Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tìm hiểu về bản chất và vai trò của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư, từ đó nêu một số giải pháp chính sách để phát triển loại sản phẩm này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.35 KB, 24 trang )

Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------

BÀI TẬP NHÓM

MÔN : LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM

Page 1


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02

ĐỀ BÀI:12
Tìm hiểu về bản chất và vai trò của sản phẩm bảo
hiểm nhân thọ liên kết đầu tư, từ đó nêu một số
giải pháp chính sách để phát triển loại sản phẩm
này
LỚP

: N02

NHÓM

: 09

Hà Nội, 2015

Hà Nội, 2015


Page 2


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02

MỤC LỤC

Page 3


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
Lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm 1970, bảo hiểm liên kết đầu tư đã xuất hiện trên thế giới.
Tại Anh, các sản phẩm liên kết đầu tư (1987-1997), chiếm thị phần của sản phẩm
bảo hiểm nhân thọ từ 39% đến 50%. Trong năm 1998, bảo hiểm liên kết đầu tư ở
Mỹ chiếm 32% của thị trường bảo hiểm nhân thọ.
Bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư (BHNTLKĐT) hiện đang rất mới mẻ ở
Việt Nam nhưng đã góp phần gia tăng yếu tố đầu tư của bảo hiểm nhân thọ, giúp
thị trường bảo hiểm nhân thọ mang tính cạnh tranh cao hơn so với các thị trường
khác.
Trong điều kiện kinh tế hội nhập, việc các doanh nghiệp bảo hiểm như Bảo
Việt Life mở rộng lĩnh vực kinh doanh của mình và phát triển sản phẩm bảo hiểm
nhân thọ liên kết đầu tư đã trở thành cầu nối cho sự phát triển kinh tế nước ta.
Tuy nhiên, với việc đa dạng hóa các loại hình Bảo hiểm nhân thọ, bắt buộc
pháp luật Việt Nam cần có những quy định cụ thể làm cơ sở nhằm tạo nên hành
lang pháp lý vững chắc cho sự phát triển của lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ nói chung
và bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư nói riêng.
Bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư là một lĩnh vực khá mới mẻ tại Việt Nam
dẫn đến phát sinh nhiều vướng mắc. Vì vậy, chúng em lựa chọn đề tài về sản phẩm
bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư để đi sâu tìm hiểu bản chất, vai trò và đưa ra một

số giải pháp góp phần phát triển sản phẩm này ở Việt Nam.

Page 4


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
Thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện
Qua quá trình tìm hiểu chúng em đã có cái nhìn tổng thể về bảo hiểm nhân
thọ nói chung và sản phẩm BHNTLKĐT nói riêng, qua đó cập nhật và củng cố
thêm nhiều thông tin về các sản phẩm bảo hiểm. Tuy nhiên, do kiến thức còn hạn
chế cũng như nguồn tài liệu về sản phẩm bảo hiểm này có rất ít nên cũng gặp phải
một số những vướng mắc nhất định trong việc thu thập thông tin để thực hiện bài
tập. Sản phẩm BHNTLKĐT là một sản phẩm bảo hiểm mới tại Việt Nam, cũng
chưa được quy định trong các văn bản pháp luật cụ thể, nên đây cũng được coi là
một thiếu sót của pháp luật nước ta. Có thể nói, vướng mắc lớn nhất trong quá trình
nghiên cứu đề tài này chính là do không có đủ cơ sở pháp lý nhất định và kiến thức
chuyên ngành còn hạn chế nên việc trình bày và tổng hợp bài chưa thể đầy đủ.

Page 5


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02

NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận chung
1. Khái niệm bảo hiểm
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm
Theo Dennis Kessler: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh
của số ít.
Theo Monique Gaullier: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là

người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện
mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro
sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là
người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù
các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê.
Tập đoàn bảo hiểm AIG của Mỹ định nghĩa: Bảo hiểm là một cơ chế, theo
cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro
cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn
thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người
được bảo hiểm.
Các định nghĩa trên thường nghiêng về một góc độ nghiên cứu nhất định
như xã hội; kinh tế, luật pháp; kỹ thuật tính.
Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam không đưa ra định nghĩa về bảo hiểm
mà chỉ đề cập đến kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của
người được bảo hiểm,trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh
nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người
được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. ( Khoản 1 Điều 3 Luật kinh doanh bảo
hiểm 2000)
Page 6


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
2. Sản phầm bảo hiểm.
2.1 Khái niệm
Sản phẩm bảo hiểm là dịch vụ thương mại mà doanh nghiệp bảo hiểm cung
ứng cho bên mua bảo hiểm và những chủ thể liên quan thông qua nghiệp vụ bảo
hiểm và được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
2.2 Đặc điểm
- Tính vô hình: Khi tham gia bảo hiểm, mặc dù khách hàng nhận được các yếu tố

