Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về kinh doanh, thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.6 KB, 64 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi, các kết luận, số liệu
trong khóa luận tốt nghiệp là trung thực, đảm
bảo độ tin cậỵ

Xác nhận của

Tác giả khóa luận tốt nghiệp

Giảng viên hướng dẫn

(Ký và ghi rõ họ tên)

1


Để hoàn thành khóa luận này, trước tiên em xin chân thành cám ơn TS
Trần Phương Thảo- Giảng viên khoa pháp luật dân sự, Trường đại học Luật
Hà Nội đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành tốt khóa luận của mình. Em cũng
xin chân thành cám ơn quý Thầy, Cô giáo Trường đại học Luật Hà Nội đã tận
tình dạy giỗ và truyền đạt kiến thức cho em trong suốt 4 năm học vừa qua.
Em xin chân thành cám ơn!

2


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN
BLTTDS 2004:

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được sử đổi bổ


sung theo Luật số: 65/2011/QH Luật sửa đổi bổ

BLTTDS:

sung BLTTDS 2004 ngày 29 tháng 3 năm 2011.
Bộ luật tố tụng dân sự

HĐTP-TANDTC:
Hội đồng thẩm phán- Tòa án nhân dân tối cao
KDTM:
Kinh doanh, thương mại
Nghị quyết 03/2012 Nghị quyết 03/2012 NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12
NQ-HĐTP:

năm 2011 Hướng dẫn thi hành một số quy định
trong Phần thứ nhất “Những quy định chung”của
Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung
theo Luật sử đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố
tụng dân sự.

Nghị quyết 05/2012 Nghị quyết 05/2012 NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12
NQ-HĐTP:

năm 2012 Hướng dẫn thi hành một số quy định
trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa
án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng Dân sự đã
được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung

TAND:


một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

3


LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Công cuộc xây dựng và phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
đã và đang đạt được những kết quả nhất định trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên vẫn xuất
hiện những hạn chế bất cập trong cách thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, trong đó có các cơ quan tư pháp mà đặc biệt là hệ thống tòa án. Qua thực tiễn xét
xử các vụ việc về kinh doanh, thương mại của ngành tòa án trong thời gian qua cho
thấy không ít những vụ việc về kinh doanh, thương mại (KDTM) đã bị giải quyết kéo
dài, gây nên tâm lý hoang mang trong một bộ phận nhân dân. Một trong những nguyên
nhân quan trọng của tình trạng trên là ở sự bất cập trong cách thức xác định thẩm
quyền của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh,
thương mại.
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 ra đời đã đáp ứng được những yêu
cầu từ thực tiễn, với việc quy định trình tự, thủ tục trong việc giải quyết các việc dân sự
mà trong đó có quy định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về
KDTM đã thể hiện sự tiến bộ đáng kể trong công tác lập pháp ở nước ta. Tuy nhiên,
thực tiễn cho thấy quan hệ KDTM thường rất đa dạng và phức tạp bởi vì quan hệ
KDTM không chỉ nằm trong phạm vi một quốc gia mà hiện tại nó còn chứa đựng yếu
tố quốc tế trong đó. Do đó, luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS cũng đã quy
định khá cụ thể về các vấn đề thủ tục tố tụng, thẩm quyền của tòa án trong việc giải

quyết các vụ việc trong hoạt động KDTM. Đó là cơ sở quan trọng để tòa án xác định
đúng thẩm quyền của mình trong việc giải quyết các tranh chấp, cũng như các yêu cầu
mới được giải quyết một cách nhanh chóng, kịp thời, khách quan và khoa học.
Vấn đề xác định thẩm quyền giải quyết của tòa án trong kinh doanh, thương mại
là một trong những đề tài được nhiều tác giả lựa chọn để nghiên cứu. Tuy nhiên, các
tác giả này chỉ tập trung bàn về khía cạnh thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết
các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà chưa có nhiều công trình nghiên cứu có
thể đề cập đầy đủ thẩm quyền của tòa án trong toàn bộ quan hệ kinh doanh, thương
4


mại. Xuất phát từ thực tiễn đó, việc lựa chọn đề tài: “Thẩm quyền của tòa án trong
việc giải quyết các vụ việc về kinh doanh, thương mại” là cấp thiết, có ý nghĩa cả về
lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu cho thấy, trước đây đã có một số công trình có đề cập hoặc
nghiên cứu về thẩm quyền của tòa án trong KDTM. Có thể kể đến một số công trình
tiêu biểu như: “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh của Tòa án theo bộ luật
tố tụng dân sự- Những điểm mới và vấn đề đặt ra cho thực tiễn thi hành”(Luận văn
thạc sỹ của tác giả Bùi Nguyễn Phương Lê); “Thẩm quyền của toà án trong việc giải
quyết các vụ việc về kinh doanh, thương mại” (Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Cao
Thị Lê Thương); “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam(
Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Lê Hoài Nam)....
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu nói trên chỉ đề cấp tới những khía cạnh
khắc nhau về vấn đề thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp trong
lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Đề tài: “Thẩm quyền của tòa án trong việc giải
quyết các vụ việc về kinh doanh, thương mại” là đề tài đầu tiên tập trung, chuyên sâu
vào việc nghiên cứu thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp cũng
như các yêu cầu về kinh doanh, thương mại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

