Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Giải pháp phát triển làng nghề thêu ren tại xã hưng đạo huyện tứ kỳ tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.52 KB, 104 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này
và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã chỉ rõ nguồn gốc.
Sinh viên

Đỗ Thị Huyền

i


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này tôi đã
nhận được sự quan tâm và giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể trong và
ngoài trường. Nhân dịp này tôi xin tỏ lòng biết ơn đến:
Tập thể các thầy, cô giáo trong khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn
trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tận tình chỉ bảo, truyền đạt cho tôi
những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng Nông nghiệp huyện Tứ Kỳ đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình làm luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành tới cô giáo
TS. Nguyễn Thị Dương Nga đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt
quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp của mình.
Và cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã động
viên, góp ý kiến cho tôi trong quá trình làm luận văn.
Tuy đã có nhiều cố gắng trong khi hoàn thành luận văn tốt nghiệp song
khó tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các
thầy cô giáo nhà trường và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2010
Sinh viên



Đỗ Thị Huyền

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN...............................................................................................i
Sinh viên.............................................................................................................i
Đỗ Thị Huyền.....................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN...................................................................................................ii
MỤC LỤC........................................................................................................iii
DANH MỤC BẢNG........................................................................................iv
DANH MỤC SƠ ĐỒ........................................................................................v
TÓM TẮT KHÓA LUẬN................................................................................vi
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................1
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU.......................................4
PHẦN III: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU................................................................................................32
PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN............................46
PHẦN V: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ........................................................87
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................90

iii


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 : Phân bố số lượng làng nghề theo các vùng trong cả nước.............29
Bảng 3.1 Tình hình sử dụng đất đai của xã Hưng Đạo qua 3 năm 2007-2009
.........................................................................................................................35

Bảng 3.2 : Tình hình nhân khẩu và lao động của xã trong 3 năm 2007-2009.37
Bảng 3.3 Tình hình cơ sở hạ tầng của xã Hưng Đạo năm 2009.....................39
Bảng 3.4: Kết quả sản xuất kinh doanh của xã qua 3 năm (2007 – 2009)......42
Bảng 4.1: Tình hình cơ bản của các làng nghề thêu ren ở xã Hưng Đạo năm
2009.................................................................................................................47
Bảng 4.2: Sản lượng sản phẩm thêu ren ở làng nghề thêu ren xã Hưng Đạo
qua các năm 2007, 2008, 2009........................................................................48
Bảng 4.3 : Cơ cấu sản lượng sản phẩm thêu ren theo làng nghề năm 2009...49
Bảng 4.4: Giá trị sản xuất của các làng nghề thêu ren xã Hưng Đạo qua các
năm 2007, 2008, 2009.....................................................................................49
Bảng 4.5: Hình thức tổ chức của các làng nghề thêu ren trong xã qua 3 năm
2007-2008-2009..............................................................................................51
Bảng 4.6: Tình hình lao động ở các làng nghề thêu ren xã
Hưng Đạo năm 2009.......................................................................................52
Bảng 4.7 : Chất lượng lao động trong các hộ điều tra năm 2010....................54
Bảng 4.8 : Tình hình huy động vốn bình quân của 1 hộ điều tra ...................57
Bảng 4.9: Tình hình sử dụng vốn bình quân của 1 hộ trong các làng nghề thêu
ren xã Hưng Đạo năm 2009.............................................................................58
Bảng 4.10: Bình quân đất đai của 1 hộ trong các làng nghề thêu ren xã Hưng
Đạo..................................................................................................................60
Bảng 4.11: Giá của một số sản phẩm thêu ren của các làng nghề năm 2010..64
Bảng 4.12: Tình hình sản xuất kinh doanh BQ 1 hộ điều tra năm 2009.........66
Đơn vị: triệu đồng...........................................................................................66

iv


Bảng 4.13: Hiệu quả sản xuất kinh doanh bình quân 1 hộ trong các làng nghề
thêu ren xã Hưng Đạo năm 2009.....................................................................68


DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 4.1: Kênh tiêu thụ nội địa......................................................................62
Sơ đồ 4.2: Kênh xuất khẩu..............................................................................63

v


TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Đề tài: Giải pháp phát triển làng nghề thêu ren tại xã Hưng Đạo huyện
Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương”
* Mục tiêu nghiên cứu:
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về phát trỉển làng
nghề
- Đánh giá thực trạng phát triển làng nghề thêu ren tại xã Hưng Đạo
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề thêu
ren tại xã Hưng Đạo
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển làng nghề thêu ren tại xã
Hưng Đạo trong thời gian tới.
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp thu thập số liệu truyền thống. Chọn
điểm nghiên cứu là các thôn Xuân Nẻo, Ô Mễ và Lạc Dục trên địa bàn xã
Hưng Đạo.
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp, sơ cấp theo phương thức sử dụng
bảng câu hỏi phỏng vấn các hộ tham gia nghề thêu theo hai hình thức là lao
động chuyên và không chuyên. Kết quả được phân tích và xử lý trên phần
mềm excel, từ đó đưa ra những nhận định chung về tình hình phát triển làng
nghề và đề xuất các giải pháp phát triển làng nghề trong thời gian tới.
*Kết quả nghiên cứu chính:
1. Thực trạng làng nghề thêu ren xã Hưng Đạo trong giai đoạn hiện nay
- Quy mô, sản lượng sản phẩm thêu ren ở các làng nghề trong một vài

năm trở lại đây có sự tăng trưởng ổn định.
- Hình thức tổ chức bao gồm các công ty tư nhân, doanh nghiệp tư
nhân, tổ hợp tác... phổ biến nhất là hộ gia đình.
- Tình hình sản xuất ổn định, sản phẩm được tiêu thụ tại thị trường
trong và ngoài nước.

