Sáng kiến kinh nghiệm
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TP. NHA TRANG
TRƯỜNG THCS LÝ THƯỜNG KIỆT
********************
ĐỀ TÀI:
LUYỆN NĨI CHO HỌC SINH TRONG MƠN NGỮ VĂN LỚP 8/1, 9/3
VÀ 9/5 Ở TRƯỜNG THCS LÝ THƯỜNG KIỆT - NHA TRANG QUA
THẢO LUẬN NHĨM VÀ TRỊ CHƠI
Giáo viên : Phan Huy Lương
Tổ
: Ngữ Văn
Năm học : 2014 - 2015
Giáo viên: Phan Huy Lương
Sáng kiến kinh nghiệm
Nhận xét, xếp loại
- Nhận xét: ……………………………..………………..……………………………………………
………………………………..……………………………………..…………………………………………
………………………………..………………………………………..………………………………..…..
……………………………..………………………………………..………………………………..……..
…………………………..……………………………………..………………….……………..……………..
…………………..………………………………………..………………………………..…………………..
……………..………………………………………..………………………………..………………………..
………..……………………………………..………………….…………….………………………………..
………………………………………..………………………………..………………………………..……..
…………………………………..………………………………..………………………………..…………..
…………………………..………………….…………….………………………………..…………………..
……………………..………………………………..………………………………..………………………..
………………..………………………………..………………………………..……………………………..
………..………………….…………….………………………………..
………………………………………..………………………………..………………………………..
………………………………………..……..…………………………..………………………………..
……………………………………..……………..…….…………….………………………………..
………………………………………..………………..………………..………………………………..
………………………………………..………………………………..………………………………..
……………………………………..………………….…………….………………………………..
…………………………..…………..………………….……………..………………………………..
……………………………………….………………………………..………………………………..
……………………………………..…………………………………..…………………...……………..
……………………………………....………………………………..………………………………..
……………………………………..…………………………………..………………………………..….
…………………………………..………………………………..
- Xếp loại: …………
Ngày .…… tháng .…… năm .……
HIỆU TRƯỞNG
Giáo viên: Phan Huy Lương
Sáng kiến kinh nghiệm
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT.
SKKN:……………………..Sáng kiến kinh nghiệm.
GV:………………………...Giáo viên.
HS:…………………………Học sinh.
THCS:……………………..Trung học cơ sở.
TP:…………………………Thành phố.
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 1
Sáng kiến kinh nghiệm
LỜI GIỚI THIỆU
Luyện nói cho học sinh trong chương trình Ngữ Văn lớp 8/1,9/3 và 9/5
qua hoạt động nhóm và trò chơi đã có nhiều đề tài nghiên cứu. Do đặc thù của
phương pháp dạy học mới: lấy người học làm trung tâm nên tôi mạnh dạn
nghiên cứu về “Luyện nói cho học sinh trong môn Ngữ Văn lớp 8/1, 9/3và 9/5 ở
trường THCS Lý Thường Kiệt –Nha Trang qua thảo luận nhóm và trò chơi”
nhằm giúp GV có cái nhìn nhận mới về tiết luyện nói, qua đó có thể áp dụng
trong việc giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong trường THCS Thành phố Nha Trang
tỉnh Khánh Hòa. Sáng kiến bao gồm những nội dung sau:
Phần I: Đặt vấn đề.
Phần II: Giải quyết vấn đề.
+ Cơ sở lí luận của đề tài:
+ Thực trạng của đề tài.
+ Một số yêu cầu của tiết luyện nói.
+ Các biện pháp tiến hành:
+ Hiệu quả của đề tài.
Phần III: Kết luận.
Tài liệu tham khảo
Phụ lục:
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 2
Sáng kiến kinh nghiệm
ĐỀ TÀI:
LUYỆN NÓI CHO HỌC SINH TRONG MÔN NGỮ VĂN LỚP 8/1, 9/3
VÀ 9/5 Ở TRƯỜNG THCS LÝ THƯỜNG KIỆT - NHA TRANG QUA
THẢO LUẬN NHÓM VÀ TRÒ CHƠI
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
I.1. Lý do chọn đề tài:
a. Về lý luận:
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định trong Nghị
quyết Trung ương Đảng khóa VII, VIII và được thể chế hóa trong Luật giáo dục
2009 cũng như trong các văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong Luật
Giáo dục sửa đổi đã nêu rõ: “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh”. Có thể nói cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương
pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng là hướng tới hoạt động học tập tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh; giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh học
tập, chống lại lối học áp đặt, thói quen học tập thụ động.
Đặc thù của bộ môn Ngữ văn là hình thành những con người có ý thức, có tư
tưởng tình cảm cao đẹp, có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ và đặc biệt
là có khả năng, kĩ năng thích ứng với cuộc sống năng động trong xã hội hiện đại.
Có 4 kĩ năng: nghe – nói – đọc – viết trong bộ môn Ngữ văn thì kĩ năng nói là quan
trọng cần hình thành cho học sinh để các em hòa nhập với cuộc sống hiện đại.
Luyện nói trong nhà trường là để nói theo chủ đề, vấn đề không quen thuộc
trong đời sống hằng ngày, lại yêu cầu nói mạch lạc, liên kết không tùy tiện, do đó
cần phải luyện nói trong một môi trường giao tiếp khác, môi trường xã hội, tập thể
công chúng. Ngôn ngữ nói là phương tiện giao tiếp có âm thanh, có ngữ điệu sống
động, có sức truyền cảm trực tiếp, có sự biểu đạt của tư thế, nét mặt, âm lượng, có
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 3
Sáng kiến kinh nghiệm
sự giao cảm trực tiếp giữa người nói với người nghe. Vì vậy hình thành được kĩ
năng này giúp cho các em có công cụ sắc bén trong giao tiếp xã hội.
b. Về thực trạng:
Khi tiến hành làm sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã xây dựng hệ thống câu
hỏi để đánh giá về sự phản ứng của học sinh trong tiết luyện nói thông qua hoạt
động nhóm và một số trò chơi cũng như làm thước đo về mức độ chuyển biến
của HS trước và sau khi áp dụng kiểu dạy học này. Dưới đây là tổng hợp kết
quả trắc nghiệm. Tôi dựa vào đó như một cơ sở cùng với quá trình thực dạy ở
lớp để đánh giá thực trạng dạy học tiết luyện nói lớp 8/1,9/3 và 9/5 ở trường
THCS Lý Thường Kiệt TP Nha Trang. Để trả lời cho các câu hỏi của bài nghiên
cứu đã được tôi đề cập ở trên, tôi đã chọn phương pháp điều tra thực nghiệm đối
với 87 học sinh lớp 8/1,9/3 và 9/5 ở trường THCS Lý Thường Kiệt –TP Nha
Trang với mục đích có thêm những ý kiến và những đóng góp cho việc áp dụng
phương pháp thảo luận nhóm và trò chơi trong tiết luyện nói Ngữ văn 8,9. Ở
phiếu điều tra, tôi đã đưa ra các đáp án lựa chọn khác nhau cho mỗi loại câu hỏi
(câu hỏi nhiều lựa chọn) để giúp học sinh có thể dễ dàng lựa chọn cũng như dễ
dàng cho công việc phân tích sau này của tôi.