-Đối tượng nghiên cứu: của đề tài là nghiên cứu về những vẫn đề mang tính
chất lý luận về thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về kinh doanh,
thương mại. Qua đó, tìm hiểu về thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về vấn
đề này và đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc xác định thẩm
quyền của tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về kinh doanh, thương mại.
-Phạm vi nghiên cứu: khóa luận tập trung đi vào tìm hiểu những khái niệm, ý
nghĩa và cơ sở của việc xác định thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các vụ
5


việc về kinh doanh thương mại; lược sử các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về thẩm quyền của tòa án, từ đó mở rộng với pháp luật của một số nước về vấn đề
này. Trên cơ sở lí luận, khóa luận còn tập trung đi nghiên cứu những quy định của
pháp luật hiện hành về thẩm quyền của toàn án trong việc giải quyết các vụ việc về
kinh doanh, thương mại. Từ những quy định cụ thể của pháp luật trên, khóa luận còn
trình bày thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc xác định
thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về kinh doanh, thương mại.
4. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu và làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận về việc xác
định thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về kinh doanh, thương
mại như: khái niệm, ý nghĩa, cơ sở của việc phân định thẩm quyền của tòa án trong
việc giải quyết các vụ việc về kinh doanh thương mại; Lược sử các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam về thẩm quyền của tòa án, từ đó mở rộng với pháp luật
của một số nước về vấn đề này. Những quy định của pháp luật hiện hành về thẩm
quyền của toàn án trong việc giải quyết các vụ việc về kinh doanh, thương mại. Đánh
giá đúng thực trạng áp dụng các quy định về việc xác định thẩm quyền của tòa án trong
việc giải quyết các vụ việc về kinh doanh, thương mại và đề xuất một số kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả của việc xác định thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết
các tranh chấp cũng như các yêu cầu về kinh doanh, thương mại
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được hoàn thiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lê
nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật, đường lối chính sách của Đảng và nhà nước qua các giai đoạn lịch
sử.
Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn xét xử, những tổng hợp của ngành
tòa án, những số liệu thống kê qua các năm...làm cho những kiến nghị sửa đổi, bổ sung
pháp luật về xác định thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về kinh
6


doanh, thương mại không những dựa trên những cơ sở khoa học mà còn có cơ sở thực
tiễn.
Để giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, trong quá trình
nghiên cứu đề tài tác giả còn sử dụng các phương như phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp diễn giải, phương pháp suy diễn, phương pháp so sánh,
phương pháp logic...
6. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận được chia thành các phần: Lời mở đầu, nội dung, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung của khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các
vụ việc về kinh doanh, thương mại
Chương II. Những quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
thẩm quyền Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về kinh doanh, thương mại.
Chương III. Thực trạng xác định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ
việc về kinh doanh, thương mại và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc
xác định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về kinh doanh,
thương mại.

7



CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC VỀ KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm kinh doanh, thương mại ( KDTM)
Hiện nay khái niệm kinh doanh, thương mại được hiểu theo nhiều cách khác
nhau và được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật.
Pháp luật của nhiều nước trên thế giới sử dụng thuật ngữ “commerce”(kinh
doanh/thương mại) theo nghĩa rộng để chỉ một cách tổng hợp các hoạt động sản xuất,
mua bán hành hóa, dịch vụ và có sự phân biệt với thuật ngữ “trade” chỉ riêng hoạt
động mua bán hàng hóa thuần túy [31, 74.]. Còn theo từ điển tiếng Việt khái niệm
thương mại được hiểu là hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền
tệ...giữa hai hay nhiều đối tác, và có thể nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền thông
qua giá cả) hay bằng hàng hóa, dịch vụ khác như trong hình thức thương mại hàng đổi
hàng (barter). Trong quá trình này người bán là người cung cấp của cải, hàng hóa, dịch
vụ...có người mua, đổi lại người mau sẽ phải trả cho người bán một giá trị tương đương
nào đó[13] .Trong từ điển Tiếng Việt mới chỉ đề cập đến khái niệm thương mại mà
không định nghĩa một cách rõ ràng khái niệm kinh doanh. Khái niệm này chỉ được đề
cập trong Từ điển Luật học.
Theo từ điển Luật học thì kinh doanh là các hoạt động đầu tư, sản xuất, mua
bán, cung ứng dịch vụ do các chủ thể kinh doanh tiến hành một cách độc lập, thường
xuyên trên thị trường nhằm mục đích lợi nhuận[1].
Khái niệm KDTM còn được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành có
nội dung gần trùng với nhau.
Ở Việt Nam khái niệm KDTM đã được quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật
thương mại năm 1999 và sau đó tiếp tục tục được kế thừa trong Luật doanh nghiệp
8



năm 2005. Khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định: “Kinh doanh là
việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ
sản xuất đến tiêu thụ đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lời”[24]. Luật doanh nghiệp năm 2005 là đạo luật cơ bản quy định
các hình thức tổ chức kinh doanh, do đó khi nói đến khái niệm kinh doanh là chủ yếu
nhấn mạnh đến hoạt động của các loại hình doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp chỉ đề
cập đến hoạt động kinh doanh, mà không chỉ rõ thương mại là hoạt động như thế nào.
Khái niệm thương mại lại được đề cập cụ thể trong văn bản pháp luật khác mà cụ thể là
Luật thương mại năm 2005.
Luật thương mại năm 2005 đã quy định cụ thể về khái niệm thương mại, và
được mở rộng hơn nhiều so với khái niệm được quy định trong Luật thương mại năm
1997, theo đó hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi nhuận bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lời khác[25].
Mặc dù có quy định về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc
về KDTM nhưng hiện nay BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung 2011 không định nghĩa
KDTM mà chỉ liệt kê những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền
của Tòa án quy định tại khoản 1,Điều 29 BLTTDS.
Như vậy, khái niệm “kinh doanh” hay “thương mại” thường được hiểu là
những hoạt động của cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh thông qua các hoạt động
đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường, xúc
tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận. Và trong tương quan giữa “kinh doanh” và
“thương mại” thì thuật ngữ “kinh doanh” có nội hàm rộng hơn[8].
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền của tòa án
Để tìm hiểu về khái niệm thẩm quyền của tòa án trước hết cần đi tìm hiểu khái
niệm thẩm quyền. Khái niệm thẩm quyền thường được gắn liền với chức năng, nhiệm
vụ của cơ quan trong bộ máy nhà nước.
9