vi


- Phát triển làng nghề đã thu hút nhiều lao động tại địa phương và các
xã lân cận, giải quyết việc làm cho nhiều lao động thời vụ mỗi năm
- Trang thiết bị phục vụ cho sản xuất chủ yếu là công cụ thủ công, ít cơ
sở sử dụng máy móc trang thiết bị.
-Vốn sản xuất ít và đang thiếu, vay vốn cho sản xuất gặp nhiều khó
khăn.
- Nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất thêu đáp ứng đầy đủ, có sự
tiếp cận với nguồn hàng từ khắp các tỉnh thành trong cả nước và nước ngoài.
2. Phương hướng phát triển cho làng nghề thêu ren Hưng Đạo
- Phát triển làng nghề thêu ren của xã phải đặt trong tổng thể quy hoạch
phát triển kinh tế- xã hội và phát triển tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp của
huyện.
- Phát triển cần tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và
nông thôn.
- Cần hình thành các khu sản xuất tập trung, tạo thuận lợi về cơ sở vật
chất, kết cấu hạ tầng...
- Đảm bảo việc làm cho lực lượng lao động hiện có và lực lượng lao
động bổ sung.
- Dựa vào nhu cầu thị trường từ đó nhằm đưa ra sản phẩm thỏa mãn tốt
về nhu cầu thị trường cả về số lượng, chất lượng, giá cả sản phẩm...
3. Giải pháp phát triển làng nghề thêu ren tại xã Hưng Đạo

- Về thị trường: xây dựng kế hoạch, tìm hiểu và lựa chọn thông tin về
thị trường đầu vào, thị trường đầu ra trong nước và nước ngoài.
- Về vốn: đa dạng hoá hình thức vay vốn và huy động vốn, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn.
- Giải pháp về lao động: trang bị kiến thức, năng lực quản lý kinh
doanh của các đơn vị sản xuất, mở thêm các lớp tập huấn về trình độ tay nghề
của người lao động.

vii


- Giải pháp về kĩ thuật công nghệ: kết hợp công nghệ sản xuất truyền
thống, đồng thời áp dụng máy móc nhằm làm tăng hiệu quả sản xuất của các
hộ, các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn xã.
- Thành lập các hiệp hội thêu ren trên địa bàn xã nhằm nâng cao sự liên
kết, hợp tác giữa các cơ sở sản xuất thêu ren.
- Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm: địa phương cần phối hợp với
các Sở ban ngành liên quan hướng dẫn làng nghề thành lập các hiệp hội, tạo
điều kiện cho việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm làng nghề...
- Khuyến khích hộ sản xuất kinh doanh chuyển sang mô hình doanh
nghiệp: chuyển sang mô hình doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh sẽ
có địa vị pháp lý rõ ràng, kinh doanh sẽ thuận lợi hơn và có được sự bảo vệ
của các cơ quan chức năng. Như vậy sản phẩm làng nghề sẽ có nhiều cơ hội
tiếp cận với nhiều thị trường hơn nữa.
- Hoàn chỉnh một số chính sách của Nhà nước trong vấn đề phát triển
làng nghề tiểu thủ công nghiệp: khuyến khích đầu tư và phát triển, hoàn thiện
hệ thống pháp luật, tạo môi trường kinh doanh cho các làng nghề trong giai
đoạn hội nhập kinh tế hiện nay.

viii



PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Theo số liệu thống kê, cả nước hiện nay có khoảng 2017 làng nghề
(riêng khu vực đồng bằng sông Hồng có khoảng 866 làng nghề, là nơi tập
trung nhiều làng nghề nhất cả nước). Trong vòng 10 năm trở lại đây, từ các
nguồn ngân sách hỗ trợ của Nhà nước, cùng với quá trình mở cửa, bộ mặt
làng nghề thủ công trong cả nước có những khởi sắc vượt bậc. Mặt khác, nhờ
sự năng động, thích ứng nhanh với thị trường, một số ngành nghề thủ công đã
tìm ra hướng đi và chỗ đứng cho riêng mình. Nhờ đầu tư đúng, các làng nghề
có tốc độ tăng trưởng nhanh, trung bình đạt khoảng 8%/ năm. Hiện nay làng
nghề VN đang sử dụng 1,3 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp và 3-5 triệu lao
động thời vụ đã khẳng định được vị trí quan trọng của làng nghề trong nền
kinh tế chung tại các địa phương nói riêng.
Tại một số tỉnh Bắc Ninh, Hà Tây, Hưng Yên, Hải Dương, đời sống
nhân dân được cải thiện, một bộ phận nhân dân khá giầu vì thu nhập do các
làng nghề đem lại chiếm tới 75% tổng thu nhập. Số dân địa phương tham gia
sản xuất (Tái chế thép dân dụng, chế biến lương thực thực phẩm, dệt tơ lụa)
tại các làng nghề thuộc 4 tỉnh đã lên đến 20.000 người, ngoài ra có khoảng
50% số đó là người lao động nơi khác làm thuê. (Tư liệu Viện Khoa học,
công nghệ, môi trường trường Đại học Bách khoa Hà Nội).
Trong thời điểm hiện nay, làng nghề VN đang đứng trước cơ hội phát
triển tốt và nhiều làng nghề đã biết nắm bắt cơ hội đó để làm giàu ngay trên
thôn làng của mình. Nhiều làng nghề từ Nam đến Bắc đang ăn nên làm ra như
gốm sứ Bình Dương, Bát Tràng, Chu Đậu, Phù Lãng; đồ gỗ Đồng Kỵ, Gò
Công; dệt Vạn Phúc; cơ khí Ý Yên; mây tre đan Củ Chi, Chương Mỹ; chạm
bạc Đồng Xâm, Đại Bái; đá mỹ nghệ Non Nước... Làng nghề phát triển đã và
đang giải quyết việc làm cho nông thôn đang có quá nhiều người thất nghiệp;
đồng thời gìn giữ và phát triển văn hóa truyền thống; đặc biệt tạo ra bộ mặt đô


