Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp? Nêu các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về giải quyết “công ăn việc làm” cho người nông dân bị mất đất sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.69 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................................ 1
MỞ ĐẦU................................................................................................................................. 1
B. NỘI DUNG.......................................................................................................................... 2
1. Khái niệm pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp...............2
2. Quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.....3
2.1.Bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.....................................................3
2.2. Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp............................................................5
2.2.1 Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất:......................................................................6
2.2.2 Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi
đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp......................7
2.2.3Giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về giải quyết người dân bị thu
hồi đất nông nghiệp........................................................................................................10
C. KẾT LUẬN........................................................................................................................ 11
Danh mục tài liệu tham khảo:................................................................................................11

MỞ ĐẦU
Nước ta là một nước đang phát triển, đang trong tiến trình công nghiệp hóa.
Chính vì thế, trong những năm gần đây, ở hầu hết các địa phương, nhà nước đều
thực hiện thu hồi một phần diện tích đất đã giao cho các tổ chức, cá nhân sử
dụng đất. Việc thu hồi đất đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sinh hoạt cũng
như sản xuất của người sử dụng đất. Để bồi đắp những tổn thất đó, nhà nước đã
có những quy định cụ thể về bồi thường hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất trong
những văn bản trước đây và hiện nay là bộ luật Đất đại năm 2013 và các văn bản
1


hướng dẫn. Một trong những vấn đề đáng quan tâm trong thời gian gần đây là
việc bồi thường hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Để làm rõ hơn các
vấn đề lý luận cũng như thực tiễn của vấn đề này, em xin được nghiên cứu đề
tài: “ Đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi


đất nông nghiệp? Nêu các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về
giải quyết “công ăn việc làm” cho người nông dân bị mất đất sản xuất.”
B. NỘI DUNG
1. Khái niệm pháp luật bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp.
Căn cứ vào lý luận pháp luật nói chung, thì pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là tổng hợp các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá
nhân. Đây là một nội dụng quan trọng trong pháp luật đất đai, và có ý nghĩa
quan trọng trong thực tế về thu hồi đất ở nước ta hiện nay.
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất có những đặc điểm
sau:
- Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
chịu ảnh hưởng và chi phối bởi chế độ sở hữu toàn dân về đất đai mà Nhà
nước là đại diện chủ sở hữu.
- Là cơ sở để bồi thường, hỗ trợ trong pháp luật hiện hành về thu hồi đất
nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân dựa trên những thiệt hại về vật chất
mà người nông dân phải gánh chịu khi Nhà nước thu hồi đất và những
thiệt hại phi vật chất tại thời điểm thu hồi và trong tương lai mà các hộ gia
đình, cá nhân phải đối mặt.
- Ở mỗi địa phương khác nhau, khi thực thiện bồi thường, hỗ trợ đối với hộ
gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp, bên cạnh việc tuân thủ pháp
2


luật chung cần thiết phải chú trọng đến đặc điểm và yếu tố vùng miền, địa
phương để có những định hướng và giải pháp cho phù hợp, linh hoạt và
hiệu quả.
Trên đây là những vấn đề mang tính lý luận của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ

khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để có thể đi sâu, đanh giá những quy định
trên.
2. Quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp.
Những quy định về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nói chung
được quy định tại Mục 2, Mục 3 Chương 6 Luật đất đai năm 2013 từ Điều 74
đến Điều 94. Những quy định này đã được cụ thể hóa trong các văn bản dưới
luật cụ thể là:Nghị định của Chính phủ số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư vàThông tư của Bộ tài nguyên môi trường số
37/2014/TT-BTNMT ngày 30/06/2014 quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Những văn bản này là cơ sở pháp lý trong
việc bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nói chung và thu hồi đất nông
nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, trên thực tế áp dụng, các quy phạm pháp luật trên
còn bộc lộ những điểm còn hạn chế.
2.1.Bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Theo khoản 12 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 thì: “ Bồi thường về đất là việc
nhà nước trả giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người
sử dụng đất.”
Trong công tác bồi thường đối với đất nông nghiệp bị thu hồi, có hai nhóm tài
sản chính yếu là đất nông nghiệp và tài sản gắn liền với đất bao gồm: cây trồng,
vật nuôi trên đất khi nhà nước thu hồi đất cụ thể như sau:

3


Thứ nhất, đối với thiệt hại về đất, nguyên tắc ưu tiên “bồi thường bằng việc giao
đất mới có cùng mục đích sử dụng” (khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013).
Song trên thực tế, nguyên tắc này chỉ được áp dụng đối với những tổ chức được
Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất hoặc thu tiền sử dụng đất bằng
ngân sách nhà nước mà ít khi được áp dụng đối với việc thu hồi đất nông nghiệp

của cá nhân, hộ gia đình. Trong khi đó đa số các trường hợp là “ bồi thường
bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi.” Điều đó, đặt
ra yêu cầu là nếu xác định ưu tiên bồi thường bằng việc giao đất mới là nguyên
tắc áp dụng thống nhất cho tất cả các trường hợp được bồi thường thì cần thiết
lập quỹ đất sạch để cá nhân, tổ chức, hộ gia đình có điều kiện thụ hưởng nguyên
tắc trên hoặc có sự lựa chọn giữa việc nhận bồi thường bằng đất hay nhận bồi
thường bằng tiền. Ngược lại, nếu xác định nguyên tắc này chỉ được áp dụng giới
hạn đối với chủ thể có đất bị thu hồi là tổ chức và không có khả năng áp dụng
đối với cá nhân , hộ gia đình thì nên phân loại đối tượng trong bồi thường để đặc
định hóa về nguyên tắc, đảm bảo tính khả thi trong việc quy định và thực hiện
nguyên tắc bồi thường đối với đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng.
Thứ hai, đối với giá đất, Khi bồi thường bằng tiền, giá bồi thường đối với đất
trong thu hồi đất nhằm thực hiện quy hoạch là giá đất do UBND cấp tỉnh xây
dựng và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua bảng giá đất trước khi ban
hành. Bảng giá đất được xây dựng định kì 5 năm một lần và công bố công khai
vào ngày 01 tháng 01 của năm đầu kì. Trong thời gian thực hiện bảng giá đất,
khi Chính phủ điều chỉnh khung giá đất hoặc giá đất phổ biến trên thị trường có
biến động thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh điều chỉnh bảng giá đất cho phù hợp
(khoản 1 Điều 114 Luật Đất đai năm 2013). Giá này được gọi là “giá nhà nước”
và thường thấp hơn nhiều so với giá thực tế. Sự chênh lệch của hai loại giá này
được khắc phục bằng các quy định của Chính phủ, cụ thể tại khoản 1 Điều 14
Nghị định số 44/2014/NĐ-CP quy định về điều chỉnh bảng giá đất như sau: “a,
Khi chính phủ điều chỉnh khung giá đất mà mức giá đất điều chỉnh tăng từ 20%
4


trở lên so với giá đất tối đa hoặc giảm từ 20% trở lên so với giá đất tối thiểu
trong bảng giá đất của loại đất tương tự. b, Khi giá đất phổ biến trên thị trường
tăng từ 20% trở lên so với giá đất tối đa và giảm từ 20% trở xuống so với giá
đất tối thiểu trong bảng giá đất trong khoảng thời gian 180 ngày” Điều này cho

thấy, cũng đã có những quy định kịp thời để đảm bảo giá trị bồi thường sát với
giá trị thị trường thực tế trong điều kiện bình thường. Tuy nhiên, hướng dẫn này
vẫn còn gặp rất nhiều trở ngại trên thực tế vì nhiều lý do. Thứ nhất, không có
căn cứ để xác định giá đất trên thị trường, vì trong các hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cũng như các giao dịch khác, người dân thường có xu hướng
khai giá đất thấp hơn so với giá thực tế để chỉ phải đóng thuế thấp. Ngoài ta,
công tác bồi thường có thể diễn ra trong một thời gian dài ở các địa phương,
trong nhiều năm liền, vì thế đã có sự thay đổi khá lớn về giá đất cũng như việc
xác định giá đất trên thực tế, gây ra nhiều bất cập dẫn đến việc bồi thường không
thỏa đáng, đây cũng là nguyên nhân chính gây ra những khái nại về đất đai.
Thứ ba, nguyên tắc bồi thường đối với thiệt hại hữu hình và thiệt hại vô hình.
Thiệt hại trong quá trình Nhà nước thu hồi đất có thể bằng hoặc lớn hơn giá trị
hữu hình của đất và tài sản gắn liền với đất trong phạm vi diện tích bị thu hồi.
Sở dĩ như vậy là vì việc thu hồi toàn bộ đất nông nghiệp có thể dẫn đến người
lao động trong các nông hộ thất nghiệp. Do đó, nên xem xét đến vấn đề bồi
thường những tổn thất vô hình khi Nhà nước thu hồi đất.
2.2. Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Khoản 14 Điều 3 luật này cũng quy định: “ Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất là
việc nhà nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất
và phát triển.”
Qua khái niệm trên, có thể hiểu hỗ trợ đối với hộ gia đình, cá nhân khi nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp là việc nhà nước giúp đỡ các hộ gia đình, cá nhân
bị thu hồi đất nông nghiệp thông qua việc đào tạo nghề, bố trí công việc mới.
5