hữu hình đó là những giấy tờ trên đó có in biểu tượng của doanh nghiệp bảo hiểm,
in tên gọi của sản phẩm, in những nội dung thỏa thuận…nhưng khách hàng không
chỉ ra được màu sắc, kích thước,hình dáng hay mùi vị của sản phẩm. Nói cách
khác sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình – người ta không thể cảm nhận sản
phẩm bảo hiểm qua các giác quan của mình. Tính vô hình của sản phẩm bảo hiểm
làm cho việc giới thiệu, chào bán trở nên khó khăn hơn. Đa số các sản phẩm hữu
hình có thể được trưng bày trong các cửa hàng, được vẽ trên các biển hiệu hay tờ
rơi quảng cáo… do đó khách hàng dễ dàng nhận biết được sự tồn tại của sản phẩm.
Tuy nhiên đối với các sản phẩm bảo hiểm thì không như vậy. Khi mua sản phẩm
bảo hiểm, người mua chỉ nhận được lời hứa, lời cam kết về những bảo đảm vật
chất trước các rủi ro.
- Tính không thể tách rời và không thể cất trữ:
Sản phẩm bảo hiểm không thể tách rời – tức là việc tạo ra sản phẩm dịch vụ bảo
hiểm trùng với việc tiêu dùng sản phẩm đó (quá trình cung ứng và quá trình tiêu
thụ là một thể thống nhất). Thêm vào đó, sản phẩm bảo hiểm không thể cất trữ
được – có nghĩa là khả năng sử dụng dịch vụ bảo hiểm vào một thời điểm nào đó
sẽ không thể cất vào kho dự trữ để sử dụng vào một thời điểm khác trong tương lai.
Điều này hoàn toàn khác biệt với sản phẩm hữu hình. Tính không thể tách rời và
không thể cất trữ đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải chú trọng đến lượng thời
gian dành cho bán hàng và cần nâng cao năng lực của các bộ phận cung cấp dịch
vụ.
Page 7


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
- Sản phẩm bảo hiểm là dịch vụ thương mại theo cam kết trong hợp đồng bảo
hiểm.
- Sản phẩm bảo hiểm có tính tài sản.
Giá trị của sản phẩm bảo hiểm được xác định bằng tiền. Khi giao kết hợp
đồng bảo hiểm thì người mua bảo hiểm chấp nhận trả cho doanh nghiệp bảo hiểm

một khoản phí để mua sản phẩm bảo hiểm đó và nếu có rủi ro xảy ra, doanh nghiệp
bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là khi
người mua bảo hiểm bị thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe… thì doanh nghiệp
bảo hiểm phải bồi thường cho họ đúng những gì đã bị thiệt hại mà ở đây, doanh
nghiệp bảo hiểm trong phạm vi trách nhiệm của mình sẽ bồi thường một khoản tiền
tương ứng với rủi ro đã xảy ra.
- Sản phẩm bảo hiểm có quy trình kinh doanh đặc biệt
Thông thường, quy trình của các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường là
bỏ ra một khoản chi phí trước nhất định để tạo ra sản phẩm rồi bán cho khách
hàng để thu về lợi nhuận. Tuy nhiên, quy trình kinh doanh của sản phẩm bảo hiểm
lại hết sức đặc biệt, đó là doanh thu có trước và chi phí phát sinh sau. Doanh
nghiệp bảo hiểm sẽ tiến hành thu phí của người tham gia bảo hiểm trước và sau đó
nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra thì phải có trách nhiệm bồi thường. Chi phí này
thường phát sinh không ổn định, không xác định được thời điểm chính xác.
- Chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm, theo đó
• Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ do doanh nghiệp bảo hiểm tự thiết kế và phải
được sự phê chuẩn của Bộ Tài chính
• Sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ do doanh nghiệp bảo hiểm tự thiết kế phù
hợp với quy định của pháp luật kinh doanh bảo hiểm.
• Sản phẩm bảo hiểm bắt buộc: do doanh nghiệp bảo hiểm thiết kế phù hợp
với quy chế về loại hình bảo hiểm bắt buộc cụ thể do Bộ Tài chính ban hành.
Page 8


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02

2.3 Phân loại sản phẩm bảo hiểm.
- Theo đối tượng thì sản phẩm bảo hiểm bao gồm: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con
người, bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
- Theo nghiệp vụ thì sản phẩm bảo hiểm bao gồm: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm

phi nhân thọ.
- Theo tính bắt buộc thì sản phẩm bảo hiểm bao gồm: bảo hiểm bắt buộc ( bảo
hiểm cháy nổ, bảo hiểm trách nhiệm dân sự xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm công
trinh…….) ; bảo hiểm tự nguyện.
3. Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư.
* Khái niệm: Sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư là sản phẩm bảo hiểm nhân
thọ mà ngoài những quyền lợi bảo hiểm giống như sản phẩm BHNT thuần túy, bên
mua bảo hiểm còn được tham gia vào quỹ đầu tư của DNBH và được chia lãi đầu
tư từ quỹ này.1
* Đặc điểm
Thứ nhất, các yếu tố như hoạt động đầu tư, chi phí và chi phí quản lý, lợi
nhuận của quỹ…đều được tách biệt và công bố rõ với khách hàng theo định kỳ
Thứ hai, Rủi ro và lợi nhuận từ hoạt động đầu tư của hợp đồng bảo hiểm: Được
chuyển từ doanh nghiệp bảo hiểm sang cho bên mua bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm
sẽ là người lựa chọn việc phí bảo hiểm của mình sẽ được đầu tư vào đâu bằng việc
sở hữu một số đơn vị của quỹ đầu tư (tương ứng với số phí đóng bảo hiểm). Thông
thường doanh nghiệp bảo hiểm sẽ đưa ra các quỹ đầu tư khác nhau với mức độ rủi
ro cũng sẽ khác nhau. Rủi ro càng cao lợi nhuận cũng sẽ càng nhiều và ngược lại.
Giá trị mà bên mua bảo hiểm nhận được khi đáo hạn hợp đồng là giá trị của các
đơn vị quỹ đầu tư khi đáo hạn. Như vậy khi quỹ đầu tư hoạt động tốt, bên mua bảo
hiểm sẽ là người được hưởng lợi do giá trị của một đơn vị quỹ đầu tư đã tăng lên.
1 Một số vấn đề pháp lý về sản phẩm bảo hiểm nhân thọ - Ths Trần Vũ Hải – Tạp chí Luật học số 8/2011

