Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

Vai trò an sinh xã hội với tiến bộ xã hội của việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 161 trang )

11

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH BÀN VỀ AN SINH XÃ HỘI, TIẾN BỘ XÃ HỘI
VÀ VAI TRÒ CỦA AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI TIẾN BỘ XÃ HỘI

1.1.1. Các công trình chủ yếu nghiên cứu nội dung an sinh xã hội
An sinh xã hội là một trong những vấn đề quan trọng trong chiến lược phát
triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, ASXH đã và đang là vấn đề được quan tâm
nghiên cứu bởi các nhà khoa học trong nước và trên thế giới với cách tiếp cận,
nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể đến những công trình chủ yếu
và các kết quả nghiên cứu chính sau:
Cuốn An sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực [122] của Mạc Văn Tiến
tập hợp 101 bài viết nghiên cứu, bài trao đổi tại các Hội thảo trong và ngoài
nước của tác giả, cuốn sách chia làm 3 phần: Phần I - Một số vấn đề về an sinh
xã hội, gồm 17 bài, đã đề cập đến nhiều nội dung, nhiều khía cạnh khác nhau về
ASXH, như khái niệm, cấu trúc, nội dung của ASXH. Phần II - Bảo hiểm xã hội
(BHXH), gồm 55 bài, đề cập đến nguồn gốc, đặc trưng, chức năng, vai trò của
BHXH, tác giả đã nhấn mạnh, BHXH là một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất
của hệ thống ASXH. Phần III - Phát triển nguồn nhân lực, gồm 29 bài, đề cập
đến nhiều vấn đề khác nhau về nguồn nhân lực hiện nay ở nước ta.
Cuốn Giáo trình An sinh xã hội [57] của tác giả Nguyễn Văn Định đã cung
cấp những kiến thức cơ sở về ASXH. Cuốn giáo trình đã nêu ra vai trò của
ASXH; bản chất và chức năng của ASXH; hệ thống các chính sách ASXH, như
bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội, chính sách xóa đói giảm nghèo,
quỹ dự phòng; nêu ra sự cần thiết, các nguyên tắc và nội dung của quản lý nhà
nước về ASXH. Với những nội dung được trình bày, giáo trình này là tài liệu cơ
sở để phân tích những vấn đề lý luận về ASXH và ASXH ở Việt Nam hiện nay.
Cuốn Hệ thống an sinh xã hội của EU và bài học kinh nghiệm cho Việt




12
Nam [147] của tác giả Đinh Công Tuấn đã phân tích tổng quát về hệ thống
ASXH của châu Âu nói chung và một số quốc gia điển hình trong việc cải cách
hệ thống ASXH: Mô hình “thị trường xã hội” của Đức; mô hình “thị trường tự
do” của Anh; mô hình “xã hội dân chủ” của Thụy Điển. Cuốn sách còn chỉ ra
thành công, hạn chế và xu hướng cải cách của hệ thống ASXH của một số nước
châu Âu; từ đó, gợi ý những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam hiện nay.
Cuốn sách Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở
Việt Nam [23] của tác giả Mai Ngọc Cường đã cung cấp một cái nhìn tổng quan
về khái niệm, cấu trúc, nội dung của ASXH. Chẳng hạn, về khái niệm ASXH,
tác giả cho rằng, ASXH là một khái niệm mở, có thể tiếp cận phạm trù này dưới
hai giác độ là theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp: Theo nghĩa rộng, ASXH là sự bảo
đảm thực hiện các quyền để con người được hưởng an bình, an ninh, an toàn và
an khang trong xã hội; theo nghĩa hẹp, ASXH là sự đảm bảo thu nhập và một số
điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập do họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho
những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế,
người bị thiên tai địch hoạ… Tác giả ủng hộ cách tiếp cận ASXH theo nghĩa
hẹp, vì theo tác giả, cách tiếp cận theo nghĩa hẹp phù hợp với cách tiếp cận của
ILO. Tác giả cuốn sách đã đưa ra quan điểm nghiên cứu về khái niệm ASXH là
sự đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và
cộng đồng trước những biến động về kinh tế, xã hội và tự nhiên làm cho họ bị
giảm hoặc khả năng lao động hoặc mất việc làm, bị ốm đau, bệnh tật, hoặc tử
vong; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người
yếu thế, những nạn nhân chiến tranh, những người bị thiên tai địch hoạ.
Chiến lược an sinh xã hội 2011 - 2020 [17] của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội đã chỉ ra rằng, hệ thống ASXH thời kỳ 2011 - 2020 gồm 3 tầng
lưới có khả năng hỗ trợ lẫn nhau hướng tới mục tiêu bảo đảm mức sống tối thiểu

cho mọi người dân, không để cho người dân bị bần cùng hóa, bị gạt ra bên lề xã
hội, gồm: Lưới thứ nhất - Phòng ngừa rủi ro, bao gồm nhóm chính sách hỗ trợ


13
người dân có việc làm, tạo thu nhập và tham gia thị trường lao động để chủ động
phòng ngừa rủi ro về đời sống, sức khỏe, sản xuất kinh doanh hoặc do biến động
của môi trường tự nhiên; lưới thứ hai: Giảm thiểu rủi ro, bao gồm nhóm chính
sách BHXH, BHYT, bảo hiểm nông nghiệp để bù đắp phần thu nhập bị suy giảm
hoặc bị mất do các biến cố trong đời sống, sức khỏe, sản xuất kinh doanh và môi
trường tự nhiên; lưới thứ ba: Khắc phục rủi ro, bao gồm nhóm chính sách trợ
giúp xã hội, xóa đói giảm nghèo, tăng cường cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội
cơ bản để hỗ trợ người dân khắc phục các rủi ro không lường trước hoặc vượt
quá khả năng kiểm soát do các biến cố trong đời sống, sức khỏe, sản xuất kinh
doanh và môi trường tự nhiên, bảo đảm điều kiện sống tối thiểu của người dân.
Đây thực chất là nội hàm phản ánh khái niệm, nội dung, chức năng ASXH ở
nước ta mà luận án sẽ kế thừa.
Trong cuốn Pháp luật an sinh xã hội - Kinh nghiệm của một số nước đối
với Việt Nam [66] của Trần Hoàng Hải và Lê Thị Thuý Phương, các tác giả đã
nghiên cứu, phân tích hệ thống pháp luật ASXH ở một số nước tiêu biểu như
Đức, Mỹ, Nga; đồng thời, trình bày những nội dung cơ bản của pháp luật Việt
Nam. Trên cơ sở sử dụng phương pháp nghiên cứu, so sánh luật, tác giả đưa ra
nhận định, đánh giá chung về những ưu điểm, bất cập trong pháp luật hiện hành,
đồng thời đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh
vực này. Cuốn sách được chia làm ba chương: Chương 1: Tổng quan hệ thống về
ASXH, chương này nghiên cứu về nguồn gốc xuất xứ của thuật ngữ ASXH, vai
trò của ASXH và các thiết chế ASXH dưới góc độ pháp luật quốc tế. Chương 2:
Pháp luật ASXH của một số nước, chương này tập trung nghiên cứu pháp luật
ASXH của một số quốc gia tiêu biểu như Mỹ, Đức và Nga. Đây là những quốc
gia có những nét rất đặc trưng và có thể đại diện cho các mô hình ASXH khác

nhau trên thế giới. Chương 3: Pháp luật về ASXH của Việt Nam, chương này
giới thiệu khái quát hệ thống ASXH Việt Nam, phân tích những đặc điểm của hệ
thống và sự điều chỉnh của pháp luật đối với hệ thống. Trên cơ sở những kinh
nghiệm thực hiện pháp luật về ASXH của các quốc gia khác, các tác giả rút ra