Theo Đại từ điển tiếng Việt thì thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định
đoạt một vấn đề theo pháp luật[5, 459.]. Theo khái niệm này thì thẩm quyền được hiểu
là việc một cơ quan nhà nước được phép tự mình nhìn nhận sự việc và đưa ra ý chí
riêng để giải quyết vấn đề một cách phù hợp mà pháp luật đã quy định.
Dưới góc độ lí luận, khái niệm thẩm quyền thường được hiểu là phạm vi chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan Nhà nước trong phạm vi pháp luật nhất định.
Tuy nhiên, dưới góc độ này khái niệm thẩm quyền lại được đề cập và có các cách thể
hiện không giống nhau. Cụ thể:
Trong giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật của Trường đại học Luật Hà
Nội cho rằng: các cơ quan nhà nước hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Thẩm quyền của cơ quan nhà nước là toàn bộ những quyền và nghĩa vụ mà Nhà nước
quy định cho cơ quan đó, phụ thuộc vào vị trí của mình trong bộ máy nhà nước. Các
cơ quan nhà nước khác nhau thì thẩm quyền khác nhau[19, 204].
Cũng có nội dung tương tự nhưng được trình bày ngắn gọn hơn về thẩm quyền,
giáo trình Luật tố tụng hình chính của Trường đại học Luật Hà Nội khẳng định
rằng:“thầm quyền là quyền hạn theo pháp luật quy định, của cơ quan công quyền và
công chức giữ chức vụ nhà nước nhất định”[20, 29].
Dưới góc độ pháp lý: Theo từ điển Luật học của Mỹ thì “Thẩm quyền được hiểu
là một khả năng cơ bản và tổi thiểu để cơ quan công quyền xem xét và giải quyết một
việc gì theo pháp luật”[32, 289].Theo khái niệm này, thẩm quyền được gắn chặt với
khả năng của cơ quan công quyền khi thực hiện xem xét, giải quyết một vấn đề nào đó.
Theo từ điển Luật học của Việt Nam, định nghĩa về thẩm quyền là: “tổng hợp
quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ bộ máy
nhà nước do pháp luật quy định”[1]. Khái niệm này khẳng định thẩm quyền bao gồm
quyền được làm những công việc, quyền ra các quyết định và nghĩa vụ của các cơ quan
nhà nước, tổ chức nhà nước khi thực hiện các quyền trên trong phạm vi pháp luật cho
phép.
10



Như vậy có thể hiểu thẩm quyền là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định
cho một cơ quan, tổ chức hoặc một công chức được xem xét giải quyết những công
việc cụ thể trong lĩnh vực và phạm vi nhất định nhằm thực hiện chức năng của bộ máy
nhà nước phù hợp với nhiệm vụ của mình.
Một số nhà nghiên cứu cũng đưa ra khái niệm thẩm quyền của tòa án như sau:
Trong tiếng anh, thuật ngữ Jurisdition được dùng để chỉ thẩm quyền hoặc quyền
tài phán của tòa án[4, 297.]. Vì thế, trong từ điển pháp luật của tác giả Lemeunier thì
thẩm quyền của tòa án được hiểu là khả năng của một tòa án xem xét một vụ việc trong
phạm pháp luật cho phép [31]. Với cách hiểu này, thẩm quyền của Tòa án chủ yếu
được nhấn mạnh phạm vi xem xét các vụ việc trong giới hạn pháp luật cho phép.
Khác với tác giả Lemeunier chỉ đưa ra khái niệm chung chung về thẩm quyền
của tòa án, TS.Nguyễn Đức Mai đã cụ thể hóa khái niệm thẩm quyền của tòa án một
cách chi tiết hơn, theo đó: “ Thẩm quyền của tòa án là một thể thống nhất bao gồm hai
yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau đó là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về
nội dung. Thẩm quyền về hình thức thể hiện ở quyền hạn xem xét và phạm vi xem xét
của tòa án (thẩm quyền xét xử và phạm vi xét xử), còn thẩm quyền về nội dung thể hiện
ở thẩm quyền giải quyết, quyết định của tòa án đối với những vấn đề đã được xem
xét”[6].
Theo Th.S Nguyễn Văn Tiến, cũng nêu ra quan điểm của mình về thẩm quyền
của tòa án có nội dung tương tự như quan điểm của TS.Nguyễn Đức Mai, đó là khái
niệm được thể hiện một cách ngắn gọn và cô động. Theo đó, thẩm quyền của tòa án là
phạm vi, giới hạn của hoạt động tòa án và quyền năng pháp lý của tòa án có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau tạo thành thẩm quyền của tòa án. Thẩm quyền của tòa án bao
gồm: Thẩm quyền xét xử, phạm vi-giới hạn xét xử và quyền hạn quyết định của tòa
án[3].
Khái niệm thẩm quyền của Tòa án còn được đề cập trong tại Khoản 1 Điều 102
Hiến pháp năm 2013 và điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002. Theo đó Tòa
11



án được coi là cơ qua xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quyền
xét xử các vụ án hành chính, hình sự, dân sự và ban hành các bản án, quyết định được
đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm chung về thẩm quyền
của tòa án như sau: Thẩm quyền của tòa án là toàn bộ những quyền do pháp luật quy
định theo đó Tòa án được tiến hành xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể theo quy
định của pháp luật. Nghiên cứu cụ thể hơn thì có thể thấy thẩm quyền của tòa án là
quyền xét xử những vụ án hình sự, giải quyết tranh chấp, các yêu cầu về dân sự, hôn
nhân và gia đình; kinh doanh, thương mại; giải quyết các vụ án hành chính và giải
quyết các vụ việc khác trên cơ sở quyền lực nhà nước và được quy định bởi pháp luật.
1.1.3. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về kinh
doanh, thương mại.
Khái niệm vụ việc KDTM được hiểu bao gồm: những vụ án về kinh doanh,
thương mại và những yêu cầu về kinh doanh, thương mại. Theo đó, vụ án KDTM là
những tranh chấp giữa quyền và lợi ích của đương sự trong kinh doanh, thương mại.
Tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn, bất đồng về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể
phát sinh trong quan hệ kinh doanh, thương mại. Những yêu cầu về KDTM là những
trường hợp giữa các chủ thể không có tranh chấp, nhưng yêu cầu Tòa án công nhận
hoặc không công nhận quyền KDTM hoặc một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ KDTM.
Từ cách hiểu về vụ việc kinh doanh, thương mại có thể đưa ra khái niệm thẩm
quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về kinh doanh, thương mại trong tố
tụng dân sự như sau: Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về kinh
doanh, thương mại là quyền xem xét giải quyết các tranh chấp và yêu cầu về kinh
doanh, thương mại và quyền ra các quyết định xem xét, giải quyết các tranh chấp về
yêu cầu về kinh doanh, thương mại đó được tiến hành theo thủ tục tố tụng dân sự của
tòa án.