Page 9


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
Ngược lại trong trường hợp rủi ro giá trị của các đơn vị đầu tư không tăng hoặc bị
giảm sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm sẽ được nhận,
mà không có sự bù đắp nào từ phía doanh nghiệp bảo hiểm. Thậm chí có những

trường hợp bên mua bảo hiểm có thể mất toàn bộ số tiền đầu tư của mình. Do đó,
đối với loại hình bảo hiểm liên kết đầu tư, bên mua bảo hiểm không thể chắc chắn
về khoản thu nhập trong tương lai. Trong khi đó, đây lại là mục tiêu chính của các
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ truyền thống.
Thứ ba, tính minh bạch của hợp đồng bảo hiểm cao: Một trong các ưu điểm
của dạng bảo hiểm này là việc khách hàng có thể biết rõ phí bảo hiểm của mình
được đầu tư vào đâu. Khách hàng có thể kiểm soát rủi ro đầu tư của mình bằng
việc lựa chọn đầu tư phí bảo hiểm vào những quỹ đầu tư mà mình cho là phù hợp
nhất. Đây là đặc điểm mà các hợp đồng bảo hiểm truyền thống không có được vì
mọi hoạt động đầu tư được quyết định bởi doanh nghiệp bảo hiểm.
Cho đến nay, sản phẩm BHNT liên kết đầu tư có hai dạng cơ bản là liên kết
đầu tư chung và liên kết đầu tư đơn vị. Trong đó:
- Sản phẩm BHNT liên kết đầu tư chung (universal life), là sản phẩm BHNT thuộc
nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư và có các đặc điểm sau:
• Cơ cấu phí bảo hiểm và quyền lợi bảo hiểm được tách bạch giữa phần bảo
hiểm rủi ro và phần đầu tư. Bên mua bảo hiểm được linh hoạt trong việc
xác định phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo
hiểm.
• Bên mua bảo hiểm được hưởng toàn bộ kết quả đầu tư từ quỹ liên kết
chung của doanh nghiệp bảo hiểm nhưng không thấp hơn tỷ suất đầu tư tối
thiểu được doanh nghiệp bảo hiểm cam kết tại hợp đồng bảo hiểm.
• Doanh nghiệp bảo hiểm được hưởng các khoản phí do bên mua bảo hiểm
trả theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo hiểm2.
2 “Quy chế triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết chung” ban hành theo Quyết định số 96/2007/QĐ-BTC ngày
23/11/2007.

Page 10


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02

- Sản phẩm BHNT liên kết đầu tư đơn vị (unit-linked life), là sản phẩm BHNT
thuộc nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư và có các đặc điểm:
• Cơ cấu phí bảo hiểm và quyền lợi bảo hiểm được tách bạch giữa phần bảo
hiểm rủi ro và phần đầu tư. Bên mua bảo hiểm được linh hoạt trong việc xác
định phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm theo thoả thuận tại hợp đồng bảo
hiểm.
• Bên mua bảo hiểm được quyền lựa chọn đầu tư phí bảo hiểm của mình để
mua các đơn vị của các quỹ liên kết đơn vị do doanh nghiệp bảo hiểm thành
lập, được hưởng toàn bộ kết quả đầu tư và chịu mọi rủi ro đầu tư từ các quỹ
liên kết đơn vị đã lựa chọn tương ứng với phần phí bảo hiểm đã đầu tư. Việc
mua, bán các đơn vị quỹ chỉ được thực hiện giữa doanh nghiệp bảo hiểm và
bên mua bảo hiểm.
• Doanh nghiệp bảo hiểm được hưởng các khoản phí do bên mua bảo hiểm trả
theo thoả thuận tại hợp đồng bảo hiểm.3
Như vậy, ở sản phẩm BHNT liên kết đầu tư chung, bên bảo hiểm được
hưởng kết quả đầu tư từ quỹ đầu tư chung và không thấp hơn mức cam kết tối
thiểu do DNBH đưa ra. Còn ở sản phẩm BHNT liên kết đầu tư đơn vị, bên mua
bảo hiểm được quyền lựa chọn đầu tư phí bảo hiểm của mình để mua các đơn vị
của một hoặc nhiều quỹ đầu tư liên kết đơn vị do DNBH thành lập, được hưởng
toàn bộ kết quả đầu tư và chịu rủi ro đầu tư từ các quỹ liên kết đơn vị đã lựa chọn
tương ứng với phần phí bảo hiểm đã đầu tư. Về nguyên tắc, phí bảo hiểm trong các
sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư được tách bạch giữa phần phí dành cho bảo
hiểm và phí dành cho đầu tư. Trong phần phí dành cho đầu tư, bên mua bảo hiểm
có tư cách như là nhà đầu tư ủy thác, chịu trách nhiệm đối với khoản đầu tư của
mình theo thỏa thuận với DNBH.
II. Bản chất và vai trò của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư
1. Bản chất của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư

3 Thông tư 135/2012/TT-BTC hướng dẫn triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị


Page 11


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
Thứ nhất, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư là một sản phẩm bảo
hiểm nhân thọ. Vì vậy, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư mang đầy đủ
các bản chất, đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.
Một là : BHNT cũng như các sản phẩm bảo hiểm khác thể hiện ra là loại
dịch vụ, tức sản phẩm vô hình nhưng có tính tài sản.
Sản phẩm BHNT chính là loại dịch vụ nên có tính vô hình, không biểu hiện
dưới dạng hình thái vật chất cụ thể mà thông qua các cam kết của DNBH đối với
người tham gia bảo hiểm. Lợi ích cơ bản nhất từ sản phẩm bảo hiểm nhân thọ là
được trả tiền trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm có
thể được hưởng một số lợi ích khác nếu có thỏa thuận như : được hoàn lại một
phần phí bảo hiểm trong trương hợp hủy hợp đồng, được miễn nộp phí bảo hiểm
nếu bị thương tật, bệnh hiểm nghèo vv… nhiều doanh nghiệp bảo hiểm còn sẵn
sàng cho người tham gia bảo hiểm vay tiền sử dụng nếu hợp đồng đã có giá trị
hoàn lại
Tuy sản phẩm bảo hiểm là dịch vụ thương mại nhưng khác với những dịch
vụ thông thường chỉ cung cấp cho khách hàng những tiện ích hưởng thụ thông qua
các giác quan ( như nghe,xem,ăn,ngủ…) thì sản phẩm BHNT nói riêng và sản
phẩm bảo hiểm nói chung lại có tính tài sản, đó là vì lợi ích cơ bản của khách hàng
mà DNBH phải thực hiện là trả tiền bảo hiểm hoặc giá trị hoàn lại của hợp đồng.
Hai là, sản phẩm BHNT có quy trình kinh doanh tương đối đặc biệt : doanh
thu có trước chi phí và chi phí không chắc chắn cho từng sản phẩm, đối với từng
khách hàng.
Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng, DNBH
nhận phí bảo hiểm trước rồi mới trả tiền bảo hiểm sau. Phí bảo hiểm đối với
DNBH về bản chất không phải là chi phí mà chính là doanh thu mà DNBH được
nhận khi cung cấp sản phẩm bảo hiểm cho khách hàng. Theo cách thức kinh doanh

thông thường, để sản xuất một sản phẩm nhất định, chủ thể kinh doanh phải bỏ ra
các chi phí, sau đó bán hàng mới có được doanh thu nhưng đối với sản phẩm
Page 12


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
BHNT , DNBH sẽ nhận phí bảo hiểm từ bên mua bảo hiểm ( về bản chất là doanh
thu ) rồi sau đó mới phải trả tiền bảo hiểm ( về bản chất là chi phí ) khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm. Chính vì vậy đã có quan điểm cho rằng kinh doanh bảo hiểm doanh
bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng có chu trình kinh doanh đảo ngược.
Đối với sản phẩm BHNT việc định phí bảo hiểm là qua trình kĩ thuật phức
tạp liên quan đến quy luật số đông, bằng tỉ lệ tử vong cũng như các yếu tố kĩ thuật
khác. Mỗi sản phẩm bảo hiểm được thiết kế, do quyền lợi của khách hàng khác
nhau nên việc định phí cũng khác nhau.
Ba là, sản phẩm BHNT rất đa dạng và có tính đa mục đích trong từng sản
phẩm.
Do tính chất là nghiệp vụ bảo hiểm con người nên BHNT dựa trên nguyên
tắc khoán số tiền bảo hiểm chứ không dựa trên nguyên tắc bồ thường ngang bằng
tổn thất như trong bảo hiểm phi nhân thọ. Chính vì vậy khả năng đóng phí của
khách hàng sẽ là yếu tố quyết định đén việc lựa chọn sản phẩm bảo hiểm phù hợp.
Do đó để đáp ứng khả năng nộp phí khác nhau, cung với những nhu cầu khác nhau,
DNBH phải thiết kế nhiều sản phẩm BHNT để phù hợp với từng nhóm khách hàng
nhất định vì thế tồn tại nhiều loại sản phẩm BHNT trên thị trường bảo hiểm và các
sản phẩm mới xuất hiện ngày càng đa dạng.
Bốn là, sản phẩm BHNT được thể hiện thông qua hợp đồng BHNT và các
hoạt động của DNBH để đáp ứng nhu cầu liên quan của khách hàng trong quá trình
thực hiện hợp đồng.
Cơ chế để DNBH cung cấp sản phẩm, BHNT là thông qua hợp đồng BHNT.
Cơ chế hợp đồng được pháp luật đảm bảo bằng các quy định nhằm tạo vị thế bình
đẳng giữa các bên tham gia. Các cam kết của DNBH về sản phẩm bảo hiểm được

cung cấp sẽ thể hiện đầy đủ trên hợp đồng BHNT mà DNBH kí kết với khách
hàng.