14
một số bài học để vận dụng vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
ASXH ở Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo đất nước rất quan tâm
đến vấn đề ASXH, nhất là trong thời kỳ đổi mới đất nước. Để thuận lợi cho nhận
thức và hành động, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, các quan điểm chỉ
đạo đó đã được trình bày một cách ngắn gọn, hệ thống trong cuốn sách Tìm hiểu
một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng [114] do Nguyễn Văn
Thạo và Nguyễn Viết Thông đồng chủ biên, công trình đã tập hợp, tuyển chọn
các định nghĩa về ASXH của các nhà nghiên cứu, các tổ chức quốc tế, từ đó làm
cơ sở dẫn giải các quan điểm của Đảng ta về ASXH. Các tác giả đã nhấn mạnh
rằng, ASXH ở nước ta hiện nay được hiểu là một hệ thống chính sách và giải
pháp áp dụng rộng rãi để trợ giúp các thành viên trong xã hội đối phó với những
rủi ro và khó khăn khi gặp phải, dẫn đến mất việc làm hoặc làm suy giảm
nghiêm trọng đến quyền thu nhập và cuộc sống. Hệ thống ASXH ở nước ta

gồm 5 trụ cột cơ bản là hệ thống chính sách, giải pháp và các chương trình
phát triển thị trường lao động; phát triển hệ thống bảo hiểm; thực hiện có hiệu
quả chương trình xoá đói giảm nghèo bền vững; xây dựng thực hiện tốt chính
sách ưu đãi đối với ngững người có công; phát triển hệ thống phúc lợi xã hội
và hệ thống dịch vụ xã hội.
Cuốn Thuật ngữ an sinh xã hội Việt Nam [125] của Viện Khoa học và Lao
động xã hội (ILSSA) phối hợp với Dự án Hỗ trợ giảm nghèo ở Việt Nam, do Tổ
chức GIZ thực hiện dưới sự uỷ quyền của Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Đức

(BMZ) xây dựng, xuất bản năm 2011. Với gần 200 thuật ngữ ASXH sắp xếp
theo thứ tự ABC bằng tiếng Việt và song ngữ Việt - Anh, cuốn sách không chỉ
đem lại sự thuận tiện trong tra cứu mà còn giúp độc giả có một cái nhìn tổng
quát về mối liên hệ giữa các trụ cột trong hệ thống ASXH ở Việt Nam cùng các
chương trình, chính sách có liên quan thông qua sơ đồ về hệ thống ASXH.


15
Tác giả Dương Văn Thắng với bài Bảo đảm an sinh xã hội dưới ánh sáng
Đại hội XI của Đảng [115] đã cho rằng, “an sinh” là một từ Hán-Việt. An - trong
chữ “an toàn”, sinh - trong chữ “sinh sống”, an sinh có thể hiểu là “an toàn sinh
sống”. Nói một cách khái lược: Xã hội an sinh là xã hội mà mọi người được an
toàn sinh sống, hay là có cuộc sống an toàn. Nói ngắn gọn, ASXH là một tấm
lưới che chắn, bảo đảm an toàn cho xã hội và con người, là nhân tố bảo đảm cho
việc phát triển kinh tế - xã hội bền vững. An sinh xã hội là trụ cột của hệ thống
chính sách xã hội, Hệ thống ASXH gồm các cơ chế, chính sách, giải pháp nhiều
tầng, nấc nhằm bảo vệ cho mọi thành viên trong xã hội không bị rơi vào tình
trạng bần cùng hóa bởi tác động tiêu cực của các loại rủi ro. An sinh xã hội có ba
chức năng chính là phòng ngừa rủi ro, hạn chế rủi ro và khắc phục rủi ro.

Cuốn An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020 [105] do Vũ Văn Phúc
chủ biên, đây là một tập hợp các bài viết của các nhà quản lý, các chuyên gia
nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực liên quan đến vấn đề ASXH. Mỗi bài viết
được tiếp cận từ các khía cạnh khác nhau về chủ đề ASXH, nhưng đều khẳng
định hệ thống ASXH ở nước ta hướng tới mục tiêu góp phần không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm cho sự phát
triển bền vững của đất nước.
Ngày 13-3-2012, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương đã phối hợp với
Tạp chí Cộng sản, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội đồng Khoa học
các cơ quan Đảng Trung ương tổ chức Hội thảo khoa học - thực tiễn “An sinh xã

hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”[5]. Các bài tham luận đã làm
rõ nội hàm khái niệm ASXH; kết cấu, các trụ cột chính của hệ thống ASXH nói
chung, của hệ thống ASXH ở Việt Nam nói riêng; xác định thành tố, trụ cột nào
là quan trọng nhất cần tập trung xây dựng và củng cố. Hội thảo đã làm rõ những
thành tựu, hạn chế, những vấn đề đang đặt ra cần giải quyết để tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện hệ thống ASXH ở nước ta sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi
mới. Đồng thời, phân tích những quan điểm định hướng lớn của Đảng và Nhà


16
nước ta về xây dựng, hoàn thiện hệ thống ASXH trong thời kỳ đổi mới đất nước,
những giải pháp đột phá, khả thi cần thực hiện trong quá trình đổi mới, hoàn
thiện hệ thống ASXH ở nước ta hiện nay và đến năm 2020.

Trong bài Tiếp cận an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay trên quan điểm
phát triển bền vững [99], tác giả Nguyễn Thị Nga đã nhấn mạnh rằng, trong
thực tiễn, do sự đa dạng về nội dung, phương thức và góc độ tiếp cận nên hiện
nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về ASXH, nhưng tựu trung lại, dù tiếp
cận dưới giác độ nào đi chăng nữa, thì về bản chất, ASXH là vấn đề vừa có
tính kinh tế, vừa có tính xã hội, vừa có tính nhân đạo rất sâu sắc. Nhà nước có
vai trò quan trọng trong bảo đảm ASXH, đối tượng bảo đảm ASXH là đông
đảo các tầng lớp dân cư.
Cuốn Những thách thức và giải pháp đối với chính sách an sinh xã hội bền
vững cho tất cả mọi người tại Việt Nam và Đức [103] do Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia phối hợp với Hội đồng Lý luận Trung ương xuất bản năm 2013. Cuốn
sách tập hợp những bài tham luận của các nhà khoa học hàng đầu về ASXH của
Việt Nam và Đức. Các bài hội thảo đã góp phần rút ra những bài học cho Việt
Nam hiện nay khi thực hiện ASXH từ mô hình ASXH của Đức. Chẳng hạn,
nước Đức là một nước có hệ thống ASXH toàn diện. Hệ thống ASXH của Đức
chủ yếu chịu ảnh hưởng của trường phái Bismarck, lấy hệ thống BHXH làm

nòng cốt để thực hiện chính sách ASXH cho người dân. Hệ thống ASXH của
Đức thực hiện trên cơ sở “hợp đồng giữa các thế hệ", thanh toán bảo hiểm trên
nguyên tắc phụ thuộc.