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN CỦA HỌC SINH
(Trước khi tiến hành dạy thực nghiệm)
Em hãy đánh dấu X vào ô bên cạnh để trả lời các câu hỏi sau:
Câu1:Em thường xuyên gặp
khó khăn trong việc học kĩ
-Nghe
-Nói
-Đọc
-Viết
Câu 2 : Theo em, tại sao học -Rụt rè, nhút nhát trước đám đông
sinh ít thực hành nói và ngại
-Thiếu hiểu biết và ý kiến
-Thiếu tự tin vào năng lực bản thân
-Sợ mắc lỗi
-Không có thói quen thực hành nói nhiều
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 4
Sáng kiến kinh nghiệm
-Đáp án khác
Câu 3 : Để bổ trợ việc dạy
và học kĩ năng nói trong tiết
luyện nói Ngữ văn 8,9,
-Sử dụng các dụng cụ trực quan sinh động,
máy chiếu, tranh ảnh, chuyện tranh
-Tổ chức các trò chơi đóng vai, đóng kịch,
thi hùng biện
-Tổ chức các buổi thảo luận
-Đáp án khác
Câu 4 : Em có thích tổ chức
thảo luận nhóm và các trò
chơi vào các tiết học luyện
nói không ?
Câu 5 : Nếu có, lý do em
thích những trò chơi trong
tiết rèn kĩ năng nói cho HS
môn Ngữ văn 8,9 là:
-Rất thích
-Được
Câu 6 :Theo em, nếu thầy,
cô áp dụng những trò chơi
như trên, những khó khăn mà
các em có thể gặp phải :
-Thiếu thời gian
-Thiếu cơ sở vật chất, không gian thực hành
trò chơi
-Sự thiếu nhiệt tình và sự rè rặt của các bạn
học sinh trong lớp.
-Lý do khác
a, Về học sinh :
GIỎI
LỚP SĨ
SL %
SỐ
8/1
29
5 17,2
9/3
29
4 13,7
9/5
29
3 10,3
Tổng 87 12 13,7
-Không thích
-Để thực hành nói nhiều hơn, rèn luyện khả
năng phản xạ và nói tốt.
-Củng cố kiến thức
-Để bớt nhút nhát và tự tin hơn khi giao tiếp
và thuyết trình trước đám đông.
-Để làm dễ dàng việc học nói, hứng thú hơn
với môn học
-Chúng góp phần cải thiện quan hệ thầy cô
với học sinh, và giữa bạn bè với nhau.
-Phát huy khả năng sáng tạo và chủ động
trong nhiều tình huống.
-Lý do khác.
KHÁ
TB
SL % SL %
11 37,9 19 65,5
9 31,0 13 44,8
7 24,1 15 51,7
27 31,0 47 54,0
Giáo viên: Phan Huy Lương
YẾU
SL
%
4
13,7
3
10,3
4
13,7
11 12,6
KÉM
SL %
TB
SL
%
25 86,2
26 89,6
25 86,2
76 87,3
Trang 5
Sáng kiến kinh nghiệm
*Số liệu được lấy từ thống kê hai mặt giáo dục đầu năm học 2013-2014
của trường THCS Lý Thường Kiệt
Trình độ học lực của học sinh không đồng đều, điều này gây khó khăn
cho việc dạy tiết luyện nói, bởi vì đây là kiểu học đòi hỏi HS có năng lực tư duy
tốt, năng lực cảm thụ văn chương ở mức độ chấp nhận được. Theo thống kê tỷ lệ
học sinh khá giỏi là 39/87 HS (44,8 %), tỷ lệ HS trung bình là 47/87 (54,0%)
và tỷ lệ HS Yếu là 11/87 (12,6%). Điều đó ảnh hưởng đến tinh thần thái độ học
tập bộ môn của học sinh và kể cả tinh thần giảng dạy của GV.
Rèn kỹ năng nói cho học sinh trong chương trình Ngữ Văn lớp 8 và 9
thông qua hoạt động nhóm và một số trò chơi không mới đối với giáo viên và
học sinh, nhưng không thường xuyên sử dụng trong các môn học cũng như môn
Ngữ văn, do vậy cách làm việc thực hành nói của học sinh trước lớp còn e ngại,
chưa thành kỹ năng nói một cách tự nhiên. Qua điều tra HS khi được hỏi đến
Giáo viên dạy Ngữ văn có bao giờ tổ chức cho các em thảo luận và trò chơi
trong tiết luyện nói không ? Thì có đến: 3/87 HS (3,4%) trả lời thường xuyên;
53/87HS (61%) trả lời thỉnh thoảng và số còn lại là 31/87HS(35,6%) trả lời rất ít
hoặc thỉnh thoảng. Điều đó chứng tỏ trong quá trình dạy học GV còn vận dụng
phương pháp dạy học thảo luận nhóm và tổ chức trò chơi chưa đồng bộ. Như
vậy, khi GV đưa ra yêu cầu hoạt động nhóm khi luyện nói trước lớp thì một số
HS còn e ngại, ngượng nghịu.
Qua điều tra HS thông qua câu hỏi Theo em, nếu thầy, cô áp dụng những
trò chơi như trên, những khó khăn mà các em có thể gặp phải:thì có đến
52/87HS (59,7% ) trả lời câu là thiếu thời gian . Có 34/87 HS (39,0%) trả lời
câu hỏi Thiếu cơ sở vật chất, không gian thực hành trò chơi. Như vậy vấn đề
thời gian, cơ sở vật chất của nhà trường cũng là một cản trở không hề nhỏ để
cho GV áp dụng phương pháp dạy học này.
Khi được hỏi Em thường xuyên gặp khó khăn trong việc học kĩ năng:
(Nghe, nói, đọc, viết). Thì có đến: 42/87 HS (48,4%) trả lời là kỹ năng viết;
53/87HS (61%) trả lời kỹ năng nói. Điều đó chứng tỏ kỹ năng nói của học sinh
chưa cao.
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 6
Sáng kiến kinh nghiệm
Học sinh khi chuẩn bị bài mới còn thụ động, làm việc đối phó, ít chuẩn bị
bài mới một cách chu đáo, ít chịu đọc thêm các tài liệu, sách tham khảo, và các
nguồn thông tin khác để bổ sung tri thức.
b, Về giáo viên:
Việc dạy và học hiện nay đã có cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên khó khăn chung
trong tiết luyện nói còn là vấn đề trăn trở của nhiều giáo viên. Nhiều giáo viên
cảm thấy giờ làm văn miệng còn tẻ nhạt và nhàm chán. Chỉ có giáo viên và học
sinh được “chỉ định” hoạt động còn đa phần “im lặng”, không chú ý và hứng thú
với giờ học. nội dung giờ làm văn miệng thường bị bỏ qua, thay vào đó là những
giờ làm văn viết kéo dài, hoặc có chăng chủ yếu cũng chỉ là việc đơn điệu, giáo
viên ra ,một đề bài, cho HS chuẩn bị 10-20 phút rồi gọi một đến hai HS lên trình
bày. HS nào nhận xét thì tốt, nếu không giáo viên cho dàn bài mẫu và kết thúc.