Page 13


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
Tuy nhiên, sản phẩm BHNT không đơn thuần là các thỏa thuận trên hợp
đồng mà còn là các hoạt động mà DNBH thực hiện nhằm phục vụ quyền lợi cho
khách hàng trong thời hạn hợp đồng.
Năm là, cơ sở kĩ thuật cơ bản của sản phẩm BHNT là quy luật về số đông,
bằng tỉ lệ tử vong,lãi suất kĩ thuật và phí bình quân.
Để thiết kế sản phẩm BHNT với tư cách là loại hình bảo hiểm thương mại,
DNBH phải dựa trên những cơ sở kĩ thuât nhất định nhằm cùng một lúc đạt được
hai mục tiêu song song đem lại quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm với mức
chi phí hợp lí đông thời đem lại lợi nhuạn cho DNBH.
Cũng như các sản phẩm bảo hiểm khác, đặc trưng kĩ thuật đầu tiên của sản
phẩm BHNT là dựa trên quy luật về số đông, quy luật này đòi hỏi việc tham gia
BHNT phải gồm nhiều người, quỹ bảo hiểm sẽ do nhiều người cùng đóng góp để
chi trả cho những trường hợp xảy ra tổn thất hoặc có cam kết trả tiền của DNBH.
Bên cạnh đó thì DNBH đã dựa cụ thể vào cơ sở kĩ thuật thứ hai là bảng tỉ lệ tử
vong. Bằng tỉ lệ tử vong được xây dựng dựa trên nguyên tắc thống kê với số lượng
lớn những cá nhân sống qua các độ tuổi khác nhau. Để đảm bảo công bằng, pháp
luật một số quốc gia đã quy định về bảng tỉ lệ tử vong làm cơ sở cho các DNBH
tính toán mức phí bảo hiểm đối với khách hàng.
Cơ sở kĩ thuật cơ bản tiếp theo của sản phẩm BHNT là lãi suất kĩ thuật. Do
hầu hết các sản phẩm BHNT đều có tính tiết kiệm, nên để cạnh tranh, DNBH phải
đảm bảo mức lãi suất hợp lí tối thiểu nhất định để thu hút người tham gia bảo hiểm
gọi là lãi suất kĩ thuật. Mức lãi suất này thường được tính toán sao cho bù đắp
được lạm phát bình quân đối với khoản phí bảo hiểm đã nhận và nếu có thể, gia

tăng thêm quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm. Về lý thuyết, lãi suất kĩ thuật
thường dựa trên các căn cứ như lãi suất huy động vốn không kì hạn của ngân hàng
thương mại,lãi suất bình quân trái phiếu Chính phủ vv..
Cơ sở kĩ thuật cơ bản cuối cùng của sản phẩm BHNT là việc định phí bình
quân. Trên thực tế, mức phí bảo hiểm thực hay còn gọi là mức phí tự nhiên mà bên
Page 14


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
mua bảo hiểm phải nộp sẽ khác nhau từng năm, từng giai đoạn trong cuộc đời
người được bảo hiểm vì mức độ rủi ro ở mỗi giai đoạn cuộc đời là khác nhau. Tuy
nhiên trên thực tế các DNBH cung cấp sản phẩm BHNT đều đưa ra mức phí bằng
nhau mà bên mua bảo hiểm phải nộp cho từng năm tránh những phiền toái trong
quá trình quản lí bảo hiểm. Ở những năm đầu, mức bảo hiểm sẽ cao hơn so với
mức phí thực, còn những năm cuối lại thấp hơp mức phí thực.
Sáu là, sản phẩm BHNT thường được DNBH cung cấp với thời hạn tương đối dài.
Khác với bảo hiểm phi nhân thọ đa số chỉ có thời hạn từ một năm trỏ xuống
thì sản phẩm BHNT có thời hạn bảo hiểm là tương đối dài. Điều này đảm bảo cho
khả năng đầu tư của doanh nghiệp từ nguồn phí bảo hiểm, từ đó đảm bảo được tính
tiết kiệm của hợp đồng bảo hiểm,thời hạn bảo hiểm dài cũng giúp cho bên mua bảo
hiểm có khả năng nộp phí bảo hiểm để tham gia những hợp đồng bảo hiểm có giá
trị lớn, đạp ứng được nhu cầu bảo hiểm, tiết kiệm và đầu tư của mình. Riêng đối
với sản phẩm bảo hiểm tứ kì, do chỉ có tính chất bảo hiểm thuần túy nên có thể
được cung cấp với thời hạn bảo hiểm ngắn, thường là một năm.
Thời hạn bảo hiểm dài cũng ảnh hưởng đến kĩ thuật quản lí đối với sản phẩm
bảo hiểm cũng như các quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi cho người được
bảo hiểm hoặc người được thụ hưởng, không như các sản phẩm bảo hiểm phi nhân
thọ, trong pháp luật về kinh doanh BHNT ghi nhận nhiều quy định bảo vệ quyền
lợi người tham gia bảo hiểm như gia hạn nộp phí, miễn truy xét.vv..
Thứ hai, Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư là sản phẩm bảo hiểm

nhân thọ không chia lãi bao gồm hai phần tương đối tách biệt nhau: phần bảo hiểm
và phần đầu tư, trong đó phần đầu tư là chủ yếu.
“ Tính không chia lãi” thể hiện ở chỗ Đối với sản phẩm bảo hiểm liên kết
đầu tư người tham gia bảo hiểm sẽ là chủ đầu tư của các quỹ vì thế sẽ được hưởng
lãi đầu tư thực tế của các quỹ đầu tư mà khách hàng lựa chọn (có nghĩa là nếu quỹ
đầu tư có lãi cao khách hàng sẽ được hưởng lãi cao, ngược lại nếu quỹ đầu tư lãi
thấp hoặc không có lãi khách hàng sẽ được hưởng lãi thấp hoặc không nhận được
Page 15


