Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Vai trò của lễ hội trong tuyên truyền đường lối, chính sách của đảng và nhà nước ở tỉnh bắc ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.97 KB, 91 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lễ hội, một loại hình hoạt động văn hóa tinh thần và tín ngưỡng của
các cộng đồng dân tộc trong xã hội truyền thống và hiện đại là sinh hoạt văn
hóa tinh thần đặc biệt mang tính tập thể, nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín
ngưỡng, củng cố ý thức cộng đồng. Lễ hội chứa đựng và phản ánh nhiều mặt
của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm lý, tính cách tín ngưỡng, tôn giáo
của từng tộc người, của các dân tộc trên khắp hành tinh của chúng ta. Lễ hội
giúp con người thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tinh thần, tư tưởng và phục vụ xây
dựng đời sống văn hóa ở các bản làng, các địa phương.
Ý nghĩa của lễ hội được nhân lên, một khi các chủ thể cầm quyền nhận
thức đúng và sử dụng có hiệu quả trong việc lồng ghép với việc giáo dục tư
tưởng, phục vụ cho công tác tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước của Đảng và Nhà nước phù hợp với xu thế phát triển và nguyện
vọng, tình cảm của cộng đồng dân cư.
Ở Việt Nam, bất cứ thời kỳ nào lễ hội cũng được chú trọng sử dụng và
có vai trò quan trọng và góp phần quan trọng xứng đáng vào việc tuyên
truyền, giáo dục truyền thống, đoàn kết cộng đồng, đoàn kết dân tộc, tuyên
truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước …, góp phần tạo động
lực tinh thần cho quá trình phát triển, trước hết là phát triển kinh tế.
Bắc Ninh - một vùng đồng quê “đậm đà” truyền thống văn hóa, từng
được ca ngợi là “xứ sở” của đình chùa và lễ hội có nhiều lễ hội nổi tiếng như:
lễ hội chùa Lim, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, đền Đô, chùa Phật Tích, đền Vua
Bà, hội Đồng Kỵ…và nhiều lễ hội gắn với di sản lịch sử nổi tiếng được nhiều
người dân khắp mọi miền biết đến. Mỗi lễ hội đều có nội dung, chủ đề và có
giá trị khác nhau, tùy thuộc vào lịch sử hình thành và phát triển của nó, song


2



một cách chung nhất đều phản ánh khát vọng vươn tới giá trị chân, thiện, mỹ
của nhân dân Kinh Bắc.
Ngày nay, lễ hội văn hoá truyền thống đóng vai trò rất quan trọng trong
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ở nước ta. Hoạt
động văn hoá này tạo sự cân bằng trong đời sống tinh thần của cộng đồng
trước xã hội hiện đại, thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững, lành mạnh...
Chính vì thế, đổi mới cách tổ chức và quản lý lễ hội, là nhằm bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước
trong thời kỳ mới là vấn đề ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng.
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của các hoạt động lễ hội đối
với đời sống xã hội, nhiều lễ hội diễn ra phong phú và đa dạng ở các địa
phương, trong đó có vùng đất Kinh Bắc. Điều đó đòi hỏi các cấp chính quyền
phải có biện pháp tổ chức và chỉ đạo kịp thời các hoạt động lễ hội để thông
qua đó tìm ra các phương hướng, giải pháp nhằm phát huy hiệu quả của việc
sử dụng lễ hội trong tuyên truyền – giáo dục.
Nhằm nghiên cứu sâu sắc, có hệ thống lễ hội góp phần phác hoạ nên
những nét chung về lễ hội và vai trò của việc sử dụng lễ hội để tuyên truyền
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, tác
giả đã mạnh dạn lựa chọn và thực hiện đề tài “Vai trò của lễ hội trong tuyên
truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Bắc Ninh hiện
nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Khoa học chính trị, chuyên ngành
Công tác tư tưởng. Với mong muốn có được những đánh giá xác thực về thực
trạng hoạt động lễ hội và vai trò của lễ hội trong công tác tuyên truyền đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện
nay, từ đó nhằm tìm ra phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt vai trò
của lễ hội trong tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ở
tỉnh Bắc Ninh hiện nay.



3

2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
2.1. Các công trình nghiên cứu về lễ hội và lễ hội vùng Kinh Bắc
Nghiên cứu lễ hội có rất nhiều sách, các công trình khoa học đã đề cập
đến như “Lễ hội truyền thống và hiện đại” (1984) của Thu Linh, Đặng Văn
Lung; “Hội hè Việt Nam” (1990) của Trương Thìn; “Bảo tàng di tích lễ hội”
(1992) của Phan Khanh; “Lễ hội cổ truyền của người Việt ở Bắc bộ Việt Nam
” (1992) của Phan Đăng Nhật; “Việt nam phong tục” (1992) của Phan Kế
Bính; “Lễ hội cổ truyền” (1992) do Lưu Trung Vũ chủ biên và nhiều tác giả;
“Lễ hội cổ truyền của người Việt ở Bắc bộ Việt nam” (1992) của Phan Đăng
Nhật; “Lễ hội truyền thống trong xã hội hiện đại” (1993) của Đinh Gia
Khánh, Đinh Hữu Tầng; “Lễ hội một nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá cộng
đồng” (1998) của Hồ Hoàng Hoa; “Hội Lim đến hẹn lại lên” (2000) của Trần
Thị Hường; “Những tương đồng giữa các lễ hội cổ truyền Đông Nam Á”
(2000) của Trần Bình Minh; “Lễ hội của người Việt ở Hà Bắc” (2000) của
Bùi Văn Thành; “Từ điển lễ hội Việt Nam ” (2000) của Bùi Thiết; “Lễ hội
Đền Đô xưa và nay” (2001) của Nguyễn Anh Bắc; “Về biểu tượng trong lễ
hội dân gian truyền thống” (2001) của Nguyễn Văn Hậu. LATS Lịch sử:
5.03.13; “Khảo sát thực trạng văn hóa lễ hội truyền thống của người Việt ở
Đồng bằng bắc bộ” (2001) của TS. Nguyễn Quang Lê; “Lễ hội Bắc Ninh”
(2003) của Trần Đình Luyện; “Cấu trúc của lễ hội đương đại” (2004) của
Đoàn Minh Châu, LATS Lịch sử: 5.03.13; “Hội hè đình đám” (2005) của
Toan Ánh; “Một số giải pháp quản lý lễ hội dân gian” (2005) của Hoàng
Nam; “Thống kê lễ hội, đình đám truyền thống tỉnh Bắc Ninh” (2005) của
Đinh Thị Lập; “Các lễ hội truyền thống Việt Nam” (2006) của Đỗ Hạ, Quang
Vinh; “Di tích lịch sử văn hóa đền Đô” (2006) của Nguyễn Đức Thìn “Lễ hội
là nguồn nước trong lành” (2007) của Lê Tiến Dũng, Ngô Quang Hưng; “Sự
tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội tín ngưỡng” (2008) của PGS. Lê



