Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: ỨNG DỤNG DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG MÔN NGỮ VĂN 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.63 KB, 26 trang )

UBND HUYỆN HOÀI ĐỨC
MÃ SKKN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

ỨNG DỤNG DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG MÔN NGỮ VĂN 9

Môn: Ngữ văn

NĂM HỌC 2015 – 2016


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

MỤC LỤC
A- PHẦN MỞ ĐẦU
I - Lí do chọn đề tài
II - Mục đích nghiên cứu

2
2

III - Thời gian và đối tượng nghiên cứu
B. NỘI DUNG
I. CỞ SỞ LÝ LUẬN
1. Đặc trưng của các phương pháp dạy học theo định hướng phát
triển năng lực của học sinh:
2. Cơ sở thực tiễn


II - QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Tình trạng thực tế trước khi thực hiện đề tài
2 - Những biện pháp thực hiện ( Nội dung đề tài)
2-1 Tạo hứng thú trong tiết Ngữ văn 7
2.2. Nghiên cứu, xây dựng một tiết học theo định hướng phát triển
năng lực học sinh
2.3. Thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hướng dẫn
học sinh sử dụng các kênh thông tin khác sách giáo khoa:
2.4. Tiến hành giảng dạy các tiết học theo định hướng phát triển năng
lực học sinh
2.5. Tiếp nhận thông tin phản hồi từ học sinh
3. Kết quả

2
3
3
6
7
7
10
12
12
20
20

C - KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ:

Tên Đề tài:
2/25


21


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

ỨNG DỤNG DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG MÔN NGỮ VĂN 9
A - PHẦN MỞ ĐẦU
I - LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Ngữ văn là môn học nghệ thuật, đặc biệt là văn học. Văn học dùng chất liệu
hiện thực kết hợp nghệ thuật ngôn từ để phản ánh hiện thực, thể hiện tư tưởng
tình cảm của tác giả, Vì vậy dạy văn học là khai thác nghệ thuật ngôn từ để làm
rõ nội dung hiện thực và tư tưởng tình cảm của tác giả. Từ đó, dạy văn người
giáo viên phải đảm bảo được đặc điểm trên của môn học, phải giúp học sinh
thấy được cái hay, cái đẹp về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm qua đó cảm
nhận được điều nhà văn muốn gửi đến người đọc. Mặc khác thông qua việc học
những tiết văn học, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự khám phá,
cảm thụ một tác phẩm văn học, giúp các em có khả năng giao tiếp đạt hiệu quả.
Hiện nay nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, hội nhập kinh tế ngày
càng mở rộng đòi hỏi nền giáo dục Việt Nam không ngừng cải tiến, đổi mới phù
hợp với thế giới và các quốc gia trong khu vực. Mặt khác, trong bối cảnh đó,
nền giáo dục còn có những bất cập về chất lượng giáo dục, nhiều giáo viên sử
dụng phương pháp dạy học lạc hậu đã gây nên tình trạng thụ động trong học tập
của học sinh dẫn đến hiệu quả dạy học chưa cao. Học sinh ít được lôi cuốn động
viên khích lệ để hứng thú, tự giác học tập, gây nên tình trạng chán học, bỏ học ở
một số bộ phận học lực yếu kém. Nhằm nâng cao chất lượng dạy học, chúng ta
đã đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học
sinh. Nhằm dần đưa phương pháp mới vào dạy học đại trà trong môn Ngữ văn,
tôi mạnh dạn vận dụng vào bộ môn Ngữ văn 9.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

- Khơi dạy lòng yêu thích môn Ngữ văn.
- Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Học sinh phải tự tìm tòi,
nghiên cứu kiến thức, tổng hợp, đánh giá các kiến thức.
- Rèn luyện khả năng xử lý tình huống, xử lý thông tin của học sinh, nhận xét
- tổng hợp thông tin thành kiến thức cho học sinh.
III. THỜI GIAN VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1. Thời gian nghiên cứu
- Đăng ký đề tài: tháng 9 năm 2014
- Nghiên cứu tài liệu, làm đề cương đề tài: tháng 11năm 2014.
- Nghiên cứu thực tế: từ tháng 11 năm 2014 đến tháng 3 năm 2015.
3/25


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

- Hoàn thành đề tài, viết báo cáo: tháng 4- 2015.
2. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trong giảng dạy môn Ngữ văn 9 tại trường đang
giảng dạy.
B. NỘI DUNG
I. CỞ SỞ LÝ LUẬN
1. Đặc trưng của các phương pháp dạy học theo định hướng phát triển
năng lực của học sinh:
a) Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Trong phương pháp dạy học mới, người học - đối tượng của hoạt động
"dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt
động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá
những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã
được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế,
người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra

theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm
được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn
mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà
còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh
biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
b) Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Phương pháp này xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh
không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu
dạy học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin,
khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão - thì không thể nhồi nhét
vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy
cho học sinh phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao
hơn càng phải được chú trọng.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn
luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì
sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết
quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt
hoạt động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập
thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường
4/25


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có
sự hướng dẫn của giáo viên.
c) Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể

đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp dạy học phát triển năng lực học
sinh buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ
học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.
áp dụng phương pháp phát triển năng lực học sinh ở trình độ càng cao thì
sự phân hóa này càng lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin
trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu
và khả năng của mỗi học sinh.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều
được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường
giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên
con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong
tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người
học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và
kinh nghiệm sống của người thầy giáo.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp
nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động
hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học
tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu
cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động
theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi
thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần
tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho
các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia,
liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà
trường phải chuẩn bị cho học sinh.
d) Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều
kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.

Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp
phát triển năng lực học sinh, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ
năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên
5/25


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự
đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành
đạt trong cuộc sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp phát triển năng lực học sinh để
đào tạo những con người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc
kiểm tra, đánh giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại
các kĩ năng đã học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc
giải quyết những tình huống thực tế.
Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là
một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời
hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn
đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành
người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để
học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến
thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt
động là chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án,
giáo viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ
động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động
viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi
của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư
phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà

nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
Có thể so sánh đặc trưng của dạy học cổ truyền và dạy học mới như sau:
Dạy học cổ truyền
Quan
niệm

Học là qúa trình tiếp
thu và lĩnh hội, qua đó hình
thành kiến thức, kĩ năng, tư
tưởng, tình cảm.

Truyền thụ tri thức, truyền
Bản chất thụ và chứng minh chân lí
của giáo viên.
Mục tiêu Chú trọng cung cấp tri thức,
kĩ năng, kĩ xảo. Học để đối
phó với thi cử. Sau khi thi
xong những điều đã học
6/25

Các mô hình dạy học mới
Học là qúa trình kiến tạo; học
sinh tìm tòi, khám phá, phát
hiện, luyện tập, khai thác và xử lý
thông tin,… tự hình thành hiểu biết,
năng lực và phẩm chất.
Tổ chức hoạt động nhận thức
cho học sinh. Dạy học sinh cách tìm
ra chân lí.
Chú trọng hình thành các năng

lực (sáng
tạo,
hợp
tác,…)
dạy phương pháp và kĩ thuật lao
động khoa học, dạy cách học. Học


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

thường bị bỏ quên hoặc ít
dùng đến.

Nội dung

Từ sách giáo khoa + giáo
viên

để đáp ứng những yêu cầu của cuộc
sống hiện tại và tương lai. Những
điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản
thân học sinh và cho sự phát triển xã
hội.
Từ nhiều nguồn khác nhau: SGK,
GV, các tài liệu khoa học phù hợp,
thí nghiệm, bảng tàng, thực tế…: gắn
với:
- Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và nhu
cầu của HS.
- Tình huống thực tế, bối cảnh và

môi trường địa phương
- Những vấn đề học sinh quan tâm.

Các phương pháp diễn giảng,
Phương
truyền thụ kiến thức một
pháp
chiều.

Các phương pháp tìm tòi, điều tra,
giải quyết vấn đề; dạy học tương tác.

Hình Cố định: Giới hạn trong 4
thức tổ bức tường của lớp học, giáo
chức viên đối diện với cả lớp.

Cơ động, linh hoạt: Học ở lớp, ở
phòng thí nghiệm, ở hiện trường,
trong thực tế…, học cá nhân, học đôi
bạn, học theo cả nhóm, cả lớp đối
diện với giáo viên.

2. Cơ sở thực tiễn
Trường tôi đang công tác luôn chú trọng tiếp thu, xây dựng các phương
pháp dạy học mới nhằm phát huy năng lực của học sinh, giúp học sinh lĩnh hội
được kiến thức, phát triển năng lực toàn diện.
Sau khi tiếp thu chuyên đề của Huyện, bản thân tôi là giáo viên tham gia
trực tiếp giảng dạy nhiều năm nhận thấy: phương pháp dạy học theo định hướng
phát triển năng lực học sinh là rất cần thiết, phải được áp dụng rộng rãi trong các
giờ học nói chung và trong giờ học Ngữ văn nói riêng.


II - QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
2. Tình trạng thực tế trước khi thực hiện đề tài
- Học sinh chưa thật sự hứng thú yêu thích môn học.
- Học sinh không tự tìm tòi, khám phá, phát hiện, giải quyết vấn đề, khai thác
và xử lý thông tin ... mà chủ yếu là tiếp thu và lĩnh hội qua thầy.
7/25


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

- Học sinh chủ yếu được cung cấp tri thức, kĩ sảo thông qua giáo viên, chứ
chưa chịu sáng tạo, hợp tác để đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống hiện tại
và tương lai.
- Giáo viên giữ quyền độc lập đánh giá học sinh, các em chưa có cơ hội để
đánh giá lẫn nhau.
2 - Những biện pháp thực hiện ( Nội dung đề tài)
2-1 Tạo hứng thú trong tiết Ngữ văn
a) Tạo hứng thú cho học sinh thông qua việc tạo tâm thế học văn.
“Tạo tâm thế” cho học sinh trong giờ đọc - hiểu văn bản Văn học thực
chất là việc giáo viên tạo cho HS một tư thế vững vàng, một tâm lý thoải mái,
một xúc cảm, hứng thú và một tâm hồn đam mê khi tiếp cận một tác phẩm văn
học cụ thể. Vì Văn học là môn học gắn với cái đẹp. Học Ngữ văn là học cách
khám phá cái đẹp của tự nhiên, cái đẹp của xã hội và của con người, cái đẹp của
sự sáng tạo nên không chỉ dùng lí trí mà quan trọng hơn là phải giúp các em cảm
nhận được vẻ đẹp ấy bằng cả tâm hồn và sự rung động crái tim.
Để tạo được tâm thế cho trò thì trước hết giáo viên phải biết tạo cho mình một
tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng, một tình cảm thân thiện, gần gũi hoà đồng với
học trò. Muốn vậy, giáo viên vừa phải căn cứ vào mỗi bài dạy để tìm ra hình
thức “tạo tâm thế” phù hợp, vừa phải biết nén lòng quên đi những vướng bận lo

