Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Năng lực cạnh tranh trong đấu thầu của công ty TNHH Toàn Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.81 KB, 105 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Việt Nam hiện nay theo nền kinh tế mở, nhiều thành phần kinh tế, cùng
với đổi mới quan hệ kinh tế khi Việt Nam gia nhập WTO thì vấn đề bình đẳng
cho các thành phần kinh tế hoạt động là vấn đề hết sức được quan tâm. Vấn đề
đó đã làm tăng tính cạnh tranh ở mọi lĩnh vực trong đó có ngành xây dựng.
Trong cơ chế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay thì phương
thức đấu thầu trở nên phổ biến. Ở nước ta hiện nay, hoạt động đấu thầu được
áp dụng rộng rãi ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có lĩnh vực xây dựng.
Đấu thầu trong xây dựng cơ bản là một hoạt động có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp xây dựng. Đặc thù
riêng của hoạt động đấu thầu xây dựng là tính cạnh tranh giữa các nhà thầu rất
cao và sự tham gia ngày càng nhiều của các nhà đấu thầu xây dựng nước ngoài
vào Việt Nam là những doanh nghiệp có kinh nghiệm, nguồn vốn lớn. Thực tế
cho thấy để đứng vững và chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này thì bất kỳ một
công ty xây dựng nào cũng phải vận dụng hết tất cả khả năng của mình cũng
như nắm bắt được cơ hội của môi trường kinh doanh. Cùng với sự yêu cầu
ngày càng cao của các chủ đầu tư về giá bỏ thầu, chất lượng công trình, tiến độ
thi công … đòi hỏi các nhà thầu luôn phải nỗ lực để nâng cao năng lực của
mình. Hoạt động đấu thầu ngày càng trở nên có tính quyết định đến sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp xây dựng, việc nâng cao hiệu quả đấu thầu có ý
nghĩa to lớn.
Dành thắng lợi trong đấu thầu là vấn đề quan trọng bậc nhất trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty xây dựng. Để đứng vững và chiến thắng
trong cuộc cạnh tranh với các nhà thầu khác thì bất kỳ một công ty xây dựng
nào cũng phải nắm bắt cơ hội của môi trường kinh doanh, đồng thời vận dụng
hết tất cả các khả năng của mình và việc nâng cao năng lực cạnh tranh phải
được quan tâm thực hiện. Nhận thức được tầm quan trọng của năng lực cạnh



tranh tới sự tồn tại sống còn của công ty mà công ty TNHH Toàn Mỹ trong thời
gian qua đã có những quan tâm tới vấn đề này. Do đó tôi quyết định đi sâu tìm
hiểu và nghiên cứu đề tài: “Năng lực cạnh tranh trong đấu thầu của công ty
TNHH Toàn Mỹ”

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh trong đấu thầu của công ty từ
đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu
cho công ty TNHH Toàn Mỹ

1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh trong đấu thầu của
doanh nghiệp xây dựng, các yếu tố ảnh hưởng cũng như phương pháp và các
tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng
- Tìm hiểu hoạt động đấu thầu và các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực
cạnh tranh trong đấu thầu của công ty
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh trong đấu thầu của
công ty TNHH Toàn Mỹ để chỉ ra ưu nhược điểm và nguyên nhân hạn chế
năng lực cạnh tranh của công ty.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu
thầu xây dựng tại công ty TNHH Toàn Mỹ đến năm 2020

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu năng lực cạnh tranh của công ty TNHH Toàn Mỹ


1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1. Phạm vi nội dung

Đề tài nghiên cứu năng lực cạnh tranh của công ty TNHH Toàn Mỹ, trên cơ sở
đó đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong thắng thầu
của công ty trong thời gian tới

1.3.2.2. Phạm vi không gian
Đề tài nghiên cứu tại công ty TNHH Toàn Mỹ, địa bàn huyện Thủy
Nguyên tỉnh Hải Phòng.
1.3.2.3. Phạm vi thời gian
Thời gian nghiên cứu và viết đề tài từ 27/12/2010 đến 27/05/2011
Số liệu trong báo cáo được lấy trong 3 năm gần nhất

1.4. Kết quả nghiên cứu dự kiến
- Hoạt động kinh doanh của công ty TNHH Toàn Mỹ
- Công tác đấu thầu của công ty TNHH Toàn Mỹ
- Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh trong đấu
thầu của công ty TNHH Toàn Mỹ
- Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh trong đấu thầu của công ty
TNHH Toàn Mỹ
- Đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu của
công ty TNHH Toàn Mỹ


PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU

2.1. Tổng quan tài liệu
2.1.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1.1. Lý luận cơ bản về đấu thầu xây dựng
 Đấu thầu
Đấu thầu

Thuật ngữ đấu thầu trở nên quen thuộc ở Việt Nam trong hơn chục năm
gần đây mặc dù nó đã được xuất hiện từ lâu trên thế giới, bởi thuật ngữ này gắn
liền với một hoạt động chỉ xuất hiện gắn với nền kinh tế thị trường. Đấu thầu là
quá trình thực hiện hoạt động mua bán đặc biệt mà người mua yêu cầu một
hoặc nhiều người bán cung cấp những bản chào hàng cho một dịch vụ, công
trình hoặc một hàng hóa cần mua nào đó và trên cơ sở những bản chào hàng,
người mua sẽ lựa chọn một hoặc vài người bán tốt nhất.
Theo từ điển Việt Nam (do ngôn ngữ khoa học biên soạn, xuất bản năm
1998), đấu thầu được giải thích là “độ công khai, ai nhận làm hay nhận bán
với điều kiện tốt nhất thì được giao hoặc được bán”.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Đấu thầu là một quá trình chủ
đầu tư lựa chọn được một nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của mình theo quy
định của luật pháp. Trong nền kinh tế thị trường, người mua tổ chức đấu thầu
để người bán (các nhà thầu) cạnh tranh nhau. Mục tiêu của người mua là có
được hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn các yêu cầu của mình về kỹ thuật, chất
lượng và chi phí thấp nhất. Mục đích của nhà thầu là giành được quyền cung
cấp hàng hóa dịch vụ đó với giá đủ bù đắp các chi phí đầu vào và đảm bảo mức
lợi nhuận cao nhất có thể.