4

Hồng Lý; “Quản lý lễ hội cổ truyền” (2009) của Thạc sỹ Phạm Thanh Quy;
“Lễ hội và du lịch văn hoá Việt Nam” (2009) của Đoàn Huyền Trang; “Lễ hội
dân gian ở Thừa Thiên Huế” (2010) của Tôn Thất Bình; …. đều nói về các lễ
hội, phong tục Việt Nam. Nhìn chung các công trình nghiên cứu này đã nêu
khá đầy đủ về nội dung và hình thức thể hiện của lễ hội dân gian, đồng thời
cũng mô tả diễn biến của các lễ hội trong mối quan hệ trực tiếp với phong tục
tín ngưỡng dân gian.
2.2. Các công trình nghiên cứu về việc lồng ghép hoạt động lễ hội với
tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
Trong những năm gần đây để đáp ứng yêu cầu chấn hưng các hình thức
sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống, nhất là việc phục hồi và phát triển
các lễ hội dân gian, nhiều cuộc hội thảo khoa học về lễ hội đã được tổ chức
như: “Hội thảo công tác quản lý lễ hội dân gian” tháng 6 năm 2010 với mục
đích đánh giá thực trạng công tác tổ chức và quản lý lễ hội ở nước ta hiện
nay; Nguyên nhân của những mặt làm được và những mặt hạn chế, tồn tại
trong tổ chức và quản lý lễ hội ở nước ta trong thời gian qua; đề xuất, kiến
nghị những giải pháp nhằm góp phần làm tốt hơn nữa công tác tổ chức và
quản lý lễ hội trong thời gian tới; Góp phần vào việc chuẩn bị Hội nghị toàn
quốc tổng kết công tác lễ hội, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ
chức;“Bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội đương đại,
trường hợp Hội Gióng” tháng 4/2010; Kỷ yếu“Hội Xứ Bắc” (1988) nói về lễ
hội truyền thống, kịch bản lễ hội, kinh nghiệm lịch sử về chỉ đạo tổ chức lễ
hội của Sở Văn hoá thông tin Hà Bắc; Hội thảo “Lễ hội Quảng Nam trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2009)…
Trên lĩnh vực nghiên cứu về văn hóa dân gian và văn hóa dân tộc nói
chung, lễ hội truyền thống nói riêng, các nhà nghiên cứu chuyên môn cũng đã
đạt được nhiều thành tựu đáng kể.



5

Sử dụng lễ hội phục vụ cho công tác tuyên truyền cũng có một số công
trình, một số bài đề cập đến ở các góc độ khác nhau như: vấn đề hướng dẫn,
quản lý lễ hội, vấn đề tổ chức lễ hội, thông qua lễ hội để giáo dục lối sống,
đạo đức…., được đăng tải ở các báo, tạp chí dân tộc học, tạp chí văn hóa
nghệ thuật, văn hóa dân gian, tạp chí thông tin…, đánh giá của Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy, Sở Văn hóa thông tin tỉnh Bắc Ninh, các phòng văn hóa – thông
tin các huyện ở tỉnh Bắc Ninh về hoạt động lễ hội…
Tuy nhiên, cho đến nay còn thiếu vắng những đề tài nghiên cứu sâu về
cơ sở lý luận của lễ hội và tình hình hoạt động lễ hội ở tỉnh Bắc Ninh; đánh
giá khách quan thực trạng về vai trò của lễ hội trong tuyên truyền đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Bắc Ninh; đặc biệt chưa có những đề
xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát huy vai trò của lễ hội trong công tác
tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, ở tỉnh Bắc Ninh
hiện nay.
Do vậy, nghiên cứu về vai trò của lễ hội trong công tác tuyên truyền
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Bắc Ninh đòi hỏi cần phải
được nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, phân tích, đánh giá hoạt động
lễ hội và thực trạng vai trò lễ hội trong tuyên truyền đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, luận văn đề xuất phương hướng, giải pháp phát huy vai
trò của lễ hội trong tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ở tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích một số vấn đề lý luận về lễ hội và tình hình hoạt động của lễ

hội ở tỉnh Bắc Ninh.


6

- Phân tích thực trạng về vai trò của lễ hội trong tuyên truyền đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm phát huy vai trò của lễ
hội trong công tác tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
ở tỉnh Bắc Ninh.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận
Luận văn thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về lễ hội, về công tác truyền truyền đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước; đồng thời luận văn cũng kế thừa các thành quả của
các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp lôgic - lịch sử; phân tích, tổng
hợp; phương pháp điều tra xã hội học và phương pháp so sánh...
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn xác định vai trò của lễ hội trong tuyên truyền đường lối,
chính sách làm đối tượng nghiên cứu.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ là công tác
tuyên truyền đường lối, chính sách thông qua các lễ hội được tổ chức ở tỉnh
Bắc Ninh.
Thời gian nghiên cứu được xác định từ Đại hội X đến nay.
6. Ý nghĩa của đề tài

Luận văn góp phần làm sáng tỏ vấn đề lý luận về vai trò lễ hội trong
việc phát huy hiệu quả tuyên truyền đường lối, chính sách. Những kết quả


7

nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho lãnh đạo,
nhất là lãnh đạo ngành tư tưởng - văn hóa Bắc Ninh và cán bộ tuyên giáo tỉnh
Bắc Ninh trong việc xây dựng kế hoạch sử dụng lễ hội để tuyên truyền đường
lối, chính sách.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung luận văn gồm 3 chương và 07 tiết.


8

Chương 1
LỄ HỘI VÀ VAI TRÒ CỦA LỄ HỘI TRONG TUYÊN TRUYỀN
ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
1.1. Lễ hội và vai trò của lễ hội trong đời sống tinh thần của nhân dân
1.1.1. Khái niệm lễ hội, đặc điểm của lễ hội
* Khái niệm lễ hội
Thuật ngữ lễ hội là từ ghép giữa “lễ” và “hội”
Lễ có nhiều quan niệm khác nhau, theo từ điển Tiếng Việt xuất bản
năm 2002, “Lễ là những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm
một sự việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó; lễ còn có nghĩa là vái, lạy để tỏ lòng
cung kính, theo phong tục cũ, lễ còn được hiểu là khuôn phép, là phép bày ra
nhằm tỏ ý kính trọng, lịch sự” [50, tr 561]. Lễ còn được xem là linh hồn cốt
lõi của một lễ hội và là phần quan trọng nhất được đầu tư công phu nhất cả về

thời gian, tiền bạc và công sức.
Lễ là đạo, khác với hội là đời. Trong lễ bao giờ cũng phải có tế: Tế bao
gồm những nghi thức đúng quy định như y phục, phẩm phục, hia hài, mũ... và
các nghi thức tổ chức tế lễ. Những nghi thức này thường do những cụ cao
niên, phúc đức được dân làng chọn ra thực hiện, trong đó có một số người
làm chủ tế.
Hội có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng theo từ điển Tiếng Việt thì
“hội là cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người dự theo phong tục hoặc
nhân dịp đặc biệt” [50, tr 561]. Hội thường được tổ chức vào các dịp kỷ niệm
một sự kiện trọng đại nào đó có liên quan đến nhiều người, hội mang tính
cộng đồng, trong đó bao gồm các trò diễn, các cuộc đua tài, các trò chơi, văn
nghệ giải trí. Phần hội có thể thể thêm bớt, thay đổi, tùy theo cấu trúc lễ hội.
Theo từ điển Tiếng Việt, lễ hội được hiểu là “cuộc vui tổ chức chung, có
các hoạt động lễ nghi mang tính văn hóa truyền thống của dân tộc” [50, tr 561].