toan, nhọc nhằn của cuộc sống đời thường, giấu đi những giọt nước mắt, những
nỗi buồn. Bước lên bục “văn” với các em là chúng ta phải có cảm giác bước vào
một thế giới hoàn toàn mới lạ, tràn đầy hưng phấn, thiết tha với sứ mệnh thiêng
liêng, cao cả là người đưa đường, mở cửa dẫn các em hoà vào vương quốc của
cái đẹp, để được cười, được khóc không chỉ cho mình mà cho cả giai cấp mình,
dân tộc mình, cho những thân phận, số phận đau khổ trên trái đất, giống như
những lời thơ của tác giả Việt Nga:
“Giờ văn nụ cười, nước mắt
Nghẹn ngào, thanh thản đan xen
Thầy đau nỗi niềm dâu bể
Trò day dứt cùng thế nhân”.
Như thế trong suốt giờ Văn, người thầy phải biết quên mình để sống với
Văn, với học trò, để cùng các em say sưa đi vào lĩnh hội tri thức một cách có
hiệu quả. Người dạy Văn không chỉ là nhà khoa học, nhà sư phạm mà còn là
một nghệ sĩ trên bục giảng.
Thông thường trong một tiết đọc - hiểu văn bản, không phải lúc nào HS
cũng có thể tập trung chú tâm vào bài học, đặc biệt là những tác phẩm dài và
8/25


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

khó. Song tôi đã thu hút, hướng HS vào bài học bằng cách kiểm tra bài cũ, giới
thiệu bài mới, đặt ra những câu hỏi có vấn đề, liên tưởng, so sánh mở rộng vấn
đề trong bài học, phát huy khả năng sáng tạo của HS qua giao bài tập, trực tiếp
kiểm tra, đánh giá…
- Để tạo tâm thế học văn, Giáo viên phải chuẩn bị cho tiết dạy của mình một
cách chu đáo, hoàn mĩ từ thiết kế giáo án, các bước lên lớp, tiến trình bài học
đến tâm trạng, cảm xúc. Dạy văn không thể dùng lí trí mà phải cảm nhận và
truyền giảng bằng tâm hồn.

- Văn học là một môn khoa học mang đặc thù riêng, đòi hỏi người thầy phải
thường xuyên học hỏi, trau dồi, tích luỹ, mạnh dạn đổi mới về phương pháp,
làm mới mình bằng những bài giảng, những dẫn chứng gợi mở sinh động cho
bài học. Cần phải chọn được những tình huống, chi tiết, sự việc “có vấn đề” để
phát huy tính tích cực, chủ động và khả năng cảm thụ vấn đề của học sinh.
b) Tạo hứng thú cho học sinh thông qua hoạt động đọc diễn cảm.
Đọc diễn cảm giúp học sinh hình thành thế giới quan nhân sinh quan cộng
sản chủ nghĩa. Đây là một trong những hoạt động rất mệt nhọc đòi hỏi sự sáng
tạo. Nó đem lại cho các em niềm vui sướng trong sáng tạo, niềm say mê yêu
thích lao động và những sản phẩm làm ra kích thích lao động rèn luyện những
kỹ năng lao động.
Đọc diễn cảm là một phương tiện giáo dục bồi dưỡng đạo đức thẩm mĩ cho
các em học sinh bởi giáo dục thẩm mĩ và giáo dục đạo đức bao giờ cũng gắn liền
với nhau.Nó giúp cho các em cảm thụ cái hay, cái đẹp của văn học làm cho học
sinh yêu thích văn học từ đó có ý thức rèn luyện đọc diễn cảm. Ngoài ra, đọc
diễn cảm còn góp phần giáo dục tình yêu quê hương đất nước, nâng cánh ước
mơ cho học sinh nhận thức về tình yêu quê hương đất nước, giúp học sinh nhận
thức rõ tình cảm, hành động của mình đối với quê hương đất nước.
c) Tạo hứng thú cho học sinh bằng đàm thoại
Phương pháp đàm thoại là phương pháp mà GV căn cứ vào nội dung bài
học khéo léo đặt ra câu hỏi, để HS căn cứ vào kiến thức đã có kết hợp với sự
hướng dẩn của GV qua các thiết bị giảng dạy để làm sáng tỏ vấn đề.
GV là người đóng vai trò định hướng thông qua hệ thống các câu hỏi giúp
HS giải quyết vấn đề, tổng hợp lại vấn đề.
Đòi hỏi người GV phải có những kỹ năng sư phạm thật sự tốt : tâm lý, ứng
xử, giao tiếp…
Câu hỏi đặt ra phải có tính mục đích hệ thống, để dẩn giải được hs vào vấn
đề.Câu hỏi phải vắn tắt, đơn giản, rỏ ràng, phù hợp với trình độ HS.Câu hỏi phải

9/25



Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

kích thích được sự tư duy của học sinh.Phải có câu hỏi mang tính phân loại, để
kiểm tra khả năng lĩnh hội vấn đề của HS.
d) Tạo hứng thú cho học sinh bằng việc ứng dụng CNTT:
Ứng dụng CNTT không đồng nhất với đổi mới phương pháp dạy học
(PPDH). CNTT chỉ là phương tiện tạo thuận lợi cho triển khai PPDH tích cực,
chứ không phải là điều kiện đủ của PPDH này. Để một giờ học có ứng dụng
CNTT là một giờ học phát huy tính tích cực của HS, thì điều kiện tiên quyết là
việc khai thác CNTT phải đảm bảo các yêu cầu và tính đặc trưng của PPDH tích
cực mà GV lựa chọn.
- Để có thể ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, thì người giáo viên
phải có hiểu biết căn bản về nguyên lí hoạt động của máy tính và các phương
tiện hỗ trợ khác. Ngoài ra giáo viên phải thành thạo về các thao tác, biết xử lí
các tình huống trục trặc kĩ thuật ở trên lớp. Nếu không làm được như vậy, nhiều
khi sử dụng công nghệ thông tin lại gây mất thời gian, tiết học bị gián đoạn .
- Tránh lạm dụng công nghệ thông tin quá mức trong dạy học. Bởi lạm dụng
công nghệ thông tin sẽ biến tiết dạy thành tiết xem phim vai trò của người giáo
viên sẽ bị mờ nhạt. Mà thực tế dù dạy học theo phương pháp nào chăng nữa thì
người giáo viên vẫn là linh hồn của tiết học mà không thể một loại máy móc nào
có thể thay thế được.
e) Tạo hứng thú cho học sinh bằng việc sử dụng bản đồ tư duy.
Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,… là hình
thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ
đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình
ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực.
Sử dụng BĐTD trong dạy học kiến thức mới giúp HS học tập một cách
chủ động, tích cực và huy động được tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách

hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo
hàng ngày của HS và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh HS
khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của các em. Cách học này còn
phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì
trên BĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để
chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ,
chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Trong quá trình giảng dạy tôi đã từng hướng dẫn học sinh làm nhiều
BĐTD như

10/25


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

Từ sự hướng dẫn của GV, các em HS cũng tự lập được nhiều BĐTD theo
ý thích riêng của mình.
f) Tạo hứng thú cho học sinh bằng việc tổ chức các trò chơi:
Trò chơi trong văn học hay còn gọi là sân chơi lành mạnh bổ ích. Đó là
việc tổ chức cho học sinh thi trả lời bằng những hoạt động vui chơi giải trí
nhằm giáo dục toàn diện học sinh và củng cố rèn luyện kĩ năng phát triển óc tư
duy linh hoạt sáng tao.
Đảm bảo yêu cầu phổ cập: nghĩa là đa phần các bài tập trong trò chơi phải
có mức độ vừa phải, đủ để học sinh bình thường có thể giải quyết được trong
thời gian ngắn. Đồng thời, có nhiều bài tập để nhiều học sinh tham gia.
Là giáo viên khi tổ chức trò chơi không nên dùng ở mức độ giải trí đơn
thuần mà phải xem trò chơi thực sự là phương tiện giáo dục có hiệu quả nhanh,
dễ tiếp thu mà các em rất thích.
2.2. Nghiên cứu, xây dựng một tiết học theo định hướng phát triển năng lực
học sinh

a) Giáo viên nghiên cứu, định hướng bài học:
Để có một tiết dạy đạt kết quả cao thì cần phải có sự chuẩn bị tốt. Giáo
viên phải là người chủ động hướng dẫn học sinh, vì vậy trước mỗi tiết học người
giáo viên cần phải:
- Đọc, tìm hiểu, nghiên cứu kỹ tác giả, tác phẩm.
- Tìm tư liệu, hình ảnh ... liên quan đến bài học.
11/25


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

- Xây dựng đề cương giáo án.
- Soạn thảo câu hỏi, định hướng nội dung để học sinh chuẩn bị bài trước ở
nhà.
b) Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phát hiện, chuẩn bị theo định hướng
của giáo viên
Khi đã tạo hứng thú cho học sinh học Ngữ văn rồi thì Giáo viên không thể
là người đưa ra kiến thức để học sinh lĩnh hội mà học sinh cần là người chủ
động tìm tòi kiến thức để tiếp nhận kiến thức dễ dàng hơn. Trước mỗi tiết học,
giáo viên cần đưa ra những yêu cầu để học sinh chuẩn bị cho tiết học sau như:
- Đọc, tìm hiểu, nghiên cứu bài học theo hệ thống câu hỏi sách giáo khoa.
- Sưu tầm các tư liệu, hình ảnh ... liên quan đến những vấn đề mà giáo viên đã
định hướng trước.
c) Tổ chức tiết học
Để ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, người
giáo viên phải đảm bảo một số yêu cầu khi tổ chức tiết học:
- Tạo tâm thể thoải mái, hứng thú để học sinh tiếp nhận tiết học đạt kết quả
ngay từ hoạt động vào bài.
- Tổ chức các hoạt động nhằm hình thành và phát triển các năng lực: hợp tác,
sáng tạo, giao tiếp Tiếng Việt, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực tự tổng

quát vấn đề, năng lực tạo lập văn bản ... cho học sinh.
- Giáo viên phải tổ chức đa dạng các hình thức dạy và học.
- Học sinh đã được chuẩn bị nên trong các hoạt động, giáo viên phải là người
gợi mở để học sinh tự mình được trình bày ý kiến đóng góp, tranh luận, tổng
hợp, tự chiếm lĩnh kiến thức.
- Các hình thức tiến hành trong tiết học có thể là: cá nhân, nhóm, cả lớp, trình
bày thông qua kiến thức sách giáo khoa và thông qua vốn hiểu biết cá nhân
thực tế trong cuộc sống, tranh ảnh minh họa ...
- Học sinh tổng hợp kiến thức bằng bản đồ tư duy.
- Giáo viên nâng cao, mở rộng kiến thức để giáo dục, bồi dưỡng cho học sinh
những thông điệp mà nhà văn muốn thể hiện thông qua tác phẩm.
d) Tổng hợp, đánh giá tiết học
- Để công bằng và khách quan, đồng thời tạo được tâm lý thoải mái trong giờ
học việc tổng hợp, đánh giá kiến thức người thầy vẫn là người chủ động, người
hướng dẫn các em đến kiến thức đúng, bên cạnh đó, cần kết hợp đánh giá của
thầy với sự đánh giá của trò với trò.