1


thị hóa mới cho nông thôn để nông dân ly nông nhưng không ly hương và làm
giàu trên quê hương mình.
Hiện nay, trên thực tế cũng có nhiều làng nghề đang trong tình trạng
khó khăn vì thiếu vốn, không có doanh nghiệp làm đầu tàu, sản phẩm không
có đầu ra. Ðể giải quyết vấn đề vốn, nguyên liệu, xúc tiến thương mại mở
rộng thị trường xuất khẩu, tập trung khai thác tốt thị trường trong nước thì
các cơ sở, hộ sản xuất nhỏ lẻ khó tìm ra hướng đi đúng, đồng thời "lực bất
tòng tâm".
Hải Dương là một vùng quê có nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng
như gốm Chu Đậu, đan tre ở Văn Diệm (Ninh Giang), chạm khắc đá ở Kính
Chủ (Kinh Môn), chạm khắc gỗ ở Đông Giao (Cẩm Giàng)...Làng nghề thêu
Hưng Đạo (Tứ Kỳ) được hình thành và phát triển từ năm 1918. Phát triển qua
giai đoạn hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, làng nghề có nhiều
mai một do tình hình kinh tế xã hội lúc bấy giờ có nhiều điều kiện không
thuận lợi. Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới, Nhà nước ta với chủ trương là đa
dạng hóa phát triển các ngành nghề, các làng nghềnghề thêu ren ngày càng
được khôi phục và sản xuất có hiệu quả hơn. Sản phẩm chủ yếu là thêu tranh
hoa, tranh phong cảnh được tiêu thụ rộng rãi trên thị trường Hà Nội và các
tỉnh thành lân cận.[13]
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế thị trường, làng nghề
thêu ren Hưng Đạo đang đứng trước nhiều thách thức và cơ hội lớn. Chính
quyền các cấp các ngành trong tỉnh và huyện cũng đã có nhiều biện pháp
nhằm phát triển và nâng cao chất lượng làng nghề trong giai đoạn hội nhập
kinh tế đảm bảo duy trì phát triển làng nghề, tạo việc làm ổn định, tăng thu
nhập cho lao động nông thôn tại xã và các xã lân cận. Nhằm tìm hiểu sâu hơn
về vấn đề này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giải pháp phát triển

làng nghề thêu ren tại xã Hưng Đạo huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương”.

2


1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề thêu ren tại xã
Hưng Đạo huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về phát trỉển làng
nghề
- Đánh giá thực trạng phát triển làng nghề thêu ren tại xã Hưng Đạo
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề thêu
ren tại xã Hưng Đạo
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển làng nghề thêu ren tại xã
Hưng Đạo trong thời gian tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các hộ tham gia sản xuất và phát triển nghề thêu ren tại xã
Hưng Đạo huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: nghiên cứu thực trạng từ đó đề xuất các giải pháp phát
triển làng nghề thêu ren
- Về không gian: Xã Hưng Đạo huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương, tập trung
vào các mẫu nghiên cứu đã chọn đó là các thôn xã: Xuân Nẻo, Ô Mễ, Lạc
Dục
- Về thời gian: Tiến hành nghiên cứu bắt đầu từ ngày 25/1 đến
20/5/2010. Tài liệu thứ cấp thu thập trong 3 năm gần đây từ 2007- 2009. Tài
liệu sơ cấp thông qua điều tra hộ sản xuất thêu ren trong năm 2010


3


PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Lý luận về phát triển
2.1.1.1 Quan điểm vể phát triển
Phát triển là sự tăng trưởng cộng thêm các thay đổi cơ bản trong cơ cấu
nền kinh tế, sự tăng lên của sản phẩm quốc dân do ngành công nghiệp tạo ra,
sự đô thị hóa, sự tham gia của các dân tộc trong quá trình tạo ra các thay đổi
nói trên là những nội dung của sự phát triển. Phát triển là sự nâng cao phúc lợi
của nhân dân, nâng cao tiêu chuẩn sống bao gồm tiêu dùng vật chất, giáo dục
sức khỏe và bảo vệ môi trường.
2.1.1.2 Quan điểm về phát triển bền vững
Vào nửa cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, loài người đã phải đương
đầu với thách thức lớn do suy thoái về nguồn lực và giảm cấp môi trường.
Trong tình hình đó quan niệm mới về sự phát triển đã được đặt là phát triển
bền vững.
Theo Ủy ban Quốc tế về môi trường của Liên Hợp Quốc (1997), phát
triển bền vững là quá trình của sự thay đổi trong đó việc khai thác và sử dụng
tài nguyên, hướng đầu tư, hướng phát triển của công nghệ, kĩ thuật và sự thay
đổi về tổ chức là thống nhất, làm tăng khả năng đáp ứng về nhu cầu hiện tại
và tương lai của con người.
Hội nghị thượng đỉnh của trái đất năm 1992 tại Rio dejanerio đưa ra
định nghĩa về phát triển bền vững là: Phát trỉển nhằm thỏa mãn nhu cầu của
thế hệ ngày nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế
hệ trương lai.
Phát triển bền vững có thể được gọi bằng cách khác là phát triển bình
đẳng và cân đối, có nghĩa là để duy trì sự phát triển cân bằng lợi ích của các