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
gì). Như vậy, những người muốn có cơ hội đầu tư với lãi suất cao nên tham gia sản
phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư.
Việc đầu tư được người tham gia bảo hiểm ủy thác cho công ty bảo hiểm.
Các chuyên gia đầu tư của công ty bảo hiểm có trách nhiệm tìm kiếm, lựa chọn các
tài sản đầu tư để lập nên bản danh mục đầu tư (bao gồm nhiều loại tài sản đầu tư
nhằm phân tán rủi ro và mang lại lợi ích cho người sở hữu các đơn vị đầu tư trong
quỹ). Như vậy, Người tham gia bảo hiểm liên kết đầu tư có thể yên tâm vì đã ủy
thác đầu tư cho những chuyên gia hàng đầu (những người có kinh nghiệm và tinh
thần trách nhiệm cao với “tiền” của khách hàng).
Khi tham gia bảo hiểm liên kết đầu tư khách hàng phải đóng phí bảo hiểm
đổi lại họ nhận được sự bảo vệ về tài chính của công ty bảo hiểm đồng thời có cơ
hội tích lũy đầu tư với lãi suất cao. Phí bảo hiểm của khách hàng sẽ được chia làm
hai phần:
- Phần thứ nhất: Dành cho bảo hiểm nhân thọ (chiếm tỷ lệ nhỏ trong phí bảo hiểm)
- Phần thứ hai: Dành cho tiết kiệm, đầu tư thu lợi nhuận (chiếm tỷ lệ lớn trong phí
bảo hiểm). Thông thường công ty bảo hiểm có hai hoặc nhiều quỹ đầu tư để bên
mua bảo hiểm lựa chọn; mỗi quỹ đầu tư được đầu tư theo một danh mục đầu tư xác
định; phần lớn số phí bảo hiểm được phân bổ để mua các đơn vị quỹ đầu tư đã
chọn. Bên mua bảo hiểm được hưởng lợi nhuận khi giá trị đơn vị quỹ tăng hoặc

chịu tổn thất khi các giá trị các đơn vị quỹ giảm.
Thứ ba,Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư là một kênh đầu tư của
khách hàng thông qua các công ty bảo hiểm nhân thọ. Sản phẩm này giúp cho
khách hàng thỏa mãn đồng thời hai nhu cầu là được bảo vệ và tham gia đầu tư.
2. Vai trò của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư.
Bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư là một nghiệp vụ của bảo hiểm nhân thọ
do đó nó có đầy đủ những vai trò của bảo hiểm nhân thọ đó là:

Page 16


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
- Góp phần ổn định tài chính cho người tham gia hoặc người được hưởng quyền lợi
bảo hiểm.
- Góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và tăng thêm quyền lợi cho
người lao động
- Là công cụ để thu hút vốn đầu tư hữu hiệu
- Tạo ra số lượng công ăn việc làm lớn cho người lao động
- Là biện pháp đầu tư hợp lý cho giáo dục và góp phần tạo nên một tập quán, một
phong cách sống mới.
Ngoài ra, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư còn có một số vai trò
sau:
2.1 Vai trò của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư đối với công ty
bảo hiểm nhân thọ.
Đầu tiên phải kể đến đó là việc chuyển giao rủi ro đầu tư cho các chủ hợp
đồng. Các công ty bảo hiểm nhân thọ ngày càng thấy khó khăn hơn trong việc đảm
bảo các khoản lợi tức đã cam kết với chủ hợp đồng, nhất là trong bối cảnh thị
trường tài chính luôn có những biến động và các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
thường là dài hạn.
Thứ hai đó là hiệu quả sử dụng vốn. Những yêu cầu về khả năng thanh toán

(các nước châu Âu yêu cầu biên khả năng thanh toán là 4% dự phòng toán học
cộng 0,3% tổng số tiền rủi ro (sum at risk), Việt Nam cũng yêu cầu như vậy với
những hợp đồng từ 10 năm trở lên, trong khi đó những yêu cầu đặt ra với hợp đồng
LKĐT là thấp hơn (1% giá trị quỹ cộng với 0,3% số tiền rủi ro). Chính vì vậy tỷ
trọng sản phẩm liên kết đầu tư nhiều sẽ có yêu cầu về biên khả năng thanh toán
thấp hơn, vì vậy tỷ suất sinh lợi trên vốn sẽ cao hơn.
Thứ ba là hiệu ứng “ phí kép ”. Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ liên kết
đầu tư thì phí quản lý tài sản đầu tư thấp hơn (so với hợp đồng tham gia chia lãi
Page 17


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
truyền thống ) và lợi ích từ việc thiết lập biên khả năng thanh toán thấp nên chi phí
thấp hơn (tỷ suất sinh lợi cao hơn).
Như vậy, các công ty bảo hiểm nhân thọ có khả năng thu hút nhiều khách
hàng mới, những người mong muốn có được tỷ suất sinh lợi cao hơn so với việc
lấy lợi tức từ các hợp đồng tham gia chia lãi truyền thống rồi đầu tư vào các quỹ
tương hỗ
2.2 Vai trò của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư đối với khách
hàng.
Đầu tiên là tăng sự lựa chọn các kênh đầu tư của khách hàng. Điều này phù
hợp đối với các thị trường vốn có sự phát triển, khi đó chủ hợp đồng được tham gia
trực tiếp vào thị trường vốn sôi động.
Thứ hai đó là chính sách thuế. Các hợp đồng yêu cầu thời hạn hợp đồng tối
thiểu và quyền lợi tử vong để được hưởng ưu đãi về thuế. Ở một số quốc gia, lợi
tức và và thu nhập đầu tư trong thời hạn hợp đồng được miễn thuế. Tuy nhiên
quyền lợi khi nhận thì coi như thu nhập chịu thuế (hoặc được giảm tỉ lệ thuế). Đối
với quyền lợi tử vong đảm bảo khi chủ hợp đồng chết trước khi hết hạn hợp đồng,
khi đó công ty bảo hiểm sẽ chi trả quyền lợi tử vong hoặc giá trị tích lũy cộng với
quyền lợi tử vong tối thiểu.