12/25


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

2.3. Thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hướng dẫn học sinh
sử dụng các kênh thông tin khác sách giáo khoa:
Sách giáo khoa chỉ cung cấp một lượng kiến thức rất nhỏ trong kho tàng
văn học trong nước và thế giới, chỉ là những trích đoạn trong cả một tác phẩm
lớn nên nếu chỉ sử dụng sách giáo khoa thôi thì các em không thể hiểu rõ tác
phẩm được mà chỉ như “thầy bói xem voi” nên cần hướng dân các em sử dụng
các kênh thông tin khác trong việc học như:
- Sử dụng internet trong việc tự tìm tòi tư liệu phục vụ bài học, phát hiện các

kiến thức, hình thành các câu hỏi nghi vấn ...
- Sử dụng thư viện nhà trường để đọc các tài liệu văn học.
- Xây dựng tính tự giác, tự tin, mạnh dạn thông qua các hoạt động tập thể.
2.4. Tiến hành giảng dạy các tiết học theo định hướng phát triển năng lực
học sinh
- Ví dụ minh họa:
TIẾT 67 - Ngữ văn 9
VĂN BẢN:
LẶNG LẼ SA PA ( Tiếp theo)
(Trích)
Nguyễn Thành Long
I.
MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
1. Kiến thức
- Cảm nhận được vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện, đặc biệt là anh thanh
niên trong công việc, trong cách sống và những suy nghĩ, tình cảm, trong quan
hệ với mọi người.
- Nghệ thuật kể chuyện, xây dựng nhân vật khéo léo.
2. Kỹ năng
- Phân tích được nhân vật trong tác phẩm tự sự. Nêu cảm nghĩ về một đoạn
truyện.
- Làm việc nhóm, tham gia các hoạt động trong bài học đặc biệt là thực hành,
ứng dụng, bổ sung phát huy những năng lực bản thân (Năng lực giải quyết vấn
đề, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác...)
3. Tình cảm
- Ý thức vượt khó, yêu lao động, có tinh thần trách nhiệm trong công việc.
- Thắp lên ngọn lửa yêu thương, kính trọng những con người yêu lao động, đặc
biệt là những con người lao động thầm lặng.
- Giáo dục kĩ năng sống tích hợp với lối sống văn minh, thanh lịch cho học sinh.
II.

CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Chuẩn bị của giáo viên
13/25


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

- Soạn giáo án, tranh ảnh minh họa
- Hướng dẫn học sinh làm việc theo bàn, theo nhóm, sư tầm những tư liệu
2. Chuẩn bị của học sinh
- Soạn bài “Lặng lẽ Sa Pa”
- Vẽ tranh, trình bày những ấn tượng về nhân vật
III. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY VÀ HỌC
• Ổn định tổ chức
• Vào bài

Hoạt động của
giáo viên

Hoạt động của học sinh

Hình
thành
và phát
Nội dung cần đạt
triển
năng
lực

A. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG

- Cử một em đại diện lên trình bày
- Các em khác nhận xét
- Trình bày những
cảm nhận, ấn
tượng của các em
về vùng đất Sa Pa

Ở giờ học trước
cô đã yêu cầu các
em về nhà chuẩn
bị:
? Hãy trình bày
cảm nhận, ấn
tượng của em về
thiên nhiên ở
vùng đất Sa Pa?
-GV nhận xét,
cho điểm
- Vào bài:
B. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC MỚI
Các em đã thấy
II/ Đọc- Tìm hiểu
được vẻ đẹp thiên
chi tiết
nhiên của vùng
1/ Cảnh sắc thiên
đất Sa Pa… và
nhiên ở SaPa
trên nền bức tranh
thiên nhiên ấy,

2/Con người nơi
con người nơi đây
Sa Pa
càng thêm nồng
nàn ý vị qua phần
Anh TN
2
Ông họa sĩ, Cô kĩ
?Những
con
sư, Bác lái xe
14/25

- Năng
lực hợp
tác
- Năng
lực
sáng tạo

Năng
lực giao
tiếp
tiếng
Việt


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

người được nhắc

đến trong tác
phẩm là ai?
? Em thấy cách
goi tên NV ở đây
có gì đặc biệt?
? Trong số các
NV ấy ai là nhân
vật chính?

- Các nhân vật
không có tên riêng
cụ thể.

a- Nhân vật anh
thanh niên
GV yêu cầu các
em đại diện 2
nhóm sẽ lên báo
cáo sự chuẩn bị
của nhóm mình
GV kiểm tra,
nhận xét
? Ta biết nhân
vật này thông
qua lời giới thiệu
của ai? Cách
giới thiệu như
vậy có tác dụng
gì?
? Hoàn cảnh

sống của anh
được giới thiệu
như thế nào?

- Các nhóm lần lượt cử đại diện lên
báo cáo

Năng
- Qua lời kể của lực hợp
bác lái xe với ông tác
họa sĩ và cô kĩ sư.
-> Giới thiệu khéo
léo gây sự tò mò,
hấp dẫn

Cá nhân HS trả lời

HS tự
bộc lộ

Năng
* Hoàn cảnh sống lực cảm
- Là người cô độc thụ
nhất thế gian 27 thẩm mĩ
tuổi
- Sống 1 mình trên
đỉnh Yên Sơn cao
2600m …
- Thèm người quá,
đã từng hạ cây

chặn ô tô để kiếm
cớ nói chuyện
* Công việc
- Đo gió, đo mưa,
đo nắng, tính mây,
đo chấn động mặt
đất
- Dự vào việc báo
thời tiết hàng ngày

Cá nhân HS trả lời
? Chi tiết nào
làm em chú ý
nhất ? Vì sao?
GV:
Vì công
việc anh phải
sống một mình
trên đỉnh núi.
? Tại đỉnh Yên
15/25


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

Sơn này anh làm Cá nhân trình bày
công việc gì?
Các em khác bổ sung
HS trình bày phần chuẩn bị theo
nhóm ở nhà…