Về mục tiêu: Chính sách ASXH ở Đức nhằm hướng đến sự phát triển
bền vững "phồn vinh cho tất cả và công bằng xã hội". Đức là một trong số
những nước có mạng lưới các chính sách xã hội dày đặc nhất: Ngân sách nhà
nước cấp cho các khoản chi xã hội chiếm tới 26,7% GDP. Tỷ lệ đó ở Mỹ chỉ
là 15,9% và tỷ lệ trung bình trong các nước OECD là 20,5%. Một hệ thống
toàn diện gồm bảo hiểm y tế (BHYT), hưu trí, tai nạn, chăm sóc người già,


17
người bệnh và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) bảo vệ người dân. Ngoài ra, hệ
thống các chính sách xã hội toàn diện còn bao gồm những hỗ trợ của nhà
nước lấy từ nguồn thu thuế, như hỗ trợ cho gia đình (trợ cấp cho con, giảm
thuế) hoặc an sinh cơ bản cho người về hưu và người thất nghiệp dài hạn. Đức
là một nhà nước xã hội coi việc bảo đảm ASXH cho tất cả công dân của mình
là một nhiệm vụ hàng đầu. Ngày nay, gần 90% người dân sống ở Đức được
hệ thống các chính sách xã hội bảo vệ.
Về hình thức an sinh xã hội phong phú, đa dạng: Đảm bảo ASXH ở Đức
góp phần ổn định cuộc sống của hàng triệu người dân, trong đó phần lớn là phụ
nữ, trẻ em, người thất nghiệp dài hạn. Đức được đánh giá là nước có đối tượng
nhận trợ cấp xã hội rộng rãi nhất ở khu vực EU và trên thế giới hiện nay.
Đối tượng hưởng thụ và các biện pháp trong chính sách an sinh xã hội của
Đức rất rộng rãi, dựa trên các nguyên tắc chủ yếu: Nguyên tắc hợp hiến; nguyên
tắc đoàn kết và hỗ trợ, nguyên tắc hỗ trợ dựa trên trách nghiệm cá nhân, nguyên
tắc phối hợp công bằng.
Công tác chống tiêu cực của Đức trong việc đảm bảo an sinh xã hội của
người dân nhằm đảm bảo "phồn vinh cho tất cả và công bằng xã hội" được tiến

hành một cách nghiêm ngặt, đúng pháp luật. Vì thế, những tiêu cực ít nảy sinh
trong quá trình thực hiện. Hơn nữa, Đức có chính sách quan tâm, đảm bảo cuộc
sống cho những người thực thi chính sách ASXH. Điều kiện sống của họ tốt nên
ít nảy sinh tiêu cực.
Cuốn Chính sách an sinh xã hội và vai trò của Nhà nước trong việc thực
hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam [29] của tác giả Nguyễn Văn Chiều.
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về chính sách ASXH và vai
trò của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH, kinh nghiệm quốc tế
và thực trạng Nhà nước thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam, cuốn sách đã
phân tích những nội dung cơ bản của chính sách ASXH và vai trò của Nhà nước
trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam hiện nay.


18
Đề tài khoa học cấp Bộ: Đảm bảo an sinh xã hội - Định hướng mô hình và
giải pháp [2], do Đặng Nguyên Anh làm chủ nhiệm, đã phân tích khái niệm và
các chức năng, cấu trúc và các nguyên tắc cơ bản của hệ thống ASXH, tạo cơ sở
lý luận cho việc định hướng mô hình và giải pháp về ASXH ở Việt Nam. Đề tài
làm rõ những đặc điểm chung và nét đặc thù của từng mô hình, từ đó có thể gợi
mở cho Việt Nam.
Đề tài cấp Nhà nước: Cơ sở khoa học của việc xây dựng sàn an sinh xã hội
ở Việt Nam giai đoạn năm 2011 - 2020 [162], mã số KX.02.07/11-15, do Viện
Khoa học Lao động và Xã hội thực hiện, đã phân tích và thống nhất về cơ sở
khoa học của việc xây dựng sàn an sinh xã hội ở Việt Nam, đề xuất các mức
chuẩn để xây dựng sàn ASXH, các chính sách trong sàn ASXH. Đây là cơ sở
quan trọng góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống lý luận về ASXH, vai trò
của ASXH ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Hai tác giả William Reichenstein, William Meyer trong cuốn sách Social
Security Strategies: How to Optimize Retirement Benefits (Chiến lược ASXH:
Làm thế nào để tối ưu hóa lợi ích hưu trí) [168], ngoài việc cung cấp cách thức

sử dụng các thông tin và công nghệ tự động để tận dụng tối đa các lợi ích ASXH,
nội dung chính của tác phẩm đã chỉ ra một số yếu tố ảnh hưởng đến ASXH và
hưu trí của người dân nước Mỹ; đề xuất các biện pháp chuyên gia nhằm giúp
người dân xây dựng chiến lược ASXH thông minh nhằm nâng cao thu nhập đời
và giảm thiểu nguy cơ hết tiền tiết kiệm hưu trí.
Với cuốn sách Basis of social security in Asia: Mutual aid, micro-insurance
and social security (Cơ sở ASXH ở châu Á: Viện trợ lẫn nhau, bảo hiểm vi mô
và ASXH) [167], James Midgley là người đầu tiên nghiên cứu một cách toàn
diện các hoạt động của các hiệp hội lẫn nhau và các chương trình bảo hiểm vi
mô của các hiệp hội ở châu Á nơi mà các chương trình này được phát triển đặc
biệt tốt. Nội dung của cuốn sách có thể tóm lược như sau: Trên cơ sở cung cấp
thông tin cơ bản để nhận biết và định dạng cơ bản về các hiệp hội tác động lẫn
nhau trong các phần khác nhau của khu vực, bao gồm Nam Á, Sri Lanka, Thái


19
Lan, Mông Cổ, Indonesia và Philippines, cuốn sách đã chỉ ra cho người đọc
những hiểu biết quan trọng về tiềm năng của các hiệp hội để cung cấp bảo vệ thu
nhập hiệu quả và làm thế nào các hoạt động của họ có thể đóng góp vào việc xây
dựng chiến lược ASXH toàn diện và cơ sở hiệu quả trong thế giới đang phát
triển đóng góp rõ rệt cho mục tiêu xoá đói, giảm nghèo và cải thiện mức sống.
Tác phẩm Social Security, Medicare & Government Pensions (An sinh xã
hội, chăm sóc y tế và trợ cấp chính phủ) [166] của Joseph Matthews Attorney.
Cuốn sách đã bàn sâu về lợi ích và hệ thống chăm sóc y tế, nhà ở xã hội, tiền
lương hưu, chính sách cho những người có công với đất nước và cách thức để
đảm bảo BHYT tốt nhất.
Ngoài những công trình nêu trên, một số công trình khác cũng nghiên cứu
lý luận về ASXH ở nhiều khía cạnh khác nhau. Chẳng hạn, An sinh xã hội ở Việt
Nam: Những quan điểm và cách tiếp cận cần thống nhất [46]; An sinh xã hội
Bắc Âu trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và bài học cho Việt Nam [148];

Giáo trình nhập môn an sinh xã hội [77]; An sinh xã hội ở Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới [97]; Từ nhận thức đến thực tiễn: Xây dựng trụ cột chính của hệ
thống An sinh xã hội Quốc gia [116] v.v.. Những nghiên cứu này sẽ được tham
khảo, kế thừa trong quá trình triển khai luận án.
1.1.2. Những công trình chủ yếu nghiên cứu nội dung của tiến bộ xã hội
Ngay từ rất sớm, trên thế giới đã có những nghiên cứu về TBXH dưới
những góc độ khác nhau. Từ những nghiên cứu của các nhà khoa học, Đại hội
đồng Liên hợp quốc nhận thấy rằng cần đưa ra Tuyên bố về phát triển và tiến bộ
xã hội để định hướng cho nhận thức và tìm ra cách thức để thúc đẩy TBXH.
Tuyên bố về phát triển và tiến bộ xã hội được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông
qua theo Nghị quyết 2542 (XXIV) ngày 11/12/1969) đã nêu ra những nguyên tắc,
mục tiêu, phương tiện, biện pháp để thực hiện sự phát triển và TBXH, trong đó
Tuyên bố nêu rõ:
Phát triển và TBXH nhằm đạt được các mục tiêu sau:


20
Thứ nhất, phát triển và TBXH cần dựa trên cơ sở tôn trọng phẩm giá và giá
trị của con người.
Thứ hai, tạo điều kiện để phát triển kinh tế và xã hội một cách bền vững và
nhanh chóng, nhất là ở các nước đang phát triển; thay đổi quan hệ kinh tế quốc tế,
có những biện pháp mới và hiệu quả trong hợp tác quốc tế, trong đó bình đẳng
về cơ hội được coi là đặc quyền giữa các dân tộc và giữa các cá nhân trong dân
tộc đó.
Thứ ba, cung cấp một hệ thống an sinh xã hội toàn diện và các dịch vụ phúc
lợi xã hội; thiết lập và cải thiện hệ thống ASXH và hệ thống bảo hiểm cho tất cả
những người ốm đau, khuyết tật, tuổi già đang tạm thời hoặc vĩnh viễn không
còn khả năng kiếm sống, nhằm đảm bảo một mức sống thích đáng cho những
người này cùng gia đình và những người sống phụ thuộc vào họ.
Những mục tiêu mà Tuyên bố nêu ra cho đến nay vẫn là cơ sở để các quốc

gia trên thế giới phấn đấu thực hiện, qua đó đã thúc đẩy sự tiến bộ chung của thế
giới. Trên tinh thần đó, những công trình nghiên cứu về TBXH ngày càng phong
phú và nhận thức về TBXH ngày càng sâu sắc hơn.
Cuốn sách Tiến bộ xã hội - một số vấn đề lý luận [20] do tác giả Nguyễn
Trọng Chuẩn chủ biên, đã phân tích những nội dung cơ bản về TBXH. Theo các
tác giả, trong tương quan với những phạm trù cấu thành nội dung các nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa duy vật (chẳng hạn, tồn tại xã hội - ý thức xã hội, phương
thức sản xuất: Lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng - kiến trúc
thượng tầng...), TBXH là sự thể hiện nội dung của các nguyên lý đó trong khía
cạnh giá trị của vấn đề. Nói cách khác, nếu các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
lịch sử được xem xét từ lăng kính giá trị học thì giá trị của các quan hệ xã hội
được phản ánh trong các nội dung đó chính là nội dung của khái niệm TBXH.
Theo các tác giả, TBXH dù xét ở góc độ nào, dù có mang tính khách quan
đến mấy thì cũng không thể là cái gì khác ngoài sản phẩm của sự đánh giá của
con người đối với các hiện tượng và quá trình mang tính xã hội đã, đang hoặc sẽ
diễn ra cùng với sự tồn tại của con người. Trong so sánh với những giá trị khác,


21
những giá trị của sự tiến bộ, phần nhiều là các giá trị thứ sinh, phái sinh, tức là
những giá trị được xác định trên cơ sở đã tồn tại các giá trị vật chất hoặc tinh
thần khác. Sự đánh giá về trình độ tiến bộ của một hiện tượng hoặc một quá trình
nào đó, thông thường không đơn thuần chỉ là đánh giá dựa vào các giá trị nội tại,
ban đầu của các hiện tượng và các quá trình đã diễn ra trong đời sống xã hội, mà
là sự đánh giá ở cấp độ cao hơn - những hiện tượng và quá trình cụ thể đó có ý
nghĩa như thế nào đối với sự phát triển nói chung của cộng đồng và của xã hội
loài người.
Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, các tác giả nhấn mạnh: Tiến
bộ xã hội, xét cho cùng, là sự vận động của xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội
này tới hình thái kình tế xã hội khác cao hơn. Sự vận động ấy diễn ra trong một

quá trình lịch sử - tự nhiên, với khuynh hướng của sự phủ định có kế thừa giữa
các xã hội theo chiều xoáy ốc đi lên. Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa duy
vật lịch sử, TBXH là một tiến trình mang tính quy luật, là một hiện tượng khách
quan và tất yếu - nó vốn có đối với mọi xã hội.
Các tác giả cũng cho rằng, việc kiến giải về TBXH theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vật lịch sử cho phép khẳng định rằng, dù lịch sử xã hội loài người có
quanh co đến mấy, dù bộ mặt của tiến bộ trong xã hội hiện đại có đa dạng đến
mấy thì cái có ý nghĩa sâu xa, quyết định mọi tiến bộ vẫn là sự phát triển của lực
lượng sản xuất, vẫn là sự lớn mạnh của nền sản xuất xã hội. Mặc dù TBXH là
một giá trị gắn rất chặt với các nhân tố tinh thần, chịu sự chi phối của các nhân
tố tinh thần, tuy nhiên, cái quyết định TBXH, xét cho cùng, vẫn là các nhân tố
vật chất, thuộc về nền sản xuất xã hội. Việc đánh giá vai trò to lớn của đời sống
tinh thần, tính quy định của các nhân tố văn hoá tinh thần... trên thực tế, đều phải
dựa vào một tiền đề là thừa nhận tính quyết định của đời sống vật chất. Sự tác
động trở lại của các nhân tố tinh thần đối với đời sống vật chất xã hội, về thực
chất, cũng là tác động để nhân tố vật chất tăng thêm sức mạnh vốn có của nó.
Các tác giả nhấn mạnh rằng, vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất, của sự
tăng trưởng kinh tế đối với TBXH là điều không cần phải bàn cãi, nhưng việc


22
chú ý hơn đến vai trò của phong tục, tập quán, nếp tư duy hoặc lĩnh vực tâm
linh... của mỗi cộng đồng đối với TBXH cũng không kém phần ý nghĩa.
Cuốn Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội [69] của tác giả Nguyễn Minh
Hoàn đã có những nghiên cứu chuyên sâu về khái niệm TBXH. Sau khi khảo
cứu quan điểm của các nhà triết học, các nhà tư tưởng trong lịch sử, cuốn sách đã
trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất, tiêu chuẩn của
TBXH. Đáng chú ý, theo tác giả, trong các yếu tố thúc đẩy TBXH, thì công bằng
xã hội là một yếu tố cơ bản. Công bằng xã hội không chỉ là động lực của TBXH
mà còn là thước đo về mặt xã hội của TBXH. Nhận định này của tác giả cuốn

sách là gợi ý để chúng tôi nghiên cứu về vai trò của ASXH đối với TBXH ở
nước ta hiện nay.
Cuốn sách Gắn tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội [151] của
tác giả Trần Nguyễn Tuyên đã phân tích về khái niệm TBXH, quan điểm của chủ
nghĩa Mác -Lênin về TBXH, tiêu chuẩn của TBXH. Cuốn sách khẳng định, theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, TBXH bao giờ cũng là sự thống nhất giữa
trình độ phát triển của LLSX với trình độ phát triển con người và trình độ phát
triển con người, thông qua việc thực hiện công bằng xã hội với một thước đo
bình đẳng thực sự nhằm phát huy vai trò và khả năng con người trong nền sản
xuất nói riêng và trong tiến trình phát triển lịch sử nói chung. Sự phát triển xã
hội là kết quả hoạt động của con người, đến lượt mình, xã hội phải là điều kiện
để ngày càng phát triển cao hơn phẩm giá con người trong xã hội và đây là mục
tiêu cao nhất của TBXH.
Cuốn sách Tiến bộ xã hội: Một số vấn đề về mô hình phát triển ở Đông Á
và Đông Nam Á [109] của tác giả Hồ Sĩ Quý đã nghiên cứu những quan điểm cơ
bản về tăng trưởng, phát triển, phát triển bền vững và tiến bộ xã hội; vấn đề mô
hình phát triển Đông Á và Đông Nam Á; phát triển và tiến bộ ở Việt Nam: Một
số vấn đề nhìn từ kinh nghiệm Đông Á và Đông Nam Á. Nội dung cuốn sách tập
trung bàn về những vấn đề cấp bách thuộc lý thuyết TBXH và những vấn đề
nóng đang tranh cãi về mô hình phát triển ở Đông Á và Đông Nam Á. Cuốn sách