12



Khi nhắc đến thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về
KDTM chúng ta hiểu ngay đó là thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong việc giải
quyết các vụ việc về kinh doanh, thương mại. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án
trong việc giải quyết các vụ việc KDTM là thẩm quyền xét xử lần đầu các vụ việc
KDTM, để giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng, xung đột về quyền lợi và lợi ích,
cũng như là các yêu cầu về KDTM của các chủ thể kinh doanh liên quan đến lợi ích
kinh tế phát sinh trong hoạt động KDTM.
1.2.

Ý nghĩa của việc quy định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các
vụ việc về kinh doanh, thương mại.

Phân định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về kinh doanh,
thương mại có ý nghĩa vô cùng quan trọng:
Thứ nhất, giúp Tòa án xác định thẩm quyền của mình trong việc giải quyết các vụ
việc về KDTM. Việc xác định thẩm quyền của Tòa án được quy định trong Hiến pháp
và được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật của ngành Tòa án. Vì vậy khi pháp
luật đã quy định thẩm quyền trong việc giải quyết các vụ việc về KDTM của Tòa án thì
Tòa án phải thực hiện thẩm quyền đó sao cho đúng với các quy định của pháp luật hiện
hành. Việc quy định cụ thể về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án, mà đặc biệt
là thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về KDTM sẽ hạn chế được
sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa Tòa án với các cơ quan khác, cũng như
các cơ quan Tòa án với nhau.
Thứ hai, các quy định về thẩm quyền giải quyết các vụ việc về kinh doanh, thương
mại là cơ sở để thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vụ việc về
KDTM theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Từ các quy đinh pháp luật về
KDTM thuộc thẩm quyền của Tòa án, các chủ thể kinh tế có thể nhận biết được những
trường hợp nào thì thuộc thẩm quyền của Tòa án, trường hợp nào thuộc thẩm quyền
của Trọng tài thương mại, giúp họ nộp đơn yêu cầu đến đúng cơ quan có thẩm quyền.

Qua đó, các chủ thể kinh tế có thể thực hiện dễ dàng quyền yêu cầu của mình.

13


Thứ ba, việc phân định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về
kinh doanh, thương mại là cơ sở để xác định trách nhiệm của Tòa án về việc giải quyết
các vụ việc về kinh doanh, thương mại khi có yêu cầu. Pháp luật đã quy định cụ thể vụ
việc KDTM nào thì thuộc thẩm quyền của Tòa án và những vụ việc nào thuộc thẩm
quyền của Trọng tài thương mại. Thẩm quyền của Tòa án chỉ được thực hiện trong giới
hạn pháp luật quy định. Từ đó những quy định pháp luật hiện hành về thẩm quyền của
Tòa án, nếu Tòa án không thực hiện thì có thể phải chịu các loại trách nhiệm như trách
nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự...tùy thuộc vào mức độ
nghiêm trọng của việc tòa án không hoặc thực hiện không đúng những quy định đó.
Thứ tư, việc quy định thẩm quyền giúp tòa án giải quyết một cách nhanh chóng và
dễ dàng hơn các vụ việc về kinh doanh, thương mại. Nếu như pháp luật không có quy
định cụ thể về thẩm quyền của tòa án thì sẽ mất nhiều thời gian để xác định đó có phải
vụ việc về KDTM hay không? Và cơ quan nào sẽ thụ lý giải quyết?. Ngược lại, với
việc quy định thẩm quyền của Tòa án trên thì khi đương sự có yêu cầu, tòa án sẽ theo
đúng thẩm quyền của mình mà thụ lý giải quyết theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự. Do
vậy, đảm bảo các vụ việc về KDTM được giải quyết nhanh chóng, dễ dàng và đúng
quy định của pháp luật.
1.3.

Cơ sở của việc phân định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các
vụ việc về kinh doanh, thương mại.
Thứ nhất, căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về hoạt động tư

pháp. Trong lĩnh vực giải quyết các vụ việc về KDTM các đường lối, chính sách thể
hiện trong các Nghị quyết của Đảng luôn là những căn cứ để các nhà làm luật xây dựng

các văn bản pháp luật tương ứng. Trong Nghị quyết 08 NQ/TW ngày 02/01/2002 của
Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới lại
khẳng định, khẩn trương chuẩn bị tốt các điều kiện để thực hiện tăng thầm quyền xét
xử cho tòa án cấp huyện, đổi mới tổ chức của TANDTC để tập trung làm tốt các nhiệm
vụ trong thời gian tới. Việc tuân theo đường lối, chính sách của Đảng là một trong

14


những yêu cầu cơ bản không thể thiếu khi xây dựng, sửa đổi các quy định về thẩm
quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về KDTM.
Thứ hai, căn cứ vào cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án, việc phân định theo cấp
Tòa án chính là xuất phát từ nguyên tắc xây dựng hệ thống Tòa án theo cấp của Việt
Nam. Ngoài ra, xuất phát từ cách thức tổ chức hệ thống Tòa án theo địa giới hành
chính việc phân định những vụ việc về KDTM còn để phân định giữa Tòa án cùng một
cấp với nhau. Việc phân định theo lãnh thổ này còn nhằm xác định được Tòa án nào có
điều kiện thích hợp nhất để giải quyết các vụ việc về KDTM, qua đó đảm bảo được
quyền lợi của các đương sự.
Thứ ba, căn cứ vào cơ sở thực tiễn : hiện nay do sự ảnh hưởng của nền kinh tế thị
trường, cũng như việc hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng nền kinh tế hiện đại của đất
nước diễn ngày càng sôi động. Việc nước ta tham gia vào các tổ chức quốc tế khu vực
và trên thế giới, đặc biệt là tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới WTO (năm
2007) với việc kí kết các điều ước quốc tế song phương và đa phương, đã làm nền kinh
tế nước ta có những chuyển biến rõ rệt. Các quan hệ trong lĩnh vực kinh doanh, thương
mại cũng ngày càng mở rộng về chiều rộng và chiều sâu, cùng với đó số lượng các
tranh chấp về KDTM cũng tăng nhanh đòi hỏi hệ thống pháp luật nói chung và pháp
luật tố tụng dân sự nói riêng cần có những quy định cụ thể để điều chỉnh các quan hệ
này phù hợp với các thông lệ quốc tế.
Ngoài ra, còn căn cứ vào trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ ngành
tòa án (đặc biệt là của Thẩm phán ở các cấp), cũng như các điều kiện về cơ sở vật chất,

kỹ thuật của tòa án cũng là một trong những căn cứ để xác định thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết các vụ việc về KDTM.

