trình phát triển
của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra tiền đề vật chất – kỹ thuật nhất định cho
chủ nghĩa xã hội. Tuy những tiền đề vật chất – kỹ thuật đó cần có thời
gian tổ chức sắp xếp lại trong thời kỳ quá độ, nhưng về cơ bản do


phương thức sản xuất với LLSX và QHSX đã tương đối phát triển nên
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước chủ nghĩa tư bản phát
triển với trình độ cao có thể tương đối ngắn. Con đường thứ hai là quá độ
gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản (CNTB)
phát triển còn thấp, hoặc như Lê-nin cho rằng, những nước có nền kinh
tế lạc hậu, chưa trải qua thời kỳ phát triển của CNTB cũng có thể đi lên
chủ nghĩa xã hội được trong điều kiện cụ thể nào đó, nhất là trong điều
kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành
đảng cầm quyền) và được một hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ. Trong
điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển không đồng đều và sự phát triển
ngày càng mạnh mẽ của phong trào dân tộc trên thế giới, con đường thứ

hai là hoàn toàn hợp lý, thể hiện tính đa dạng và tính tiên tiến của sự thay
thế các hình thái xã hội. Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình
công nghiệp hóa tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội có thể phải kéo dài với
nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa. Những nước đã trải qua giai đoạng phát triển chủ nghĩa tư bản ở
trình độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ tiền tư bản, có
nền kinh tế lạc hậu thì thời kì quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó
khăn, phức tạp.
Chủ nghĩa xã hội giành được thắng lợi đầu tiên ở nước Nga – một
nước chỉ đạt tới sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình.
Trong điều kiện thực tế của nước Nga, giai cấp vô sản đã giảm nhiều sau
hai cuộc chiến tranh lại vừa mới giành chính quyền về tay, họ không có
kinh nghiệm quản lý và do vậy, không có khả năng khẳng định sở hữu xã
hội đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã hội. Để phát triển lực lượng
sản xuất trong điều kiện mới hình thành, cần phải kiên quyết duy trì nền
kinh tế nhiều thành phần. Điều đó có nghĩa là, ngoài phương thức sản
xuất xã hội chủ nghĩa mới chỉ phôi thai và về nguyên tắc, được công
nhận là có vai trò chủ đạo, cần phải cho phép tồn tại những phương thức
sản xuất khác và hơn nữa cần phải phát triển ở mức độ nhất định một số
thành phần kinh tế khác.


Xuất phát từ những đặc điểm nền kinh tế nước Nga thời điểm đó,
Lê-nin đã chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
mà nội dung được thể hiện trong Chính sách kinh tế mới (NEP) (1921 –
1925). Cách mạng tháng Mười thành công, nhưng các tàn dư của quan
hệ sản xuất phong kiến, thậm chí của những hình thái kinh tế - xã hội
trước đó vẫn tồn tại nặng nề. Kinh tế phụ thuộc vào nước ngoài, mất cân
đối giữa các ngành, đời sống đã khó khăn lại thêm khó khăn do hậu quả