9

Những người tham gia vào phần lễ chỉ do một số người có vai vế, có vị trí nhất
định ở địa phương, phần lễ trong một số lễ hội mang tính thiêng liêng, bất biến,
là những nghi thức thờ thần thánh, được quy định chặt chẽ về không gian và
thời gian tổ chức, tham gia vào phần hội thì bao gồm đông đảo quần chúng
nhân dân.
Như vậy, lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian phổ biến ở
khắp các làng, quê, nó được ra đời từ rất sớm và đã tồn tại, phát triển qua
nhiều thời đại.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX trở về trước thuật ngữ lễ hội đã được
các nhà nghiên cứu sử dụng, “Điều này phù hợp với cách gọi của dân gian,
người dân ở các làng quê xưa thường gọi đi hội, chơi hội, làng có hội thì
thường gọi là mở hội, vào đám”[43,tr 16].

Tác giả Toan Ánh là người sử dụng thuật ngữ: “Hội hè đình đám” khá
triệt để. Trong hai cuốn sách do ông xuất bản năm 1960 và 1974 ở Sài Gòn
trong bộ “Nếp cũ” của mình ông đều dùng thuật ngữ này, nhưng khi gọi vắn
tắt thì ông chỉ gọi là hội. Theo ông: “trong hội thường có trò vui gọi là “bách
hí” để dân chúng mua vui, nhưng mục đích của hội hè đình đám không phải
chỉ có thế, mà mua vui cho dân chúng cũng không phải là mục đích đầu tiên
của hội hè. Có thể nói được rằng mục đích đầu tiên của hội hè đình đám là để
dân làng bày tỏ lòng thành kính và biết ơn đối với Đức Thành Hoàng, Thần
Linh coi sóc, che chở cho dân làng”[2,tr 11]. Trung thành với quan điểm văn
hóa dân gian, GS.Đinh Gia Khánh cho rằng: “danh từ hội lễ nên được dùng
như một thuật ngữ văn hóa. Có thể xác định ý nghĩa thuật ngữ này theo hai
thành tố (hội và lễ). Hội là tập hợp đông người trong một sinh hoạt cộng
đồng. Lễ là các nghi thức đặc thù, gắn với các loại hình sinh hoạt cộng đồng
ấy”[37, tr 172].
Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, xu thế sử dụng thuật ngữ “lễ
hội” được phổ biến hơn. Do người thời nay mong muốn gắn hình thức hình


10

thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng này có ít nhất hai yếu tố cũng là hai đặc
trưng đi liền với nhau. Trước hết: là lễ bái, tế lễ, cầu phúc. Sau đó: là thăm thú
vui chơi nơi đông đúc. Vì vậy đã có ý kiến cho rằng: phải thêm chữ “lễ” cho
“hội”. Do gắn thêm chữ lễ vào hội mà từ đó đến nay các nhà nghiên cứu Việt
Nam đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về lễ hội.
Có thể nói, thuật ngữ lễ hội chính thức được bắt đầu bằng công trình
“Lễ hội cổ truyền Việt Nam” của Viện nghiên cứu văn hóa dân gian do tác giả
Lê Trung Vũ chủ biên, cùng các tác giả khác là Phan Đăng Nhật, Ngô Đức
Thịnh, Nguyễn Xuân Kính, Lê Văn Kỳ và các cộng tác viên.
Trong cuốn “Lễ hội cổ truyền”, tác giả Phan Đăng Nhật cho rằng: “Lễ

hội là một pho lịch sử khổng lồ ở đó tích tụ vô số những lớp phong tục, tín
ngưỡng, văn hóa nghệ thuật và cả các sự kiện xã hội lịch sử quan trọng của
dân tộc. Lễ hội còn là bảo tàng sống về mặt sinh hoạt văn hóa tinh thần của
người Việt, chúng đã sống, đang sống với những đặc trưng của mình, chúng
tạo nên sức cuốn hút, thuyết phục mạnh mẽ nhất” [72, tr 131].
Trong cuốn “Hội Hè Việt Nam” có viết: “Hội và lễ hội là một sinh hoạt
văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam chúng ta, hội và lễ hội có sức hấp dẫn,
lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội để trở thành một nhu cầu, một khát vọng
của nhân dân trong nhiều thập kỷ”[56, tr 24].
GS.Trần Quốc Vượng viết: “Lễ hội gồm hai phần vừa tách rời nhau,
vừa không tách rời nhau: Lễ (nghi lễ cúng Thần, Thánh, Phật, Mẫu …) và Hội
(tụ hội của dân làng hay liên làng)” [73, tr 9]. Hay: “Trên thực tế và về lý
thuyết lễ - hội xoắn xuýt hữu cơ vào nhau, không thể tách rời”[73, tr 9].
Dù tiếp cận khác nhau, nhưng về cơ bản nội dung gần như thống nhất
với nhau và đều có quan điểm chung khi nghiên cứu lễ hội đó là có hoạt động
tín ngưỡng, hoạt động văn hóa, hoạt động đó phản ánh đời sống tâm linh, tư
tưởng, tình cảm của cộng đồng.


11

Suy cho cùng thì lễ hội gồm hai phần “lễ” và “hội” được gắn quyện
chặt chẽ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, trong đó, phần lễ có bao
gồm các nghi lễ tín ngưỡng dân gian và các tôn giáo du nhập cùng với những
đồ vật được sử dụng làm đồ tế lễ mang tính thiêng liêng được chuẩn bị rất chu
đáo và nghiêm túc, thông qua các lễ hội, con người dường như được giao hoà
với thế giới siêu nhiên. Do vậy, phần lễ là hạt nhân của mọi lễ hội dân gian và
phần lễ giữ vai trò quyết định cho sự tồn tại phát triển của lễ hội. Còn phần
tiếp sau của phần lễ đó là phần vui chơi giải trí mang tính vui nhộn, hài hước
và rất sống động, tuy có sự phân chia thành hai phần như vậy, song thực chất

khó có sự tách biệt giữa lễ và hội, ở mỗi lễ hội cụ thể thì mức độ giữa lễ và
hội cũng có sự khác nhau.
Tuy còn có nhiều ý kiến khác nhau, song cơ bản các nhà nghiên cứu
đều nhất trí với quan niệm: Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa tổng
hợp bao gồm các mặt tinh thần và vật chất, tôn giáo tín ngưỡng và văn hóa
nghệ thuật linh thiêng và đời thường…, là một sinh hoạt có sức thu hút một
số lượng các tầng lớp nhân dân trong xã hội, phản ánh những hiện tượng của
đời sống xã hội.
Lễ hội được cấu thành bởi hai yếu tố: lễ (mặt thứ nhất- tinh thần, tôn
giáo, tín ngưỡng, linh thiêng) và hội (mặt thứ hai – vật chất, văn hóa nghệ
thuật, đời thường) và chúng được gắn bó chặt chẽ, hòa quện với nhau không
thể bỏ đi một yếu tố nào mà không làm mất đi bản thân nó.
* Đặc điểm của lễ hội
Thứ nhất, lễ hội mang tính chất tôn giáo - tín ngưỡng
Lễ hội nào cũng mang tính chất tôn giáo - tín ngưỡng. Tín ngưỡng của
người Việt không xác lập ở một hệ tối cao duy nhất, không nhất thể hóa như
Chúa trời, Phật, Ala và tạo ra một hệ giáo lý sâu sắc, mà người Việt xác lập cho
mình một hệ thống tín ngưỡng đa dạng: tín ngưỡng vạn vật hữu linh, tín