15


1.4.

Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng dân
sự về xác định thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các vụ việc về
kinh doanh, thương mại và liên hệ với pháp luật tố tụng dân sự với một số
nước trên thế giới.
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về việc xác định thẩm quyền cuả Tòa án trong

việc giải quyết các vụ việc KDTM đã trả qua các giai đoạn khác nhau gắn liền với từng
giai đoạn lịch sử nhất định. Cụ thể:
Ở thời kì phong kiến, Quốc triều khám tụng điều lệ là bộ luật đầu tiên của nước ta
điều chỉnh về các hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, pháp luật trong thời kì phong kiến này
không phân biệt rõ các thủ tục về hình sự, dân sự mà nó có thể được chia theo các cách
khác nhau để xét xử, giải quyết. Vì vậy, có thể nói pháp luật thời kì này không phân
định riêng thành các vụ việc dân sự và vụ án dân sự và càng không có sự phân chia các
vụ việc theo các lĩnh vực: kinh doanh thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình...
Giai đoạn từ năm 1858-1945 là thời kì cai trị của Pháp trên đất nước ta, chia đất
nước ta thành 3 kì: bắc kì, trung kì, nam kì. Pháp luật thời kì này có đặc điểm là đã có
sự phân chia về dân sự, hình sự, tuy còn sơ sài nhưng cũng đưa ra được một số quy
định về tố tụng. Ở thời này có một số bộ luật: Bộ luật dân giản yếu năm 1833, ở Bắc kì
có Pháp viện biên chế, đến 1931 có Bộ dân luật bắc kì chuyên giải quyết các việc có
liên quan đến dân sự, tuy nhiên những bộ luật này quy định chủ yếu về việc giải quyết
các tranh chấp, mà chưa có điều luật này quy định về thẩm quyền của tòa án trong việc
giải quyết các yêu cầu về dân sự nói chung và về kinh doanh, thương mại nói riêng.

Trong giai đoạn từ năm 1945-1989 đã ban hành một số sắc lệnh như: Sắc lệnh
85/SL ngày 22/05/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng; Sắc lệnh 159/SL ngày
17/11/1950 quy định về những vấn đề ly hôn... Đặc biệt ngày 24/01/1946 Hồ Chí Minh
ban hành Sắc lệnh 13/SL về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán. Tuy nhiên, về
thẩm quyền giải quyết của tòa án trong các vụ việc về kinh doanh, thương mại vẫn
chưa được quy định cụ thể mà chủ yếu vẫn thuộc về Bộ tư pháp xã. Sau năm 1960,
TANDTC đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn về phiên tòa sơ thẩm dân sự làm cơ
16


sở để xây dựng Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989. Như vậy, giai
đoạn này do đặc thù của chiến tranh đất nước bị chia cắt nên ở hai miền Nam-Bắc có 2
hệ thống pháp luật khác nhau, chưa thống nhất về xác định thẩm quyền của tòa án.
Giai đoạn từ năm 1989-2004 đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế có hiệu năm 1994 quy định về thủ tục khởi kiện, điều tra, hòa giải, xét xử các
vụ án về kinh tế. Trong chương II về thẩm quyền giải quyết của Tòa án, cụ thể là tại
Điều 12 pháp lệnh này, những vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án có
quy định Toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế sau đây: 1- Các tranh chấp
về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có
đăng ký kinh doanh; 2- Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty,
giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể công ty; 3- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu; 4- Các
tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
Thẩm quyền của tòa án được quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh công nhận và
cho thi hành tài Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài năm 1996 quy định tại
Điều 4 về việc Tòa án có thẩm quyền yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
quyết định kinh doanh, thương mại của trọng tài nước ngoài. Có thể thấy giai đoạn này
pháp luật không quy định riêng về tranh chấp kinh doanh thương mại hay yêu cầu về
kinh doanh thương mại mặc dù chúng đều thuộc thẩm quyền của Tòa án, và tất cả đều
được giải quyết theo một thủ tục tố tụng chung.

Giai đoạn từ khi có BLTTDS 2004 có hiệu lực cho đến nay: BLTTDS 2004 ra
đời đã khắc phục được những hạn chế của Pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế năm
1994 và Pháp lệnh công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài
nước ngoài năm 2005. Trong BLTTDS 2004, đã có hẳn một chương đó là chương III,
quy định về thẩm quyền của tòa án cụ thể quy định Điều 29 “Những tranh chấp về
kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án” và Điều 30 “ Những yêu cầu về
kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”. Từ ngày 01/01/2012
Luật số 65/2011/QH12 sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS chính thức có hiệu
17


lực thi hành và một số quy định về thẩm quyền giải quyết các vụ việc về kinh doanh,
thương mại của tòa án cũng có sự thay đổi theo hướng tăng thẩm quyền của Tòa án cấp
huyện trong việc giải quyết các tranh chấp về KDTM.
Tóm lại, một số vấn đề lý luận về thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết
các vụ việc về kinh doanh, thương mại được trình bày ở trên cho thấy cái nhìn tổng
quát nhất lược sử về thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các vụ việc trong
quan hệ kinh doanh, thương mại. Từ đó, tạo cơ sở cho việc tìm hiểu các quy định của
pháp luật hiện hành về thẩm quyền của tòa án được thuận lợi và dễ dàng hơn.
Liên hệ với pháp luật tố tụng dân sự với một số nước trên thế giới:
Pháp luật tố tụng dân sự của Liên bang Nga: Bộ luật tố tụng dân sự mới (Bộ luật
2003) của Liên bang Nga được quốc hội (Duma) thông qua ngày 23/10/2002 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/02/2003. Bộ luật này ra đời thay thế cho Bộ luật tố tụng
dân sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-Viết Liên Bang Nga (Bộ Luật năm 1964). Cấu
trúc của Bộ luật này: có 7 phần, 47 chương, và 446 điều. Trong bộ luật tố tụng dân sự
năm 2003 của Nga đã dành hẳn một chương, đó là Chương III, quy định về thẩm quyền
xét xử, từ điều 22 đến điều 33, trong đó quy định cụ thể về thẩm quyền của từng cấp
Tòa án, thẩm quyền của tòa án theo loại việc, thẩm quyền của tòa án theo sự lựa chọn
của nguyên đơn...Theo điều 22 của Bộ luật này, thì tòa án sẽ có thẩm quyền giải quyết:
“1. Các vụ việc của công dân, tổ chức, cơ quan chính quyền, nhà nước, cơ qua tự quản