Thứ ba là tính minh bạch. Đối với các hợp đồng tham gia chia lãi truyển
thống thì việc xác định khoản mục đầu tư hoặc thu nhập đầu tư sẽ không rõ ràng và
minh bạch bằng hợp đồng liên kết đầu tư
Thứ tư là khả năng chuyển đổi khoản mục đầu tư giữa các quỹ. Các công ty
bảo hiểm cho phép các chủ hợp đồng chuyển đổi danh mục một số lần nhất định
mà không tính phí phụ trội.
III. Thực trạng và một số giải pháp, chính sách để phát triển sản phẩm bảo
hiểm nhân thọ liên kết đầu tư.
Page 18


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
1. Tiềm năng phát triển và những kết quả đạt được trong việc kinh doanh sản
phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư ở nước ta hiện nay.
1.1 Tiềm năng phát triển
Theo ông Robert A. Cook, Chủ tịch và Giám đốc Điều hành Manulife Châu
Á, cơ hội phát triển tại thị trường Châu Á rất lớn. Tầng lớp trung lưu tại Châu Á dự
kiến sẽ đạt 1,7 tỉ người trước năm 2020 và con số này dự kiến sẽ còn tăng gấp đôi
lên 3,2 tỷ người vào năm 2030. Khi một người bước vào tầng lớp trung lưu, họ sẽ
sẵn sàng hơn trong việc sử dụng một phần thu nhập để đầu tư vào các giải pháp
hưu trí hay bảo vệ tài chính như bảo hiểm nhân thọ.
Người Châu Á cũng đang già đi nhanh do tuổi thọ tăng lên. Do đó, nhu cầu
về hưu trí hay các giải pháp bảo vệ sức khỏe và y tế sẽ tăng rất nhanh. Xu hướng
này đang có những tác động đáng kể đến ngành bảo hiểm nhân thọ trong khu vực.
Giờ đây, tập trung vào khách hàng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Chúng tôi
phải cải tiến phương thức đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của khách hàng mà
vẫn đảm bảo được mọi tiêu chuẩn về chất lượng. Điều này có nghĩa là chúng tôi có
khả năng cung cấp những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của khách hàng đồng thời
phải không ngừng đầu tư về con người và nguồn lực để đảm bảo thực hiện được
điều đó.

Việt Nam cũng đang nằm trong xu thế chung của châu Á. GDP đầu người
của Việt Nam đã tăng gấp đôi từ năm 1990 đến 2000 và sau đó lại tăng gấp đôi một
lần nữa vào năm 2010. Mặc dù nền kinh tế có phần phát triển chậm lại thời gian
gần đây nhưng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế vẫn cao so với hầu hết các nước
khác, khoảng 6% trong 2014. Do đó, cơ hội phát triển trong dài hạn vẫn rất lớn.
Xét trên nhiều khía cạnh, Việt Nam vẫn là thị trường dẫn đầu trong khu vực đang
phát triển nhanh Đông Nam Á.
Riêng về bảo hiểm, Việt Nam là một thị trường quan trọng và là một trong
những thị trường đông dân nhất trong khu vực. Đây là thị trường có tiềm năng để
phát triển bảo hiểm nhân thọ nói chung và bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư nói
riêng.
Page 19


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
Việt Nam có dân số trẻ nhưng cũng đang già hóa nhanh, do đó đây là cơ hội
để chúng tôi có thể áp dụng kinh nghiệm triển khai sản phẩm hưu trí tại các thị
trường khác trước đó một cách hiệu quả tại thị trường Việt Nam.Các công ty bảo
hiểm nhân thọ tại Việt Nam đã ra mắt rất nhiều sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên
kết đầu tư với nhiều hình thức, ưu đãi khác nhau để phục vụ nhu cầu của người
Việt như sản phẩm Maxx- Phúc Lộc Thịnh Vượng của Manulife, Phát Lộc Hưng
Gia của Viettin Aviva vào cuối năm 2014.
1.2 Những kết quả đạt được
Trong năm 2014, tỷ trọng doanh thu phí khai thác mới của bảo hiểm liên kết
đầu tư chiếm 41,48% tổng doanh thu phí khai thác mới của thị trường bảo hiểm
nhân thọ tại Việt Nam. Tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ năm 2014 ước đạt
27.327 tỷ đồng (tăng 17,44% so với năm 2013), trong đó tỷ trọng doanh thu phí
bảo hiểm hỗn hợp vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với khoảng 59,44%, tiếp đến là bảo
hiểm liên kết đầu tư với 30,16%, bảo hiểm tử kỳ 1,95%, các nghiệp vụ còn lại
chiếm tỷ trọng không đáng kể. Số lượng hợp đồng có hiệu lực (theo hợp đồng

chính) ước đạt 5.650.133 hợp đồng, tăng 10,07% so với cùng kỳ năm trước. Trong
đó, sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp chiếm tỷ trọng đa số (56,44%), tiếp đến là sản
phẩm tử kỳ (22,12%), sản phẩm liên kết đầu tư (19,99%), các sản phẩm còn lại
chiếm 1,4%. Các doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao về số lượng hợp đồng có
hiệu lực bao gồm PVI Sunlife, Generali, Aviva, Prévoir, Hanwha, VCLI4.
Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 135/2012 ngày 15 tháng 8 năm 2012
quy định về việc triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị của các doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ (Bảo hiểm liên kết đơn vị là sản phẩm bảo
hiểm nhân thọ thuộc nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư).
2. Những khó khăn, vướng mắc
Trong quá trình triển khai sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư vẫn còn
gặp phải một số khó khăn, vướng mắc xuất phát từ một số nguyên nhân sau:
4 />
Page 20