12

ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ thần Thành
Hoàng làng, tín ngưỡng thờ Mẫu.
Các yếu tố bản địa và tôn giáo ngoại nhập đều tồn tại trong một hệ tín
ngưỡng: không có sự bài xích, phủ định nào gay gắt cơ bản, nét bao dung
được thể hiện hầu hết trong các lễ hội, những hội đình, hội chùa, những nghi
lễ về các nhân vật được tôn thờ… đều làm toát lên niềm tin vào cái chân,
thiện, mỹ trong cuộc sống. Đến với lễ hội con người không chỉ với ước vọng
được giao thoa, giao hòa với thiên nhiên mà còn trực tiếp tham gia vào quá

trình tái sáng tạo văn hóa. Đến lễ hội, người thì cầu các bậc thần thánh phù hộ
cho sức khỏe, người thì cầu mong được nhiều của cải, người thì cầu có con
cháu, con cháu hiếu thảo, có địa phương thì cầu làm ăn thuận lợi.
Thứ hai, lễ hội phản ánh đời sống tâm linh, tinh thần phong phú, đa
dạng gắn liền với mỗi cộng đồng người, từ cộng đồng tộc người đến cộng
đồng dân tộc.
Mỗi dân tộc đều có lễ hội riêng của mình và thường phản ánh đời sống
tâm linh, điều kiện lịch sử, đời sống tinh thần và vật chất của dân tộc đó.
Nước ta là một quốc gia đa dân tộc nên cũng rất đa dạng về tín ngưỡng,
phản ánh điều kiện sống, tâm linh và đời sống tinh thần phong phú của các dân
tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, có lễ hội kéo dài từ 1- 3 ngày, có lễ hội
kéo dài suốt 3 tháng mùa Xuân như lễ hội Chùa Hương gắn với Nam thiên Đẹ
nhất động. Lễ hội nào cũng đều gắn với tộc người hay với một làng quê nhất
định, mang dấu ấn đậm nét làng quê, qua đó lễ hội ở Việt Nam thể hiện sắc thái
dân tộc đậm nét hơn so với các nước khác. Điều này một phần do đặc điểm lịch
sử dân tộc Việt Nam. Đó là lịch sử hào hùng chống giặc ngoại xâm và sự nỗ
lực trong khắc phục thiên tai, nên đã tạo ra tính đa dạng về tín ngưỡng với một
đời sống tinh thần phong phú như: thờ những người khai dân lập ấp, những vị
tổ sư của các làng nghề... Có khi không tìm được con người cụ thể, người dân


13

dành những công lao ấy cho những lực lượng siêu nhiên được nhân dân thần
thánh hóa …
Có cả những lễ hội vốn có nguồn gốc khác cũng được đắp thêm một
lớp lịch sử hoặc được lồng vào nội dung lễ và hội, lễ hội phản ánh trình độ
của thời đại, tư tưởng, nét văn hóa, đời thường của thời đại. Ví dụ: lễ hội Lim,
lễ hội Đồng Kỵ… Ở đây người ta vẫn giữ nét đặc sắc truyền thống, đồng thời
người ta đưa những yếu tố mới của đời sống hiện nay như nội dung phù hợp

với tư tưởng, tình cảm của nhân dân ngày nay. Phần hội: từ hoạt động văn hóa
văn nghệ, trang phục tổ chức các trò diễn mang nét mới kết hợp với yếu tố
truyền thống. Các lễ hội coi nội dung tế lễ là nghi thức rất quan trọng, hình
thức hoạt động lễ hội cũng phụ thuộc vào tín ngưỡng, thói quen của từng dân
tộc, điều kiện kinh tế xã hội của từng nước, từng địa phương.
Thứ ba, lễ hội gắn với hoạt động văn hóa, vui chơi, giải trí
Các lễ hội, sau phần lễ đều có phần hội: Phần hội làm cho lễ hội thêm
sinh động, sôi nổi, hấp dẫn du khách thập phương. Kết quả của phần hội là do
các hoạt động văn hóa văn nghệ và các trò chơi giải trí tạo nên. Hoạt động
văn hóa văn nghệ diễn ra trong lễ hội rất phong phú, đa dạng, nó phụ thuộc
vào truyền thống văn hóa của từng địa phương, khả năng và sự tích cực tham
gia của các tầng lớp nhân dân.
Ở nhiều hoạt động của lễ hội: có các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp,
đoàn văn công địa phương, đội văn nghệ của thôn, xóm thực hiện các hoạt
động văn hóa văn nghệ (nếu không có hoạt động văn hóa văn nghệ thì không
trở thành lễ hội).
Ví dụ: lễ hội có các trò chơi dân gian như nấu cơm, đua thuyền, thi vật,
thi hát đối, chọi gà, chọi trâu, cờ người, diễn văn nghệ … các trò diễn truyền
thống vẫn được duy trì không thể thiếu ở các lễ hội.
Các trò chơi trong phần hội phản ánh đời sống tinh thần của nhân dân,
phản ánh truyền thống văn hóa địa phương, thể hiện phong tục, tập quán của


14

làng, của một vùng quê. Ngày nay, các lễ hội ngoài các trò chơi dân gian, các
hoạt động tổ chức thi văn nghệ quần chúng, ban tổ chức mời đội văn nghệ
chuyên nghiệp về biểu diễn như hội Gióng, hội Láng, hội Lim … Các hoạt
động vui chơi ngày càng phát triển phù hợp với điều kiện hiện nay.
Thứ tư, lễ hội mang tính nhân dân, tính xã hội sâu sắc