địa phương về bảo vệ quyền tự do và lợi ích hợp pháp trong những tranh chấp phát
sinh từ quan hệ dân sự, hôn nhân, lao động, nhà ở, môi trường và những quan hệ pháp
luật khác;....; 6.Vụ việc về công nhận và cho thi hành phán quyết của Tòa án và Trọng
tài nước ngoài”[29]. Tòa án sẽ xem xét và giải quyết tất cả các tranh chấp khi đã được
quy định tại Điều luật này, trừ những tranh chấp kinh tế và những vụ việc khác mà luật
hiến pháp liên bang và luật liên bang quy định thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
trọng tài. Theo các quy định pháp luật tố tụng dân sự của Nga thì thẩm quyền của tòa
án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự (trong đó có các vụ việc về KDTM) được
thể hiện qua việc phân định thẩm quyền của các cấp Tòa án, có thể thấy hệ thống Tòa
án của Nga chia Tòa án thành: Tòa án (thường), Tòa án Kinh tế, Tòa án Hiến Pháp. Vì
18


vậy ở Liên bang Nga các tranh chấp về KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của hệ
thống Tòa án Kinh tế nên loại việc này không được quy định trong bộ Luật tố tụng dân
sự [11].
Trong nhiều trường hợp thì các vụ việc về KDTM cũng có thể áp dụng các quy
định về Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn (Điều 29-Bộ luật
năm 2003). Đối chiếu với các quy định của Việt Nam có thể thấy, nhìn chung về cơ
bản bộ luật tố tụng của Nga đã phân định thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết
các vụ việc dân sự (bao gồm cả các vụ việc về KDTM) cũng có những điểm tương
đồng nhất định với bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam. Điều này khẳng định sự học hỏi
và kế thừa lẫn nhau trong hệ thống pháp luật tố tụng dân sự của các quốc gia trên thế
giới.
Bộ luật tố tụng dân sự của nước cộng hòa Pháp: Trong pháp luật tố tụng dân sự
của nước cộng hòa Pháp, trong Quyển thứ nhất- những quy định chung đối với tất cả
các Tòa án đã danh hẳn một Thiên đó là Thiên III, quy định về thẩm quyền của Tòa án,
và thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc chủ yếu xác định thông
quan thẩm quyền của Tòa án theo tính chất vụ việc (chương I) và thẩm quyền của Tòa
án theo lãnh thổ (Chương II), trong đó cũng có một số quy định khá tương đồng với

quy định của BLTTDS Việt Nam, Ví dụ như: “ Nếu có nhiều bị đơn, nguyên đơn lựa
chọn có thể lựa chọn Tòa án nơi cứ trú của một trong số các bị đơn (Sắc lệnh số 81500 ngày 12/05/1981). Nếu bị đơn không có nơi cư trú và nơi ở rõ ràng thì nguyên đơn
có thể khởi kiện ra tòa án nơi mình cơ trú hoặc khởi kiện ra Tòa án nào mình muốn
nếu đang cư trú ở nước ngoài( Điều 1406 Bộ luật tố tụng dân sự mới)”[30], có điểm
tương đồng với quy định về việc xác định thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết
các vụ việc về KDTM theo yêu cầu của nguyên đơn (Điều 36-BLTTDS 2004). Hay tại
Quyển thứ hai- Những quy định riêng đối với mỗi cấp Tòa án cũng dành hẳn một
Thiên đó là Thiên III- Những quy định riêng đối với Tòa án thương mại sơ thẩm; tại
Thiên này quy định chi tiết về trình tự thủ tục tố tụng được thực hiện khi giải quyết các
vụ việc về KDTM. Như vậy, pháp luật của từng quốc gia đã có những quy định cụ thể
về trình tự thủ tục để giải quyết các vụ việc về dân sự nói chung và vụ việc về KDTM
19


nói riêng thì tuy có sự khác biệt do điều nhiều điều kiện mang lại, nhưng nhìn chung
đều nhằm mục đích giải quyết các vụ việc đó hiệu quả nhất.
Trong Bộ luật tố tụng dân sự Cộng hòa Liên bang Đức để xác định thẩm quyền của
Tòa án dân sự, BLTTDS của CHLB Đức trước hết xác định thẩm quyền chung và nơi
tòa án có thẩm quyền đặc biệt. Trước hết Điều 12 BLTTDS Đức quy định một Tòa án
có thẩm quyền đối với một người thì Tòa án đó có thẩm quyền đối với mọi trường hợp
kiện chống lại người này, trừ những trường hợp mà việc khởi kiện đã được quy định
thuộc thẩm quyền của một tòa án khác. Điều này khác với BLTTDS nước ta. BLTTDS
nước ta chia vụ việc dân sự thành nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có lĩnh vực KDT.
Thẩm quyền của Tòa án sẽ được xác định tùy thuộc vào các vụ việc cụ thể, hơn nữa
nếu theo định nghĩa của Điều 12 trên thì thẩm quyền chung của tòa án chỉ xác định
theo bị đơn chứ không phụ thuộc vào nguyên đơn, còn theo quy định của BLTTDS
Việt Nam thì thẩm quyền của Tào án không chỉ phụ thuộc vào bị đơn mà còn phụ
thuộc vào nguyên đơn và tài sản tranh chấp (Điều 33, khoản 3, BLTTDS). Thẩm quyền
theo địa điểm chung của Tòa án được quy định cụ thể từ Điều 13 đến Điều 21
BLTTDS Đức. Ngoài ra BLTTDS Đức còn có nhiều quy định về xác định các địa điểm