23
cũng chỉ ra nhiều gợi ý liên quan đến sự phát triển ở Việt Nam, trong đó có
những vấn đề về TBXH, trong khi chúng tôi thực hiện luận án này.
Trong bài Về quan điểm tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta [68], tác giả
Trần Hậu đã cho rằng, để giải phóng con người theo nghĩa đầy đủ của nó chẳng
những phải tăng trưởng kinh tế mà phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội…,
cần tiếp tục tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận để xây dựng một mô hình lý
thuyết về phát triển xã hội, về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp với

điều kiện nước ta. Những đặc điểm lịch sử cụ thể không giống nhiều nước đòi
hỏi một khung lý thuyết về tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam mà không
thể dập khuôn mô hình của bất cứ nước nào. Đó là cả một quá trình công phu tìm
tòi từ nhiều góc độ khác nhau trong lịch sử và hiện tại, từ góc độ kinh tế đến
chính trị, văn hoá, tập quán và tâm lý...
1.1.3. Các công trình nghiên cứu vai trò của an sinh xã hội đối với tiến
bộ xã hội
Trong cuốn An sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực [122], tác giả Mạc
Văn Tiến cho rằng, ASXH đã góp phần thúc đẩy TBXH…; rằng, sự phát triển xã
hội là một quá trình, trong đó các nhân tố kinh tế và nhân tố xã hội thường xuyên
tác động lẫn nhau… Theo tác giả, cần phải thấy rằng, ASXH không loại trừ được
sự nghèo túng mà chỉ có tác dụng góp phần đẩy lùi nghèo túng, góp phần vào
việc thúc đẩy TBXH.
Cuốn sách An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020 [105] của tác giả Vũ
Văn Phúc đã phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về ASXH ở Việt Nam
trong những năm đổi mới; trong đó, chỉ ra những thành tựu, vai trò của ASXH
đối với sự phát triển xã hội cũng như những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và định
hướng xây dựng hệ thống ASXH ở Việt Nam đến năm 2020.
Cuốn sách Về an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2012 – 2020 [26] của tác
giả Mai Ngọc Cường đã phân tích thực trạng phát triển ASXH ở Việt Nam hiện
nay, đồng thời phân tích vai trò của hệ thống ASXH đối với các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Cuốn sách còn giới thiệu kinh nghiệm của một số nước trong việc


24
phát triển hệ thống ASXH nhằm tăng cường vai trò của nó trong đời sống xã hội,
thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
Cuốn sách Phát triển hệ thống an sinh xã hội Việt Nam đến năm 2020 [75],
do Nguyễn Thị Lan Hương (chủ biên) xuất bản năm 2014, đã cung cấp một số


thông tin cơ bản về tình hình thực hiện ASXH năm 2013 và đi sâu phân tích
những hạn chế và định hướng chính sách nhằm khắc phục những bất cấp đang
tồn tại. Đối với lĩnh vực chính sách BHXH, một trong những trụ cột chính của
hệ thống chính sách ASXH, nhóm nghiên cứu đưa ra 5 tồn tại và 5 khuyến
nghị hoàn thiện chính sách. Cụ thể, loại hình BHXH bắt buộc, với các quy
định của pháp luật hiện hành đã nảy sinh một số bất cập như mức độ tuân thủ
của các doanh nghiệp không cao, nguy cơ mất cân đối quỹ lớn và phạm vi
hưởng hưu trí còn thấp (chỉ 21% người từ 60 tuổi trở lên có lương hưu). Với
loại hình BHXH tự nguyện, số người tham gia còn rất thấp, nông dân, lao
động trẻ tham gia chưa nhiều. Với loại hình BHTN, phạm vi bao phủ còn hẹp,
chỉ giới hạn ở người lao động trong các doanh nghiệp có sử dụng từ 10 lao
động trở lên. Để giải quyết những tồn tại trên, nhóm nghiên cứu đưa ra
khuyến nghị: với BHXH bắt buộc, cần tăng cường chế tài; từng bước điều
chỉnh tuổi nghỉ hưu hưởng BHXH; cải thiện tình hình đầu tư tăng trưởng quỹ.
Với BHXH tự nguyện, xây dựng chính sách khuyến khích nông dân, người
lao động khu vực phi chính thức tham gia. Với BHTN, cần mở rộng diện
tham gia không phân biệt quy mô lao động của doanh nghiệp. Đây là tài liệu
quan trọng để nghiên cứu về vai trò của ASXH đối với TBXH ở Việt Nam
trong những năm đổi mới.
Đề tài Cơ sở khoa học của việc xây dựng sàn an sinh xã hội ở Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2020 [162], mã số KX.02.07/11-15 của Viện Khoa học Lao
động và Xã hội đã phân tích mục tiêu của việc xây dựng sàn ASXH. Theo đó,
s

ảm bảo quyền cơ bản của con người về thu nhập tối

thiểu; y tế cơ bản; giáo dục cơ bản; nhà ở, nước sạch, nhà vệ sinh; đặc biệt đối


25

với người yếu thế

ối tượng

chính (i. Trẻ em; ii. Người dân trong tuổi lao động nhưng thu nhập từ việc
làm không đảm bảo được mức sống tối thiểu; và iii. Người cao tuổi). Đề tài
đã phân tích những kết quả và hạn chế của việc xây dựng sàn ASXH ở Việt
Nam những năm qua. Những phân tích này cho thấy rõ vai trò của ASXH đối
với TBXH. Những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ được kế thừa trong quá
trình thực hiện luận án.
Trong bài Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là
nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 [40],
nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh rằng, trong việc thực hiện
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, công tác bảo đảm an sinh xã
hội và phúc lợi xã hội đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống các chính
sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng đồng bộ và hoàn thiện trên các
lĩnh vực: Xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm,
ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội (TGXH), mở rộng các dịch vụ xã
hội công cộng, tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về văn hóa,
y tế và giáo dục. Cùng với nguồn lực không ngừng tăng lên và những nỗ lực
trong tổ chức thực hiện, ASXH và phúc lợi xã hội ngày càng được bảo đảm tốt
hơn, góp phần quan trọng vào nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đặt trọng tâm vào công tác xóa đói, giảm nghèo, cùng với việc đẩy mạnh
phát triển kinh tế, xã hội để nâng cao mức sống chung của nhân dân, Đảng và
Nhà nước đã ban hành và tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều chính sách, chương
trình, dự án và huy động nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp người nghèo,
vùng nghèo vượt qua khó khăn, vươn lên thoát nghèo. Các chính sách và giải
pháp xóa đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện: (1)
Giúp người nghèo tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế,

giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở, nước sinh hoạt; (2) Hỗ trợ phát triển