Sở dĩ tồn tại thực trạng trên vì giáo viên chưa nhận thức đúng tầm quan trọng và
đặc thù của giờ luyện nói.
So với làm văn viết, làm văn nói có những đực thù riêng.Thời gian cho
HS chuẩn bị tương đối ít. HS phải trực tiếp với một đối tượng giao tiếp trước
mặt, phải nói ngay sau khi suy nghĩ, đòi hỏi sự nhanh nhạy, llinh hoạt, cơ động
trong chọn từ, sắp xếp ý và diễn đạt trước bạn bè, thầy cô. Hơn thế nữa văn nói
còn phải ó sự kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa ngôn ngữ và cử chỉ (phi ngôn ngữ) ngôn ngữ hình thể. Đó là cái khó của giờ làm văn nói nhưng lại tạo sự hứng khởi
khác biệt: dễ kích ứng và làm cho các em năng động, sáng tạo hơn mà giờ văn
viết không có được.Ngôn ngữ nói là hình thức giao tiếp diễn ra hàng ngày trong
đời sống con người, là phương thức giao tiếp chủ yếu của con người. Kết quả
của HS được cảm nhận ngay trên lớp.Thấy rõ được đặc thù của tiết luyện nói và
hiểu được đặc điểm tâm lý của HS tôi tin chắc giáo viên sẽ tiến hành có hiệu
quả. Qua đây giáo viên và HS cởi mở, thân thiện và hiểu nhau nhiều hơn, tránh
sự xa cách và tiết học trở nên nhẹ nhàng, hứng khởi hơn. Vì vậy việc đổi mới
phương pháp dạy và học là rất cần thiết. Qua đó GV nhận xét HS thông qua cách
HS trình bày suy luận, ý kiến của mình, giúp cho quá trình dạy và học có tính
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 7
Sáng kiến kinh nghiệm
sáng tạo cao và nghiên cứu sâu hơn nhằm đào tạo ra thế hệ vừa “hồng” vừa
“chuyên” cho tương lai.
Bên cạnh đó vẫn còn đa số GV sử dụng phương pháp dạy học thuần túy:
ít sử dụng phương pháp, thảo luận, tổ chức trò chơi mà chủ yếu sử dụng phương
pháp thuyết trình. Tồn tại đó còn có nguyên nhân khách quan: cơ sở vật chất còn
thiếu thốn, nội dung chương trình còn quá sức so với HS; GV sợ “cháy” giáo án
do áp lực về thời gian, sợ HS không làm được bài thi cuối kì hoặc tốt nghiệp...
nên không mạnh dạn thay đổi phương pháp dạy học mới.
Trong quá dạy học thiếu sự hợp tác giữa thầy với trò và giữa trò với trò.
Mỗi cá nhân trong quá trình học tập thường có sự hạn chế, chỉ tập trung vào một
số điểm, bỏ qua, không đánh giá hết đươc ý nghĩa đầy đủ của kiến thức. Trong
điều kiện đó nếu biết hợp tác giữa giáo viên(GV) và HS, giữa HS với HS có thể
nhắc nhở, bổ sung cho nhau những điểm thiếu sót, làm cho kiến thức được khắc
sâu và hiểu được toàn diện hơn.
Hơn thế nữa HS học thụ động, thiếu sáng tạo và không biết cách tự học.
Từ đó HS thiếu hứng thú, đam mê, thiếu lửa trong học tập bộ môn. Để đạt hiệu
quả trong tiết luyện nói GV phải biết cách biến hóa, phối hợp và sử dụng linh
hoạt các biện pháp, hình thức tổ chức dạy học truyền thống với hiện đại.
I.2. Qua quá trình nghiên cứu, tôi đã tiến hành các phương pháp nghiên
cứu sau:
Phương pháp nghên cứu tài liệu: đọc, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa
tài liệu, sách báo về vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ
cơ sở lí luận của đề tài.
Phương pháp quan sát: thông qua giảng dạy trực tiếp bộ môn ngữ văn 8,9
tại trường THCS Lý Thường Kiệt TP Nha Trang tỉnh Khánh Hòa, thông qua các
buổi sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn, dự giờ đồng nghiệp.
Phương pháp điều tra: để nắm được thực trạng vấn đề nghiên cứu một
cách khách quan, có hệ thống.
Phương pháp đàm thoại: trò chuyện, thăm dò ý kiến với GV, HS liên
quan đến dạy học nhóm và tổ chức trò chơi trong tiết luyện nói Ngữ văn 8,9.
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 8
Sáng kiến kinh nghiệm
I.3. Phạm vi đối tượng và kế hoạch nghiên cứu:
- Sỹ số 87 HS, trong đó lớp 8/1 (29HS) ; 9/3 (29HS) và lớp 9/5(29HS)
năm học 2014 - 2015 của trường THCS Lý Thường Kiệt TP Nha Trang tỉnh
Kháng Hòa.
- Thời gian nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này bắt đầu từ ngày 10
tháng 9 năm 2014 đến ngày 21 tháng 4 năm 2015. Cụ thể như sau:
+Từ ngày 10-9-2014 đến ngày 15-10-2014: nghiên cứu hệ thống câu hỏi
trắc nghiệm.
+Từ ngày 15-9-2014 đến ngày 24-3-2015: tiến hành khảo sát học sinh.
+ Từ ngày -9-2014 đến ngày 21-4-2015: tính toán số liệu và hoàn thành
sáng kiến kinh nghiệm.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Cơ sở lí luận của đề tài:
Nói là hình thức giao tiếp tự nhiên của con người. Luyện nói trước lớp nói
giữa thầy cô và bạn bè với mọi người cũng là hình thức giao tiếp tự nhiên hằng
ngày, bất cứ ai cũng thực hiện trong đời sống của mình. Luyện nói là hoạt động
phát ngôn trực tiếp, đòi hỏi người nghe trực tiếp. Một người nói thì mọi người khác
cùng nghe. Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong giờ dạy học Tập làm văn là
tăng tính thực hành ứng dụng cho chương trình Ngữ văn đối với học sinh THCS và
khắc phục hạn chế quá chú trọng đến việc đọc viết hơn nghe nói của chương trình
và sách giáo khoa cải cách giáo dục.