Theo luật đấu thầu ban hành ngày 29/11/2005 của Quốc hội: “Đấu thầu
là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu trên cơ
sở cạnh tranh của nhà thầu”.
Từ đó ta thấy, bản chất đấu thầu là một hoạt động mua bán. Tuy nhiên
đây là một hoạt động mua bán đặc biệt vì khi đó người mua (bên mời thầu) có
quyền lựa chọn cho mình người bán (nhà thầu) tốt nhất một cách công khai và
theo quy trình nhất định. Đấu thầu mang tính cạnh tranh gay gắt, do vậy mà
hoạt động này chỉ có trong nền kinh tế thị trường. Lúc này, người ta cạnh tranh
với nhau để giành khách hàng, khách hàng cũng được tự ý lựa chọn người bán
phù hợp với yêu cầu và chủng loại hàng hóa mình cần

 Nguyên tắc chỉ đạo trong đấu thầu
Trong đấu thầu, có một số nguyên tắc mà cả bên mời thầu lẫn nhà thầu
đều phải tìm hiểu và tuân thủ một cách nghiêm túc khi tham gia dự thầu, đó là
những nguyên tắc: hiệu quả, cạnh tranh, công bằng và minh bạch
-Hiệu quả: được tính cả trên hai phương diện: hiệu quả về mặt
thời gian và hiệu quả cả về mặt tài chính .Về thời gian, sẽ được đặt lên hàng
đầu khi yêu cầu về tiến độ là cấp bách. Nếu thời gian không yêu cầu phải cấp
bách thì quy trình đấu thầu phải được thực hiện từng bước theo đúng kế hoạch
để lựa chọn nhà thầu đạt hiệu quả về mặt tài chính
-Cạnh tranh: là nguyên tắc nổi bật trong đấu thầu. Nó đòi hỏi
bên mời thầu phải tạo điều kiện cho các nhà thầu được tham gia một cách tối
đa
-Công bằng: khi tham gia dự thầu các nhà thầu đều phải được
đối xử như nhau (thông tin đều được cung cấp như nhau). Tuy nhiên, nguyên
tắc này chỉ là tương đối, vì có một số nhà thầu vẫn được ưu tiên và điều này
được ghi cụ thể trong hồ sơ mời thầu
-Minh bạch: Không được phép có bất kỳ sự khuất tất nào đó làm
nảy sinh nghi ngờ của bên mời thầu đối với nhà thầu và có điều gì đó khiến các
nhà thầu nghi ngờ lẫn nhau.


 Phương thức đấu thầu
Dựa vào cách thức nộp hồ sơ dự thầu mà ban mời thầu yêu cầu, người ta
chia phương thức đấu thầu thành ba loại cơ bản: túi một hồ sơ, túi hai hồ sơ
một giai đoạn, túi hai giai đoạn một hồ sơ
- Một túi hồ sơ, một giai đoạn: khi đưa ra yêu cầu thực hiện theo
phương thức một túi hồ sơ, một giai đoạn tức là nhà thầu phải bỏ cả hai đề xuất
(đề xuất kỹ thuật và đề xuất tài chính) vào trong chung một túi hồ sơ và túi đó
được niêm phong. Việc mở thầu được tiến hành một lần; Ban mời thầu được
bốc và chấm thầu riêng cho từng đề xuất. Phương thức này thường được sử

dụng với đấu thầu xây dựng và mua sắm hàng hóa, gói thầu EPC (Luật đấu
thầu – điều 62 khoản 2)
- Hai túi hồ sơ, một giai đoạn: hai đề xuất kỹ thuật và tài chính được
bỏ vào hai túi và hai túi đều được niêm phong. Tùy theo từng trường hợp cụ thể
mà bên mời thầu yêu cầu hoặc phải nộp hai túi cùng lúc hoặc có khi túi tài
chính được phép nộp sau. Các nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật từ 70% trở lên và
không có tiêu chí nào đạt dưới 50% sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất giá để
đánh giá. Trong quá trình đánh giá, nếu nhà thầu nào không đạt yêu cầu kỹ
thuật thì hồ sơ tài chính sẽ được trả lại còn nguyên niêm phong. Phương thức
này chỉ áp dụng đối với gói thầu tuyển chọn tư vấn.
-Hai giai đoạn, một hồ sơ:
Phương thức này áp dụng cho những trường hợp sau:


Các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp có giá từ 500 tỷ đồng

trở lên;


Các gói thầu mua sắm hàng hóa có tính chất lựa chọn công nghệ

thiết bị toàn bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc
biệt phức tạp;


Dự án thực hiện theo Hợp đồng chìa khóa trao tay.

Hai giai đoạn đó như sau:



1.

Giai đoạn sơ tuyển lựa chọn nhà thầu - Tùy theo quy mô, tính

chất gói thầu, chủ đầu tư thông báo mời thầu trên các phương tiện thông tin đại
chúng hoặc gửi thư mời thầu. Chủ đầu tư có trách nhiệm cung cấp cho các nhà
thầu tham dự hồ sơ mời dự thầu bao gồm các thông tin sơ bộ về gói thầu và các
nội dung chính của hồ sơ mời dự thầu. Nhà thầu tham dự sơ tuyển phải nộp hồ
sơ dự thầu kèm theo bảo lãnh dự thầu nhằm bảo đảm nhà thầu đã qua giai đoạn
sơ tuyển phải tham dự đấu thầu. Mức bảo lãnh dự thầu do chủ đầu tư quyết
định nhưng không vượt quá 1% giá gói thầu.
Tiêu chuẩn đánh giá ở vòng sơ tuyển bao gồm: Năng lực kỹ thuật; Năng lực
tài chính; Kinh nghiệm
2.

Giai đoạn đấu thầu - Chủ đầu tư cung cấp hồ sơ mời đấu thầu cho

các nhà thầu được lựa chọn vào giai đoạn đấu thầu. Nhà thầu tham dự đấu thầu
phải nộp hồ sơ đấu thầu kèm theo bảo lãnh đấu thầu nhằm đảm bảo nhà thầu
đàm phán ký kết hợp đồng sau khi được tuyên bố trúng thầu. Mức bảo lãnh dự
thầu do chủ đầu tư quyết định nhưng không vượt quá 3% giá gói thầu. Tiêu
chuẩn đánh giá ở vòng đấu thầu bao gồm: Khả năng cung cấp sản phẩm,
dịch vụ; Tiến độ thực hiện; Giá dự thầu; Các điều kiện khác của nhà thầu
đề xuất nhằm đạt mục tiêu đầu tư và hiệu quả cho dự án. Nhà thầu được lựa
chọn là nhà thầu có giá dự thầu hợp lý và mang lại hiệu quả cao nhất cho dự
án.
 Hình thức lựa chọn nhà thầu
- Đấu thầu rộng rãi: là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà
thầu tham gia. Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời
gian dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng tối thiểu 10 ngày trước

khi phát hành hồ sơ mời thầu. Đấu thầu rộng rãi là hình thức chú ý áp dụng
trong đấu thầu.
- Đấu thầu hạn chế: là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số
nhà thầu (tối thiểu là 5) có đủ năng lực tham dự. Danh sách nhà thầu tham dự
phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận. Hình thức
này chỉ được xem xét áp dụng khi có những điều kiện sau:


- Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu.
- Các nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tiến hành đấu thầu hạn chế.
- Do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế.
- Chỉ định thầu: Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp
ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng
Hình thức này chỉ được áp dụng trong các trường hợp đặc biệt sau:
- Trường hợp bất khả kháng do thiên tai, địch hoạ, được phép chỉ định
ngay đơn vị có đủ năng lực để thực hiện công việc kịp thời, sau đó phải báo
cáo thủ tướng chính phủ về nội dung chỉ định thầu để xem xét phê duyệt. - Gói
thầu có tính chất nghiên cứu thử nghiệm, bí mật quốc gia, bí mật an ninh, bí
mật quốc phòng do thủ tướng chính phủ quyết định.
- Gói thầu đặc biệt do thủ tướng chính phủ quyết định trên cơ sở báo cáo
thẩm định của bộ kế hoạch và đầu tư, ý kiến bằng văn bản của cơ quan tài trợ
vốn và các cơ quan liên quan.
Trong báo cáo đề nghị chỉ định thầu phải xác định rõ ba nội dung sau:
+ Lý do chỉ định thầu.
+ Kinh nghiệm và năng lực về mặt kỹ thuật, tài chính của nhà thầu đề
nghị chỉ định thầu.
+ Giá trị và khối lượng đã được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm
quyền phê duyệt làm căn cứ cho chỉ định thầu.
- Chào hàng cạnh tranh: Hình thức này được áp dụng cho những gói
thầu mua sắm hàng hoá có giá trị dưới 2 tỷ đồng. Mỗi gói thầu phải có ít nhất 3

chào hàng của 3 nhà thầu khác nhau trên cơ sở yêu cầu chào hàng của bên mời
thầu. Việc gửi chào hàng có thể được thực hiện bằng cách gửi trực tiếp, bằng
Fax, bằng đường bưu điện hoặc bằng các phương tiện khác
- Mua sắm trực tiếp: Trên cơ sở tuân thủ quy định tại khoản 3 điều 4 của
quy chế đấu thầu, hình thức mua sắm trực tiếp được áp dụng trong trường hợp
bổ sung hợp đồng cũ đã thực hiện xong (dưới một năm) hoặc hợp đồng đang
thực hiện với điều kiện chủ đầu tư có nhu cầu tăng thêm số lượng hàng hoá
hoặc khối lượng công việc mà trước đó đã được tiến hành đấu thầu, nhưng phải


đảm bảo không được vượt mức giá hoặc đơn giá trong hợp đồng đã ký trước
đó.
- Tự thực hiện: Hình thức này chỉ được áp dụng đối với các gói thầu mà
chủ đầu tư có đủ năng lực thực hiện trên cơ sở tuân thủ quy định tại khoản 3
điều 4 của quy chế đấu thầu (ngoài phạm vi quy định tại điều 63 của quy chế
quản lý đầu tư và xây dựng).
- Mua sắm đặc biệt: Hình thức này được áp dụng đối với các ngành hết
sức đặc biệt mà nếu không có những quy định riêng thì không thể đấu thầu
được. Cơ quan quản lý ngành phải xây dựng quy trình thực hiện đảm bảo các
mục tiêu của quy chế đấu thầu và có ý kiến thoả thuận của bộ kế hoạch và đầu
tư để trình thủ tướng chính phủ quyết định
 Quy trình đấu thầu và dự thầu
Theo nghị định 88CP và nghị định 14CP đấu thầu ở nước ta bao gồm
các giai đoạn. Mỗi giai đoạn này lại bao gồm nhiều bước thể hiện

CHUẨN BỊ ĐẤU THẦU

TỔ CHỨC ĐẤU THẦU

Sơ tuyển nhà thầu (nếu có)


Phát hành hồ sơ mời thầu

Thông báo mời thầu

Lập tổ chuyên gia xét thầu
Xây dung tiêu chuẩn đánh giá

Lập hồ sơ mời thầu

THẨM ĐỊNH VÀ PHÊ DUYỆT

XÉT THẦU

Tính pháp lí

Đánh giá sơ bộ

Quy trình
Kết quả đấu thầu

Đánh giá chi tiết
Báo cáo kết quả đánh giá

CÔNG BỐ KẾT QUẢ
Tên nhà thầu
Gía trúng thầu
Loại hợp đồng

HOÀN THIỆN và

KÝ HỢP ĐỒNG


Sơ đồ 1.1: Trình tự tổ chức đấu thầu
 Các loại hình đấu thầu
Dựa vào đặc điểm hay bản chất của đấu thầu có thể chia đầu thầu làm bốn loại
chính: đấu thầu tuyển chọn tư vấn, đấu thầu xây dựng, đấu thầu lựa chọn đối
tác thực hiện dự án, đấu thầu mua sắm hàng hóa và các dịch vụ khác.
- Đấu thầu tuyển chọn tư vấn là quá trình lựa chọn nhà tư vấn cung
cấp kinh nghiệm, kiến thức và chuyên môn cho bên mời thầu một cách tốt nhất
hay nói một cách khác là lựa chọn nhà tư vấn có chất lượng dịch vụ tốt và giá
cả hợp lý.
- Đấu thầu xây dựng là quá trình lựa chọn các nhà thầu đáp ứng được
các yêu cầu về xây dựng, lắp đặt thiết bị công trình, hạng mục công trình của
bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu xây dựng.
- Đấu thầu lựa chọn đối tác thực hiện dự án là khi chủ đầu tư có ý
tưởng về một dự án đầu tư nhưng do một hạn chế nào đó (có thể là hạn chế về
tài chính, hoặc kỹ thuật) mà không thể tiến hành chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu
tư, vận hành kết quả đầu tư thì chủ đầu tư có thể tổ chức đấu thầu để lựa chọn
một đối tác thực hiện ý tưởng của mình và sau đó có thể bàn giao dự án vào
một thời điểm thỏa thuận giữa hai bên.
- Đấu thầu mua sắm hàng hóa dịch vụ khác là quá trình lựa chọn nhà
thầu cung cấp hàng hóa, dịch vụ đạt yêu cầu về chất lượng và có giá cả hợp lý
Do giới hạn của đề tài nên tôi chỉ đi cụ thể vào đấu thầu xây dựng – loại hình
đấu thầu cơ bản của công ty xây dựng cũng như của công ty TNHH Toàn Mỹ

 Đấu thầu xây dựng
Đấu thầu xây dựng là quá trình lựa chọn các nhà thầu đáp ứng được
các yêu cầu về xây dựng, lắp đặt thiết bị công trình, hạng mục công trình của
bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu xây dựng