- Các em HS theo dõi, nhận xét, bổ
? Em có nhận sung
xét gì về công
việc của anh?
GV định hướng:
Với người thanh
niên này anh
không hề cảm
thấy nhàm chán
và tẻ nhạt bởi vì
anh yêu và say
mê với công việc
cảm thấy công
việc có ích cho
đất nước.
GV Chiếu hình
ảnh giới thiệu và
liên hệ
? Để hoàn thành
tốt công việc mà
thời gian rất khắt
khe như vậy thì
ở anh cần có đức
tính gì?
? Nêu những
phẩm chất đáng
quý của anh
thanh niên?
Các nhóm lên
trình bày


16/25

phục vụ sản xuất,
chiến đấu.
- Thời gian: 4h,
11h, 7h tối, 1h
sáng

- Công việc đòi
hỏi sự chính xác ,
tỉ mỉ, tinh thần
trách nhiệm và
nghị lực rất cao

* Lòng yêu nghề,
tinh thần trách
nhiệm…
+ Khi ta làm việc
ta với công việc là
đôi …
+ Công việc …
gian khổ thế đấy
nhưng cất nó đi
cháu buồn chết
mất
+ Mình sinh ra là
để làm gì? Mình
đẻ ở đâu? Mình vì
ai mà làm việc?



Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

Cá nhân học sinh trả lời
GV giảng: Anh
sống thật chu đáo.
Chỉ 1thôi: bó hoa,
củ tam thất, làn
trứng nhưng lại là
biểu hiện của tấm
lòng yêu thương
đối xử chân tình
với mọi người
của chàng thanh
niên trẻ. Và cái
đặc biệt ở anh này
là hồn nhiên kể
về công việc, về
cuộc sống và nói
to những điều lẽ
ra người ta chỉ
nghĩ…

GV nhận xét- bổ
sung
GV bình: Anh
17/25

+ Nhờ cháu có

lần phát hiện đám
mây khô mà …
không quân ta hạ
được máy bay Mĩ
trên câu Hàm
Rồng
+ Anh hạnh phúc
khi được cống
hiến; vượt lên
những níu kéo
tầm thường
* Sự cởi mở, hiếu
khách và lòng
nhân hậu:
+Mừng quýnh
khi có khách đến
nhà chơi
+ Gửi biếu vợ
bác lái xe củ tam
thất
+ Hồ hởi đón
khách mời khách
uống nước chè,
tặng hoa cô kĩ sư
…và biếu một làn
trứng gà .
+ Hồn nhiên kể về
công việc… nói to
nhg điều lẽ ra ng
ta chỉ nghĩ…

* Biết sắp xếp
cuộc sống một
cách khoa học:
+ Bàn, ghế,sổ
sách, thống kê, bộ
đàm..
+ Trồng hoa nuôi



Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

thanh niên một
trí thức có lối
ứng xử lịch sự,
ấm
áp
tình
thương, anh sống
và làm việc vì lí
tưởng cao đẹp, vì
quê hương đất
nước thân yêu.
Sống để học tập,
để yêu thương
chia sẻ.
? Cảm nhận
chung của em về
anh thanh niên?
Gv mở rộng: Có

thể nói đây là
hình ảnh đẹp tiêu
biểu cho thế hệ
trẻ Việt Nam
những năm 70
của TK XX

+Anh thích đọc
sách.- mừng rỡ
khi bác lái xe đưa
cho mấy quyển
sách.
* Sự khiêm tốn
và thành thật.
- Từ chối không
để họa sĩ vẽ mình,
giới thiệu người
khác đáng vẽ hơn
- Cuộc sống và
suy nghĩ của anh
rất giản dị
-> Một con người
sống có lí tưởng,
cống hiến hết
mình cho đất
nước.
* Nghệ thuật:
+ Giới thiêu trực
tiếp, gián tiếp
+ Kết hợp kể, tả,

NL
+ Đối thoại, độc
thoại, độc thoại
nội tâm.
b/ Các nhân vật
khác

? Em có nhận
xét gì về cách
xây dựng nhân
vật của tác giả?

GV chuyển ý
Tổ chức cho HS
chơi trò chơi:
“Mảnh ghép văn
học” phát hiện
những đặc điểm
liên quan đến các
nhân vật: Ông

Học sinh tham gia trò chơi
* Ông họa sĩ
Cá nhân HS trả lời
- Ông là người
dẫn dắt và kể
18/25

Rèn
luyện kĩ

năng
hợp tác,
nhanh
nhẹn


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

họa sĩ, cô kĩ sư,
bác lái xe.
Nhận xét – đánh
giá
? Theo dõi nhân
vật ông họa sĩ
hãy cho biết vai
trò của ông trong
truyện?
GV giảng: Bằng
sự trải nghiệm
của mình và niềm
khao khát của
một nghệ sĩ sáng
tạo nghệ thuật.
Ông nhận ra anh
thanh niên chính
là đối tượng mà
ông cần tìm.
GV chiếu đoạn
văn: “ Họa sĩ …
nhọc quá”

? Vì sao ông cảm
thấy nhọc quá
khi kí họa và suy
nghĩ về những
điều anh thanh
niên nói?
? Cảm nhận của
em về ông họa
sĩ?
Quan sát và đọc
đoạn văn
“ Những điều…
bàng hoàng”
Điều gì khiến cô
bàng hoàng? Cô
đã hiểu thêm
những gì sau

chuyện…
- Giữ vai trò quan
trọng trong tác
phẩm
HS đọc
Học sinh trả lời cá nhân

HS đọc thầm
Học sinh trả lời cá nhân

- Vẻ đẹp toát lên
từ người thanh

niên khơi dậy cảm
xúc trong người
họa sĩ.
->Người từng trải,
yêu cuộc sống và
có những suy nghĩ
sâu sắc về nghệ
thuật
* Cô kĩ sư