Trọng tâm của việc rèn luyện kỹ năng nói trong chương trình Ngữ văn
THCS là giúp cho học sinh có được kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt tương
đối thành thạo. Đây cũng là sự cụ thể thể hoá tư tưởng dạy học theo lý thuyết giao
tiếp và thực tiễn dạy học môn phân môn Tập làm văn ở trường phổ thông. Điểm
mới mẻ và cần lưu ý là chú trọng hơn tới cách tổ chức cho học sinh hoạt động để
phát triển kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn. Luyện nói tốt sẽ giúp học sinh biết
bộc lộ tư tưởng, truyền đạt thông tin trong hoàn cảnh giao tiếp khác nhau.
Như vậy có nhiều cách trình bày khác nhau nhưng tất cả đều nhấn mạnh
làm thế nào để học sinh nói tốt, nói trôi chảy, tự tin để hòa nhập.
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 9
Sáng kiến kinh nghiệm
2. Thực trạng của đề tài.
Về lý thuyêt, luyện nói đã được hình thành ở lớp 6, 7 lên lớp 8,9 các em
có vốn kinh nghiệm và kĩ năng nói nhưng thực tế càng lên lớp trên các em càng
ngại nói, ngại phát biểu trước tập thể. Kết quả là ngay cả khi đã trưởng thành có
thể nắm giữ chức vụ quan trọng của một cơ quan nào đó, nhiều người vẫn ít khi
“dám nói” trước đám đông một cách mạnh dạn, tự tin mà tỏ ra xấu hổ, lúng
túng, trình bày lí nhí, lắp bắp trong cổ, hoặc nói không mạch lạc, rõ rang,…..Với
bất kì ngôn ngữ nào để phát triển một cách tự nhiên thì kĩ năng “nói” và “nghe”
luôn là kĩ năng cần hình thành sớm nhất trước cả kĩ năng “đọc” và “viết”.
Nhưng dường như chúng ta lại làm ngược quy luật của ngôn ngữ, chú trọng đọc,
viết trước, nghe, nói sau.
Qua những năm thực hiện chương trình thay sách giáo khoa, ở bộ môn Ngữ
văn, tiết dạy “Luyện nói” mặc dù nhiều giáo viên cũng đã cố gắng hết sức nhưng
cũng ít người thành công qua tiết dạy. Bởi vì kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng nói
cho học sinh chưa nhiều so với rèn luyện kỹ năng viết. Học sinh không tự tin khi
nói trước đám đông. Thời gian luyện nói lại có hạn (45 phút) không tạo được điều
kiện cho tất cả học sinh được nói. Và sách giáo viên cũng chưa có hướng dẫn cụ
thể cho việc dạy rèn luyện kỹ năng nói. Do vậy mà trong một tiết luyện nói chỉ tập
trung vào những em khá, giỏi, chăm còn những học sinh lười sẽ thụ động, không
phát huy được. Dù có hoạt động thảo luận nhóm thì những em yếu cũng ngồi im.
Kết quả yếu vẫn yếu, lười vẫn lười. Tâm lý chung, giáo viên rất ngại dạy tiết
luyện nói, nhất là trình độ học sinh ở vùng ven biển như HS trường THCS Lý
Thường Kiệt thì kĩ năng nói sẽ không được phụ huynh quan tâm nhiều. So với
yêu cầu của phương pháp dạy mới và những định hướng của sách giáo viên thì
tiết dạy “luyện nói” và hoạt động nói của học sinh qua tiết dạy còn nhiều lúng
túng chưa đạt yêu cầu.
Trong thực tế giảng dạy ở trường thuộc địa bàn ven biển, đa số học sinh
chưa có kỹ năng nói trước tập thể, rất ngại nói, không tự tin khi nói trước đông
người. gia đình chưa thật sự quan tâm đến học tập của con em.
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 10
Sáng kiến kinh nghiệm
Nhiều giáo viên có chú ý rèn kĩ năng nói cho học sinh song còn lúng túng
trong khâu soạn giảng cũng như qui trình các hoạt động lên lớp. Một phần cũng do
sách giáo viên không có hướng dẫn cụ thể. Khi giáo viên có sự đầu tư cho tiết dạy
và hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị chu đáo thì việc tổ chức cho học sinh luyện nói
trong tiết luyện nói đạt hiệu quả cao. Không khí học tập của học sinh khác hẳn khi
giáo viên thuyết giảng. Ở các em lộ rõ sự thích thú, tất cả như có một luồng điện vô
hình nào đó được lan truyền cho cả lớp làm nóng lên không khí học tập. Nhiều em
giơ tay xin được trình bày kết quả, cảm nhận tổng hợp và thật là thoả mãn với
những kiến thức được chắt lọc rút ra từ chính sự hiểu biết của các em. Đó cũng là
lúc giáo viên có điều kiện để điều chỉnh và phấn khích các em học tập, thực tế niềm
vui đựợc giáo viên quan tâm sẽ cho các em thêm sự tự tin vào khả năng của mình
là phải học tập tốt hơn, cố gắng hơn để được phát biểu, nói trước lớp trong lần sau.
Để tạo được động lực niềm tin nhằm kích thích ý thức học tập bộ môn Ngữ
văn của các em trước hết người thầy giáo phải là người tìm ra được những biện
pháp tối ưu kích thích khả năng nói để học sinh nói ra được những điều mình tư
duy, cảm thụ trong giờ học văn bản cũng như trong tiết luyện nói. Đây cũng là kĩ
năng vừa giúp các em thể hiện mình, tự bày tỏ những suy nghĩ cảm xúc những điều
cảm thụ, phân tích, đánh giá một cách tự tin trứơc tập thể. Vừa là biện pháp có khả
năng khắc phục đựơc những khó khăn, thực trạng mà chúng ta đang quan tâm. Từ
đó nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn.
3 Một số yêu cầu của tiết luyện nói:
a. Xác định mục đích yêu cầu của việc luyện nói:
Để cho học sinh có thể thực hiện tốt tiết luyện nói, giáo viên cho trước đề tài
cho các em về nhà soạn, hướng dẫn các em: Giúp các em chuẩn bị tốt nội dung,
yêu cầu bài nói để các em xác định đề tài (Nói cái gì ?); xác định đối tượng giao
tiếp (Nói trong hoàn cảnh nào ?); xác định mục đích giao tiếp (Nói để làm gì ?);
cách thức giao tiếp (Nói cho thuyết phục người nghe); nói cho có hiệu quả (Phải
thu thập, lựa chọn điều cần nói); tạo tâm thế vững vàng khi nói: Tự tin, mạnh dạn;
Tác phong tự nhiên, giọng rõ ràng quán xuyến người nghe; Yêu cầu tập thể lớp chú
ý lắng nghe, theo dõi ghi chép, nhận xét.
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 11
Sáng kiến kinh nghiệm
b. Hướng dẫn học sinh soạn bài trước ở nhà:
Mỗi em đều phải soạn bài vào vở bài tập của mình ở nhà. Tới lớp, trước
khi tiến hành luyện nói, lớp trưởng kiểm tra việc soạn bài của lớp thông qua tổ
trưởng, nhóm trưởng, sau đó báo cáo cho giáo viên. Giáo viên nên kiểm tra lại
khoảng từ năm đến mười em.
c. Tổ chức triển khai thực hiện giờ luyện nói trên lớp:
Bước 1: Kiểm tra khâu chuẩn bị ở nhà của học sinh.