26
sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm đất sản xuất, tín dụng ưu đãi,
khuyến nông - lâm - ngư, phát triển ngành nghề; (3) Phát triển cơ sở hạ tầng thiết
yếu cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Đến nay công tác xóa đói giảm
nghèo đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được nhân dân đồng tình, quốc tế
đánh giá cao: Số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn khoảng 10%
(năm 2010); chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần
(năm 1999) xuống còn 2 lần (năm 2008). Đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được nâng lên rõ rệt. Việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về
việc làm với nhiều chính sách trợ giúp thiết thực, hàng năm giải quyết được hơn
1,6 triệu việc làm mới cho người lao động, giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp ở

thành thị từ 6,42% (năm 2000) xuống còn khoảng 4,6% (năm 2010), tăng thời
gian sử dụng lao động ở nông thôn, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống
cho nhân dân. Thu nhập thực tế bình quân đầu người 10 năm qua tăng khoảng
2,3 lần.
Hệ thống bảo BHXH và BHYT được quan tâm phát triển với nội dung và
hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho
những người tham gia. Bảo hiểm xã hội được triển khai đồng bộ với 3 loại hình
là: Bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Số người
tham gia bảo hiểm bắt buộc tăng nhanh, từ 4,8 triệu (năm 2001) lên 9,4 triệu
(năm 2009), chiếm 18% tổng số lao động. Sau gần 3 năm triển khai bảo hiểm xã
hội tự nguyện, đến năm 2010 có khoảng 96,6 nghìn người tham gia. Dự kiến đến
cuối năm 2020 có khoảng 5,8 triệu người tham gia BHTN. Bảo hiểm y tế tăng
nhanh từ 13,4% dân số (năm 2000) lên khoảng 62% (năm 2010). Đặc biệt, đã
thực hiện chính sách BHYT miễn phí cho trẻ em đến 6 tuổi, một số đối tượng
chính sách, người nghèo và hỗ trợ BHYT cho các hộ cận nghèo,...


Với bài viết Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội - một công
cụ quan trọng nhằm thực hiện công bằng xã hội ở nước ta [120], tác giả
Phạm Thị Ngọc Trầm đã luận chứng rằng, hệ thống ASXH mạnh là một công


27

cụ quan trọng góp phần thực hiện công bằng xã hội. Việc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống ASXH có vai trò và ý nghĩa to lớn đối với mỗi cá nhân cũng
như cộng đồng và toàn thể xã hội. Đó là một nhiệm vụ cấp bách và thiết thực
nhằm thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm cuộc sống an toàn cho mọi người
dân, sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA AN
SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI TIẾN BỘ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Trong cuốn An sinh xã hội đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam [3], tác giả Mai Ngọc Anh đã phân tích cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân trong điều
kiện kinh tế thị trường; tổng kết kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện hệ thống
ASXH đối với nông dân ở một số nước trên thế giới, rút ra kinh nghiệm có
thể vận dụng vào xây dựng hệ thống ASXH nước ta; khái quát thực trạng hệ
thống ASXH ở nước ta, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn
chế của hệ thống ASXH đối với nông dân; sử dụng ma trận SWOT làm rõ
những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức; trên cơ sở đó, đề xuất các
phương án xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH đối với nông dân ở nước
ta những năm tới; đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm xây dựng và hoàn
thiện hệ thống ASXH đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường.
Trong Chiến lược an sinh xã hội 2011 - 2020 [17] của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã đánh giá thực trạng ASXH thời kỳ 2001 - 2010,
chỉ ra năm tồn tại cơ bản là: Thứ nhất, quan điểm và nhận thức về ASXH còn

chưa đầy đủ, nhiều chính sách thiết kế còn chưa phù hợp, mức độ tuân thủ
pháp luật của các bên tham gia còn yếu; các chế tài xử phạt chưa đủ mạnh,
mang nặng tính bao cấp của Nhà nước, chưa hướng vào các giải pháp nhằm
nâng cao năng lực tự chống đỡ cho người dân; thứ hai, hệ thống chính sách
ASXH chưa đầy đủ, thiếu sự liên kết và hỗ trợ, chồng chéo làm giảm hiệu quả
vốn đầu tư. Một số chính sách ASXH chưa thực sự đến được với dân cư ở


28
những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; chưa bổ sung kịp thời các chính
sách mới để đảm bảo ổn định cuộc sống và an sinh cho người dân; thứ ba, mức
độ bao phủ của hệ thống ASXH còn thấp, đối tượng còn hẹp. Hệ thống chính
sách ASXH còn bất bình đẳng. Một tỷ lệ lớn nguồn lực của ASXH phân phối
cho nhóm đối tượng chính sách xã hội và khu vực chính thức; thứ tư, nguồn đầu
tư cho ASXH của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng của
ASXH; cơ chế tài chính còn nhiều bất cập. Khả năng bền vững tài chính của các
chính sách ASXH chưa cao; thứ năm, quản lý nhà nước về ASXH còn nhiều bất
cập, thiếu một hệ thống giám sát đánh giá hiệu quả.

Trong cuốn An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020 [105], tác giả
Vũ Văn Phúc đã phân tích những vấn đề thực tiễn về ASXH ở nước ta, bao
gồm những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế, yếu kém còn tồn tại
và định hướng xây dựng hệ thống ASXH ở Việt Nam từ nay đến năm 2020.
Trong bài An sinh xã hội ở Việt Nam: Những quan điểm và cách tiếp cận
cần thống nhất [46], tác giả Nguyễn Trọng Đàm đã phân tích thực trạng hệ
thống ASXH ở nước ta; chỉ ra một số hạn chế cần khắc phục và đưa ra quan
điểm, cách tiếp cận, giải pháp giải quyết vấn đề ASXH giai đoạn 2012 - 2020.
Tác giả Phạm Xuân Nam với bài An sinh xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới [97], đã cho rằng, thời kỳ trước đổi mới, do nhiều nguyên nhân mà
chủ yếu là do thực hiện những chủ trương, chính sách mang nặng tính chủ

quan, duy ý chí trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội
theo một mô hình cũ đã lỗi thời, cho nên nước ta đã lâm vào khủng hoảng
kinh tế - xã hội trầm trọng. Trong điều kiện như vậy, việc bảo đảm ASXH chỉ
có thể bó hẹp trong một số chế độ trợ cấp ở mức thấp cho những người có
công với cách mạng, cho thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ… Trong thời kỳ
đổi mới đất nước, cùng với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, sự nghiệp bảo đảm ASXH ở nước ta đã đạt được những
thành tựu rất đáng khích lệ, tuy vẫn còn những hạn chế yếu kém nhất định.