cụ thể của Tòa án, ví dụ như: Điều 22 BLTTDS Đức quy định đối với các vụ kiện liên
quan đến khả năng thanh toán của các đơn vị thành viên cơ quan, doanh nghiệp, hợp
tác xã, hiệp hội thì tòa án nơi đặt trụ sở chính của các cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác
xã cũng có thẩm quyền giải quyết [23].
Kết luận chương I: Vấn đề thẩm quyền của Tòa án, đặc biệt là thẩm quyền của
Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc trong kinh doanh, thương mại là một trong
những nội dung quan trọng được các nhà nghiên cứu pháp luật quan tâm. Thông qua
cách quan điểm của các học giả, nhà nghiên cứu trong nước, cũng như liên hệ với pháp
luật tố tụng của một số nước trên thế giới khi xác định thẩm quyền của Tòa án trong
việc giải quyết các vụ việc về KDTM, có thể thấy việc nắm bắt những vấn đề lý luận
có liên quan đến việc xác định thẩm quyền của Tòa án đóng vai trò, ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với việc xây dựng nên cách quy định cụ thể trong pháp luật tố tụng dân
sự nói chung, và trong Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành nói riêng.
20


CHƯƠNG II.
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC
VỤ VIỆC VỀ KINH DOANH, THƯƠNG MẠI.
2.1. Thẩm quyền theo loại việc.
Việc phân định thẩm quyền theo loại việc của Tòa án là việc xác định loại việc
KDTM nào sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án. Thẩm quyền của Tòa án theo loại việc
trong KDTM là phạm vi, giới hạn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong
việc giải quyết các tranh chấp về KDTM hoặc giải quyết các yêu cầu công nhận hoặc
không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ
trong KDTM của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; hoặc yêu cầu Tòa án công nhận cho
mình các quyền về KDTM.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành, thẩm quyền
theo loại việc của tòa án trong việc giải quyết các vụ việc KDTM được xác định theo 2

trường hợp: thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp về KDTM và
thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các yêu cầu về KDTM.
2.1.1 Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp về kinh doanh,
thương mại.
Tranh chấp về KDTM là sự bất đồng, mẫu thuẫn, xung đột về quyền lợi và
nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh liên quan đến lợi ích kinh tế trong quá trình hoạt
động KDTM. Các tranh chấp về KDTM thuộc thẩm quyền của Tòa án là được quy
định tại Điều 29-BLTTDS 2004, được sửa đổi, bổ sung năm 2011, bao gồm:
- Tranh chấp phát sinh từ hoạt động KDTM;
-Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, quyền chuyển giao công nghệ;
-Tranh chấp trong nội bộ công ty;
-Những tranh chấp khác về KDTM mà pháp luật quy định.
21


* Các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại.
Theo quy định tại khoản 1-Điều 29- BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011
quy định những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:
“a) Mua bán hàng hoá; b) Cung ứng dịch vụ; c) Phân phối; d) Đại diện, đại lý; đ) Ký
gửi; e) Thuê, cho thuê, thuê mua; g) Xây dựng; h) Tư vấn, kỹ thuật; i) Vận chuyển
hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; k) Vận chuyển
hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; l) Mua bán cổ phiếu, trái
phiếu và giấy tờ có giá khác; m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng; n) Bảo hiểm; o) Thăm
dò, khai thác”[26].
Theo đó, những tranh chấp trong hoạt động KDTM có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tranh chấp KDTM là tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh, thương
mại. Theo quy định tại khoản 3-Điều 6- Nghị quyết 03/2012 NQ-HĐTP Hướng dẫn thi
hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung”của Bộ luật tố tụng
dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sử đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố

tụng dân sự (sau đây gọi chung là Nghị quyết 03) quy định về hoạt động KDTM: là
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu
tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác tại khoản 1 Điều
3 Luật thương mại. Hoạt động kinh doanh thương mại không chỉ là hoạt động trực tiếp
theo đăng kí kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm cả các hoạt động phục vụ thúc
đẩy, nang cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, thương mại [17, 61-70.]. Và trong
BLTTDS đã liệt liêt kê 14 lĩnh vực được xác định là hoạt động KDTM bao gồm: Mua
bán hàng hoá;Cung ứng dịch vụ; Phân phối; Đại diện, đại lý; Ký gửi; Thuê, cho thuê,
thuê mua; Xây dựng; Tư vấn, kỹ thuật; Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường
sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường
hàng không, đường biển; Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; Đầu tư,
tài chính, ngân hàng; Bảo hiểm; Thăm dò, khai thác. Đây là một trong những yếu tố
để phân biệt các tranh chấp KDTM với các tranh chấp dân sự khác ( theo nghĩa hẹp).
22


Thứ hai, tranh chấp KDTM phải nhằm mục đích lợi nhuận, đó là nhằm sinh lời
mà cá nhân, tổ chức mong muốn đạt được trong hoạt đông kinh doanh, thương mại
không phân biệt có thu hay không có thu được lợi nhuận trong hoạt động đó. Mục đích
lợi nhuận cũng được HĐTP-TANDTC hướng dẫn cụ thể tại khoản 2-Điều 6- Nghị
quyết 03/2012 NQ-HĐTP, theo đó: “mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong
kinh doanh thương mại là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó thu được lợi nhuận mà
không phân biệt có thu được hay không thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh,
thương mại đó”[17]. Mục đích lợi nhuận có thể là trực tiếp ( ví dụ: Công ty TNHH A
kinh doanh thương mại mua hàng về để bán lại kiếm lời) hoặc gián tiếp (ví dụ: Công ty
TNHH B kinh doanh thương mại mua bán một chiếc máy tính không phải để bán lại
mà chỉ để lưu giữ thông tin cần thiết phục vụ cho hoạt động KDTM của mình).
Thứ ba, tranh chấp về KDTM có đặc điểm về chủ thể, đó phải là những cá nhân,
tổ chức có đăng kí kinh doanh. Giới hạn về chủ thể trong tranh chấp KDTM cũng khác
so với chủ thể trong các tranh chấp về hợp đồng kinh tế quy định tại khoản 1- Điều 12