Ở loại hình này chủ đầu tư cũng được thực hiện theo trình tự thuê tư vấn
và lập các thủ tục đấu thầu sau đó mở thầu để chọn ra một nhà thầu tối ưu nhất


theo mục tiêu của chủ đầu tư, để thực hiện công việc là: xây lắp, lắp đặt bổ
sung sửa chữa các hạng mục công trình của dự án. Chính vì có nội dung như
vậy mà đấu thầu xây dựng thường mang những đặc điểm cơ bản như sau:
oChủ yếu có ở giai đoạn thực hiện dự án khi mà những ý tưởng đầu tư
được thực hiện trong báo cáo nghiên cứu khả thi sẽ trở thành hiện thực. Tuy
nhiên khi sang đến giai đoạn vận hành kết quả đầu tư nếu chủ đầu tư có nhu
cầu sửa chữa nâng cấp thì đấu thầu xây dựng vẫn xuất hiện.
oNhà thầu xây dựng luôn phải làm việc tại một địa điểm cố định có ghi
trong hồ sơ mời thầu
oNhà thầu tư vấn có thể là một cá nhân song nhà thầu xây dựng phải là
một tổ chức có tư cách pháp nhân
oViệc xem xét đánh giá năng lực của nhà thầu xây dựng dựa trên ba nội
dung chính. Đó là: tài chính (giá công trình), kỹ thuật (phương pháp, tiến độ
thực hiện), uy tín công ty (chất lượng công trình). Và tài chính bao giờ cũng
được quan tâm trước tiên vì đặc điểm quan trọng nhất của đấu thầu xây dựng là
nhà thầu phải thực hiện trước một phần công việc bằng vốn của mình.
-

Vai trò của đấu thầu xây dựng

Trong điều kiện kinh tế thị trường, sản xuất kinh doanh xây dựng là một
lĩnh vực hoạt động mang nhiều yếu tố rủi ro. Quá trình mua bán sản phẩm của
xây dựng thường xảy ra trước lúc bắt đầu giai đoạn thi công xây dựng công
trình, thông qua việc thương lượng, đấu thầu và ký kết hợp đồng xây dựng.
Đấu thầu đã trở thành phương thức phổ biến được áp dụng trong xây dựng. Các
nhà thầu phải cạnh tranh với nhau để thắng thầu. Đấu thầu không chỉ tốt cho

chủ đầu tư mà còn mang lại nhiều cơ hội cho các nhà thầu. Trong điều kiện
cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, việc đấu thầu để nhận được hợp
đồng đặc biệt là hợp đồng có giá trị cao để thi công có lợi nhuận cao là rất khó
khăn. Khi tham gia đấu thầu xây dựng công trình, doanh nghiệp phải tập trung
nhân lực, thiết bị để lập hồ sơ dự thầu. Lịch sử phát triển và quản lý dự án trong
nước và quốc tế đã khẳng định, đấu thầu là phương pháp có hiệu quả cao nhất


2.1.1.2. Lý luận về năng lực cạnh tranh
 Cạnh tranh
- Khái niệm về Cạnh tranh
Thuật ngữ “Cạnh tranh” có nguồn gốc từ tiếng La Tinh với nghĩa chủ
yếu là sự đấu tranh, ganh đua, thi đua giữa các đối tượng cùng phẩm chất, cùng
loại, đồng giá trị nhằm đạt được những ưu thế, lợi thế, mục tiêu xác định.
Trong hình thái cạnh tranh thị trường, quan hệ ganh đua xảy ra giữa hai chủ thể
cung (nhóm người bán), cũng như chủ thể cầu (Nhóm người mua), cả hai nhóm
này tiến tới cạnh tranh với nhau và được liên kết với nhau bằng giá cả thị
trường.
Theo Samuelson: Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp
cạnh tranh với nhau để giành khách hàng.
Theo Kac-Marx: Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu
thụ hàng hoá nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Theo kinh tế Amô thì một thị trường cạnh tranh hoàn hảo có rất nhiều
người mua, người bán để cho không có một người mua hoặc một người bán
duy nhất nào có ảnh hưởng, có ý nghĩa đối với giá cả.
Cạnh tranh (competion), về mặt thuật ngữ được hiểu là sự cố gắng giành
phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động có
mục tiêu và lợi ích giống nhau. Trong kinh doanh, cạnh tranh được hiểu là sự
ganh đua giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành ưu thế trên cùng

một loại tài nguyên, sản phẩm, hoặc cùng một khách hàng về phía mình.
Theo cuốn “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và
kiểm soát độc quyền kinh doanh” thì cạnh tranh là một trong những đặc trưng
cơ bản của kinh tế thị trường, là năng lực phát triển của kinh tế thị trường. Nền
kinh tế thị trường vận hành phải tuân thủ theo những quy luật khách quan


không chỉ riêng mình trong đó có quy luật cạnh tranh. Theo quy luật này, các
doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, công nghệ, nâng cao
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm để giành ưu thế hơn so với đối thủ
cạnh tranh. Cạnh tranh là sự sống còn của mỗi doanh nghiệp, đó là sự ganh đua
giữa các nhà doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất hoặc khách
hàng nhằm nâng cao lợi thế của mình trên thị trường để đạt được một mục tiêu
kinh doanh cụ thể như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần.
Cạnh tranh là động lực như Adam Xmit gọi là “bàn tay vô hình” thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu lợi nhuận thúc đẩy các cá nhân tiến hành
sản xuất kinh doanh thì cạnh tranh lại bắt buộc và thôi thúc họ phải điều hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả cao nhất. Đối với xã hội,
cạnh tranh là động lực quan trọng để huy động sử dụng nguồn lực của xã hội
vào sản xuất kinh doanh một cách hiệu quả nhất, khuyến khích áp dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật. Qua đó, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng
lực sản xuất của toàn xã hội đồng thời thỏa mãn ngày càng nhiều yêu cầu của
xã hội. Trong cạnh tranh, các doanh nghiệp yếu kém bị đào thải, doanh nghiệp
mới xuất hiện. Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ tiếp tục tồn tại và phát
triển, nhờ đó nguồn lực xã hội được sử dụng hợp lý, là cơ sở, tiền đề cho sự
thành công trong việc tăng trưởng nền kinh tế ở mỗi quốc gia.
-

Các hình thức cạnh tranh


Căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường thì có 3 loại cạnh tranh:
cạnh tranh tự do, cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. Căn cứ
vào phạm vi ngành kinh tế thì có 2 loại cạnh tranh: cạnh tranh nội bộ ngành và
cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh tự do được hiểu như là một nền kinh tế phát triển một cách
tự do, không có sự can thiệp của Nhà nước; trong đó giá cả lên xuống theo sự
chi phối của các quy luật thị trường.
Cạnh tranh hoàn hảo (cạnh tranh thuần túy): là hình thức cạnh tranh
trong đó giá cả của một loại hàng hóa là không đổi trong toàn bộ một địa danh
của thị trường; các yếu tố sản xuất được tự do luân chuyển từ ngành này sang
ngành khác; chi phí vận tải không đáng kể và không đề cập tới. Cạnh tranh