nhóm người trong cùng một thế hệ và giữa các thế hệ, thực hiện điều này

4


đồng thời trên cả ba lĩnh vực quan trọng có mối quan hệ qua lại lẫn nhau đó là
Kinh tế- Xã hội- Môi trường.
2.1.2 Lý luận về làng nghề
2.1.2.1 Khái niệm làng nghề
Làng nghề của nước ta đã được hình thành từ rất lâu đời, trải qua quá
trình phát triển của mình, làng nghề của nước ta đã dần khẳng định được vị
thế của nó trong phát triển kinh tế. Cho đến nay đã có rất nhiều ý kiến được
đưa ra nói về khái niệm làng nghề. Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Vượng
(1998) thì “ Làng nghề truyền thống là làng cổ truyền làm nghề thủ công, ở
đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ
thủ công trong nhiều trường hợp cũng đồng thời là người làm nghề nông
(nông dân) nhưng yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ
chuyên sản xuất hàng truyền thống ngay tại làng quê mình...”[8]
Theo Trần Minh Yến (2004), “Làng nghề là một thiết chế kinh tế- xã
hội ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một
không gian địa lý nhất định trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống
bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn
hóa".[16]
Ở nước ta, làng nghề nông thôn được hình thành và phát triển do yêu
cầu của phân công lao động và chuyên môn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển và chịu sự tác động mạnh mẽ của nền nông nghiệp và nền kinh tế hiện
vật, sản xuất nhỏ, tự túc tự cấp. Với số lượng phong phú như hiện nay, sản
phẩm của các làng nghề sản xuất ra rất đa dạng và phong phú như gốm sứ Bát
Tràng, lụa Vạn Phúc, gỗ Đồng Kỵ...Các sản phẩm được tiêu thụ rộng rãi trong
và ngoài nước, đem lại thu nhập cao cho người lao động.

Ngày nay, khoa học kỹ thuật và công nghệ cùng với sự phân công lao
động ở mức độ cao hơn thì khái niệm làng nghề cũng được mở rộng hơn,
không chỉ bó hẹp ở những hộ làm nghề thủ công. Điều này có thể hiểu dưới

5


hai giác độ: Thứ nhất là công nghệ sản xuất không hoàn toàn là công nghệ thủ
công như trước đây, mà ở nhiều làng đã áp dụng công nghệ cơ khí và bán cơ
khí, biểu hiện ở chỗ đó là sử dụng những máy móc hiện đại hơn, tự động hóa
nhiều hơn; Thứ hai là trong các làng nghề khi sản xuất phát triển ở mức độ
cao hơn thì sẽ làm nảy sinh nhiều nghề khác phục vụ cho nó.
Qua các tài liệu như trên thì chúng ta có thể hiểu rằng: làng nghề là
làng ở nông thôn sản xuất các ngành phi nông nghiệp, tách ra khỏi nông
nghiệp để sản xuất kinh doanh và đem lại phần thu nhập chiếm phần chủ yếu
trong năm. Các sản phẩm của làng nghề làm ra đáp ứng nhu cầu của người
tiêu dùng và đã trở thành hàng hóa trên thị trường.
2.1.2.2 Tiêu chí xác định làng nghề
Khi xem xét sự phát triển của làng nghề, chúng ta xem xét trên cả ba
phương diện kinh tế, xã hội, môi trường. Có rất nhiều tiêu chí để xác định
làng nghề, theo Lê Vũ Tiên (2002), các tiêu chí xác định đó là:
- Làng nghề đó phải là những làng quê nông nghiệp phát triển đến một
mức độ nhất định, nhưng do điều kiện ruộng đất có hạn, dân cư ngày càng
đông đúc hơn nên số lao động dư thừa ngày càng nhiều. Nhu cầu giải quyết
việc làm để tạo thu nhập cho người lao động là đòi hỏi cấp bách của làng.
- Làng nghề đó phải có ít nhất 1 người, 1 gia đình, 1 doanh nghiệp
hay một dòng tộc làm nghề đó, sản xuất kinh doanh phát triển nghề đó làm
hạt nhân.
- Làng nghề đó phải tìm được nguồn nguyên vật liệu ổn định, đáp ứng
được nhu cầu sản xuất của làng nghề.

- Làng nghề phải có sản phẩm đã trở thành hàng hoá, giao lưu đáp ứng
được nhu cầu thị trường và công nghệ sản xuất của làng nghề.
- Làng nghề phải có thị trường tiêu thụ độc lập hoặc thị trường giao lưu
qua các doanh nghiệp thương mại.

6


- Làng nghề phải có vốn để dự trữ nguyên vật liệu sản xuất và chuẩn bị
các điều kiện cho sản xuất.
- Làng nghề phải có sơ sở hạ tầng, kĩ thuật tối thiểu thuận tiện như
đường, điện, nước, công cụ sản xuất.
- Làng nghề phải có nguồn lao động trong làng ổn định và tạo ra công
việc cho người lao động ở các địa phương lân cận để đáp ứng nhu cầu lao
động khi cần thiết.
- Làng nghề phải có sự quan tâm hỗ trợ về các mặt hàng của các cấp
uỷ Đảng và chính quyền địa phương
Tiêu chí để xem xét một cách cụ thể đối với một làng nghề điển hình là:
- Số hộ chuyên làm một hoặc nhiều nghề thủ công chiếm từ 40 - 50 %.
- Thu nhập từ nghề thủ công chiếm trên 50%.
- Giá trị sản lượng của nghề chiếm trên 50% tổng giá trị sản lượng của
làng. [10]
2.1.2.3 Phân loại làng nghề
Nước ta có hàng trăm nghề thủ công khác nhau, các nghề thủ công phát
triển theo từng làng. Ngày nay, các nghề thủ công vẫn liên tục phát triển với
nhiều chủng loại mặt hàng mới. Có nhiều cách phân loại làng nghề, nhưng
thường phân loại theo một số tiêu chí chủ yếu sau:
+ Theo thời gian (sự hình thành của làng nghề):
- Làng nghề truyền thống: có lịch sử phát triển lâu đời với những sản
phẩm độc đáo riêng có của mình. Sản phẩm của làng nghề truyền thống rất

nổi tiếng được nhiều người biết đến, tiêu thụ ở các trung tâm kinh tế lớn của
đất nước (Hà Nội, Huế, Thành Phố Hồ Chí Minh...) và cả nước ngoài. Mẫu
mã, chủng loại của sản phẩm trong làng nghề truyền thống thường được xuất
hiện với quá trình hình thành làng nghề, được hoàn thiện qua các thế hệ. Giá
trị của sản phẩm truyền thống không những bao gồm các chi phí vật chất, chi
phí lao động sống mà còn chứa đựng cả những yếu tố tinh thần. Những thiết