Bước này giáo viên phải đặc biệt chú ý, không thể bỏ qua hay lơ là được vì
đây là cơ sở cho tiết luyện nói. Mặt khác, kiểm tra chặt chẽ khâu chuẩn bị ở nhà sẽ
tạo thói quen học tập, tự giác cho học sinh và có biện pháp kịp thời đối với những
học sinh yếu hoặc lười học.
Bước 2: Thống nhất lại dàn bài chung.
Phần này giáo viên không đi lại từng bước nhỏ như phần chuẩn bị bài vì sẽ
mất thời gian. Giáo viên chỉ đưa ra những câu hỏi, những vấn đề có tính chất giải
đáp vướng mắc mà các em gặp phải trong phần chuẩn bị bài. Trên cơ sở đó, xây
dựng dàn bài chung làm yêu cầu về kiến thức để đánh giá nội dung bài nói của học
sinh. GV cũng cần nhắc lại lý thuyết mà bài nói cần tuân thủ.
Bước 3: Yêu cầu cho bài nói của học sinh.
Giáo viên nêu yêu cầu luyện nói chung để học sinh rõ (chỉ áp dụng cho tiết
luyện nói đầu tiên của từng khối lớp, những tiết sau, bước này sẽ do học sinh tự
nhắc lại trước lớp)
- Nội dung: Nói phải đúng trọng tâm, yêu cầu đề bài. Dựa vào dàn bài thống
nhất để trình bày theo ý cho hệ thống.
- Kỹ thuật nói: Trình bày rõ ràng, mạch lạc, nói thành câu trọn vẹn. Lời nói
có ngữ điệu, diễn tả thái độ, tình cảm tự nhiên, phù hợp.
- Tác phong: bình tĩnh, đĩnh đạc, tự tin. Trước khi nói phải có lời thưa gửi,
kết thúc phải có lời cảm ơn.
Bước 4: Bước chuẩn bị của học sinh trước khi nói: GV động viên, bạn bè
chú ý nhằm tạo tâm thế thoải mái, bình tĩnh, tự tin trước khi nói.
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 12
Sáng kiến kinh nghiệm
Giáo viên dành thời gian khoảng 5 phút để học sinh chuẩn bị trình bày bài nói.
Bước 5: Học sinh trình bày bài nói.
Để cho học sinh có điều kiện trình bày bài nói của mình một cách tự
nhiên, hiệu quả, giáo viên nên lựa chọn nhiều hình thức, nhiều cách trình bày bài
nói khác nhau
- Trình bày bài nói theo từng phần: mở bài, thân bài, kết bài đến cả bài.
- Trình bày bài nói theo sự phân công của tổ, nhóm (chọn học sinh khá của
tổ nhóm trình bày trước, để học sinh yếu có điều kiện học tập và chuẩn bị).
- Học sinh trình bày bài nói theo thứ tự luân phiên (Đa phần học sinh đều có
thể trình bày bài nói).
- Học sinh trình bày bài nói theo yêu cầu dựa vào các mức độ khác nhau :
giỏi, khá, trung bình, yếu.
Bước 6: Nhận xét, đánh giá.
Nếu để cho học sinh thay phiên nhau lên trình bày bài nói của mình mà
không có sự nhận xét, đánh giá, góp ý của thầy cô, bạn bè thì tiết luyện nói sẽ phản
tác dụng. Trong tiết luyện nói, học sinh giữ vai trò chủ động, tích cực thì giáo viên
phải thể hiện rõ vai trò của người chủ đạo, hướng dẫn. Trong tiết luyện nói người
giáo viên thực sự trở thành một người dẫn chương trình gần gũi và thân mật với
học sinh thì sẽ nâng cao hiệu quả tiết học.
Hướng dẫn học sinh theo dõi, nhận xét, đánh giá từng phần, từng nội dung
cụ thể.
Giáo viên tổng hợp ý kiến từ học sinh, chỉ ra ưu điểm và những điểm
chưa tốt cũng như mặt mạnh, mặt yếu của từng em để kịp thời phát huy và sủa
chữa, uốn nắn.
Lời đánh giá của giáo viên phải chính xác, rõ ràng, nhẹ nhàng, tế nhị; luôn
tạo không khí thân ái, gần gũi để học sinh trao đổi, trình bày ý kiến của mình được
tự nhiên hơn. Giáo viên nên chọn ưu điểm nổi bật của từng học sinh và căn cứ theo
từng mức độ: giỏi, khá, trung bình, yếu mà tuyên dương, động viên, khuyến khích.
Nhất là sự tiến bộ của học sinh yếu (dù chỉ là sự tiến bộ rất nhỏ). Vì lời khen của
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 13
Sáng kiến kinh nghiệm
giáo viên không chỉ là động lực thúc đẩy sự cố gắng phấn đấu của học sinh mà còn
là đòn bẩy, thúc đẩy giờ luyện nói thành công.
Tóm lại tuỳ thuộc vào điều kiện, mức độ của từng lớp, hoạt động của giờ
luyện nói có thể có những hình thức khác nhau. Hình thức rất phong phú đa dạng.
Điều quan trọng là phải nắm vững đặc trưng giờ luyện nói để đảm bảo yêu cầu một
giờ học Ngữ văn trong nhà trường THCS.
4. Các biện pháp tiến hành:
4.1. Luyện nói cho HS trong môn ngữ văn lớp 8/1, 9/3 và 9/5 ở trường
THCS Lý Thường Kiệt – Nha Trang qua thảo luận nhóm.
4.1.1.Thảo luận nhóm là gì?
Thảo luận nhóm là phương pháp dạy học, trong đó giáo viên chia lớp
thành nhiều nhóm nhỏ (có thể 2 hoặc 4, hoặc 6 – không nên chia nhóm lẻ). Các
thành viên trong nhóm đều phải làm việc, trao đổi từ đó đưa ra ý kiến chung của
cả nhóm về vấn đề được giao. Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo
của học sinh trong quá trình khám phá và lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng tư
duy, kỹ năng hợp tác trao đổi lẫn nhau thì thảo luận nhóm có vai trò tích cực
nhất. Giáo viên có thể mời bất kì HS của nhóm lên trình bày trước lớp.Trong
dạy học tích cực, thảo luận nhóm là phương pháp có nhiều ưu điểm. Trong đó,
người học được phát huy tối đa được bộc lộ những khả năng của bản thân.