Học sinh tự bộc lộ suy nghĩ



sinh trả lời cá
nhân

Học sinh trả lời cá nhân

HS thảo nhóm
( theo bàn)

19/25

- Cuộc sống tuyệt
đẹp của anh.
- Thấy con đường
mà cô đã lựa chọn
là đúng



Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

cuộc gặp gỡ với
anh TN?
GV giảng: Cuộc
gặp gỡ ngắn ngủi
với anh TN đã
đem lại cho cô
gái nhiều điều
quý giá, cái bàng
hoàng đó chính
là: cô đã nhận ra
vẻ đẹp và sức ảnh
hưởng của anh vì
vậy khát khao
được cống hiến - Học sinh phát biểu cá nhân.
cho đất nước càng
trở nên mãnh liệt.
? Nhận xét của
em về người con Học sinh tự bộc lộ
gái này?
GV chốt: Như
vậy anh TN và cô
kĩ sư họ đều
sống có lí tưởng,
sẵn sàng hi sinh
tuổi trẻ đóng góp
sức mình vào
công cuộc XD đất

nước.
Họ thật đáng
khâm phục và
đáng trân trọng!
? NV thứ 3 được
nhắc tới là bác
lái xe. Các em đã
tìm được cụm từ
“người
giới
thiệu”,
trong
trường hợp này
người giới thiệu
20/25

-> Khát khao
được cống hiến
cho đất nước.

* Bác lái xe
- Trên xe bác đã
giới thiệu về anh
TN với mọi người
- Bác tạo ra cuộc
gặp gỡ thú vị

-> Cởi mở, vui
tính.
Rèn

- Anh bạn đồng luyện
nghiệp trên đỉnh kỹ năng
Phan-xi-phăng cao hợp tác
3412m
- Ông kĩ sư vườn
rau rau Sa Pa hết
lòng với công
việc.
- Nhà nghiên cứu
KH
11
năm
nghiên cứu sét.
- Ông bố anh TN
xung phong đi bộ


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

được hiểu như
thế nào?
GV:
Hay nói
cách khác bác
chính là cầu nối
cho cuộc gặp gỡ
giữa các NV.
? Em nhận thấy
tính cách gì ở
bác lái xe?

? Ngoài những
nhân vật được
giới thiệu trực
tiếp,
còn

những nhân vật
không xuất hiện
nhưng qua lời kể
của anh thanh
niên.
Đó

những ai?

đội
->Làm nổi bật NV
chính- chủ đề tác
phẩm được mở Rèn kĩ
rộng thêm
năng
cảm thụ
văn
học.
- Khác nhau:
Nghề nghiệp, tuổi
tác, cuộc đời riêng
- Giống nhau:
+ Tâm hồn, suy
nghĩ, một thái độ

sống, lao động,
làm việc và cống
hiến hết mình cho
tổ quốc một cách
vô tư âm thầm và
lặng lẽ.

? Cùng với anh
thanh niên tác
giả đã đưa họ
vào truyện nhằm
mục đích gì?
GV: Đây cũng là
thủ pháp nghệ
thuật mà NTLđã
sử dụng thành
công trong việc
XD NV chính của
truyện.
? Những nhân
vật ấy có điểm
nào khác nhau
và giống nhau?
GV bình: Tất cả

- Sa Pa rất lặng lẽ
bởi nó là nơi nghỉ
dưỡng
- Phong cảnh thơ
mộng

- Đằng sau sự lặng
lẽ ấy vẫn có
những con người
ngày đêm làm
21/25


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

họ đã trở thành
một tập thể những
con người lao
động mới sống
đẹp, giàu lòng
nhân ái, hết lòng
phục vụ đất
nước và nhân
dân. Sống nơi
lặng lẽ non xanh
nhưng họ chẳng
lặng lẽ chút nào.
Trái lại, cuộc
sống của họ vô
cùng sôi nổi đầy
tâm huyết, giàu
nhiệt tình cách
mạng họ chính là
những bông hoa
đẹp trong vườn
hoa việc tốt.

Nói
về
họ
Nguyễn
Thành
Long có viết:
“Trong cái im
lặng
của
Sapa…..” –
? Nêu cảm nhận
của em về đoạn
văn này?

việc
- Yêu mến, cảm
phục những con
người đang cống
hiến quên mình
cho Tổ quốc cho
nhân dân
* Chất thơ:
-Tên truyện: Nói
về thiên nhiên
lặng lẽ, về con
người âm thầm
cống hiến.
-Vẻ đẹp tâm hồn
của những con
người

trong
truyện, giọng văn
nhẹ nhàng.

? Tình cảm tác
giả dành cho các
nhân vật ?

? Đến đây ta lại
22/25


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

thấy rõ thêm về
chất thơ vậy chất
thơ thể hiện ở
điều gì?

? Từ truyện ngắn - Cá nhân HS trả lời
này tác giả muốn - Các em khác bổ sung.
gửi tới người đọc
thông điệp gì?
Gv chốt: Yêu
thương,
sống
đẹp và biết cống
hiến chính là mục
tiêu hướng tới của
thế hệ trẻ ngày

nay.
GV hướng dẫn
học sinh tổng kết
C. HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH
Vì sao tác giả
không đặt tên
HS tự phát biểu
riêng cho nhân
vật?

? Khép lại tác
phẩm LLSP em
thích nhất điều
gì?