7


kế, hoạ tiết trên các sản phẩm truyền thống thường được phác theo những
điển tích cổ nào đó và thú vui của người chơi là muốn có những bình phẩm và
giá trị tinh thần của sản phẩm.
- Làng nghề mới hình thành gần đây: do yêu cầu phát triển kinh tế
nhằm nâng cao đời sống trên cơ sở vận dụng các tiềm năng sản xuất của địa
phương. Do còn non kém về các điều kiện sản xuất nên sản phẩm của làng
nghề thường là sản phẩm cấp thấp hoặc ở các công đoạn thô. Những người
thợ mới trong các làng nghề trước đây thường là thợ làm thuê ở các làng nghề
truyền thống. Sau nhờ có kiến thức về một số tay nghề, với số vốn ít ỏi đã
nhen nhóm lên nghề mới ở quê mình. Tuy nhiên cá biệt có một số làng nghề
mới được hình thành do yêu cầu giải quyết những vấn đề bức xúc của xã hội.
Một điều dễ thấy là các làng nghề phát triển và lan toả rất nhanh nhưng không
bền vững.
+ Xét theo sản phẩm làm ra
- Làng nghề sản xuất ra công cụ thủ công và nguyên liệu cho công
nghiệp: công cụ thủ công được tạo ra chủ yếu từ nghề rèn và nghề này có ở
hầu hết các vùng nông thôn, các làng nghề chuyên sản xuất công cụ này có
nguy cơ phải thu hẹp quy mô sản xuất. Các loại nguyên vật liệu như thép cán,
thép thỏi được tạo ra từ việc tái chế các phế liệu được thực hiện ở nhiều làng
nghề, ngay cả làng nghề truyền thống.

- Làng nghề sản xuất hàng tiêu dùng dân dụng: như hàng đồ đồng (đồ
thờ cúng, ấm, nồi...), hàng đồ mộc (giường, tủ, bàn...), hàng nhựa tái chế
(nhựa thỏi, nhựa xay...). Chất lượng sản phẩm trong các làng nghề thuộc rất
nhiều cấp độ khác nhau từ cấp thấp dân dụng đến cao cấp mỹ nghệ. Những
hàng này tiêu thụ cả trong nước và ngoài nước.
- Làng nghề chế biến nông lâm thuỷ sản dược liệu: nguyên liệu của
làng nghề này là sản phẩm của hàng nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ, hải sản.

8


Hiện nay trong vấn đề chế biến nổi lên vấn đề nguyên liệu sạch (rau, quả) và
các chất phụ (trước hết là các chất hoá học bị sử dụng tuỳ tiện trong việc chế
biến và bảo quản các sản phẩm).[18]
+ Theo số lượng nghề
- Làng một nghề: là những làng ngoài nghề nông ra chỉ có thêm một
nghề thủ công duy nhất.
- Làng nhiều nghề: là những làng ngoài nghề nông ra còn có một số
hoặc nhiều nghề khác .[16]
2.1.2.4 Vai trò của làng nghề
* Phát triển các làng nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN) là hình thức chủ
yếu của phát triển công nghiệp nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn:
Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, làng nghề là nơi phát triển của các
ngành nghề phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu và nâng cao đời sống nông dân.
Trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), các làng nghề sản xuất kinh
doanh tiểu thủ công nghiệp góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tạo ra
sản phẩm phục vụ xã hội và góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp và nông thôn.
Phát triển các làng nghề đồng nghĩa với phát triển công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp ở nông thôn, nhờ vậy sẽ nâng tỷ trọng của công nghiệp trong cơ
cấu kinh tế ở nông thôn và tăng tốc độ phát triển kinh tế nông thôn. Đồng thời
với thúc đẩy phát triển công nghiệp, thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và các nghề dịch vụ... Do vậy, phát triển làng nghề sẽ góp phần tích cực
vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy CNH, HĐH nông nghiệp và nông
thôn.. Đến nay, cơ cấu kinh tế ở nhiều làng nghề truyền thống đã chuyển dịch
theo hướng 60 - 80% cho công nghiệp và dịch vụ, 20 - 40% cho nông nghiệp.
[16]

9


* Làng nghề TTCN góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho
người lao động, cải thiện đời sống nhân dân ở nông thôn:
Phát triển toàn diện kinh tế, xã hội nông thôn, tạo việc làm, nâng cao
đời sống cho dân cư nông thôn là vấn đề quan trọng hiện nay ở nước ta. Với
diện tích đất canh tác bình quân vào loại thấp và tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc
làm ở khu vực nông thôn còn chiếm tỷ lệ cao (hiện khoảng 30 - 35% lao động
nông thôn). Do vậy vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho lao động nông
thôn trở nên hết sức khó khăn, đòi hỏi sự hỗ trợ nhiều mặt và đồng bộ của các
ngành nghề và khu vực. Việc mở mang, đầu tư phát triển ngành nghề ở các
làng nghề là biện pháp tốt nhất để huy động nguồn lao động này. Nhiều làng
nghề ở nước ta hiện thu hút trên 60% lao động tham gia vào các hoạt động
ngành nghề. Sự phát triển của làng nghề không những chỉ thu hút lao động ở
gia đình làng xã mình mà còn thu hút được nhiều lao động từ các địa phương
khác. Ngoài ra, sự phát triển của các làng nghề còn kéo theo nhiều nghề dịch
vụ khác phát triển, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Mặt khác, cần chú ý đến ý nghĩa xã hội của những việc làm được tạo ra
ở các làng nghề. Sự phát triển của các làng nghề đã có vài trò tích cực trong
việc hạn chế di dân tự do. Bên cạnh đó, tạo thêm công ăn việc làm sẽ làm tăng