Đồng thời qua đó, các em còn có điều kiện học hỏi lẫn nhau, tạo không khí thoải
mái trong học tập. Điều đặc biệt là luôn có được cảm giác tự do, thoải mái
không bị áp đặt (khác với kiểu dạy học truyền thống- kiểu truyền thụ một chiều:
thầy nói trò nghe. Trong tiết luyện nói, giáo viên cần tổ chức thảo luận nhóm,
hướng dẫn các em tranh luận vấn đề cần nói, làm sao để HS nào cũng được nói
ra suy nghĩ của mình bằng ngôn ngữ nói. Sau đó nhóm trưởng tổng hợp ý kiến
và xây dựng dàn ý, chuẩn bị nói trước lớp. Tuy nhiên giáo viên cần lưu ý để
tránh bị động về thời gian, lớp học đông khó quản lí, bao quát lớp, một số HS ỷ
lại không tích cực khi thảo luận.
Khi chia nhóm cần chú ý:Cần phải chia đều về số lượng và năng lực làm
việc giữa các nhóm với nhau. Không chia nhóm này quá nhiều, nhóm kia quá ít;
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 14
Sáng kiến kinh nghiệm
nhóm này tập trung học sinh giỏi, nhóm kia phần đông là yếu kém, ý thức học
tập chưa cao.
Không nên chia nhóm lẻ.Nếu vấn đề đặt ra trong bài học không nhiều,
giáo viên có thể cho hai nhóm cùng thảo luận một vấn đề. Nhưng sau đó giáo
viên có thể linh hoạt cho nhóm này báo cáo, nhóm kia đặt ra câu hỏi phản biện.
Vì thế, ngoài việc phải năng động, tích cực, các em cần được hướng dẫn
cụ thể trước khi tiến hành thảo luận và ngay cả khi chuẩn bị soạn bài ở nhà trong
tiết học trước.
4.1.2. Một số kỹ thuật dạy học khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm:
a. Kỹ thuật XYZ (Còn gọi là kỹ thuật 635)
Kỹ thuật XYZ là một kỹ thuật làm việc nhóm nhằm phát huy tính tích
cực của mỗi thành viên trong nhóm, trong đó mỗi nhóm có X thành viên, mỗi
thành viên cần đưa ra Y ý kiến trong khoảng thời gian Z. Mô hình thông thường
mỗi nhóm có 6 thành viên, mỗi thành viên cần đưa ra 3 ý kiến trong khoảng
thời gian 5 phút, do vậy, kỹ thuật này còn gọi là kỹ thuật 635.
Dụng cụ:
Giấy bút cho các thành viên.
Thực hiện:
Giáo viên chia nhóm, giao chủ đề cho nhóm, quy định số lượng ý tưởng
và thời gian theo đúng quy tắc XYZ.
Các thành viên trình bày ý kiến của mình, hoặc gởi ý kiến về cho thư ký
tổng hợp, sau đó tiến hành đánh giá và lựa chọn, sắp xếp thành dàn ý một đoạn,
một bài văn nói phù hợp.
Lưu ý:
Số lượng thành viên trong nhóm nên tuân thủ đúng quy tắc để tạo tính tương
đồng về thời gian, giáo viên quy định thời gian và theo dõi thời gian cụ thể.
Ưu điểm:
Có yêu cầu cụ thể nên buộc các thành viên đều phải làm việc, ai cũng phải
đưa ra ý kiến, nói trước nhóm để thư kí tổng hợp.
Hạn chế:
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 15
Sáng kiến kinh nghiệm
Cần dành nhiều thời gian cho hoạt động nhóm, nhất là quá trình tổng hợp
ý kiến và đánh giá ý kiến.
b. Khăn phủ bàn
Kĩ thuật "khăn phủ bàn" là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác
kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm kích thích, thúc đẩy sự
tham gia tích cực, tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của người học và phát
triển mô hình có sự tương tác giữa người học với người học.
Dụng cụ:
Bút và giấy khổ lớn cho mỗi nhóm.
Thực hiện:
Giáo viên chia nhóm, phân công nhóm trưởng, thư ký, giao vật tư. Giáo
viên giao vấn đề, từng thành viên viết ý kiến của mình vào góc của tờ giấy.
Nhóm trưởng và thư ký tổng hợp các ý kiến, đánh giá và lựa chọn những ý kiến
quan trọng viết vào giữa tờ giấy.
Lưu ý:
Mỗi thành viên làm việc tại góc riêng của mình.
Ưu điểm:
Tăng cường tính độc lập và trách nhiệm của người học.
Hạn chế:
Tốn kém chi phí và khó lưu trữ, sửa chữa kết quả. Nhóm có số thành viên
4 là tốt nhất.
c. Kỹ thuật chia sẻ nhóm đôi (Think-Pair-Share)
Chia sẻ nhóm đôi (Think, Pair, Share) là một kỹ thuật do giáo sư Frank
Lyman đại học Maryland giới thiệu năm 1981. Kỹ thuật này giới thiệu hoạt
động làm việc nhóm đôi, phát triển năng lực tư duy của từng cá nhân trong giải
quyết vấn đề.
Dụng cụ:
Hoạt động này phát triển kỹ năng nghe và nói nên không cần thiết sử
dụng các dụng cụ hỗ trợ.
Thực hiện:
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 16
Sáng kiến kinh nghiệm
Giáo viên giới thiệu vấn đề, đặt câu hỏi mở, dành thời gian để học sinh
suy nghĩ. Sau đó học sinh thành lập nhóm đôi và chia sẻ ý tưởng, thảo luận,
phân loại.
Nhóm đôi này lại chia sẻ tiếp với nhóm đôi khác hoặc với cả lớp.
Lưu ý:
Điều quan trọng là người học chia sẻ được cả ý tưởng mà mình đã nhận
được, thay vì chỉ chia sẻ ý kiến cá nhân. Giáo viên cần làm mẫu hoặc giải thích.
Ưu điểm:
Thời gian suy nghĩ cho phép học sinh phát triển câu trả lời, có thời gian
suy nghĩ tốt, học sinh sẽ phát triển được những câu trả lời tốt, biết lắng nghe,
tóm tắt ý của bạn cùng nhóm.
Hạn chế:
Học sinh dễ dàng trao đổi những nội dung không liên quan đến bài học do
giáo viên không thể bao quát hết hoạt động của cả lớp.
d. Sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy là một hình thức ghi chép có thể sử dụng màu sắc và hình
ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nhờ sự kết nối giữa các nhánh, ý tưởng
được liên kết, do vậy bao quát được phạm vi sâu rộng.
Dụng cụ:
Bảng lớn, hoặc giấy khổ lớn, bút càng nhiều màu càng tốt, có thể sử dụng
các phần mềm vẽ sơ đồ tư duy.
Thực hiện:
Giáo viên chia nhóm, giao chủ đề cho nhóm, mỗi thành viên lần lượt kết
nối ý tưởng trung tâm đến ý tưởng của cá nhân, mô tả ý tưởng thông qua hình
ảnh, biểu tượng hoặc một vài ký tự ngắn gọn.
Ưu điểm:
Khi vẽ sơ đồ tư duy, học sinh học được quá trình tổ chức thông tin, ý
tưởng cũng như giải thích được thông tin và kết nối thông tin với cách hiểu biết
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 17
Sáng kiến kinh nghiệm
của mình. Phù hợp tâm lý học sinh, đơn giản, dễ hiểu. Rất thích hợp cho các nội
dung ôn tập, liên kết lý thuyết với thực tế.