của chiến tranh thế giới thứ nhất để lại. V.I.Lê-nin đã nhận định về kinh
tế nước Nga lúc bấy giờ: “một bên là chế độ sở hữu ruộng đất lạc hậu
nhất cùng với tình trạng nông thôn dốt nát nhất và một bên là chủ nghĩa
tư bản công nghiệp và tài chính tiên tiến nhất". Hơn 90% dân số là nông
dân, nông nghiệp chiếm hơn 50% trong tổng sản phẩm quốc nội. Nông
dân, mà chủ yếu cũng là những người sản xuất hàng hóa nhỏ, tồn tại
khách quan và lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do
toàn bộ tâm lý, tập quán sản xuất nhỏ tồn tại hàng trăm năm đã tạo “một
cơ sở có những cội rễ rất sâu và rất chắc” vào ý thức tư hữu của
người nông dân, nên họ sẽ chống lại bất cứ sự can thiệp, hay kiểm kê,
kiểm soát nào của nhà nước, vì vậy việc thay thế chế độ tư hữu nhỏ bằng
chế độ công hữu là không thể tiến hành một lần mà xong được. V.I.Lênin rất đề cao vai trò của việc mua bán nông sản, coi đây là điều kiện tiên
quyết để thực sự công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Vai trò của
lưu thông hàng hoá, đặc biệt là lưu thông nông sản là thiết lập liên minh
giữa công nhân và nông dân, giữa công nghiệp và nông nghiệp.Trên cơ
sở đó, Lê-nin chủ trương xây dựng thành phần kinh tế nông dân kiểu gia
trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên và thành phân kinh tế
sản xuất hàng hoá nhỏ (trong đó gồm đại đa số là nông dân bán lúa mỳ).
Nhấn mạnh vai trò của chủ nghĩa tư bản như là phương tiện để phát triển
lực lượng sản xuất, V.I.Lênin đã kiên trì giải thích rằng, nước Nga chưa
đủ sức để chuyển trực tiếp từ tiểu sản xuất sang chủ nghĩa xã hội, và
trong điều kiện như vậy, chủ nghĩa tư bản ở một mức độ nhất định là
không tránh khỏi, giống như sản phẩm tự nhiên của nền tiểu sản xuất và
trao đổi hàng hoá; vì vậy kinh tế tư bản tư nhân cũng là một thành phần
của nền kinh tế quốc dân, nhưng Lê-nin cũng chỉ ra nhiệm vụ trực tiếp
là: “Chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng
nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian


giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường,

phương pháp, phương thức để tăng cường lực lượng sản xuất lên”.
Song, theo V.I.Lênin, ở giai đoạn phát triển này của nền kinh tế nước
Nga, chủ nghĩa tư bản có thể là chủ nghĩa tư bản đặc biệt, bởi nó tồn tại
và chịu sự quản lý, điều tiết của chính quyền Xôviết. Vì vậy, cho dù giữa
hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội còn có sự cạnh
tranh, song đó chính là động lực phát triển của lực lượng sản xuất.
V.I.Lênin nhận xét rằng, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn đóng vai trò hỗ
trợ cho chủ nghĩa xã hội và chính quyền Xôviết có được lợi ích trước
mắt dưới dạng phát triển lực lượng sản xuất và tăng khối lượng sản phẩm
cho những nhu cầu thiết yếu trong một thời gian ngắn. Đây là lý do cắt
nghĩa vì sao cần sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như một phương
tiện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu chiến lược của
nước Nga thời kì này là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề đặt ra là phải
đặt nền móng cho việc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chính
quyền Xô Viết đã tiến quốc hữu hóa đối với các xí nghiệp tư bản, đặt
dưới sự quản lý của Nhà nước, xây dựng thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Đây là một trong số những bước cải tạo quan hệ sản xuất XHCN.
Việc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa có vai trò hết sức quan trọng.
Kinh tế XHCN dựa trên cơ sở là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, là
thành phần kinh tế giữ vai trò nền tảng và định hướng phát triển cho toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Tóm lại, nền kinh tế nước Nga có năm thành
phần kinh tế, được sắp xếp theo trình độ phát triển của chúng từ thấp đến
cao, đó là: kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, kinh tế hàng hóa nhỏ, kinh
tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế XHCN.
Chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong
Chính sách kinh tế mới (NEP) đã để lại những bài học kinh nghiệm quý
báu cho Việt Nam. Việt Nam cũng đang trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã tạo
những điều kiện thuận lợi để phát triển nên kinh tế quốc dân, cho phép
sử dụng ở từng khâu sản xuất và lưu thông những phương thức kinh tế đa

dạng và đang từ từ biến đổi với quy mô lớn; có chú ý tới trình độ trang bị
kỹ thuật nhằm phát huy cao độ khả năng của tất cả các thành phần kinh
tế khác nhau và từng bước liên kết chúng, trong khi vẫn duy trì và phát
huy vai trò chủ đạo của khu vực nhà nước, hướng hoạt động của nền


kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa. Quyết định mang ý nghĩa chiến
lược này có tác dụng mở ra mọi khả năng phát triển lực lượng sản xuất
và thiết lập một cơ cấu kinh tế hợp lý. Cùng với thành phần kinh tế chủ
đạo là kinh tế XHCN, các thành phần kinh tế khác đã góp phần khôi
phục và phát triển nền kinh tế quốc dân. Sau giai đoạn chống “thù trong
giặc ngoài” (1918 – 1920), Liên Xô xảy ra nạn đói. Một phần nhờ sự
phát triển của kinh tế nông dân và kinh tế sản xuất hàng hóa, nạn đói
được đẩy lùi. Năm 1921, sản lượng lương thực của Liên Xô là 42,2 triệu
tấn, đến năm 1925 là 74,6 triệu tấn. Có sự tham gia của thành phần kinh
tế tư bản (với điều kiện về vốn, công nghệ kỹ thuật, …), nền công nghiệp
Liên Xô cũng phục hồi nhanh chóng sau những tàn phá của chiến tranh.
Cũng có những quan điểm cho rằng xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần là đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng thực chất, xây
dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là “lùi một bước để tiến hai
bước” lên chủ nghĩa xã hội. Trước Chính sách kinh tế mới, Nga thực
hiện chính sách cộng sản thời chiến, trong đó thủ tiêu hoàn toàn sở hữu
tư nhân, nền kinh tế chỉ tồn tại hai thành phần là kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể. Tuy nhiên, chính sách cộng sản thời chiến chỉ mang tính
chất tạm thời trong điều kiện nước Nga phải tập trung sức mạnh đối phó
với thù trong giặc ngoài, bảo vệ thành quả cách mạng. Chính sách kinh
tế mới ra đời khắc phục cho chính sách trước đó để phù hợp với điều
kiện thực tiễn giai đoạn mới. Chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vẫn đi kèm với kiên định về định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chỉ có điều, để xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần

tức là phải thừa nhận đa dạng hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư
nhân. Nhưng công hữu vẫn giữ vai trò nền tảng, chủ đạo, sự vận động
của các thành phần kinh tế được đặt dưới sự quản lí của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần là tạo điều kiện cho LLSX phát triển tới mức độ nhất định,
tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng tiềm lực vững mạnh.
Việt Nam cũng đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa tư bản với
những đặc điểm cụ thể như sau:


Thứ nhất, Việt Nam với xuất phát điểm là một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu. Về tính chất của nền kinh tế, chủ yếu là kinh tế tự cấp, tự
túc, sản xuất hàng hóa có những bước phát triển xong không đáng kể. Về
trình độ phát triển của nền kinh tế, sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản đã
làm xuất hiện một số nhân tố mới trong nền kinh tế. Nền kinh tế gần như
vẫn bảo lưu nguyên vẹn nền kinh tế phong kiến lạc hậu trong cách thức
tổ chức sản xuất và kĩ thuật canh tác. Công nghiệp tuy có sự phát triển
nhất định nhưng còn nhỏ bé, chưa đủ sức tạo ra thay đổi trong phân công
lao động xã hội.
Thứ hai, Việt Nam tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không kinh
qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản. Tiến lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa vì thế là phù hợp với xu thế vận động
khách quan của lịch sử. Khái niệm "tiến thẳng" ở đây không có nghĩa
là "quá độ trực tiếp" lên chủ nghĩa xã hội mà chỉ có nghĩa là "không
phải kinh qua chế độ tư bản chủ nghĩa" hay "bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa". Cần phải bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa vì đó là một chế độ
áp bức bóc lột, nô dịch con người. Chủ nghĩa tư bản đã ra đời như một
kiểu chế độ xã hội tất yếu từ cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư
sản với giai cấp phong kiến. Do đó, chủ nghĩa tư bản đương nhiên
cũng sẽ bị chủ nghĩa xã hội phủ định về nguyên tắc trong cuộc đấu

tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Nhưng bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa không phải là phủ định sạch trơn mà là bỏ qua
việc xác lập vai trò thống trị của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa nhưng phải biết kế thừa và phát huy những nhân
tố tích cực được tạo ra trong lòng chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ
nghĩa xã họi. Do vậy bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là phát
triển theo con đường " rút ngắn" quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc
điểm này đặt ra yêu cầu Việt Nam phải dựa trên những điều kiện cụ
thể nhất định để gián tiếp tiến lên chủ nghĩa xã hội, phải tôn trọng
những quy luật phát triển khách quan của tồn tại xã hội, không được
nóng vội, đốt cháy giai đoạn.
Có thể khẳng định, khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, nước ta có đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triên tư


bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác, thể hiện
trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, làm cơ sở nảy sinh nhiều mâu
thuẫn. Trong đó, mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát
triển cao của nền đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng nền
kinh tế - xã hội quá thấp kém của nước ta. Mâu thuẫn này đòi hỏi được
giải quyết bằng những biện pháp cụ thể trên nhiều lĩnh vực, trong đó
có lĩnh vực kinh tế.
Thứ ba, Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa
hòa bình, vừa chiến tranh, do đó hai nhiệm vụ đặt ra là: độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là khát vọng cao cả của toàn dân
tộc. Nhân dân ta đã phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trong điều kiện chủ
nghĩa tư bản vẫn tồn tại thì sự tấn công từ chủ nghĩa tư bản với nước ta là
không thể tránh khỏi. Chúng ta phải giữ vững nền độc lập dân tộc, tạo

những điều kiện ổn định về chính trị và đời sống xã hội. Độc lập dân tộc
là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội . Song song với
nhiệm vụ này, chúng ta cũng phải thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội
để tạo thế và lực cho đất nước, trên cơ sở đó bảo đảm vững chắc cho độc
lập dân tộc. Do đó, chúng ta phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương xây dựng nên kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam. Tư tưởng này xuất phát từ việc giải quyết thực tiễn Việt
Nam trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực kinh tế, có
cơ sở là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và kinh nghiệm các nước
trên thế giới.
Xuất phát từ đặc điểm nền kinh tế lạc hậu, trình độ lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất thấp, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng thành
phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế hợp tác xã. Đối với người làm
nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu
về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn,
khuyến khích họ đi vào con đường hợp tác. Kinh tế hợp tác là hình thức
sở hữu tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước cần đặc biệt khuyến


khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển. Về tổ chức hợp tác xã, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện,
cùng có lợi, chống chủ quan, gò ép hình thức. Các thành phần kinh tế
trên tuy có trình độ sản xuất thấp kém sự tồn tại của những thành phần
này là cần thiết để khai thác hết được lực lượng sản xuất. Từ đó, phát
triển dần dần lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, hình thành phương
thức sản xuất mới tiến bộ hơn, thực hiện mục tiêu phát triển nền kinh tế
từ trình độ thấp tới trình độ cao, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm sự tồn tại của nhân tố kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng là

xuất phát điểm để Hồ Chí Minh xây dựng những thành phần khác của
nền kinh tế quốc dân. Việt Nam tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không
kinh qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, do đó, có thể bỏ qua
vai trò thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong
điều kiện, nền kinh tế tồn tại nhân tố kinh tế tư bản chủ nghĩa ở mức độ
nhất định, không thể phủ nhận thành phần kinh tế tư bản của tư nhân.
Đối với những người tư sản công thương, vì họ đã tham gia ủng hộ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có đóng góp nhất định trong khôi phục
kinh tế và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần xây dựng nước nhà, xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nên Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư
liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi
cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước. Tư nhân cũng được
khuyến khích và giúp đỡ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức tư
bản nhà nước (nhà nước góp vốn với tư nhân để kinh doanh). Kinh tế tư
bản nhà nước tồn tại trong nền kinh tế quốc dân là thành phần liên kết
giữa nhà nước và tư nhân, có vai trò quan trọng đối trong nền kinh tế
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Mâu thuẫn cơ bản nhất khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước
theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp kém. Việc
xây dựng những thành phần kinh tế phù hợp với trình độ thấp của nền
sản xuất là một trong những biện pháp để giải quyết mâu thuẫn này.
Trong điều kiện tồn tại đan xen những nhân tố kinh tế chủ nghĩa tư bản,
trước chủ nghĩa tư bản và xã hội chủ nghĩa, từng thành phần kinh tế được
xây dựng trên cơ sở tôn trọng quy luật kinh tế khach quan lực lượng sản