thu nhập của người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống
nhân dân. Đây cũng là một trong những chính sách của Đảng và Nhà nước ta
trong vấn đề quốc kế dân sinh. Thu nhập của các hộ làm nghề thủ công ở các
làng nghề cao hơn từ 2 - 8 lần thu nhập của hộ thuần nông. Ở các làng có nghề,
tỷ lệ hộ khá và giàu thường rất cao, tỷ lệ hộ nghèo thường rất thấp và hầu như
không có hộ đói. Thu nhập từ nghề thủ công chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập
đã đem lại cho người dân ở các làng nghề một cuộc sống đầy đủ, phong lưu hơn
cả về vật chất lẫn tinh thần.[16]

10


* Làng nghề góp phần phát triển kinh tế địa phương và xây dựng nông
thôn mới:
Phát triển làng nghề góp phần tăng thu nhập của người dân, đồng thời
đã tạo ra nguồn tích luỹ khá lớn và ổn định cho các hộ gia đình cũng như cho
ngân sách địa phương. Vì vậy, nguồn vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
nông thôn được huy động từ sự đóng góp của người dân tại các địa phương có
làng nghề phát triển cũng khác hẳn so với các địa phương không có nghề. Ở
làng nghề, đặc biệt là ở các làng nghề vùng Đồng bằng sông Hồng, gần như
100% đường làng, ngõ xóm đều được bê tông hoá hoặc lát gạch hoặc đổ bê
tông. Các địa phương này đều có trường mầm non, tiểu học, phổ thông cơ sở
khang trang. Hệ thống điện nước được cải tạo và nâng cấp. Đời sống văn hoá
tinh thần của người dân được cải thiện và từng bước được nâng cao. Sức mua
của người dân có xu hướng tăng, góp phần tạo điều kiện cho thị trường hàng
hoá tiêu dùng, dịch vụ phát triển. Thu hẹp dần khoảng cách giữa thành thị và
nông thôn và góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.[3]
* Hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề góp phần làm tăng
giá trị tổng sản phẩm hàng hóa cho nền kinh tế:

Phát triển làng nghề có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển kinh tế,
xã hội nông thôn. Với quy mô nhỏ bé, được phân bổ rộng khắp ở các vùng
nông thôn, hàng năm các làng nghề luôn sản xuất ra một khối lượng sản phẩm
hàng hoá khá lớn phục vụ cho tiêu dùng trong nước và cho xuất khẩu, đóng
góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân nói chung và cho từng địa phương nói
riêng. Năng lực sản xuất, kinh doanh của các làng nghề là yếu tố quan trọng
thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Thực tế cho thấy ở địa
phương nào có nhiều làng nghề thì ở đó kinh tế hàng hoá phát triển.[3],[11]
* Làng nghề phát triển góp phần phát huy tiềm năng, thế mạnh nội lực
của địa phương:

11


Các nghề thủ công trong làng nghề cho phép khai thác triệt để hơn các
nguồn lực ở địa phương, cụ thể là nguồn lao động, nguyên vật liệu, tiền vốn.
Làng nghề truyền thống có thể làm được điều này vì nó có nhiều loại quy mô,
dễ dàng chuyển hướng kinh doanh v.v...
Một khi làng nghề ở nông thôn phát triển mạnh, nó sẽ tạo ra một đội
ngũ lao động có tay nghề cao và lớp nghệ nhân mới. Chính thông qua lực
lượng này để tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến áp dụng
vào sản xuất, làm cho sản phẩm có chất lượng cao, giá thành giảm, khả năng
cạnh tranh trên thị trường lớn. Như vậy các làng nghề càng phát triển mạnh nó
càng có điều kiện để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Hơn nữa
khi cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường và hiện đại, chính là tạo điều kiện
thuận lợi cho đội ngũ lao động thích ứng với tác phong công nghiệp, nâng cao
tính tổ chức kỷ luật. Đồng thời trình độ văn hoá của người lao động ngày một
nâng cao, lại là cơ sở thuận lợi cho việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ vào lĩnh vực sản xuất và hoạt động dịch vụ trong làng nghề.[11]
* Phát triển làng nghề góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc của địa phương:
Lịch sử phát triển kinh tế cũng như lịch sử phát triển nền văn hoá Việt
Nam luôn gắn liền với lịch sử phát triển của các làng nghề truyền thống. Văn
hoá làng nghề với các thể chế cộng đồng chứa đựng những quan hệ huyết
thống, láng giềng, hôn nhân, nghề nghiệp với các phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, lễ hội mang đậm những sắc thái riêng, tạo nên bản sắc truyền thống
văn hoá phong phú sâu đậm của dân tộc ta. Vì vậy, để các làng nghề truyền
thống mai một cũng tức là đánh mất đi một phần máu thịt của nhiều thế hệ,
đánh mất một vốn quý của dân tộc.
Với vai trò to lớn của làng nghề trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn, để khôi phục và phát triển làng nghề đòi hỏi
các cấp chính quyền phải nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của làng