hoàn hảo xảy ra khi không một nhà sản xuất nào có thể tác động đến giá cả trên
thị trường, mỗi người sản xuất đều phải bán sản phẩm của mình theo giá thịnh
hành mà thị trường đã chấp nhận thông qua quan hệ cung cầu
Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà ở đó các cá
nhân bán hàng hoặc các nhà sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực để có thể chi
phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường. Cạnh tranh không hoàn hảo
có hai loại độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính độc quyền.
Độc quyền nhóm: tồn tại trong ngành sản xuất mà ở đó chỉ có một số ít
người sản xuất hoặc một số ít người bán sản phẩm. Sự thay đổi về giá của một
doanh nghiệp gây ra những ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu đối với sản phẩm
của doanh nghiệp khác và ngược lại. Ở các nước phát triển thì những ngành sản
xuất như ô tô, chế biến thép… mang tính độc quyền nhóm.
Cạnh tranh mang tính độc quyền: là hình thức cạnh tranh mà ở đó có
những người bán có thể ảnh hưởng đến những người mua bằng sự khác nhau
của sản phẩm của mình sản xuất ra như hình dáng, kích thước, chất lượng,
nhãn hiệu… Trong nhiều trường hợp, người bán có thể bắt người mua chấp
nhận giá sản phẩm do họ định ra

Cạnh tranh giữa các ngành: là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong ngành kinh tế khác nhau giành lấy lợi nhuận lớn nhất. Trong quá trình
cạnh tranh này, các chủ doanh nghiệp luôn say mê với những ngành đầu tư có
lợi nhuận nên đã chuyển vốn kinh doanh từ những ngành đầu tư có ít lợi nhuận
sang những ngành có lợi nhuận cao.. Kết quả cuối cùng là các chủ doanh
nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số vốn bằng nhau và chỉ thu được lợi
nhuận như nhau. Tức là hình thành tỷ suất sinh lợi nhuận bình quân cho các
ngành
Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp cùng sản xuất, tiêu thụ một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó. Trong
cuộc cạnh tranh này các chủ doanh nghiệp thôn tính lẫn nhau. Những doanh
nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị trường,
những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh thậm chí bị phá sản.


Năng lực cạnh tranh


Hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Có quan điểm gắn năng lực cạnh tranh với ưu thế của sản
phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Có quan niệm lại gắn năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp với thị phần mà nó chiếm giữ, có quan niệm cho rằng
năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Một
doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh nếu có khả năng cung ứng
một sản phẩm có chất lượng cao với mức giá thấp hơn so với đối thủ cạnh
tranh. Một công ty được xem là có sức cạnh tranh khi nó duy trì được vị thế
của mình trên thị trường cùng các nhà cung ứng khác.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: trước hết đó là khi tham gia
vào các hoạt động kinh doanh trên thị trường thì muốn doanh nghiệp mình tồn
tại và đứng vững. Để làm được điều này doanh nghiệp phải có những chiến

lược cạnh tranh cụ thể và lâu dài mang tính chiến lược ở cả tầm vi mô và vĩ mô
Theo Micheal Porter, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được xác
định trên cơ sở các nhóm yếu tố chủ yếu qua sơ đồ sau:
Uy tín, thương hiệu, chất lượng và
Chất lượng,

giá cả sản phẩm

vào

cầu

của khách

khả năng
cung ứng đầu

Nhu

Năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp

hàng

đối

với

sản


phẩm

Công nghệ và dịch vụ trợ giúp
Sơ đồ 1.2: Các yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

2.1.1.3. Lý luận về năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng


Năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng


Đấu thầu xây lắp là loại hình đấu thầu đã khá phổ biến ở nước ta và có
sự tham gia đông đảo của nhiều doanh nghiệp nhà nước cũng như tư nhân.
Chính vì thế mà mặc dù thị trường xây dựng công trình là vô cùng rộng lớn và
có sức hấp dẫn, song để có thể tìm được chỗ đứng vững chắc và uy tín nhất
định, các doanh nghiệp đều phải liên tục đưa ra những phương pháp và đối
sách cạnh tranh phù hợp để tồn tại trong cuộc chiến cạnh tranh khốc liệt trên
thương trường. Tuy nhiên, với đấu thầu xây lắp, do đặc điểm tính chất công
trình mà năng lực tài chính là yếu tố được quan tâm hàng đầu khi xét tuyển hồ
sơ dự thầu. Chính vì vậy mà hình thức cạnh tranh chủ yếu và phổ biến của các
nhầ thầu xây dựng vẫn là cạnh tranh về giá.
Bằng cách hoàn thiện bộ máy nhân sự và máy móc thiết bị kĩ thuật hiện
đại, bỏ thầu với mức giá hợp lí, các doanh nghiệp có thể tạo được thế mạnh
trong cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Bởi đấu thầu là một hoạt động cạnh tranh công bằng và minh bạch, do
đó nhà thầu chỉ có thể cạnh tranh với nhau về giá mà thôi. Vì bỏ giá thấp hợp lí
là điều kiện tiên quyết đưa nhà thầu đến với thắng lợi trong cuộc cạnh tranh với
các nhà thầu khác. Mà để có được giá dự thầu thấp lại không bị lỗ vốn đó là
một bài toán lan giải mà chỉ có những nhà thầu có năng lực thực sự mới có thể
giải quyết được.

Ngoài ra trong đấu thầu còn có một mục tiêu tối quan trọng nữa mà chủ
đầu tư luôn đặt lên hàng đầu, đó là hiệu quả. Hiệu quả cả về mặt tài chính và
thời gian. Nghĩa là nhà thầu được chọn sẽ phải đáp ứng được yêu cầu với giá
thấp nhất và thời gian thực hiện gói thầu phải đảm bảo để dự án phát huy tác
dụng.
 Yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây
dựng
 Các nhân tố khách quan là hệ thống toàn bộ các yếu tố bên ngoài
doanh nghiệp, có liên quan ảnh hưởng đến quá trình tồn tại, vận hành và phát
triển của doanh nghiệp.
- Quy chế chính sách của chính phủ, cơ quan địa phương


Thị trường có tác dụng như một “bàn tay vô hình” điều tiết nền kinh tế
song nếu chỉ phó mặc cho thị trường thì dễ dẫn tới khủng hoảng. Ở đây cần
một “bàn tay hữu hình” can thiệp, hướng dẫn nền kinh tế đi theo mục tiêu,
chiến lược đã chọn. Đó chính là sự điều tiết của Nhà nước. Vì vậy, yếu tố
Chính phủ và chính trị có ảnh hưởng ngày càng lớn đến hoạt động của doanh
nghiệp. Sự ổn định chính trị của đất nước, trong đó có sự ổn định của Chính
phủ là tiền đề cho sự ổn định các hoạt động kinh tế. Ngoài ra, các công cụ quản
lý vĩ mô của Chính phủ như: Quy định về chống độc quyền; Luật bảo vệ môi
trường; Thuế; Các chế độ đãi ngộ đặc biệt; Quy định về thuê mướn, khuyến
mại …
Luôn tạo ra cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp, nhằm hướng chúng
theo một quỹ đạo cần thiết. Hiện nay, các doanh nghiệp xây dựng hoạt động
dựa theo các Nghị định và văn bản hướng dẫn, đặc biệt là văn bản LUẬT ĐẤU
THẦU của QUỐC HỘI nước CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM số 61/2005/QH11 ngày 29 tháng11 năm 2005. Ngoài ra còn các quy định
về khung giá, mức giá, những quy định về thuê mướn, thuế, cho vay, quảng
cáo… bắt buộc các doanh nghiệp phải tuân theo.