29
Trong cuốn Chính sách an sinh xã hội và vai trò của Nhà nước trong
việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam [29], trên cơ sở nghiên
cứu thực trạng chính sách ASXH ở Việt Nam trong 30 năm thực hiện đường
lối đổi mới đất nước, tác giả Nguyễn Văn Chiều đã chỉ ra rằng trong giai đoạn
vừa qua, nhiều chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã
được triển khai có hiệu quả, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh
tế với bảo đảm công bằng và TBXH. Tuy nhiên, theo tác giả, các chính sách
ASXH của nước ta vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định.
Đề tài khoa học cấp Bộ: Đảm bảo an sinh xã hội: Định hướng mô hình
và giải pháp, do Đặng Nguyên Anh làm chủ nhiệm [2], dựa trên khảo sát xã
hội học, thu thập và phân tích số liệu ở các cấp, đề tài đã phân tích thực trạng
ASXH của Việt Nam, trong đó trọng tâm là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
lương hưu, trợ giúp xã hội (thường xuyên và không thường xuyên) và vấn đề
đảm bảo các dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, thông tin, việc làm).
Những khó khăn, bất cập được đi sâu tìm hiểu và phân tích đánh giá nhằm
định vị mô hình ASXH ở Việt Nam hiện nay và trong 5 - 10 năm tới. Tuy
nhiên, những số liệu này cần nhìn nhận thêm ở những góc độ khác nhau.
Trong bài An sinh xã hội 25 năm đổi mới: Thành tựu và những vấn đề
đặt ra [27], tác giả Mai Ngọc Cường cho rằng, sau 25 năm đổi mới, hệ thống

an sinh xã hội (ASXH) ở nước ta ngày càng hoàn thiện và có đóng góp quan
trọng vào việc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, nhưng vẫn còn không ít
bất cập. Hệ thống ASXH đang trong quá trình hình thành, chưa đồng bộ, một
số chương trình tính khả thi thấp. Mức độ bao phủ, mức độ tác động của các
chương trình ASXH nhìn chung chưa cao; nguồn tài chính thực hiện các
chương trình ASXH thiếu tính bền vững, vì: Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp
luật chưa đầy đủ và chưa hoàn thiện; thứ hai, mức tham gia BHXH thấp hoặc
không có khả năng tham gia hệ thống ASXH; hệ thống chính sách trợ giúp về
việc làm, thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo… chậm được nối kết vào hệ thống


30
tổng thể về ASXH dẫn đến sự trùng chéo, chưa đáp ứng được yêu cầu; thứ
ba, năng lực tổ chức thực hiện chính sách ASXH chưa theo kịp với yêu cầu.
Mô hình chính sách, tổ chức hoạt động, phục vụ thiếu đa dạng; nguồn tài
chính cho ASXH còn thấp; thiếu các chế tài buộc doanh nghiệp thực hiện
nghĩa vụ đóng góp BHXH, BHYT cho người lao động; công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm các quy định về ASXH chưa thường xuyên;
sự phối hợp giữa ngành chủ quản với cơ quan quản lý nhà nước và các địa
phương chưa chặt chẽ; đội ngũ cán bộ làm công tác ASXH còn thiếu về số
lượng và yếu về tính chuyên nghiệp.
Ngoài những công trình trên, còn có những công trình nghiên cứu những
khía cạnh khác nhau về thực trạng ASXH. Chẳng hạn, bài Nỗ lực phấn đấu
thực hiện có hiệu quả chính sách an sinh xã hội [100]; Chiến lược an sinh xã
hội Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 [74]; Hệ thống chính sách an sinh xã hội ở
nước ta trong giai đoạn phát triển mới [44]; Vai trò của chính sách bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế đối với an sinh xã hội của đất nước [71]; Tiếp tục thực
hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với nước ta hiện nay và định hướng
đến năm 2020 [35]…
Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về ASXH. Các

nhà khoa học đã đề cập ASXH dưới nhiều cách tiếp cận từ lý luận đến thực tiễn,
dưới giác độ triết học, xã hội học, kinh tế học… Tuy nhiên, chưa có công trình
nào đi sâu nghiên cứu về thực trạng vai trò của ASXH đối với TBXH từ góc độ
triết học. Đây là vấn đề sẽ được tập trung nghiên cứu sâu trong luận án này.
1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT HUY
VAI TRÒ CỦA AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI TIẾN BỘ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

Trong cuốn Lý thuyết và mô hình an sinh xã hội (phân tích thực tiễn ở
Đồng Nai) [110], các tác giả Phạm Văn Sáng, Ngô Quang Minh, Bùi Văn
Huyền, Nguyễn Anh Dũng đã phân tích và đưa ra những nhận định, giải pháp,


31
góp phần xây dựng hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam. Chẳng
hạn, giải pháp bảo đảm ASXH thông qua BHXH; giải pháp bảo đảm ASXH
thông qua y tế; giải pháp bảo đảm ASXH thông qua trợ cấp xã hội (TCXH) và
xóa đói giảm nghèo. Những giải pháp này là gợi ý quan trọng để luận án đưa
ra những giải pháp nhằm phát huy vai trò của ASXH đối với TBXH ở Việt
Nam hiện nay.
Cuốn sách Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở
Việt Nam [23] của tác giả Mai Ngọc Cường đã khái quát, phân tích và đề xuất
những phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách
ASXH tiến tới xây dựng mô hình ASXH phù hợp với điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Những
phương hướng cơ bản mà cuốn sách nêu ra như: Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống chính sách ASXH ở Việt Nam phải đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, bền
vững, đa tầng và linh hoạt với cơ chế, chính sách phù hợp vẫn là những
phướng hướng cơ bản để xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH ở nước ta
hiện nay. Cuốn sách cũng nêu ra các giải pháp để xây dựng và hoàn thiện hệ

thống ASXH ở nước ta hiện nay, bao gồm: Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về ASXH; hoàn thiện cơ chế tài chính cho ASXH; hoàn thiện tổ
chức, quản lý của hệ thống ASXH; nâng cao nhận thức xã hội về ASXH;
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực thi chính sách ASXH; phối hợp xây
dựng, hoàn thiện và thực hiện chính sách ASXH với xây dựng, hoàn thiện và
thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội khác; tăng cường vai trò của nhà nước
trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH… Việc nghiên
cứu những giải pháp này có thể đánh giá tính hiệu quả, thiết thực của các giải
pháp về xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về ASXH ở nước ta những
năm qua, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng và hoàn thiện về hệ
thống ASXH trong thời gian tới. Có thể nói, với những nội dung đã được trình

bày, cuốn sách là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các nhà nghiên cứu quan


32
tâm đến vấn đề này cũng như đối với các nhà quản lý, hoạch định chính sách.
Chiến lược an sinh xã hội 2011 - 2020 [17] của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội đã đưa ra 11 nhóm giải pháp cơ bản để thực hiện chiến lược an
sinh xã hội thời kỳ 2011 - 2020, bao gồm: Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ
thống chính sách hỗ trợ người dân có việc làm, nâng cao thu nhập và tham gia
thị trường lao động; nhóm giải pháp hoàn thiện chính sách hỗ trợ người dân
tham gia BHXH; nhóm giải pháp hoàn thiện chính sách hỗ trợ người dân
tham gia BHYT; nhóm giải pháp hoàn thiện chính sách TGXH; nhóm giải
pháp về giảm nghèo; nhóm giải pháp tăng cường tiếp cận các dịch vụ xã hội
cơ bản cho các đối tượng và vùng đặc thù; nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về ASXH; nhóm giải pháp nâng cao nhận thức của các cấp,
các ngành và người dân về ASXH; nhóm giải pháp huy động sự tham gia của
các đối tác xã hội trong thực hiện ASXH; thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực ASXH; phát triển hệ thống giám sát đánh giá thực hiện chiến lược

ASXH.
Cuốn sách Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi
mới của tác giả Nguyễn Thị Thanh [112], đã phân tích một số vấn đề đặt ra
đối với việc thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới; quá
trình Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội những năm đầu đổi mới, thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; một số kinh nghiệm của Đảng
trong lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội. Những kinh nghiệm nêu ra trong
cuốn sách góp phần cung cấp những luận cứ để luận án đề xuất những giải
pháp phát huy vai trò của ASXH đối với TBXH ở Việt Nam hiện nay.
Cuốn an sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020 của tác giả Vũ Văn
Phúc [105], đưa ra nhiều giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống
ASXH ở Việt Nam, vì sự phát triển bền vững của đất nước. Bằng cách tiếp
cận hệ thống ASXH với hai bộ phận: An sinh xã hội đóng - hưởng và ASXH
không đóng góp, cuốn sách phân tích thực trạng phát triển ASXH ở nước ta