Lễ hội do nhân dân quy định và do nhân dân sáng tạo ra (nhân dân vừa
là khách thể sáng tạo văn hóa, vừa là chủ thể hưởng thụ văn hóa), lễ hội đáp
ứng nhu cầu của nhân dân. Chính vì vậy, ở địa phương nào cũng có lễ hội, ai
cũng có thể tham gia vào lễ hội và lễ hội đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân
dân, nhân dân tự tổ chức và tự sáng tạo hoạt động vui chơi, tham gia và quản
lý hoạt động lễ hội.
Chính những người dân đã tìm ra hình thức tổ chức: tế, lễ, hình thức
vui chơi giải trí để đáp ứng nhu cầu tinh thần, vui chơi giải trí của chính mình,
đến lễ hội, không phân biệt thành phần xã hội, giai cấp, dân tộc, chế độ nào.
Có lễ hội tồn tại hàng trăm năm và ngày càng được nhân dân chú ý giữ gìn.
Bên cạnh tính nhân dân lễ hội còn mang tính xã hội rộng rãi lễ hội là
hoạt động xã hội, lễ hội gắn với xã hội nhất định, tồn tại trong các chế độ xã
hội, bị chi phối bởi điều kiện, hoàn cảnh xã hội. Các lễ hội phản ánh đời sống
tinh thần, vật chất của xã hội đó, xã hội dân chủ, kinh tế phát triển, nhân dân
được bình đẳng thì lễ hội tưng bừng và đông đúc, ngược lại kinh tế kém phát
triển không đảm bảo dân chủ, công bằng xã hội bị vi phạm thì hoạt động lễ
hội hạn chế, ít người đến lễ hội để vui chơi mà chủ yếu để đi tế lễ.
1.1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển lễ hội
Để xác định nguồn gốc, bản chất của lễ hội, người ta dựa vào nhiều
nguồn sử liệu khác nhau như nguồn sử liệu văn tự (chữ viết), dân tộc học,
khảo cổ học, văn hóa dân gian… Thông qua các nguồn sử liệu này có thể
đoán định được rằng: lễ hội đã xuất hiện từ rất lâu đời và nguồn gốc của nó có


15

lẽ xuất phát từ trước thời kỳ văn hóa Đông Sơn, gần như cùng với việc hình
thành những cộng đồng trên dải đất Việt Nam.
Xét về nguồn gốc lịch sử thì ở thời kỳ nguyên thủy đã có những lễ hội
mang tính sơ khai nhưng lễ hội ở thời kỳ này vẫn tách riêng khỏi các hoạt

động khác của con người. Lao động và các hoạt động tế lễ nguyên thủy đã tạo
ra các lễ thức của các lễ hội sơ khai. Những lễ hội này chính là các lễ hội
nguyên hợp, được hình thành trong thiên nhiên và tách khỏi thế giới tự nhiên,
bởi khả năng tư duy của con người về sự tách biệt của họ với môi trường
xung quanh. Nhưng để tồn tại và phát triển, con người luôn tìm cách tiếp cận
với môi trường tự nhiên. Chính vì vậy các lễ hội hóa trang được hình thành,
duy trì và bảo lưu trong xã hội có giai cấp nhằm mục đích khôi phục sự bình
đẳng giữa con người với nhau, giữa con người với môi trường của buổi ban
đầu sơ khai như vậy.
Song cùng với lịch sử phát triển của nhân loại, các nghi lễ cúng tế cũng
phát triển và dần trở thành nghi thức phức tạp, phong phú và đa dạng, các
nghi thức thờ cúng ban đầu chỉ mang tính chất ích dụng, dần được hoàn thiện
và nhiều yếu tố mang tính văn hóa, qua đó đã phần nào phản ánh nhu cầu đời
sống tinh thần của con người trong cộng đồng xã hội.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển của lễ hội: từ khi còn là sơ khai
đến nay lễ hội đã phát triển thành hệ thống và có nhiều loại hình rất đa dạng và
phong phú. Hệ thống lễ hội ngày nay là kết quả của mối quan hệ giữa tín ngưỡng
dân gian và hệ thống tôn giáo du nhập vào nước ta, chủ yếu là đạo Phật.
Trong tiến trình phát triển của mình, lễ hội luôn chịu ảnh hưởng và chịu
sự tác động qua lại của phong tục tập quán của truyền thống văn hóa, chính
phong tục tập quán làm cơ sở, nền tảng cho lễ hội tồn tại và phát triển, hay có
thể nói rằng phong tục tập quán là môi trường nuôi dưỡng lễ hội.
Có thể khái quát lịch sử hình thành và phát triển lễ hội qua các giai đoạn:


16

- Giai đoạn trước 1945: Giai đoạn này được chia thành 4 thời kỳ
+ Lễ hội thời kỳ Hùng Vương: Từ xã hội săn bắn, hái lượm, nay đây
mai đó, loài người chuyển sang cuộc sống định cư. Khi con người bước sang

xã hội nông nghiệp thì lễ hội cũng có bước chuyển mạnh mẽ. Ở thời kỳ này
con người vừa tiếp cận, vừa khám phá thiên nhiên, lại vừa hòa nhập với thiên
nhiên trong cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên.
Vì vậy, lễ hội thời kỳ này không chỉ phản ánh nền văn minh nông
nghiệp lúa nước mà còn mang nội dung mới nhằm suy tôn, kính trọng tổ tiên,
giống nòi và ca ngợi các anh hùng văn hóa của dân tộc như Âu Cơ – Lạc
Long Quân, các Vua Hùng đã có công dựng nước. Thời kỳ này lễ hội phản
ánh khá rõ nét đời sống tâm linh của cư dân nông nghiệp, có lễ hội phản ánh
sự sống trồng cây, thể hiện sự liên kết cộng đồng, đời sống để chống chọi với
thiên nhiên là chủ yếu.
Tuy nhiên, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém,
trình độ nhận thức của con người còn hạn chế, xã hội còn sơ khai, khép kín
nên con người hướng tới đấng siêu nhiên (sức mạnh thần bí…), điều này được
phản ánh trong các lễ hội, trong các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, và
là hạt nhân tín ngưỡng của các lễ hội, khi ấy các lễ nghi phồn thực của hệ tín
ngưỡng nông nghiệp sẽ là hình thức chủ đạo của lễ hội (lễ hội của các cư dân
nông nghiệp thường được tổ chức vào mùa Thu).
+ Lễ hội thời kỳ Bắc thuộc
Ngàn năm Bắc thuộc là thời kỳ văn hóa dân tộc trải qua nhiều thử thách
lớn. Song nhờ bản lĩnh kiên định vững vàng của nền văn hóa dân tộc thời kỳ
Hùng Vương mà đỉnh cao là Văn minh Đông Sơn, văn hóa của người Việt cổ
vẫn tồn tại và tiếp biến những yếu tố hợp lý của hai nền văn hóa lớn (Hoa Ấn) thành văn hoá Việt. Sự giao lưu tiếp biến đó thể hiện qua hệ thống lễ hội
phong phú với các loại hình lễ hội được diễn ra vào mùa Xuân và mùa Thu,