Hạn chế:
Các sơ đồ giấy thường khó lưu trữ, thay đổi, chỉnh sửa, tốn kém chi phí.
Sơ đồ do học sinh tự xây dựng sẽ giúp học sinh nhớ bài tốt hơn là sơ đồ do giáo
viên xây dựng, Sau đây là nội dung cụ thể cho việc tổ chức thảo luận nhóm.
4.1.3. Cách thức tổ chức thảo luận nhóm trong tiết luyện nói Ngữ văn 8,9 ở
trường THCS Lý Thường Kiệt TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa:
a. Xác định nội dung nói cho mỗi nhóm:
Giờ làm văn luyện nói phải có mục đích rõ ràng, có nội dung cụ thể của
mỗi bài học, mỗi hoạt động. nội dung nói ở giờ tập làm văn gắn liền với nội
dung đang học, không phải nói tự do. HS phải nói có lớp có lang, có bài bản và
có sửa chữa, uốn nắn, nhận xét của thầy cô và các bạn trong lớp. Vì vậy GV cần
giao nhiệm vụ cụ thể để các em xác định đề tài (Nói cái gì ?); xác định đối tượng
giao tiếp (Nói trong hoàn cảnh nào ?); xác định mục đích giao tiếp (Nói để làm
gì ?); cách thức giao tiếp (Nói cho thuyết phục người nghe); nói cho có hiệu quả
(Phải thu thập, lựa chọn điều cần nói)
b. Chia nhóm:
Có nhiều loại nhóm: theo bàn, nhóm cùng sở thích, nhóm cùng màu sắc,
nhóm cùng ngày sinh, nhóm 4 người, 6 người….
c.Giao nhiệm vụ nhóm:
Một số trường hợp tổ chức thảo luận nhóm không thành công, trong đó
nguyên nhân chính thường do giao nhiệm vụ không rõ ràng, phân công không
hợp lí. Nhiệm vụ được giao thì quá nhiều trong khi thời gian để làm thì quá ít.
Trong những lần như thế, thảo luận nhóm đa phần chỉ mang hình thức đối phó,
không có giá trị thiết thực.
Vì thế, khi tổ chức chia nhóm, cần chú ý giao nhiệm vụ cụ thể cho mỗi
nhóm, nhất là các thành viên trong nhóm. Mỗi nhóm phải có thư kí để tổng hợp
ý kiến của các thành viên trong nhóm. Học sinh được giao nhiệm vụ này phải là
những học sinh khá – giỏi, tích cực, năng động, có khả năng tổng hợp và trình
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 18
Sáng kiến kinh nghiệm
bày vấn đề trước tập thể. Đây là kỹ năng quan trọng cần được rèn luyện thường
xuyên. Kỹ năng này rất có ích cho các em sau này khi bước vào đời. Vì thế, giáo
viên cũng nên tạo cơ hội cho tất cả được thử sức, không nên quá tập trung vào
một số em.
Ví dụ LỚP 8: Tiết: 54
LUYỆN NÓI: THUYẾT MINH VỀ MỘT THỨ ĐỒ DÙNG
Chia nhóm thảo luận theo kỹ thuật XYZ kết hợp kỹ thuật “ khăn trải bàn”.
Tìm hiểu Lập dàn ý cho đề văn thuyết minh về cái phích nước:
-Kỹ thuật XYZ: Trong đó mỗi nhóm có X thành viên, mỗi thành viên cần
đưa ra Y ý kiến trong khoảng thời gian Z. Mô hình thông thường mỗi nhóm có 6
thành viên, mỗi thành viên cần đưa ra 3 ý kiến trong khoảng thời gian 5 phút,
do vậy, kỹ thuật này còn gọi là kỹ thuật 635.
-Kĩ thuật "khăn trải bàn" là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác
kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm kích thích, thúc đẩy sự
tham gia tích cực, tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của người học và phát
triển mô hình có sự tương tác giữa người học với người học.
Dụng cụ:
Giấy bút cho các thành viên.
Thực hiện:
Các thành viên trình bày ý kiến của mình, hoặc gởi ý kiến về cho thư ký
tổng hợp, sau đó tiến hành đánh giá và lựa chọn, sắp xếp thành dàn ý một đoạn,
một bài văn nói phù hợp.Như vậy trong khi thảo luận nhóm GV có thể khéo léo
kết hợp các kỹ thuật dạy học để vừa phát huy năng lực làm việc nhóm, vừa kích
thích tính độc lập của từng HS trong nhóm để bao quát nhóm, tạo cơ hội HS nào
cũng được nói.
Nhóm 1: ? Để thuyết minh về cái phích nước thì phần mở bài em cần
giới thiệu như thế nào? (HS nói phần mở bài)
HS: Giới thiệu chung về cái phích nước là một vật dụng quen thuộc trong
mỗi gia đình.
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 19
Sáng kiến kinh nghiệm
Nhóm 2:? Đề bài yêu cầu thuyết minh cái phích nước. Vậy đối tượng
thuyết minh được đặt ra là một đồ vật. Theo em, phần thân bài của đề bài
này ta cần nêu lên những ý nào?
- Xuất xứ của phích nước.
- Hình dáng, cấu tạo.
- Cách sử dụng.
- Cách bảo quản.
- Lợi ích.
?Các em đã chuẩn bị đề bài này ở nhà. Vậy hãy cho thầy biết xuất xứ
ra đời của cái phích nước?
? Qua quan sát phích nước, em hãy trình bày những hiểu biết của em
về hình dáng và cấu tạo của nó?
Hình dáng, kích cỡ phích nước có nhiều loại khác nhau nhưng nhìn
chung chúng thường có hình trụ.
Cấu tạo gồm cấu tạo trong và cấu tạo ngoài.
Cấu tạo bên ngoài của phích nước gồm vỏ phích , quai cầm, tay xách và
nắp phích.
Nhóm 3:
? Bằng kinh nghiệm của mình, em hãy cho biết cách sử dụng và cách
bảo quản phích nước?
- Muốn phích giữ được nước nóng lâu hơn, ta không nên rót đầy, chừa
một khoảng trống giữa nước sôi và nút phích để cách nhiệt vì hệ số truyền nhiệt
của nước lớn hơn không khí gần 4 lần.
- Nếu nhà có trẻ cần để phích vào những nơi kín đáo, xa tầm tay trẻ nhỏ
để đảm bảo an toàn.…..
? Theo em phích nước có những lợi ích, công dụng nào?
Nước nóng được chứa trong phích để pha trà, pha sữa, pha cà phê…
Cuộc sống vốn bận rộn, tiết kiệm thời gian là một tiêu chí cần thiết của mỗi
người
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 20
Sáng kiến kinh nghiệm
Nhóm 4:? Nội dung của phần kết bài cần nêu những ý gì?