Việc quy định các chính sách hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nói chung và đất
nông nghiệp nói riêng thể hiện sự nhân đạo của nhà nước – nhà nước của dân,
do dân và vì dân. Tuy nhiên khái niệm “hỗ trợ” của pháp luật hiện hành còn
chưa đầy đủ và phù hợp khi chưa bao quát được hết các trường hợp hỗ trợ khi

nhà nước thu hồi đất đồng thời không tạo được hướng mở cho các trường hợp
hỗ trợ khác tùy từng điều kiện cụ thể của địa phương cụ thể như:
2.2.1 Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất:
Quy định pháp luật về hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất được quy định tại
điểm a khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013 và được cụ thể hóa tại Điều 19,
nghị định 47/2014/NĐ-CP và Điều 5 Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT theo đó,
quy định của pháp luật tại Điều 19 Nghị định 47/2014 có quy định sau:
“3. Việc hỗ trợ ổn định đời sống cho các đối tượng quy định tại điểm a, b, c và d
khoản 1 điều này thực hiện theo quy định sau:
a, Thu hồi từ 30 đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ
trợ trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong thời gian
12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trong trường hợp phải di chuyển đến các
địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn thì hoặc có điều kiện kinh tế, xã
hội hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì có thời gian hỗ trợ
tối đa là 24 tháng.
Đối với các trường hợp thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử
dụng thì được hỗ trợ trong thời gian 12 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở
và trong thời gian 24 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trong trường hợp phải di
chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn thì hoặc có điều
kiện kinh tế, xã hội hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì có
thời gian hỗ trợ tối đa là 36 tháng.

6


c, Mức độ hỗ trợ cho một nhân khẩu quy định tại Điểm a và Điểm b khoản này
được tính bằng tiền tương đương 30 kg gạo trong 01 tháng theo thời giá trung
bình của thời điểm hỗ trợ của địa phương.”
So với trước đây, các quy định về hỗ trợ để ổn định đời sống và sản xuất đã
được tăng lên đáng kể và có sự phân biệt về diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi.

Có thể thấy rằng, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi càng nhiều thì đời sống
sản xuất của hộ gia đình, cá nhân càng bị ảnh hưởng. Do đó, việc chia ra 2 mức
hộ trợ đối với hộ gia đình cá nhân bị thu hồi từ 30%-70% và trên 70% diện tích
đất nông nghiệp đang được sử dụng đã khắc phục sự bất bình đẳng trong việc
hưởng mức hỗ trợ. Bên cạnh đó, đối với người đang sử dụng đất nông nghiệp từ
30% diện tích đất trở lên, thời gian hưởng hỗ trợ ổn định đời sống theo quy định
này cũng tăng lên gấp đôi. Ngoài ra, pháp luật còn có quy định về mức chi trả cụ
thể đối với hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất. Mặc dù vậy, pháp luật hiện hành
chưa có quy định cụ thể về phương thức khoản hỗ trợ này.Chính vì thế dẫn đến
việc áp dụng tùy tiện và không đồng nhất giữa các địa phương.Có địa phương áp
dụng việc chi trả một lần, như vậy sẽ không mang lại hiệu quả trong công tác hỗ
trợ và làm mất đi mục đích ban đầu của việc hỗ trợ là ổn định đời sống và sản
xuất.
2.2.2 Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp
thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông
nghiệp
Trước tình trạng, nông dân sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp trở lên thất
nghiệp đang ngày càng phổ biến. Do đó, nhà nước ngày càng quan tâm đến
chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm mới cho hộ gia đình,
cá nhân bị thu hồi đất. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, mở rộng hơn quy định về hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc
làm cho hộ gia đình cá nhân bị thu hồi đất.
7