17

trong đó lễ hội mùa Xuân có xu hướng nổi trội hơn lễ hội mùa Thu. Khi đạo
Phật được chú trọng phát triển, lễ hội chùa đã xuất hiện bên cạnh lễ hội nông
nghiệp cổ truyền, trong lễ hội chùa không chỉ tôn thờ Đức Phật mà còn thờ cả

các bậc Thiền Sư Tổ (hậu phật) đã tu thành đắc đạo và đã có nhiều công đức
với dân với nước.
Như vậy lễ hội thời kỳ này không những phản ánh tín ngưỡng phồn
thực của cư dân nông nghiệp mà còn thể hiện giá trị văn hóa Phật giáo đã
được Việt hóa. Mỗi lần mở hội là một lần dân cư Việt biểu hiện sự sùng bái
và diễn lại sự tích các anh hùng của dân tộc (người đã trở thành vị Thần Linh
đất Việt in đậm nét trong tâm thức và tâm linh dân tộc được dân gian suy tôn,
thờ phụng trong các lễ hội).
+ Lễ hội thời kỳ quốc gia Đại Việt (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX)
Đây là thời kỳ dân tộc bước sang kỷ nguyên độc lập tự do, xây dựng
nước Việt Nam phong kiến độc lập tự chủ, tự cường dân tộc (Quốc gia Đại
Việt). Có thể chia lễ hội thời kỳ này thành hai tiểu thời kỳ:
Lễ hội thời kỳ từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV: Lễ hội thời kỳ này đã hội tụ
được nhiều yếu tố cơ bản cho lễ hội dân gian truyền thống phát triển mạnh mẽ
và đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung.
Lễ hội thời kỳ này vẫn được người Việt tổ chức vào hai mùa chính
(Xuân và Thu), trong đó lễ hội chùa phát triển nhanh, tập trung nhất là ở vùng
châu thổ Bắc Bộ. Trong lễ hội không những chỉ có niềm tin Phật giáo mà còn
có cả niềm tin Đạo giáo, cả tín ngưỡng Thành Hoàng và các tín ngưỡng dân
gian khác.
Lễ hội thời kỳ nửa đầu thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XIX: Thời kỳ này lễ
hội dân gian truyền thống phát triển tương đối ổn định với ba loại hình cơ bản
gắn với các cơ sở thờ tự như (đền, đình, chùa). Trong thần điện của lễ hội truyền


18

thống được bổ sung thêm nhiều vị thần linh mới. Họ là các vị anh hùng dân tộc ở
các thời đại lịch sử kế tiếp nhau (Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ…).
+ Lễ hội thời kỳ Pháp thuộc (1858 - 1945)

Năm 1858 Thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, đến năm 1885 đặt
ách đô hộ trên toàn cõi Việt Nam. Ngay sau đó chúng tổ chức bộ máy cai trị
và biến nước ta thành thuộc địa của Pháp. Trong bối cảnh đời sống của nông
dân gặp khó khăn, dân chúng bi quan, chán nản, nhưng do cấu trúc làng xã
vẫn được duy trì như cũ nên các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, lễ hội
vẫn được duy trì như trước. Về thời gian tổ chức, các lễ hội dân gian vẫn tiến
hành vào mùa Xuân và mùa Thu, nhưng các lễ hội vào mùa Xuân chiếm ưu
thế hơn cả về số lượng và quy mô. Về không gian tổ chức, lễ hội vẫn lấy các
ngôi đình, đền, chùa làm trung tâm và diễn ra tại khắp các làng, xã vùng châu
thổ sông Hồng. Thực ra, từ đầu thế kỷ XIX, các mô hình của lễ hội truyền
thống đã khá ổn định gồm hai phần chính: phần lễ và phần hội. Tuy phân định
ra như vậy, song trên thực tế khó có thể tách biệt riêng rẽ giữa lễ và hội, mà
chúng luôn gắn quện đan xen vào nhau trong một chỉnh thể của một loại hình
văn hóa dân gian mang tên ghép “lễ và hội”.
Trong nội dung và hình thức của lễ hội truyền thống có hàm chứa tinh
hoa văn hóa và nét đẹp truyền thống về bản lĩnh, bản sắc dân tộc, tinh thần
đoàn kết cộng đồng.
- Lễ hội truyền thống từ 1945 đến nay (chia thành hai tiểu thời kỳ)
+ Thời kỳ từ 1945 đến1985 (thời kỳ trước đổi mới)
Trong chiến tranh (1945 - 1975): Thời kỳ này, lễ hội hầu như bị đình
trệ và lãng quên do điều kiện phải tập trung sức người, sức của cho chiến
trường và chống trả với sự phá hoại của địch đánh phá miền Bắc.
Sau chiến tranh (1975 - 1985): Sau ngày giải phóng miền Nam, thống
nhất nước nhà, do thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là khắc phục hậu quả chiến
tranh, khôi phục, phát triển kinh tế, nên các hoạt động văn hóa dân gian, trong


19

đó có lễ hội không được quan tâm đúng mức. Chính vì vậy, lễ hội hầu như

thiếu vắng trong đời sống văn hóa dân tộc, trừ một vài lễ hội lớn: lễ hội đền
Hùng, hội chùa Keo, hội Lim…
Trước nhu cầu tinh thần của nhân dân, tháng 4 năm 1984 Nhà nước đã
ban hành Pháp lệnh: “Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa dân tộc và
danh lam thắng cảnh”, từ đó lễ hội truyền thống lại được phục sinh, sống lại
một cách nhanh chóng tại các làng, xã, dân chúng nô nức rủ nhau đi trẩy hội
hoặc hành hương về các ngôi chùa, mái đình như về với niềm tin đã trở thành
nguồn cội linh thiêng.
+Thời kỳ đổi mới (1986 đến nay)
Thực hiện Nghị quyết TW5 khóa VIII về phát triển văn hóa và thực
hiện chủ trương của Đảng về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, hoạt động lễ
hội trên cả nước cũng có bước đổi mới căn bản.
Lễ hội truyền thống được phục hồi và phát triển tương đối rộng khắp,
dần dần đã lấy được dáng vẻ cổ truyền xưa với ba loại hình chính: làng, vùng,
nước. Việc phục hồi lại có nghi thức, nghi lễ và phong tục truyền thống trong
lễ hội như: tế lễ, rước xách, tục, trò diễn tái hiện sự tích với các trò chơi, diễn
xướng dân gian.
1.1.3. Vai trò của lễ hội đối với đời sống tinh thần của nhân dân
Lễ hội truyền thống Việt Nam - một loại hình sinh hoạt văn hóa dân
gian tổng hợp, độc đáo, phong phú, đa dạng của dân tộc Việt Nam, có lịch sử
hình thành, tồn tại và phát triển lâu dài.
Lễ hội là một nhu cầu tinh thần, tình cảm chính đáng của nhân dân
trong nhiều thế kỷ, có sức hấp dẫn, lôi cuốn to lớn đối với các tầng lớp nhân
dân trong xã hội ở mọi thời đại.
Sức hấp dẫn, sự hiện diện và trường tồn của các lễ hội cổ truyền phần
nào đã nói nên vai trò quan trọng của chúng đối với việc chấn hưng, lưu giữ