HS: Vai trò của phích nước trong đời sống và chúng ta cần có ý thức bảo
vệ tài sản.
*GV đợi HS ghi hoàn chỉnh dàn ý vào vở.
? Bằng sự hiểu biết của mình, em hãy nêu lên những yêu cầu về mặt hình
thức trong tiết học luyện nói?
VÍ DỤ - LỚP 9:TIẾT 140
LUYỆN NÓI: NGHỊ LUẬN VỀ MỘT ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ
Hoạt động :Hướng dẫn HS lập dàn ý.
-Yêu cầu HS nêu dàn ý đã chuẩn bị ở nhà (GV kiểm tra HS phần chuẩn bị
ở nhà theo nhóm)
- GV hướng dẫn HS nhận xét, bổ sung; treo bảng phụ, (hoặc sử dụng máy
chiếu) ghi dàn ý mẫu cho HS tham khảo.
-HS: nêu dàn ý:
-GV chia nhóm, hướng dẫn HS thảo luận nhóm theo kỹ thuật chia sẻ
nhóm đôi trước trong (nhóm 2 người), sau đó tiếp tục chia sẻ nhóm theo kỹ
thuật XYZ (nhóm 4 người) trước khi nói trước lớp. Khi kết hợp hai kỹ thuật
dạy học này trong thảo luận nhóm sẽ phát huy tối đa khả năng nói cho từng cặp
và nhóm HS. Từ đó các em mạnh dạn xây dựng cho mình cách nói tự tin, hoạt
bát trước lớp.
Kỹ thuật chia sẻ nhóm đôi (Think-Pair-Share)
Kỹ thuật này giới thiệu hoạt động làm việc nhóm đôi, phát triển năng lực
tư duy của từng cá nhân trong giải quyết vấn đề.
Dụng cụ:
Hoạt động này phát triển kỹ năng nghe và nói nên chỉ cần thiết sử dụng
bảng phụ hoặc không cần các dụng cụ hỗ trợ.
Thực hiện:
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 21
Sáng kiến kinh nghiệm
Giáo viên giới thiệu vấn đề, đặt câu hỏi mở, dành thời gian để học sinh
suy nghĩ. Sau đó học sinh thành lập nhóm đôi và chia sẻ ý tưởng, thảo luận,
phân loại.
Nhóm đôi này lại chia sẻ tiếp với nhóm đôi khác hoặc với cả lớp.
+ Nhóm 1( nhóm lớn 4 người): thảo luận nhóm phần - Mở bài : giới
thiệu tác giả, tác phẩm
-Nhóm đôi 2 HS: Giới thiệu tác giả : Thanh Hải một nhà thơ cách mạng,
suốt đời cống hiến cho sự nghiệp chung của Tổ quốc
- Nhóm đôi 2 HS: Giới thiệu bài thơ : Bài “Mùa xuân nho nhỏ” được
viết vào tháng 11-1980 lúc tác giả đang nằm trên giường bệnh, tác giả nguyện
góp “Mùa xuân nho nhỏ” vào mùa xuân lớn của đất nước
B- Thân bài :
+Nhóm 2: thảo luận nội dung:? Cảm nhận về mùa xuân
Cảm nhận về mùa xuân:
Nhóm đôi 2 HS:
- Ở vẻ đẹp : “Dòng sông xanh”, “bông hoa tím”
- Ở niềm vui : Tiếng chim hót vang, một bức tranh xuân sinh động như
khúc hát mùa xuân
Nhóm đôi 2 HS - Cảm xúc về mùa xuân : tiếng chim hót – từng giọt –
đưa tay hứng.
+Nhóm 3:- Nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng mùa xuân đất nước
Nhóm đôi 2 HS - “Người cầm súng”, làm nhiệm vụ bảo vệ đất nước
trong vòng lá ngụy trang
- “Người ra đồng”làm nhiệm vụ sản xuất xây dựng đất nước
Nhóm đôi 2 HS - Lịch sử đất nước : Đất nước với bao thử thách chồng chất
+Nhóm 4- Sự cống hiến của mỗi người:
Sự cống hiến của mỗi người
Nhóm đôi 2 HS -Mỗi người là một mùa xuân nho nhỏ thật am thầm, lặng
lẽ không phô trương
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 22
Sáng kiến kinh nghiệm
Nhóm đôi 2 HS - Cống hiến suốt cả cuộc đời,không ngừng, không nghỉ
từ tuổi thanh xuân cho đến khi tóc bạc
+Nhóm 5:Tiếng hát mùa xuân :
- Khúc hát của quê hương đất nước là một khúc hát của sự trường tồn, bất diệt
+Nhóm 6:- Kết bài :
Nhóm đôi 2 HS - Bài thơ là lời tâm tình của nhà thơ. Đây là lời nhắn nhủ
sau cùng của tác giả đối với thế hệ trẻ
Nhóm đôi 2 HS - Bài thơ chan hòa cả màu sắc, âm thanh của thiên nhiên,
đất trời cùng sức trẻ đầy sôi động
d.Giám sát hoạt động của từng nhóm.
Do đa phần học sinh của chúng ta có ý thức học tập không cao, năng lực
học tập không đều. Thường với một nhóm đông thành viên, rất dễ dẫn đến nhiều
em không tập trung, làm việc riêng. Hoặc trong quá trình thảo luận, có khi do
lúng túng không hiểu rõ yêu cầu của vấn đề cần thảo luận dẫn đến làm lệch
hướng, không đáp ứng yêu cầu đặt ra. Vì thế, giáo viên phải giám sát thường
xuyên, kịp thời uốn nắn, có thể hướng dẫn, gợi ý giúp đỡ các em những khó
khăn, thắc mắc của các nhóm .
e.Trình bày kết quả thảo luận
Khi kết thúc quá trình thảo luận, mỗi nhóm cử đại diện trình bày kết quả
thảo luận của nhóm. Thường, công việc này do thư kí nhóm trình bày. Tùy vào
điều kiện, giáo viên có thể cho các nhóm tham gia phản biện. Khi ấy, giáo viên
chính là trọng tài có nhiệm vụ dẫn dắt, định hướng vào đề tài, tránh lệch hướng.Điều
cần chú ý, tất cả các nhóm phải được trình bày kết quả thảo luận của mình. Không
nên vì sợ mất thời gian mà cắt phần trình bày của nhóm khác. Nhóm còn lại, hoặc
tiết sau trình bày hoặc tự rút kinh nghiệm từ các nhóm trước.
f.Tổng kết đánh giá
Giáo viên nên cho các nhóm tự đưa ra lời nhận xét, đành giá lẫn nhau,
nhận xét cụ thể, khách quan. Chú ý hướng dẫn các em nhận xét về: nội dung
trình bày được chính xác theo yêu cầu chưa, tác phong nói trước lớp: cử chỉ, nét
mặt, ánh mắt, lời nói có mạch lạc, thu hút người nghe không, biểu cảm trên
Giáo viên: Phan Huy Lương
Trang 23