Khoản 1 Điều 20 Nghị định 47/20014/NĐ- CP có quy định về mức độ hộ trợ đối
với người bị thu hồi đất nông nghiệp như sau:
“a, Hỗ trợ bằng tiền không quá 05 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong
bảng giá đất của địa phương đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp thu hồi;
diện tích được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa

phương;
b, Mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định căn cứ điều kiện
thực tế của địa phương.”
Như vậy, pháp luật hiện hành chỉ quy định một hình thức hỗ trợ duy nhất là hỗ
trợ bằng tiền. Mức tiền được quy định là “ không quá 05 lần giá đất nông nghiệp
cùng loại”, ngoài ra, mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.
Quy định này, giúp cho các địa phương có thể thực hiện một cách linh hoạt việc
bồi thường tùy vào từng điều kiện. Tuy nhiên, quy định có phạm vi quá rộng khi
chỉ quy định mức hỗ trợ tối đa. Trong khi đó, Chính phủ lại giao cho Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quy định mức hỗ trợ cụ thể nên thực tế hướng dẫn ở các địa
phương là rất khác nhau điều này dẫn đến một thực trạng là mức hỗ trợ ở các dự
án ở các tỉnh giáp ranh là rất khác nhau, dẫn đến việc so bì, khiếu nại.
Thứ hai, chú trọng việc đào tạo nghề cho hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất.
Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tao việc làm cho nông dân không thể không
quan tâm đến việc đào tạo nghề mới cho họ. Khoản 2, 3 Điều 20 Nghị định
47/2014/NĐ-CP có quy định:
“2.Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì,, phối hợp với các Bộ, ngành
liên quan trình thủ tướng chính phủ quyết định cơ chế, chính sách giải quyết
việc làm và đào tạo nghề cho người thu hồi đất nông nghiệp.
3. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ cơ chế, chính sách giải quyết việc làm đã
được Thủ tướng Chính phủ quyết định chỉ đạo việc lập và tổ chức thực hiện
8


phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người trong độ
tuổi lao động tại địa phương. Phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm
việc làm được lập và phê duyệt đồng thời với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư. Trong quá trình lập phương án đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp và tìm
kiếm việc làm phải lấy ý kiến của người thu hồi đất”
Với quy định trước đây, mức hỗ trợ học nghế rất hạn chế. Không những thế,

không ít chính quyền địa phương và chủ dự án sử dụng đất thoái thác trách
nhiệm đào tạo nghề, chuyển đổi việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất.
Trong quy định của pháp luật hiện hành, có quy định rõ thẩm quyền trong việc
chỉ đạo và tổ chức thực hiện phương án đào tạo nghề, chuyển đổi nghề và tìm
kiếm việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất. Ngoài ra, trong quy định còn
xác định rõ: “Phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm được
lập và phê duyệt đồng thời với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.” Đây
là quy định hoàn toàn hợp lý để đảm bảo cho việc hỗ trợ được đồng bộ và có
hiệu quả thực sự trên thực tế, khi người dân bị thu hồi đất không chỉ ổn định về
nơi ở mà còn ổn định cả về mặt sản xuất lao động khi chuyển đến nơi ở mới.
Tuy nhiên, việc thực thi quy định trên trên thực tế còn không nhiều. Ngoài ra,
một trong những điểm đáng chú ý của quy định của pháp luật về vấn đề trên đó
là: phương án đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm phải lấy ý
kiến của người thu hồi đất. Điều này giúp cho phương án đào tạo, chuyển đổi
nghề nghiệp có tính khả thi cao hơn, tránh trường hợp có phương án nhưng
người được hưởng lại không biết hoặc không cảm thấy phù hợp. Việc lấy ý kiến
của người bị thu hồi đất nông nghiệp được thực hiện đồng thời với việc lập
phương án hỗ trợ.

9


2.2.3Giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về giải quyết người dân
bị thu hồi đất nông nghiệp
Để triển khai thực hiện có hiệu quả những quy định về hỗ trợ đào tạo và
chuyển đổi nghề đối với hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp. có thể
đưa ra một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần trú trọng tăng tỷ lệ đầu tư cho vấn đề đào tạo nghề, cần có hỗ trợ
ưu tiên riêng biệt đối với nhóm lao động dưới 35 tuổi. Bên cạnh đó, thực hiện xã
hội hoá đào tạo nghề, mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức

cung cấp dịch vụ đào tạo nghề với các cơ sở đào tạo nghề công lập, xác định rõ
trách nhiệm của các bên trong việc hỗ trợ, đào tạo nghề, tăng mức hỗ trợ cho
người dân bị thu hồi đất bằng hình thức miễn giảm học phí. Chính quyền địa
phương cần có định hướng cho người dân sử dụng tiền bồi thường một cách
hiệu quả đồng thời cần đẩy mạnh thông tin tuyên truyền và nâng cao vai trò của
các đơn vị đoàn, đội, các tổ chức tại địa phương.
Thứ hai, thay vì các địa phương hỗ trợ bằng tiền đi học thì có thể hỗ trợ bằng
“thẻ học nghề”.Trên thực tế hỗ trợ đào tạo nghề và chuyển đổi nghề nghiệp, các
địa phương thường hỗ trợ bằng một khoản tiền.Người dân thường dùng số tiền
này sai mục đích, chẳng hạn như mua sắm, xây dựng nhà cửa.Chính vì thế, các
địa phương có thể thay thế bằng hình thức hỗ trợ khác như cấp “thẻ học
nghề”.Theo đó, người dân có thể sử dụng thẻ này đến học tại các cơ sở đào tạo
nghề nào có tư cách pháp nhân.Trên thể có ghi rõ họ tên và có ảnh, vì thế có thể
tránh được tình trạng cho mượn thẻ. Áp dụng theo phương thức này sẽ đảm bảo
được việc hỗ trợ đào tạo nghề đạt hiệu quả và đúng mục đích.
Thứ ba, nên hướng cho người dân vào 3 lĩnh vực. Lĩnh vực thứ nhất là dạy
những nghề tiểu thủ công nghiệp để người học tự tổ chức việc làm, phối hợp với
nhau tìm việc hoặc tổ chức các cơ sở sản xuất kinh doanh ở địa bàn để thu hút
lao động tại chỗ. Lĩnh vực thứ hai, là chuyển một lực lượng đáng kể sang lao
10


động phi nông nghiệp như đi làm trong các nhà máy, khu công nghiệp, khu chế
xuất…Lĩnh vực thứ 3 là tổ chức hướng dẫn người dân nông thôn thay đổi cách
làm nông nghiệp bằng việc thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng nâng
cao hiệu quả khai thác trên diện tích đất, hoặc thay đổi cơ cấu cây trồng phù
hợp với nền nông nghiệp đô thị.
Trên đây là một số giải pháp để nâng cao hiệu quả trong việc đào tạo và
chuyển đổi nghề nghiệp cho người dân bị thu hồi đất. Tuy nhiên, để việc hỗ trợ
trên thực sự có hiệu quả và đạt được ý nghĩa thực sự của việc hỗ trợ còn cần sự

linh hoạt sáng tạo của các địa phương cũng như ý thức chấp hành pháp luật của
người dân.
C. KẾT LUẬN
Có thể nói, bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là vấn đề rất
phức tạp trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh những quy định rõ ràng cụ thể, thể
hiện các chính sách nhân đạo của nhà nước thì việc áp dụng và thực hiện các
quy phạm này trên thực tế còn nhiều hạn chế. Vì vậy trong thời gian tới cần có
những giải pháp phù hợp và hiệu quả hơn để nâng cao công tác bồi thường hỗ
trợ cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp nói riêng và bị thu hồi đất nói
chung. Qua đó đảm bảo quyền công dân và công bằng xã hội.

Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật đất đai, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2010.
2. Luật đất đai năm 2013.
11


3. Nghị định của Chính phủ số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về
giá đất.
4. Nghị định của Chính phủ số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư.
5. Thông tư của Bộ tài nguyên môi trường số 37/2014/TT-BTNMT ngày
30/06/2014 quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất.
6. Phan Trung Hiền, hoàn thiện pháp luật về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư trong giai đoạn hiện nay, Nghiên cứu lập pháp, số 23/2012. Tr 26
– 36.
7. Luận văn, Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp qua
thực tiễn thi hành tại thành phố Phủ Lý - tỉnh Hà Nam : luận văn thạc sĩ

luật học / Trần Thị Ngà ; PGS. TS. Nguyễn Quang Tuyến hướng dẫn
8. Đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang
đất phi nông nghiệp tới sinh kế của người bị thu hồi đất trên địa bàn
huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội làm cơ sở cho việc đề xuất một số giải
pháp góp phần cải thiện đời sống, việc làm"
/>
12



×