12


nghề; kịp thời có những biện pháp hỗ trợ các làng nghề phát triển phù hợp với
đặc điểm từng địa phương cũng như yêu cầu của thị trường.[11]
2.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề
Quá trình hình thành và phát triển của các làng nghề chịu ảnh hưởng
của nhiều nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, trong đó thì các nhân tố kinh tế xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến
sự phát triển của các làng nghề gồm có:
* Nhu cầu thị trường:
Sự tồn tại và phát triển của các làng nghề phụ thuộc rất lớn vào khả
năng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú và thường xuyên biến
đổi của thị trường. Những làng nghề có khả năng thích ứng với sự thay đổi
nhu cầu của thị trường thường có sự phát triển nhanh chóng. Sự thay đổi nhu
cầu của thị trường tạo định hướng cho sự phát triển của các làng nghề. Những
làng nghề mà sản phẩm của nó phù hợp với nhu cầu của xã hội, có khả năng
tiêu thụ lớn thì vẫn phát triển bình thường. Ngay cả trong mỗi một nghề, cũng

có những làng nghề phát triển, trong khi một số làng nghề khác lại không phát
triển được, do sản phẩm làm ra chỉ là những sản phẩm truyền thống, ít chú ý
đến sự thay đổi kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng và giá cả nhằm đáp ứng được
sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường.
* Cơ chế chính sách về phát triển ngành nghề, làng nghề TTCN:
Cơ chế chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
hay suy vong của các làng nghề. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay,
khi các hộ gia đình được công nhận là chủ thể kinh tế độc lập tự chủ trong
nông thôn, các doanh nghiệp tư nhân được phép phát triển chính thức, thì các
làng nghề đã có điều kiện phục hồi và phát triển mạnh. Chính sách mở cửa
hội nhập nền kinh tế nước ta với khu vực và thế giới cũng làm cho một số sản
phẩm làng nghề có điều kiện phát triển vì mở rộng được thị trường, nhất là
hàng thủ công mỹ nghệ, trong đó có sản phẩm thêu ren truyền thống, nhưng

13


đồng thời cũng tạo điều kiện cho hàng nước ngoài tràn vào thị trường trong
nước khá nhiều, làm cho sản phẩm của các làng nghề khó có thể cạnh tranh
nổi với sản phẩm ngoại nhập, làm hạn chế sự phát triển của một số làng nghề.
* Kết cấu hạ tầng:
Kết cấu hạ tầng, trước hết là giao thông, điện, cấp và thoát nước, bưu
chính - viễn thông,... có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành, tồn tại và phát
triển của các làng nghề, trong đó giao thông vận tải là yếu tố quan trọng nhất.
Từ xa xưa, các làng nghề truyền thống thường nằm trên các đầu mối
giao thông thủy, bộ khá thuận lợi. Ngày nay, khi giao lưu kinh tế phát triển
rộng khắp, khi mà thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề không chỉ ở
tại địa phương mà vươn tới các thị trường xa xôi khác, khi mà nguồn nguyên
liệu tại chỗ đã cạn kiệt phải vận chuyển từ nơi xa về thì nhu cầu về hệ thống
giao thông vận tải phát triển thuận lợi đối với các làng nghề là rất quan trọng.

Sự hoạt động của các làng nghề trong điều kiện nền kinh tế thị trường chịu
tác động mạnh bởi yếu tố thông tin nói chung, bưu chính viễn thông nói riêng. Nó
sẽ giúp cho các chủ doanh nghiệp nắm bắt kịp thời, nhanh chóng, chính xác
những thông tin về thị hiếu, giá cả, mẫu mã, chất lượng, quy cách sản phẩm trên
thị trường, để có những ứng xử thích hợp đáp ứng nhu cầu của thị trường. Bên
cạnh đó, hệ thống cửa hàng, cửa hiệu, nhà trưng bày, giới thiệu sản phẩm, chợ
nông thôn, trường học, bệnh viện... cũng là những nhân tố tích cực giúp cho việc
tiêu thụ sản phẩm nhanh, phát triển mạnh nguồn nhân lực có sức khỏe, trình độ tri
thức và kỹ thuật tay nghề cao, tạo điều kiện cho các làng nghề phát triển.
* Trình độ kỹ thuật và công nghệ:
Trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất có ảnh hưởng rất quan trọng
đối với bất kỳ ngành nghề nào, sản phẩm nào. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến
năng suất lao động, chất lượng và giá thành sản phẩm, đến năng lực cạnh
tranh của các sản phẩm hàng hóa trên thị trường và cuối cùng là quyết định
đến sự tồn tại hay suy vong của một cơ sở sản xuất, một ngành nghề nào đó.

14


Hiện nay, phần lớn các cơ sở sản xuất ở các làng nghề vẫn sử dụng thiết bị
thủ công, công nghệ cổ truyền chủ yếu dựa vào kinh nghiệm có tính chất cha
truyền con nối trong từng hộ gia đình là chính. Bởi vậy, sản phẩm sản xuất ra
với năng suất, số lượng và chất lượng sản phẩm thấp kém, không đồng bộ, giá
thành cao, hạn chế khả năng cạnh tranh của các sản phẩm làng nghề. Để đa
dạng hóa sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đáp ứng được
nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, các cơ sở sản xuất kinh doanh
trong các làng nghề không thể không đổi mới trang thiết bị, cải tiến áp dụng
một số tiến bộ khoa học công nghệ vào các lĩnh vực sản xuất.
* Vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh:
Vốn là yếu tố, là nguồn lực quan trọng đối với bất kỳ quá trình sản

xuất, kinh doanh nào. Sự phát triển của các làng nghề cũng không nằm ngoài
sự ảnh hưởng của nhân tố vốn sản xuất. Trước đây, vốn của các hộ sản xuất,
kinh doanh trong các làng nghề rất nhỏ bé, thường là vốn tự có của từng gia
đình hoặc vay mượn của bà con họ hàng, láng giềng, nên quy mô sản xuất
không mở rộng được. Ngày nay, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường
cạnh tranh khốc liệt, nhu cầu về vốn đã khác trước, đòi hỏi các hộ sản xuất,
kinh doanh trong các làng nghề phải có lượng vốn khá lớn để đầu tư, cải tiến
công nghệ, đưa thiết bị, máy móc tiên tiến vào một số khâu, công đoạn, công
việc có thể thay thế kỹ thuật lao động thủ công được, nhằm nâng cao năng suất
lao động, chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
* Yếu tố nguyên vật liệu:
Yếu tố nguyên vật liệu cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất của
các làng nghề. Khối lượng, chủng loại, phẩm cấp và khoảng cách từ cơ sở sản
xuất tới nơi có nguồn nguyên vật liệu có ảnh hưởng tới chất lượng và giá
thành sản phẩm của các đơn vị sản xuất. Cho nên, các làng nghề thường chú ý
nhiều đến yếu tố nguyên vật liệu. Hiện nay, nguồn nguyên liệu tại chỗ của
nhiều làng nghề truyền thống đã cạn kiệt, phải vận chuyển từ những nơi khác