xuất phải phù hợp với quan hệ sản xuất, Hồ Chí Minh đã dựa trên những
đặc điểm kinh tế then chốt của Việt Nam, định hướng xây dựng những
thành phần kinh tế phù hợp. Đó là tiền đề để lực lượng sản xuất nước ta

phát triển theo xu hướng tiến bộ.
Xuất phát từ nhiệm vụ chiến lược là chủ nghĩa xã hội, kinh tế quốc
doanh cần được xây dựng và cần ưu tiên phát triển để tạo nền tảng vật
chất cho chủ nghĩa xã hội. Với năm thành phần kinh tế: kinh tế quốc
doanh, kinh tế hợp tác xã, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản của tư
nhân và kinh tế tư bản nhà nước; Hồ Chí Minh khẳng định, kinh tế quốc
doanh “là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta
sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ
nghĩa tư bản”. Sự lớn mạnh của thành phần kinh tế quốc doanh đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong việc tạo tiềm lực cho nền kinh tế đất nước
trong thời kì quá độ. Trên cơ sở tận dụng hiệu quả các nguồn lực của các
thành phần kinh tế các sẽ toa nên sự phát triển của kinh tế, đó là yếu tố
tiên quyết quyết định sự phát triển mọi mặt đời sống xã hội. Từ đó, tạo
sức mạnh cho đất nước trong đấu tranh và bảo vệ độc lập dân tộc, thực
hiện đồng thời thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh dựa trên thực tiễn điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam
để xây dựng những thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Tuy
nhiên, những thành phần kinh tế không phải tồn tại cố hữu trong nền
kinh tế suốt quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tùy theo đặc điểm
của từng giai đoạn, thực tiễn nền sản xuất, sự phát triển của nền sản xuất
mà xây dựng những thành phần kinh tế tương ứng phù hợp.
Tính đúng đắn của quan điểm xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần của Hồ Chí Minh đã đươc chứng minh bằng thực tiễn lịch sử
Việt Nam. Đổi mới ở Việt Nam năm 1986 là công cuộc diễn ra trên mọi
mặt của đời sống xã hội, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế.
Năm 1975, Việt Nam giành được độc lập và thống nhất. Cả nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến vẫn còn là sản xuất
nhỏ. Tính chất sản xuất nhỏ thể hiện rõ nét ở các mặt, đại bộ phận lao
động và nhân công còn là thủ công, phân công lao động xã hội kém phát

triển, năng suất lao động xã hội rất thấp,…Trên cơ sở kế thừa tư duy


kinh tế trong 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc trước đó,
Đại hội IV (12 - 1976) của Đảng đã nêu đường lối phát triển kinh tế
trong thời kì mới ở nước ta, đó là: “phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ
nghĩa và cải tạo chế độ sở hữu cá thể của nông dân và thợ thủ công, xác
lập chế dộ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức: sở hữu toàn dân
và sở hữu tập thể bằng phương pháp và bước đi thích hợp; phải ra sức
phát triển thành phân kinh tế quốc doanh ngày càng lớn mạnh; xây dựng
nhanh chóng thành phần kinh tế tập thể, tiến hành hợp tác hóa nông
nghiệp và đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Mọi tư liệu
sản xuất chủ yếu trong xã hội đề phải được sử dụng theo phương hướng
và nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước, nhằm phục vụ lợi ích của toàn xã
hội”. Tiếp đó, tới đại hội lần thứ V (3 - 1982), Đảng tiếp tục quan điểm
trên. Tuy nhiên, tại Đại hội V cũng chỉ ra rằng: "kết quả sản xuất không
tương xứng với sức lao động và vốn đầu tư bỏ ra, những mất cân đối lớn
của nền kinh tế vẫn trầm trọng, thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được
tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng nhanh; thị trường, vật giá, tài
chính, tiền tệ không ổn định, đời sống của nhân dân lao động còn nhiều
khó khăn". Thực hiện chủ trương của Đảng, nền kinh tế Việt Nam trước
Đổi mới chủ yếu dựa trên chế độ công hữu với hai thành phần kinh tế:
kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Chủ trương này biểu hiện tính
nóng vội, muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa,
nhanh chóng biến kinh tế tư bản chủ nghĩa thành quốc doanh. Cùng với
đó là cơ chế quản lý kinh tế kém hiệu quả, cơ cấu kinh tế mất cân đối
nghiêm trọng, nền kinh tế Việt Nam đã lâm vào tình trạng khủng hoảng
nghiêm trọng giai đoạn 1975-1986.
Thực trạng khủng hoảng của nền kinh tế-xã hội, đã đòi hỏi Đảng
phải đổi mới tư duy kinh tế. Đến Đại hội Đảng lần thứ VI (12 – 1986),