33
hiện nay, chỉ ra những thành tựu cũng như hạn chế và nguyên nhân hạn chế.
Trên cơ sở phân tích bối cảnh thế giới và trong nước, quán triệt các mục tiêu,
phương hướng và giải pháp thực hiện một số vấn đề chính sách xã hội, trong
đó có chính sách ASXH giai đoạn 2012 - 2020 của Nghị quyết số 15- NQ/TW
ngày 01 tháng 06 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI và Nghị
quyết số 70/NQ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2012 của Chính phủ đã đưa ra,
cuốn sách khuyến nghị một số vấn đề có ý nghĩa quan trọng để thực hiện
chính sách ASXH ở nước ta những năm tới. Ngoài ra, cuốn sách còn có phần
phụ lục giới thiệu kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển hệ thống
ASXH để tham khảo trong nghiên cứu và hoạch định chính sách phát triển
ASXH ở nước ta trong những năm tới.
Đề tài khoa học cấp Nhà nước: Cơ sở khoa học xây dựng sàn an sinh xã
hội ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, mã số KX.02.07/11-15 [162] do Doãn

Mậu Diệp làm chủ nhiệm, trên cơ sở đề xuất 5 quan điểm cơ bản để xây dựng
sàn ASXH phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội, các tác giả đã đưa ra 6
nhóm giải pháp xây dựng sàn ASXH ở Việt Nam đến năm 2020, bao gồm các
giải pháp: Tăng cường bảo đảm các chính sách sàn ASXH đối với trẻ em;
tăng cường bảo đảm các chính sách sàn ASXH cho người lao động yếu thế;
nghiên cứu và ứng dụng chương trình việc làm công; mở rộng đối tượng tham
gia BHXH; tăng cường bảo đảm các chính sách sàn ASXH cho người cao tuổi;
xây dựng bộ cơ sở dữ liệu hợp nhất cho các chính sách sàn ASXH; phát triển
hệ thống theo dõi và đánh giá sàn ASXH.
Đề tài khoa học cấp Bộ: Đảm bảo an sinh xã hội: Định hướng mô hình
và giải pháp [2] do Đặng Nguyên Anh chủ nhiệm, đã đề xuất quan điểm mục
tiêu và định hướng giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình ASXH ở Việt Nam từ
nay đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Những đề xuất mô hình và lộ trình thực
hiện được trình bày tại phần cuối của báo cáo tổng hợp với một số giải pháp
cụ thể đối với BHXH, BHYT và bảo trợ xã hội là những trụ cột cơ bản của


34
mô hình ASXH ở Việt Nam. Đây là một công trình nghiên cứu có giá trị khoa
học với thông tin, số liệu phong phú đáng được tham khảo. Đề tài đã góp
phần trả lời câu hỏi về hệ thống ASXH Việt Nam cần được điều chỉnh như
thế nào, và mô hình giải pháp chính sách cần chú ý ra sao nhằm thực hiện
mục tiêu đảm bảo ASXH và phát triển bền vững.
Ngoài những công trình nêu trên, còn có nhiều công trình khác cũng
nghiên cứu, đề xuất những giải pháp thực hiện ASXH ở những góc độ khác
nhau. Chẳng hạn, trong cuốn Về an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2012 –
2020 do Mai Ngọc Cường chủ biên [26], tác giả đã phân tích những vấn đề cơ
bản về ASXH, đề xuất các phương hướng và giải pháp phát triển ASXH ở
Việt Nam giai đoạn tới. Bài viết Tổ chức thực hiện bảo hiểm y tế đối với
người nghèo - Thực trạng và giải pháp của tác giả Nguyễn Minh Hải [61];

Góp phần xây dựng hệ thống an sinh xã hội tổng thể ở nước ta hiện nay của
tác giả Trịnh Duy Luân [88]; Cơ sở khoa học của việc xây dựng, hoàn thiện
hệ thống chính sách an sinh xã hội ở nước ta giai đoạn 2006-2015 Kỷ yếu
Hội thảo Khoa học thuộc đề tài KX02-02/06-10 [6]; An sinh xã hội trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2011-2020 đăng trên Tạp chí
Lao động và Xã hội của tác giả Nguyễn Hữu Dũng [38]; An sinh xã hội đối
với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam - sách chuyên
khảo của tác giả Mai Ngọc Anh [3]; Bảo đảm an sinh xã hội dưới ánh sáng
Đại hội XI của Đảng của tác giả Dương Văn Thắng [115]; Nghèo ở Việt Nam
- những thách thức và giải pháp; Tính ưu việt của Luật Bảo hiểm xã hội, Luật
Bảo hiểm y tế - thách thức trong triển khai và giải pháp đảm bảo an sinh xã
hội của tác giả Bùi Sĩ Lợi đăng trên Tạp chí Cộng sản [85; 86]; Báo cáo của
các bộ, ngành “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo, giai đoạn
2005 - 2012” [155]… Những kết quả nghiên cứu sẽ được chúng tôi kế thừa
trong quá trình thực hiện luận án.


35
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
1. Nhận xét chung về các công trình khoa học đã đề cập
Một là, hầu hết các công trình nghiên cứu đã đề cập và phân tích những vấn
đề lý luận về ASXH cũng như vai trò của nó đối với TBXH. Mặc dù có những
cách tiếp cận khác nhau, song tựu trung lại, ASXH được hiểu theo hai nghĩa: Theo
nghĩa rộng, ASXH là toàn bộ các bộ các biện pháp của nhà nước, cộng đồng, cá
nhân nhằm đảm bảo cuộc sống cho người dân trong toàn xã hội; theo nghĩa hẹp,
ASXH hướng tới sự đảm bảo tối thiểu cho mục tiêu mưu sinh của một bộ phận
dân cư thuộc nhóm yếu thế, gặp rủi ro hay chịu thiệt thòi trong xã hội.
Về vai trò của ASXH đối với TBXH, đa số các tác giả tuy đã có đề cập và
đều thống nhất ở điểm chung khi cho rằng ASXH đảm bảo sự phát triển bền
vững của xã hội, ổn định chính trị - xã hội, góp phần vào xây dựng nguồn nhân

lực, thể hiện tính nhân văn cao cả… nhưng chưa có sự phân tích hệ thống từ góc
độ triết học.
Hai là, các tác giả đã có cái nhìn khá toàn diện về cấu trúc, mô hình của
ASXH, tạo nên bức tranh tổng quát về ASXH và chính sách ASXH đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới, toàn cầu hóa và chủ động
hội nhập quốc tế. Các công trình đã phản ánh khá sâu sắc và rõ nét về những
thành tựu ASXH trong 30 năm đổi mới đất nước… nhưng chưa phân tích làm
nổi bật vai trò của những thành tựu ấy đối với TBXH dưới góc độ triết học.
Ba là, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra những bài học kinh nghiệm đối
với việc xây dựng hệ thống chính sách và thực tiễn giải quyết vấn đề ASXH ở
các quốc gia trên thế giới. Những bài học này có giá trị tham khảo cho việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH ở Việt Nam.
Bốn là, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế về nhận thức, về
hệ thống chính sách ASXH và thực hiện ASXH trên nhiều lĩnh vực. Do vậy,
nhiều công trình nghiên cứu đã đề xuất những quan điểm, giải pháp góp phần
thay đổi nhận thức, cách thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả, phát huy tốt vai trò
của ASXH trong những năm tiếp theo.


×