15


về, điều kiện khai thác, vận chuyển có ảnh hưởng tới việc đảm bảo nguồn
nguyên liệu cho các làng nghề. Trong điều kiện khoa học và công nghệ phát
triển như hiện nay, nguyên vật liệu cho các làng nghề đã có sự phong phú, đa
dạng. Một loại nguyên vật liệu có thể dùng cho nhiều loại sản phẩm, ngược
lại một loại sản phẩm có thể dùng nhiều loại nguyên vật liệu thay thế. Vì vậy,
vấn đề chọn lựa và sử dụng các loại nguyên vật liệu thay thế hợp lý, theo
hướng đa dạng hóa, giá rẻ, bảo đảm cho quy trình sản xuất nhanh, đảm bảo
sảm phẩm của các làng nghề có được chất lượng cao, giá thành hạ là điều cần
được quan tâm.

* Yếu tố truyền thống:
Đây là yếu tố có ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của các làng
nghề, là nhân tố quan trọng không chỉ chi phối các hoạt động sản xuất mà chi
phối cả tiêu dùng và đời sống của cư dân nông thôn. Sự bình ổn của các làng
nghề là điều kiện tạo ra truyền thống và truyền thống lại góp phần giúp cho
làng nghề ổn định hơn, phát triển truyền thống cao hơn. Yếu tố truyền thống
có những tác động trái ngược nhau tới sự phát triển của làng nghề.
Trong các làng nghề truyền thống, bao giờ cũng có các thợ cả, nghệ
nhân có trình độ tay nghề cao, có kinh nghiệm sản xuất, có tâm huyết với
nghề, là những hạt nhân để duy trì và phát triển của làng nghề. Họ và cơ sở
cho sự tồn tại bền vững của các làng nghề trước mọi thăng trầm và đảm bảo
duy trì những nét độc đáo truyền thống của các làng nghề. Yếu tố truyền
thống có tác dụng bảo tồn những nét đặc trưng văn hóa của từng làng nghề,
của dân tộc, làm cho sản phẩm làng nghề có tính độc đáo và có giá trị cao.
Song, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, không thể chỉ có
kinh nghiệm cổ truyền, mà còn phải có khoa học và công nghệ hiện đại, phải
có những con người có đầu óc kinh doanh năng động, sáng tạo. Yếu tố
truyền thống trong điều kiện hiện nay có tác dụng hai mặt, vừa tích cực vừa
tiêu cực, đối với sự phát triển của các làng nghề. Việc khó là làm sao đưa

16


được những tiến bộ của khoa học và công nghệ hiện đại vào nhưng vẫn giữ
được những yếu tố truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và
những sản phẩm của các làng nghề phải được tiếp nhận trong thị trường của
xã hội hiện đại.[11]
2.1.4 Đặc điểm của làng nghề thêu ren
Thêu là một nghề thủ công truyền thống mang tính chất nghệ thuật
trang trí tạo hình truyền thống của nước ta, xuất hiện từ thuở vua Hùng dựng

nước. Nghề thêu ren phát triển thành làng nghề vào thế kỷ thứ 17. Thời gian
đầu sản phẩm thêu chỉ phục vụ cho cung đình và làm đồ tế lễ, cống nạp cho
các vương triều phương Bắc. Trải qua bao thăng trầm, nghề thêu đã phát triển
rộng khắp tới mọi miền đất nước, trở thành một nghề thu hút được đông đảo
lao động, nhất là lao động vùng nông thôn. Kế thừa những kinh nghiệm quý
báu của cha ông truyền lại, người thợ thêu đã vận dụng kỹ thuật thêu một
cách hiệu quả vào việc tạo nên những mẫu thêu đạt trình độ nghệ thuật cao,
cung ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần tăng thu
nhập trong từng hộ gia đình, chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất, đời sống
và trong nền kinh tế quốc dân.
Nghề thêu ren không quá phức tạp, đòi hỏi lớn nhất với những người
làm nghề là sự kiên trì, cẩn thận và ý thức làm việc tập thể. Công cụ dùng
trong nghề thêu ren khá đơn giản. Các thợ thêu chỉ sử dụng một số thứ vật
liệu ở mức tối thiểu như khung thêu, kim thêu các cỡ (kiểu tròn và kiểu chữ
nhật), kéo, thước, bút lông, phấn mỡ, vải thêu (vải trắng, sa tanh, lụa...), chỉ
thêu các màu. Chính vì thế, nghề thêu ren rất phù hợp với khả năng nguồn lao
động của nước ta, nhất là ở khu vực nông thôn. Các sản phẩm thêu ren trước
hết là những vật phẩm có giá trị nghệ thuật cao, không bao giờ lỗi mốt, chúng
rất gần gũi với cuộc sống con người và tô điểm cho cuộc sống của con người
kể từ lúc chào đời cho đến khi giã từ cuộc sống, từ những tấm khăn tay đến
các loại khăn trải bàn, ga gối, rèm cửa, quần áo,... đến tranh thêu.

17


×