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
Thứ nhất, thị trường chứng khoán của Việt Nam chưa phát triển mạnh mẽ. Số
lượng cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết tăng nhanh nhưng chưa thật sự đa dạng và
phong phú, hiện vẫn còn thiếu các loại quỹ đầu tư, nhất là quỹ đầu tư ủy thác. Bên
cạnh đó, hiểu biết của người dân về tài chính, chứng khoán và đầu tư có bài bản
còn rất ít, tập trung chủ yếu ở các thành phố, đô thị lớn. Vì vậy lượng “khách hàng
tiềm năng’ của loại hình bảo hiểm này chắc chắc rất hạn chế.
Thứ hai, chịu áp lực cạnh tranh lớn từ các định chế tài chính khác như công
ty chứng khoán, quỹ đầu tư, ngân hàng đầu tư… với sản phẩm đa dạng, liện lợi và
hấp dẫn.
Thứ ba, chịu ảnh hưởng của sự thay đổi về chính sách thuế, phí quản lý tài
sản đầu tư của Nhà nước
Như vậy, chúng ta thấy rằng sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư sẽ
phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của thị trường chứng khoán. Thế mạnh của các

công ty BHNT vẫn sẽ là cung cấp sự bảo vệ. Thị trường bảo hiểm và thị trường tài
chính ở các nước phát triển đi trước Việt Nam rất xa nhưng tỷ trọng sản phẩm của
các công ty BHNT phần lớn vẫn là các sản phẩm mang tính bảo vệ cao như tử kỳ,
trọn đời và tai nạn sức khỏe. Lợi thế của các công ty BHNT là cơ sở kỹ thuật thống
kê, có một kế hoạch đầu tư tài chính dài hạn và kinh nghiệm quản lý rủi ro liên
quan đến tính mạng và sức khỏe của con người vẫn sẽ là lợi thế so với các định chế
tài chính khác.
3. Một số giải pháp, chính sách để phát triển sản phảm bảo hiểm nhân thọ
liên kết đầu tư.
Về phía doanh nghiệp bảo hiểm: các công ty BHNT ở Việt Nam cần chú
trọng nhiều đến các nhóm sản phẩm mang tính chất bảo vệ truyền thống hơn, đi
kèm đó là những dòng sản phẩm “thời thượng” đáp ứng nhu cầu đầu tư của khách
hàng. Dù sao cũng không thể nào quên bảo hiểm là một ngành dịch vụ đặc biệt,
dịch vụ đem lại cho khách hàng diễn ra trong suốt quá trình trước, trong và sau khi
ký kết hợp đồng bảo hiểm. Lợi ích của BHNT được cảm nhận rõ nhất khi người
Page 21


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
tham gia (người được hưởng quyền lợi bảo hiểm) nhận được tiền chi trả bảo hiểm.
Vì vậy chất lượng phục vụ từ khâu tư vấn, quản lý hợp đồng, giám định và chi trả
quyền lợi sẽ quyết định khách hàng lựa chọn công ty nào khi mà sản phẩm của các
công ty hầu như giống nhau. Đồng thời, doanh nghiệp bảo hiểm cũng cần nâng cao
chất lượng dịch vụ, tư vấn khách hàng cũng như các ưu đãi khi khách hàng tham
giasử dụng sản phẩm bảo hiểm. Chế độ hậu mãi, quà tặng… cũng là một cách để
khách hàng yên tâm và muốn người thân trong gia đình tham gia các gói sản phẩm
của bảo hiểm nhân thọ.
Về phía cơ quan quản lý nhà nước: cần phải hoàn thiện các quy định của
pháp luật, cần có những hướng dẫn để triển khai, quản lý và giám sát hoạt động
của sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư của các danh nghiệp bảo hiểm.Đồng thời,

cần phát triển kinh tế đất nước để thị trường chứng khoán được ổn định và phát
triển.
Về phía khách hàng: cần có những hiểu biết về loại sản phẩm này cũng như
tài chính, chứng khoán để có thể tham gia loại sản phẩm này có hiệu quả.

KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu về bản chất và vai trò của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên
kết đầu tư, chúng ta đã nhận thấy tiềm năng và những lợi ích của sản phẩm này. Để
bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư thực sự phát triển và trở thành sự lựa chọn tin
cậy của khách hàng thì trong thời gian tới, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
doanh nghiệp bảo hiểm cần phải có những chính sách cụ thể, phù hợp với tình hình
thị trường.

Page 22


Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 (sửa đổi, bổ sung 2010)
2. Quy chế triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết chung” ban hành theo Quyết
định số 96/2007/QĐ-BTC ngày 23/11/2007
3. Thông tư 135/2012/TT-BTC hướng dẫn triển khai sản phẩm bảo hiểm liên
kết đơn vị
4. Một số vấn đề pháp lý về sản phẩm bảo hiểm nhân thọ- Ths Trần Vũ HảiTạp chí Luật học số 8/2011 Tr 25-37
5. Phát triển sản phẩm bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư – Võ Đình Trí – Tạp
chí phát triển kinh tế số 7/2008.
Một số trang web
/> /> /> />Từ viết tắt:
Page 23



Bài tập nhóm Luật kinh doanh bảo hiểm Nhóm 9 – N02
BHNT: bảo hiểm nhân thọ
DNBH: doanh nghiệp bảo hiểm
BHNTLKĐT: bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư

Page 24



×