20


và trao truyền những tinh hóa văn hóa giàu bản sắc truyền thống, đậm chất
dân tộc. Lễ hội đã đáp ứng được những nhu cầu căn bản của nhân dân như
nhu cầu giáo dục, nhu cầu niềm tin, nhu cầu giải trí và nhu cầu chính trị. Nó
thực sự trở thành biểu tượng các giá trị đặc thù của vùng, miền, địa phương và
tái xác lập các mối quan hệ thôn xóm; giải phóng những xung cảm bị kìm
hãm trong đời sống hàng ngày, tạo điều kiện cho sự sáng tạo của mỗi cá nhân
trong lĩnh vực hoạt động của mình.
Ở mọi quốc gia, dân tộc trong mọi xã hội, đặc biệt là dân tộc Việt Nam,
liên kết cộng đồng bao giờ cũng được coi là giá trị thiêng liêng để hình thành
văn hoá “đồng bào”. Trước sự tàn phá của thiên tai và địch hoạ, hơn bao giờ
hết, người dân Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc được giá trị của sự cố kết
cộng đồng (cộng đồng còn thì mình mới còn, cộng đồng mất thì tất cả đều
mất, kể cả cái linh thiêng nhất), ý thức cộng đồng, được sinh hoạt lễ hội vun
đắp bảo tồn và phát huy. Cùng với tác dụng củng cố mối quan hệ liên kết
cộng đồng, các lễ hội truyền thống còn có tác dụng giáo dục, nhất là đối với
thế hệ trẻ hướng về nguồn cội, tăng thêm lòng yêu quê hương đất nước.
Trong tính muôn vẻ của lễ hội, lễ hội Bắc Ninh luôn đề cao các giá trị,
sức mạnh của cộng đồng thông qua các nhân vật trung tâm của lễ hội (nhân
vật được cử lễ) các nhân vật có thể là có thật trong lịch sử của cộng đồng,
cũng có khi họ là những nhân vật được hư cấu theo mong ước của cộng đồng.
Đại đa số các nhân vật trung tâm của lễ hội vùng thường là những anh
hùng hoặc có công xây dựng, tạo lập cộng đồng hoặc có công lớn trong các
cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai, dịch bệnh hoặc có công
trong việc truyền nghề cho cộng đồng… đều tập trung ở mọi đức tính, phẩm
chất cao đẹp mà các thành viên trong các cộng đồng mơ ước. Để trở thành
nhân vật trung tâm của lễ hội, những nhân vật được cả cộng đồng phụng thờ,
họ không chỉ được người dân linh thiêng hóa những phẩm chất, tính cách, đặc


21


điểm vốn có trong cuộc sống đời thường mà họ còn được cả cộng đồng tô vẽ
thêm những phẩm chất, đức tính theo mong muốn của họ. Ngược lại, dù các
nhân vật trung tâm của lễ hội là sản phẩm của sự mong ước của cộng đồng,
tức chỉ là nhân vật huyền thoại nhưng thông qua lễ hội đã giáo dục đạo đức
con người, nhắc nhở mọi người sống tốt, lành mạnh hướng tới điều thiện, xa
cách những cái xấu, trái với luân thường đạo lý. Trên cơ sở những nguyện
vọng, mong ước hội tụ ở nhân vật trung tâm của lễ hội, biểu tượng của lễ hội,
mà thành viên trong cộng đồng đã dễ dàng thông cảm, đoàn kết, gắn bó, liên
kết với nhau, thông qua đó nhớ về cội nguồn lịch sử của dân tộc, tổ tiên và nòi
giống, tăng thêm lòng yêu quê hương đất nước.
Mặt khác, lễ hội truyền thống giữ vai trò làm nhịp cầu nối từ quá khứ
qua hiện tại và hướng tới tương lai, giữa cái linh thiêng cao cả với cái đời
thường dân dã. Lễ hội làm cân bằng về tâm lý, tâm linh cho mọi tầng lớp
nhân dân mà cuộc đời còn nhiều khó khăn và phức tạp, còn nhiều thiên tai,
địch họa. Lễ hội góp phần không nhỏ vào việc giáo dục lối sống, phong tục
tốt đẹp, theo lịch sử truyền thống văn hóa của dân tộc và hướng con người tới
cái chân – thiện – mỹ, truyền thống uống nước nhớ nguồn. Góp phần làm cân
bằng môi trường sinh thái và môi trường văn hóa xã hội cho các cộng đồng
người từ dòng họ, làng xã, vùng miền đến dân tộc. Tạo điều kiện cho con
người phát triển toàn diện về cả thể chất lẫn trí tuệ và tinh thần, hội đủ các
điều kiện cần thiết để kế tục xứng đáng truyền thống cha ông để lại, các nhân
vật trung tâm của lễ hội tập trung những mong muốn và nguyện vọng của mọi
thành viên trong cộng đồng, nên mỗi cá nhân đến với lễ hội đều có thể bồi
đắp cho mình niềm tin nào đó vào cuộc sống.
Như đã biết, người xưa luôn tin vào sự tồn tại của một thế giới song
song với sự tồn tại của con người (các nhân vật trung tâm của lễ hội đều là
biểu tượng thần linh), con người luôn tôn vinh thần linh bằng hành động dâng



22

các lễ vật thích hợp và đều đặn, đáp lại họ sẽ được thần linh giúp đỡ, phù hộ,
để đạt được điều đó, chỉ có thể thông qua lễ hội và chính lễ hội là nơi chính
yếu để con người thỏa mãn và bồi đắp nhu cầu niềm tin. Có thể nói, lễ hội
đóng vai trò rất quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, bằng
các giá trị huyền thoại và biểu tượng của mình, lễ hội đã cho phép cộng đồng
có nội lực văn hóa, chống lại áp lực của môi trường tự nhiên cũng như áp lực
đồng hóa của các cộng đồng xã hội khác.
Con người với tư cách là một sản phẩm của tự nhiên, sau những hoạt
động sản xuất vất vả họ cũng cần có sự nghỉ ngơi bằng các hoạt động giải trí.
Song, “sự giải trí của con người mang bản chất sáng tạo, sự sáng tạo tiếp tục
và mở rộng gọi là tái sáng tạo” [17, tr 56]
Trong các xã hội cổ truyền, lễ hội là dịp đem lại cho mỗi người, mỗi
cộng đồng một khoảng thời gian nghỉ ngơi phong phú và thoải mái, lễ hội đã
chiếm một vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần của họ, đồng thời là
dịp để họ thỏa mãn được những nhu cầu giao tiếp với những người khác ở các
vùng khác không chỉ về mặt tinh thần mà còn cả về mặt vật chất.
Trong xã hội ngày nay, mặc dù với sự bùng nổ của công nghệ thông
tin, nhưng ở Việt Nam vẫn còn khá nhiều nơi, nhất là vùng núi cao, cuộc sống
của cư dân vẫn còn bị cách biệt bởi phương thức sản xuất còn lạc hậu, phong
tục tập quán còn nặng nề. Lễ hội đối với cư dân vẫn được coi như là phương
thức chính yếu để thỏa mãn nhu cầu thông tin, giao lưu, nhu cầu tình cảm và
tâm linh của cư dân ở đây. Ngay cả đối với cư dân chốn “phố phường” vốn
bộn bề sự toan tính, lễ hội có khả năng giải tỏa căng thẳng, những bức xúc,
mang lại niềm vui cho mỗi người, kích thích tính sáng tạo, giúp họ hoàn thiện
nhân cách của chính mình, lễ hội còn được coi là một bảo tàng văn hóa hóa
sống động của mỗi cộng đồng dân tộc, mỗi quốc gia. Bởi vì lễ hội được tạo
dựng bởi một chuỗi các cảnh diễn ra liên tiếp, chúng tập trung và tập hợp