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, cụ thể theo khoản 1-Điều 6 Nghị quyết
03/2012 NQ-HĐTP: “ cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh là cá nhân, tổ chức đã
được cơ quan có thẩm quyền đăng kí kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh
doanh theo quy định của pháp luật, cụ thể như sau: “a, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp
tác theo bộ luật dân sự năm 2005, Luật thương mại và các bản quy phạm pháp luật
khác về đăng kí kinh doanh; b, Doanh nghiệp ( theo Luật doanh nghiệp và các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp); c, Hợp tác xã, liên hợp tác xã (theo Luật hợp
tác xã và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật hợp tác xã); d, Cá nhân, tổ chức khác
theo quy định của pháp luật về đăng kí kinh doanh” [17].
Quy định này của BLTTDS đã khắc phục được nhiều vướng mắc là nhiều tranh
chấp pháp sinh từ hoạt động KDTM giữa các chủ thể kinh doanh những lại không được
Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế. Ví dụ: hợp đồng được kí kết giữa 2
doanh nghiệp tư nhân với nhân hoặc giữa doanh nghiệp tư nhân với công ty hợp danh,
giữa doanh nghiệp tư nhân với cá nhân có đăng kí kinh doanh...đã bị gạt bỏ ra khỏi
phạm trù hợp đồng kinh tế [22].
23


Quy định mới này cũng hạn chế được sự bất bình đẳng trong cơ chế giải quyết
tranh chấp phát sinh từ hoạt động KDTM. Mặc dù đã không còn phân biệt các thủ tục
khi giải quyết các tranh chấp về dân sự hay KDTM nhưng sự tồn tại của các Tòa
chuyên trách với các Thẩm phán chuyên trách về dân sự, KDTM vẫn đòi hỏi sự phân
định hợp lý về thẩm quyền. Với các nhìn nhận khác về phạm vi chủ thể KDTM theo
hướng dẫn của Nghị quyết 03/2012 NQ-HDTP đã có quy định về những tranh chấp
KDTM mà một bên không có đăng kí kinh doanh nhưng đều có mục đích lợi nhuận
cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa kinh tế. Tuy nhiên, trường hợp đối với quan
hệ mà một bên có mục đích KDTM nhưng một bên không có mục đích KDTM, ví dụ:
Trường đại học A ký hợp đồng với một Công ty thương mại B, mua máy tính, khi có
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này không được coi là tranh chấp về KDTM do
Trường đại học A không có đăng ký kinh doanh, đây chỉ là tranh chấp về dân sự....Có

thể thấy đây là tranh chấp phát sinh trong quá trình KDTM, chứ không phải là tranh
chấp KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
* Các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ.
Các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án là những tranh chấp được quy định tại khoản 2-Điều 29
BLTTDS 2004 (sửa đổi,bổ sung năm 2011): “Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,
chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận”[26].
Các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ thuộc thẩm
quyền của Tòa án phải lưu ý những vấn đề sau:
Thứ nhất, những tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ là
những tranh chấp giữa các bên có mục đích lợi nhuận. Đặc điểm này giúp phân biệt với
các quy định tại khoản 4- Điều 25 BLTTDS 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011
về những tranh chấp về dân sư thuộc thẩm quyền của Tòa án trong đó có những tranh
chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ mà một bên chủ thể không có
mục đích lợi nhuận sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án giải quyết trong lĩnh vực dân sự.
24


Hiện nay tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ chủ yếu là những
tranh chấp phát sinh từ hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ như xâm phạm quyền
tác giả, quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, giải
pháp hữu ích... Thực tế các tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ là những tranh chấp KDTM
phổ biến hơn nhiều so với tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ thuần túy mang tính dân sự,
bởi tài sản trí tuệ hiện nay đóng vai trò quan trọng đối với mỗi chủ thể KDTM.
Theo đó, các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ đòi hỏi cả hai bên tham gia
quan hệ đó đều phải có mục đích lợi nhuận thì tranh chấp đó mới là tranh chấp KDTM,
nếu chỉ có một bên có mục đích lợi nhuận thì đó là tranh chấp về dân sự. Do đó, có thể
hiểu các chủ thể của những tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ phát sinh giữa tác giả,
chủ sở hữu tác phẩm với người sử dụng tác phẩm đó, hoặc giữa chủ sở hữu đối tượng

sở hữu công nghiệp với người sử dụng đối tượng sử hữu công nghiệp đó mà tác giả,
chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp đã được người sử dụng trả một khoản tiền do
các bên thỏa thuận, còn người sử dụng dùng tác phẩm hay đối tượng sở hữu công
nghiệp đó để khai thác kiếm lời với những điều kiện hai bên thỏa thuận. Ví dụ: Tác giả
Nguyễn Văn A chuyển kịch bản của mình cho xưởng phim để lấy một khoản tiền nhất
định, còn xưởng phim khai thác kịch bản đó để thu lợi nhuận. Với những quy định cụ
thể về quyền và nghĩa vụ của các bên, nếu xảy ra tranh chấp thì đây là tranh chấp
KDTM.
Các tranh chấp về chuyển giao công nghệ cũng phải có mục đích lợi nhuận thì
mới được xác định là tranh chấp KDTM, cụ thể bên bán có nghĩa vụ chuyển giao kiến
thức tổng hợp của công nghệ hoặc cung cấp các máy móc, thiết bị, dịch vụ đào
tạo...kèm theo các kiến thức công nghệ cho bên mua và bên mua có nghĩa vụ thanh
toán cho bên bán đề tiếp thu, sử dụng kiến thức công nghệ đó theo các điều kiện đã
thỏa thuận và ghi nhận trong hợp đồng chuyển giao công nghệ. Nên khi các bên không
thực hiện như trong thỏa thuận của hợp đồng chuyển giao công nghệ thì sẽ xuất hiện
tranh chấp, và đó là tranh chấp KDTM [7].
Thứ hai, về chủ thể của những tranh chấp này, BLTTDS không có quy định cụ
thể về điều kiện chủ thể, nhưng theo hướng dẫn tại khoản 4, Điều 6, Nghị quyết
25


×