Đảng đã thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là đặc trưng
của cơ cấu kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và đưa ra chủ
trương chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế nhiều thành phần. Nếu
thời kỳ trước đổi mới, ở nước ta chỉ có “thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể”, thì giờ đây,
phải “bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các
thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của
thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”. Đảng khẳng định: “Cần có chính


sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế” bởi vì nó “cho
phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế qui mô và trình độ kỹ thuật thích
hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và lưu thông nhằm khai thác
mọi khả năng của các thành phần kinh tế liên kết với nhau, trong đó kinh
tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo”, và phải “làm cho kinh tế quốc doanh
thật sự giữ vai trò chủ đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác”.
Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần đã được nêu ra từ Đại hội VI của Đảng, Đại hội
X của Đảng (năm 2006) đã xác định năm thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ ở nước ta. Hoàn thiện nhận thức và chủ trương về nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, Đại hội X khẳng định: “ Trên cơ sở ba chế độ sở
hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và
nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân
(cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài…Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật
chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi
trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày cành trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là
một trong những động lực của nền kinh tế”. Chủ trương xây dựng nền

kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là phù hợp với quy luật khách quan,
điều kiện Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các thành
phần kinh tế tồn tại trong mối quan hệ tác động tới nhau và có vai trò nhất
định trong nền kinh tế. Xây dựng nền kinh tế hang hóa nhiều thành phần
đã tác động trực tiếp tới nền sản xuất, nâng cao hiệu quả của sản xuất,
khai thác tốt mọi tiềm năng cho sự phát triển kinh tế. Những đóng góp của
những thành phần kinh tế phi chủ nghĩa xã hội đối với sự phát triển kinh
tế Việt Nam là không thể phủ nhận.
Vốn đầu tư thực hiện theo giá so sánh năm 1989 (đv: nghìn tỉ đồng)
Năm

Tổng

Các thành phần kinh tế
Nhà

Ngoài

Đầu tư


nước

Nhà nước

nước
ngoài

1986


3,9

2,3

1,6

-

1987

3,7

2,0

1,7

-

1988

4,2

2,2

2,0

-

1989


4,8

2,2

1,9

0,7

1990

6,0

2,4

2,8

0,8

Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế
phân theo thành phần kinh tế (đv: %)
Năm

Tổng

Các thành phần kinh tế
Ngoài

Đầu tư

Nhà

nước

Nhà nước

nước
ngoài

1986

100

39,7

60,3

-

1987

100

37,7

62,3

-

1988

100


33,7

66,3

-

1989

100

33,4

64,5

2,1

1990

100

31,8

64,6

3,6
Nguồn: Tổng cục Thống





Từ thực tiễn đổi mới kinh tế 1986, có thể khẳng định quan điểm về
việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong suốt thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TẬP LỚN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Họ và tên: LÊ THỊ THÚY
Mã sinh viên: CQ523578
Lớp chuyên nghành: Kinh tế và Quản lí Đô thị_52
Số thứ tự:



×