23

nhiều loại hình nghệ thuật văn hóa dân gian đặc sắc của mỗi cộng đồng,
chúng là nơi diễn trình mọi sinh hoạt văn hóa của cộng đồng.
Trong các cộng đồng dân tộc ngày nay, lễ hội cổ truyền vẫn còn bắt
mạch vào đời sống xã hội, vì thế ngoài vai trò là phương tiện để hội tụ các
thành viên trong cộng đồng, các lễ hội còn là nơi hội tụ để phát triển văn hóa,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế và du lịch.
Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa của người Việt, là nhu cầu tinh thần, là
sinh hoạt văn hóa cộng đồng lâu đời, thể hiện nhu cầu tâm linh không thể
thiếu được trong tư duy và nhu cầu tinh thần của nhân dân, chủ yếu là ở nông
thôn. Lễ hội đáp ứng được nhu cầu thưởng thức các giá trị văn hóa tinh thần
cho người nông dân, phản ánh đặc điểm tín ngưỡng, phong tục tập quán, sự
phân tầng xã hội, vai vế trong làng xã qua tế lễ, rước xách, chia phần, lễ hội
thể hiện mong muốn của người nông dân (mong cho mưa thuận gió hòa, mùa
màng tươi tốt, con cháu đầy nhà, nhân khang vật thịnh), lễ hội thể hiện sự
khát khao vươn tới cái đẹp của người nông dân, lễ hội là sự giao hoà của các
tầng văn hóa trong tiến trình lịch sử. Lễ hội của mỗi cộng đồng dân cư là biểu
hiện cao nhất, tập trung nhất văn hóa của mỗi cộng đồng về ăn, mặc, tín
ngưỡng, phong tục tập quán, tâm linh, các hình thức nghệ thuật, ca múa, rước
xách – tức là không gian lành mạnh, thời gian lành mạnh, là những rung cảm
tinh tế trong tâm hồn mỗi người dự hội; là kết quả của tinh thần cộng động
làng xã; là yếu tố cao nhất trong văn hóa phi vật thể của làng xã. Vì vậy qua lễ
hội có thể phát huy cao độ bản sắc văn hóa dân tộc, khơi dậy niềm tự hào về
truyền thống, quê hương, tinh thần đoàn kết cộng đồng, tạo niềm phấn khởi
trong nhân dân, khiến họ yêu làng xóm, quê hương, đất nước.
1.2. Vai trò của lễ hội trong tuyên truyền đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước
1.2.1. Quan niệm về tuyên truyền đường lối, chính sách

Theo từ điển Hán Việt: Đường lối, nghĩa là phương hướng chính trị của
một Đảng lãnh đạo xã hội (đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, giải pháp…)


24

Theo từ điển Tiếng Việt: Đường lối, nghĩa là phương hướng cơ bản có
ý nghĩa chỉ đạo lâu dài các hoạt động của Nhà nước hoặc của một tổ chức
chính trị (đường lối đối nội và đường lối đối ngoại” [50, tr 358].
Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam: là hệ thống quan điểm, chủ
trương, chính sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của
cách mạng Việt Nam, đường lối cách mạng thể hiện qua cương lĩnh, nghị
quyết của Đảng.
Chính sách: là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên, qua tìm hiểu các tài liệu, các nghiên cứu cho thấy khái
niệm chính sách được thể hiện khác nhau, ví dụ: "Chính sách là những sách
lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối
chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra; hoặc chính sách là các chủ
trương và các biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực
chính trị - xã hội" [50, tr 163]
Trong tiếng La tinh: Tuyên truyền (Prapaganda) là truyền bá, truyền đạt
một quan điểm nào đó. Trong tác phẩm: “Người tuyên truyền và cách tuyên
truyền” Hồ Chí Minh cho rằng “Tuyên truyền là đem một việc gì đó nói cho
dân hiểu, dân nhớ, dân tin, dân làm” [44, tr 162]. Theo giáo trình “Nguyên lý
công tác tư tưởng” của Học viện Báo chí và Tuyên truyền “Thuật ngữ tuyên
truyền xuật hiện khoảng bốn trăm năm trước đây, được nhà thờ La Mã sử
dụng để chỉ hoạt động của các nhà truyền giáo nhằm thuyết phục, lôi kéo
những người khác phấn đấu theo đức tin của đạo Kitô. Sau này, thuật ngữ
tuyên truyền được dùng để biểu đạt các hoạt động nhằm tác động đến suy
nghĩ, tư tưởng của người khác và định hướng hoạt động của họ theo một
khuynh hướng nhất định” [33, tr 87].

Theo Đại từ điển Bách khoa Liên Xô, thuật ngữ tuyên truyền có 2 nghĩa.
Nghĩa rộng: Tuyên truyền là sự truyền bá những quan điểm, tư tưởng về
chính trị, triết học, khoa học nghệ thuật… nhằm biến quan điểm, tư tưởng ấy
thành ý thức xã hội, thành hành động cụ thể của quần chúng. Nghĩa hẹp:


25

Tuyên truyền là truyền bá những quan điểm lý luận nhằm xây dựng cho quần
chúng một thế giới quan nhất định phù hợp với lợi ích của chủ thể tuyên
truyền và kích thích những hoạt động thực tế phù hợp với thế giới quan ấy.
Như vậy, “Công tác tuyên truyền là một hình thái, một bộ phận cấu
thành của công tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối, chiến
lược trong quần chúng, xây dựng cho quần chúng thế giới quan phù hợp với
lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng, hình thành và củng cố niềm tin, tập hợp và cổ
vũ quần chúng hành động theo thế giới quan và niềm tin đó” [33,tr 31]
Tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước là một nội
dung và nhiệm vụ của công tác tư tưởng nhằm truyền bá, phổ biến đường lối,
chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy
nhận thức, hình thành niềm tin, cổ vũ tính tích cực hành động của quần chúng
nhân dân trong việc vận dụng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách.
Tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách là quá trình tác động
của các cấp chính quyền, cơ quan tuyên truyền đối với đông đảo quần chúng
nhân dân nhằm phát huy nhận thức, củng cố niềm tin và thái độ đúng đắn, cổ
vũ và hướng dẫn quần chúng nhân dân trong việc vận dụng, chấp hành và
thức hiện đầy đủ, đúng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đề ra.
1.2.2. Lễ hội với việc tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước
Cùng với quá trình dựng nước và giữ nước nền văn hóa Việt Nam,
trong đó có nền văn hóa truyền thống đã hình thành và phát triển. Bằng lao

động sáng tạo, ý chí đấu trang bền bỉ, kiên cường. Nhân dân ta đã xây dựng
một nền văn hóa kết tinh trí tuệ, sức mạnh và in đậm dấu ấn bản sắc của dân
tộc, chứng minh sức sống mãnh liệt và sự trường tồn của dân tộc ta.
Nền văn hóa Việt Nam, trong đó có lễ hội truyền thống lấy đời sống
sinh hoạt của các công đồng cư dân làm đối tượng phản ánh, lấy sự bình yên,
phấn khởi, hạnh phúc của cư dân làm mục đích phục vụ.


×