Chính phủ có thể tạo ra các cơ hội hoặc nguy cơ đối với doanh nghiệp
chẳng hạn: Thông tư số 40/2009/TT-BXD ngày 09/12/2009 của Bộ Xây dựng
quy định việc áp dụng tiêu chuẩn xây dựng nước ngoài trong hoạt động xây
dựng ở Việt Nam, quy định dần xóa bỏ những ưu đãi cho các nhà thầu Việt
Nam khi tham gia đấu thầu.

- Đối thủ cạnh tranh
Trên thực tế cho thấy cạnh tranh có thể diễn ra trên nhiều mặt khác nhau
nhưng có thể nói cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng chủ yếu là giữa doanh
nghiệp với đối thủ cạnh tranh để giành được gói thầu. Doanh nghiệp luôn phải
đối phó với hàng loạt các đối thủ cạnh tranh. Sự hiểu biết về đối thủ cạnh tranh
có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp. Các đối thủ cạnh tranh
nhau sẽ quyết định tính chất và mức độ ganh đua, thủ thuật giành lợi thế trong


ngành. Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố như số
lượng doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, mức độ tăng trưởng của ngành, cơ
cấu chi phí cố định và mức độ đa dạng hóa sản phẩm. Ngoài ra, các đối thủ
cạnh tranh mới và giải pháp công nghệ mới cũng thường làm thay đổi mức độ
và tính chất cạnh tranh.
Đối thủ cạnh tranh của tổ chức xây dựng tham gia dự thầu là những nhà
thầu khác cùng ngành nghề kinh doanh, cùng tham gia vào những công trình
cần đấu thầu với tổ chức xây dựng của mình. Nếu tiềm lực của đối thủ cạnh
tranh lớn về năng lực tài chính, năng lực máy móc thiết bị… thì khả năng trúng
thầu của doanh nghiệp sẽ giảm.
Cạnh tranh trên lĩnh vực xây dựng cơ bản diễn ra ngày càng gay gắt, đối
thủ ngày một nhiều. Ta có thể chia thành các nhóm:
+ Các doanh nghiệp xây dựng trong nước
+ Các doanh nghiệp xây dựng ngoài nước
+ Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn

Trong những thời điểm và những giai đoạn khác nhau thường có những
đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủ yếu đi rút khỏi thị
trường, để chống lại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, doanh nghiệp xây dựng
thường tìm cách không ngừng nâng cao cải tiến kỹ thuật, vươn tới những gói
thầu lớn nhằm nâng cao uy tín trên thị trường. Doanh nghiệp cũng nên đề
phòng và lường trước những đối tác làm ăn vì họ có thể trở thành đối thủ cạnh
tranh tiềm ẩn.
- Nhà cụng cấp đầu vào
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải quan hệ
với các tổ chức cung cấp các nguồn hàng khác nhau như: vật tư, máy móc thiết
bị, nguồn tài chính, nguồn nhân lực… Người cung ứng vật tư, thiết bị sẽ tận
dụng mọi ưu thế để tăng them lợi nhuận cho mình thông qua việc tăng giá,
giảm chất lượng sản phẩm hoặc giảm dịch vụ đi kèm.


Giữa nhà cung ứng và doanh nghiệp thường diễn ra các cuộc thương
lượng về giá cả, chất lượng và thời gian giao hàng. Khả năng thương lượng về
giá cả của các nhà cung cấp tùy thuộc vào mức gộp và chất lượng hàng hóa mà
họ dự định cung ứng cho doanh nghiệp.
Những ưu thế và đặc quyền của nhà cung cấp đầu vào cho phép họ có
những ảnh hưởng nhất định đối với doanh nghiệp. Họ có nhiều cách để tác
động vào khả năng thu lợi nhuận của các doanh nghiệp. Họ có thể nâng giá,
giảm chất lượng những loại vật tư, thiết bị mà họ cung ứng hoặc không đảm
bảo đúng tiến độ cung cấp theo yêu cầu của doanh nghiệp. Các nhà cung cấp có
thế lực mạnh khi họ có những điều kiện sau:
+ Độc quyền cung cấp một loại vật tư thiết yếu cho doanh nghiệp
+ Doanh nghiệp không phải là khách hàng quan trọng của nhà cung cấp
+ Loại vật tư cung cấp là yếu tố đầu vào quan trọng, quyết định rất lớn
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc đến chất lượng sản
phẩm của doanh nghiệp.

- Khách hàng
Khách hàng là vấn đề sống còn trong môi trường cạnh tranh. Sự tín
nhiệm của khách hàng đôi khi là tài sản có giá trị nhất của doanh nghiệp. Sự tín
nhiệm đó đạt được do biết thỏa mãn một cách tốt hơn các nhu câu và thi hiếu
của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh.
Một vấn đề khác liên quan tới khách hàng là khả năng trả giá của họ.
Người mua có ưu thế có thể làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp giảm do họ
chèn ép giá hoặc đòi hỏi chất lượng cao hơn với cùng một mức giá, nhiều dịch
vụ đi kèm hơn, ưu thế đó là do các điều kiện sau tạo nên:
+ Lượng hàng người chiếm tỷ trọng lớn trong khối lượng hàng bán ra
+ Việc chuyển sang mua hàng của người khác không gây nhiều tốn kém
+ Sản phẩm của người bán ít ảnh hưởng đến sản phẩm của người mua


Doanh nghiệp cân lập bảng phân loại khách hàng hiện tại cũng như
khách hàng tương lai. Các thông tin thu được từ bảng này là cơ sở định hướng
cho việc hoạch định kế hoạch. Những thông số cơ bản cần có trong bảng phân
loại là:

 Các nhân tố chủ quan
 Năng lực của tổ chức, doanh nghiệp xây dựng
-

Năng lực tài chính:

Một đặc trưng của ngành xây dựng là cần khối lượng vốn rất lớn và vốn
bị đọng rất lâu ở các công trình, hay nói cách khác vòng quay của vốn chậm.
Đặc điểm này dẫn đến thực tế là các công ty xây dựng phải có nguồn vốn đủ
lớn để trang trải chi phí thi công trong thời gian dài trước khi công trình được
hoàn thành và bàn giao cho bên chủ công trình. Do vậy, năng lực tài chính

cũng là một yếu tố quyết định lợi thế của nhà thầu khi tham gia tranh thầu.
Năng lực tài chính được bên mời thầu xem xét ở các khía cạnh sau:
+ Doanh thu, lợi nhuận trước và sau thuế
+ Vốn lưu động trong vòng 3 đến 5 năm gần đây
Trong vốn lưu động, khả năng huy động vốn ngắn hạng và dài hạn của
doanh nghiệp là chỉ tiêu hết sức quan trọng, bởi vì nguồn vốn đáp ứng nhu cầu
trong bảo lãnh thực hiện hợp đồng và ứng vốn chủ yếu là vốn vay. Vì vậy, khả
năng vay vốn dễ hay khó có ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Đồng thời việc làm rõ nguồn vốn huy động để thực hiện hợp
đồng là một nội dung quan trọng mà doanh nghiệp phải trình bày để chủ đầu tư
xem xét khi đánh giá.
Bên cạnh năng lực tài chính thì tài chính lành mạnh cũng ảnh hưởng tới
năng lực cạnh tranh của nhà thầu. Tình hình tài chính lành mạnh thể hiện qua
kết quả sản xuất kinh doanh cũng như sự hợp lý và linh hoạt trong cơ cấu tài
chính của doanh nghiệp. Một hệ số nợ cao (nợ/vốn chủ sở hữu) sẽ ảnh hưởng
xấu tới khả năng huy động vốn cho việc thi công.


- Năng lực máy móc thiết bị kỹ thuật thi công:
Thiết bị thi công là yếu tố quan trọng đối với việc thi công các công
trình xây dựng. Chi phí máy thi công thường chiếm 15 -20% giá thành xây
dựng công trình. Thiết bị thi công không những có ảnh hưởng đến chiến lược
đấu thầu về mặt giá thành mà còn ảnh hưởng đến năng lực uy tín của nhà thầu
cũng như ảnh hưởng tới kỹ thuật, công nghệ, phương án thi công. Năng lực về
máy móc thiết bị thi công sẽ được nhà thầu giới thiệu trong trong hồ sơ dự
thầu, nó chứng minh cho bên mời thầu biết được khả năng huy động nguồn lực
về máy móc thiết bị đảm bảo thi công công trình, đáp ứng nhu cầu của chủ đầu
tư. Khi đánh giá năng lực máy móc thiết bị thì bên mời thầu sẽ tập trung vào
những nội dung sau:
+ Nguồn lực về máy móc thiết bị thi công của tổ chức xây dựng thể hiện

thông qua tổng giá trị các tài sản là máy móc thiết bị và xe máy thi công hiện
có của tổ chức xây dựng đó về số lượng chủng loại. Nếu nguồn lực này không
đảm bảo thì tổ chức xây dựng phải đi thuê phục vụ cho thi công sẽ ảnh hưởng
tới năng lực cạnh tranh khi dự thầu.
+ Trình độ hiện đại của công nghệ sản xuất, tức là máy móc thiết bị
công nghệ của tổ chức xây dựng sử dụng có hiện đại so với trình độ công nghệ
hiện đại trong ngành xây dựng hay không. Trình độ hiện đại của công nghệ
được thể hiện qua các thông số kỹ thuật về đặc tính sử dụng, công suất và
phương pháp sản xuất của công nghệ hoặc có thể đánh giá thông qua thông số
về năm sản xuất, nước sản xuất và giá trị còn lại của máy móc thiết bị.
+ Mức độ hợp lý của thiết bị máy và công nghệ hiện có, tức là tính đồng
bộ trong sử dụng máy móc thi công và công nghệ, sự phù hợp trong điều kiện
sử dụng đặc thù về địa lý, khí hậu, địa chất, nguyên vật liệu… sự phù hợp giữa
giá cả và chất lượng của sản phẩm do công nghệ sản xuất ra.
- Nguồn nhân lực và chính sách quản lý của công ty về nguồn nhân lực
Ảnh hưởng của nguồn nhân lực trong tổ chức xây dựng tới năng lực
cạnh tranh của tổ chức xây dựng thể hiện một cách trực tiếp thông qua việc bố


trí nhân lực tại hiện trường, năng lực và kinh nghiệm của cán bộ chủ chốt dự
kiến cho việc quản lý và việc thực hiện hợp đồng cũng như chất lượng và sự
phù hợp về cơ cấu ngành nghề đội ngũ công nhân thi công công trình sẽ quyết
định đến chất lượng và tiến độ thi công công trình. Đó là lý do tại sao bên mời
thầu rất chú ý tới chỉ tiêu này khi xét thầu.
Bên cạnh đó, với một doanh nghiệp xây dựng, năng lực và sự nhanh
nhạy của các quản trị viên và chiến lược đấu thầu mà cán bộ lãnh đạo doanh
nghiệp theo đuổi quyết định phần lớn năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây
dựng cũng như công tác dự thầu nói chung.
Ngoài ra, nếu chính sách quản lý nguồn nhân lực của công ty tạo được
động lực thúc đẩy người lao động hăng say làm việc cũng cho phép doanh

nghiệp rút ngắn tiến độ thi công và nâng cao chất lượng công trình.
Nhìn chung, khi đề cập tới nhân tố này và tác động của nó tới năng lực
cạnh tranh của tổ chức xây dựng có thể nói tới nhiều khía cạnh khác nhau
nhưng phải thấy rõ vai trò hết sức quan trọng và đặc biệt của nguồn nhân lực
con người cũng như chính sách quản lý nguồn nhân lực tới việc giành thắng lợi
của doanh nghiệp.
- Kinh nghiệm nhà thầu thi công các công trình xây dựng tương tự
Nhân tố này có tác động không nhỏ tới kết quả đánh giá chung của bên
mời thầu đối với nhà thầu. Đối với những công trình có quy mô lớn yêu cầu kỹ
thuật phức tạp thì đây là nhân tố khá quan trọng và sẽ chiếm một tỷ lệ khá cao
trong tổng điểm đánh giá nhà thầu của bên mời thầu

 Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng
- Giá dự thầu
Trong cuộc chạy đua trên thương trường, giá dự thầu là một trong
những yếu tố quyết định đến việc “được” hay “mất” của mỗi nhà thầu. Khác
với các sản phẩm khác, giá của sản phẩm xây dựng được xác định trước khi sản
xuất và đưa vào tiêu dùng, thông thường nó được xác định thông qua đấu thầu