23/25

- Thông điệp nhà - Năng
văn gửi gắm:
lực tự
quản
-> Hãy yêu
bản
thương, trân trọng, thân
cống hiến và sống - Năng
tốt đẹp hơn!
lực cảm
thụ
thẩm mĩ
* Tổng kết

- Nghệ thuật
- Nội dung

Gọi bằng danh từ
chung: anh thanh
niên, ông họa sĩ,
… vừa thể hiện
tính điển hình,
vừa nhấn mạnh họ
không phải là một
con người cụ thể
mà họ là một lớp
người ngày đêm
âm thầm.
- Khung cảnh
thiên nhiên tươi
đẹp hấp dẫn của
Sa Pa
- Vẻ đẹp tâm hồn
và cách sống của
những con người

- Năng
lực giải
quyết
vấn đề.
- Năng
lực giao
tiếp TV
- Năng

lực cảm
thụ
thẩm mĩ


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9

lao động mới
Suy nghĩ về cuộc
sống và công việc
của anh TN

? Từ việc làm
của anh thanh
trong Lặng lẽ Sa
Pa em có suy
nghĩ gì ?

D. HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG
Đại diện nhóm trình bày

- GV nhận xét –
khen ngợi HS

1. Suy nghĩ về:
Các phong trào:
TN lập nghiệp,
tuổi trẻ giữ nước,
TN tình nguyện
- Các hành động:

“Vì biên cương
TQ”, “ Sinh viên
với biển đảo”
Hiến máu tình
nguyện, tự nguyện
lên vùng sâu,
vùng xa của Tổ
quốc.
2. Liên hệ với
cuộc sống học
tập, nghề nghiệp
tương lai.

* GV dặn dò và giao nhiệm vụ học tập về nhà cho học sinh.
* Kết bài: Cuộc sống hôm nay thật bộn bề. Song với lí tưởng cao đẹp:
sống và cống hiến như anh thanh niên là tấm gương để chúng ta học tập và noi
theo. Khúc ca của Thanh Hải chợt vọng lại trong lòng mỗi người “Một mùa
xuân nho nhỏ, lặng lẽ dâng cho đời…” Cô mong các em hãy sống tích cực hơn
nữa và luôn tin yêu, trân trọng cuộc sống này.
========================
2.5. Tiếp nhận thông tin phản hồi từ học sinh
- Sau mỗi tiết học, có thể sử dụng các bài tập để kiểm tra kiến thức của học sinh
nhằm so sánh kết quả của hai phương pháp: truyền thống và phương pháp mới.
- Tìm hiểu tâm tư, tình cảm, thái độ của học sinh trong việc học theo phương
pháp mới, từ đó điều chỉnh phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
24/25


Ứng dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong môn Ngữ văn 9


3. Kết quả
Qua thời gian thực hiện chuyên đề, thông qua các hoạt động ngoài giờ lên
lớp các em đã mạnh dạn hơn, chủ động trong quá trình học văn, thể hiện được
năng khiếu, sở trường của mình. Nhiều em trong giờ học rất nhút nhát, nhưng
ngoài giờ học lại sôi nổi, thể hiện rất tốt sự hiểu biết xã hội của mình.
Thông qua chuyên đề cũng khắc sâu được tình cảm của thầy và trò, giúp
thầy trò hiểu nhau hơn, dễ dàng hơn trong việc truyền đạt và lĩnh hội kiến thức.
Sau thời gian thực hiện chuyên đề nhận thấy rằng đa số các em yêu thích
học môn văn, nắm được nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, bước đầu các em có
kĩ năng tự khai thác, phân tích giá trị của một tác phẩm cụ thể.
Tuy nhiên, đối với những lớp có học sinh yếu kém không có khả năng
diễn đạt thì việc chuẩn bị trước cũng như bàn luận, hoạt động nhóm của các em
rất hạn chế nên tuy nhiên các em vẫn thích hoạt động, tham gia hoạt động.
C - KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ:
Nói chung cái gì cũng có hai mặt tác động qua lại thì mới có sự thành
công được. Về phía giáo viên muốn dạy văn tốt thì phải chọn những giải pháp
tốt nhất để gây hứng thú cho người học. Và hơn thế nữa người giáo viên dạy văn
phải có chất văn, có vốn văn thì mới có thể dạy văn đúng và dạy văn hay được .
Muốn có được chất văn thì cần phải có vốn văn phong phú muốn có được vốn
văn phong phú thì điều quan trọng trước tiên là phải yêu văn chương. Nhưng cái
vốn văn chương không chỉ nằm ở phạm vi văn học mà còn ở chung quanh
những văn liệu, cái vốn lịch sử, vốn phong tục của đất nước, cái vốn ngoài đời…
Mà người giáo viên dạy văn phải tìm cách tích lũy.
Ngoài ra, người giáo viên phải biết rõ học lực và trình độ nhận thức của
các em, dù chỉ là những nhận biết sơ bộ nhưng để từ đó giáo viên mới có thể đặt
được việc giáo dục, giáo dưỡng của mình một cách có kết quả, vừa truyền thụ
kiến thức, vừa bồi dường tâm hồn. Trang bị kiến thức cho các em, để rồi phát
hiện, rồi nâng đỡ bồi dưỡng để hướng các em phát huy được sở trường của
mình.
Bên cạnh giáo viên là người định hướng và tác nhận xúc tác để thúc đẩy

việc học tập của học sinh thì sự say mê, ham học của các em cũng rất cần thiết
và phải kết hợp giữa thầy và trò. Người thầy cũng cần có cái tâm trong nghề
nghiệp, nhiệt tình giảng dạy thì kết quả sẽ thành công.
Còn về phía học sinh, đòi hỏi phải tích lũy được những tri thức về văn
học, chính trị, đạo đức, lịch sử và những hiểu biết về cuộc sống để lí giải những
vấn đề đặt ra trong học tập, lao động, trong quan hệ với thầy cô, bạn bè, cha mẹ,
25/25


×