(bên mời thầu xác định mức giá hợp lý từ đó bỏ thầu trong hồ sơ dự thầu của
các nhà thầu, là giá có lợi nhất cho chủ đầu tư).
Ở góc độ chủ đầu tư, thường chọn nhà thầu có giá bỏ thầu thấp, nhưng
phải đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật, chất lượng của gói thầu và nhà thầu phải
thuyết minh được khả năng thực hiện dự án với giá thầu đã tính toán.
Cạnh tranh bằng giá là cuộc cạnh tranh khốc liệt trong cơ chế thị trường,
các công ty tham gia đấu thầu đều muốn đưa ra một mức giá hấp dẫn với bên
mời thầu để có thể thắng thầu. Một số chính sách giá thường được áp dụng
trong việc xác định giá tranh thầu:
• Chính sách giá cao: áp dụng khi công ty có công nghệ vượt trội so

với các đối thủ cạnh tranh hoặc thi công công trình trong điều kiện đặc biệt
hoặc nhà thầu xây dựng đang có quá nhiều việc để làm; nhưng mức giá không
được cao hơn mức giá chủ đầu tư quy định
• Chính sách giá trung bình: khi các đối thủ tham gia dự thầu có ưu thế
gần như nhau
• Chính sách giá thấp: áp dụng trong điều kiện ngăn chặn đối thủ cạnh
tranh tham gia vào thị trường, muốn gây thiện cảm ban đầu để làm ăn lâu dài
và trong trường hợp công ty thừa năng lực sản xuất, công nhân không có việc
làm nhằm thắng thầu để bù đắp một phần chi phí cố định
• Chính sách giá linh hoạt theo thị trường: đưa ra giá hợp lý đảm bảo
phù hợp với tình hình thị trường, phù hợp với mục tiêu của công ty cũng như
bên mời thầu
Tùy từng công trình, từng giai đoạn, địa điểm xây dựng mà công ty nên
lựa chọn mức giá phù hợp, đảm bảo khả năng cạnh tranh của công ty khi tham
gia dự thầu. Như vậy, giá dự thầu là tiêu chuẩn quan trọng quyết định khả
năng thắng thầu của nhà thầu.
- Phương pháp thi công và tiến độ thi công
Chỉ tiêu biện pháp thi công và tiến độ thi công được chủ đầu tư đánh giá
cao khi xét thầu. Trong hồ sơ dự thầu, tiêu chuẩn biện pháp thi công và tiến
độ thi công do nhà thầu đưa ra được chủ đầu tư đánh giá ở hai nội dung sau:


• Xem xét biện pháp thi công đảm bảo đúng tiến độ, an toàn mức độ
đảm bảo tổng tiến độ thi công quy định trong hồ sơ mời thầu. Nếu nhà thầu nào
mà đưa ra được biện pháp thi công làm rút ngắn được thời gian xây dựng công
trình thì khả năng thắng thầu sẽ cao hơn, nhất là trường hợp công trình được
đưa vào sử dụng sớm mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư.


Xem xét tiến độ hoàn thành các hạng mục công trình khi tiến độ


thi công có liên quan tới việc sử dụng ngay các hạng mục công trình đó của chủ
đầu tư.
Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu, tiêu chuẩn về khả năng đáp ứng
các yêu cầu về kỹ thuật và chất lượng do nhà thầu đưa ra được bên mời thầu
coi là một trong các tiêu chuẩn kỹ thuật để đánh giá. Tiêu chuẩn để đánh giá về
phương pháp thi công bao gồm:
+ Mức độ đáp ứng đối với các yêu cầu kỹ thuật chất lượng vật tư, thiết
bị nếu trong hồ sơ thiết kế và chỉ dẫn kỹ thuật.
+ Tính hợp lý và khả thi của các giải pháp kỹ thuật, biện pháp tổ chức
thi công: sơ đồ tổng tiến độ, sơ đồ tổ chức hiện trường bố trí nhân sự, các giải
pháp kỹ thuật.
+ Các biện pháp đảm bảo điều kiện vệ sinh môi trường và các điều kiện
nhà thầu nêu trong hồ sơ dự thầu, qua các bản vẽ minh họa, phần thuyết minh
biện pháp…
Nhà thầu đảm bảo được tiến độ thi công đồng thời đưa ra được các giải
pháp thi công hợp lý nhất chắc chắn sẽ chiếm được lợi thế trong đấu thầu.
Trước sự cạnh tranh gay gắt, đòi hỏi các công ty xây dựng phải lựa chọn công
nghệ, kỹ thuật thi công, biện pháp thi công phù hợp để đảm bảo rút ngắn thời
gian thi công công trình, nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp.
Biện pháp thi công và tiến độ thi công trở thành công cụ cạnh tranh cần thiết và
hữu hiệu của các đơn vị xây dựng trong tranh thầu.
- Chất lượng công trình và uy tín công ty


Chất lượng công trình là những yêu cầu tổng hợp đối với đặc tính an
toàn bền vững, mỹ quan, kinh tế của công trình phù hợp với quy chuẩn xây
dựng, tiêu chuẩn kỹ thuật, phù hợp với hợp đồng kinh tế và pháp luật hiện hành
của Nhà nước. Phương thức cạnh tranh bằng chất lượng công trình trong đấu
thầu xây dựng của công ty được tiếp cận dưới hai góc độ:

• Cạnh tranh bằng chất lượng công trình đang được tổ chức đấu thầu
xây dựng. Đây chính là nỗ lực phát huy mọi nguồn lực vốn có của công ty
nhằm đảm bảo thực hiện đúng thiết kế kỹ thuật và đưa ra được các đề xuất, giải
pháp kỹ thuật hợp lý nhất. Điều đó được công ty trình bày phần tiêu chuẩn kỹ
thuật và chất lượng trong hồ sơ dự thầu.
• Đánh giá tiêu chuẩn chất lượng công trình mà công ty đang tham gia
đấu thầu, chủ đầu tư không chỉ căn cứ vào sự phù hợp của các tiêu chuẩn trong
hồ sơ dự thầu của công ty mà còn xem xét đến chất lượng các công trình đã thi
công trước đó (các công trình có tính chất kỹ thuật tương tự nằm trên khu vực
địa lý và điều kiện tự nhiên tương tự). Điều đó cũng chính là uy tín của công ty
trên thị trường. Vì vậy, trong hồ sơ dự thầu có phần trình bày kinh nghiệm của
công ty trong việc thi công những công trình tương tự, những công trình tiêu
biểu có chất lượng cao kèm theo những chững nhận có tính pháp lý về chất
lượng công trình.
 Chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xây
dựng trong quá trình dự thầu xây dựng
Thực ra cho đến nay chưa có bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào đưa ra
những tiêu thức chuẩn để đánh giá mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp,
vì để làm được điều này đòi hỏi phải có chuyên môn và chuyên nghiệp trong
công tác đấu thầu và khảo sát thăm dò thị trường. Tuy vậy, để có thể ước lượng
được năng lực cạnh tranh của bản thân cũng như của đối thủ thì doanh nghiệp
có thể dựa vào một số chỉ tiêu và tiêu thức như sau
- Chỉ tiêu về lợi nhuận đạt được (hiệu quả kinh doanh)
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp, nó là chỉ tiêu hết sức quan trọng đánh giá tình hình hoạt động của


×