Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU DỊCH VỤ CỦA THÁI LAN GIAI ĐOẠN 2006 – 2015. THỰC TRẠNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.84 KB, 24 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI NÓI ĐẦU
Thái Lan là một quốc gia có nền kinh tế đứng thứ hai ở khu vực Đông Nam Á với
GDP và thu nhập bình quân đầu người cao. Nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào xuất
khẩu trong đó tỉ trọng GDP của khu vực dịch vụ chiếm 52,4% năm 2012. Điều này cho
thấy ngành dịch vụ có vai trò quan trọng như thế nào trong cơ cấu nền kinh tế của Thái
Lan. Các ngành dịch vụ ở Thái Lan rất phát triển và đa dạng trong đó đáng phải kể tới là
một số ngành xuất khẩu dịch vụ có tiếng, đóng góp vào GDP của đất nước như du lịch,
làm đẹp, y tế hay giáo dục...Từ năm 2006 đến năm 2015, kinh tế Thái Lan có nhiều biến
động, các chính sách của chính phủ cũng thay đổi không ngừng theo vòng xoáy thay đổi
thể chể chính trị ở Thái Lan. Tuy nhiên dù trong hoàn cảnh nào, xuất khẩu dịch vụ vẫn
luôn là thế mạnh và là một phần rất quan trọng trong nền kinh tế Thái Lan.
Thái Lan là một đất nước gần Việt Nam với nền kinh tế đáng chúng ta học hỏi. Với
việc là một quốc gia có tiếng trên thế giới về xuất khẩu dịch vụ, Thái Lan luôn đi đầu tỏng
khu vực về các chính sách để thúc đẩy và phát triển các ngành dịch vụ, đặc biệt là tích cực
xuất khẩu các ngành dịch vụ - nơi mà giá trị gia tăng cao. Rõ ràng, Những gì mà Thái Lan
làm được trong xuất khẩu dịch vụ là bài học rất lớn cho Việt Nam. Chính vì vậy, bên cạnh
việc tìm hiểu các chính sách, nhóm cũng rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
trong việc đẩy mạng và thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ.
Qua sưu tầm tài liệu và tìm hiểu, với đề tài nhận được là “Chính sách xuất khẩu
dịch vụ của Thái Lan giai đoạn 2006 – 2015. Thực trạng và bài học kinh nghiệm”,
nhóm chúng em đã chắt lọc và đưa ra đề cương chi tiết với toàn bộ nội dung bám sát chủ
đề thuyết trình.

2



1. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU DỊCH VỤ
1.1. Khái niệm
Xuất khẩu dịch vụ (XKDV) là một hoạt động quan trọng trong thương mại dịch
vụ, hoạt động này có thể được hiểu là việc người cung ứng dịch vụ gồm thể nhân và pháp
nhân cung cấp dịch vụ theo bốn phương thức quy định trong Hiệp định chung về thương
mại dịch vụ (GATS/ WTO), đó là: Cung cấp qua biên giới; Tiêu dùng ngoài lãnh thổ;
Hiện diên thương mại; Hiện diên của thể nhân.
Ngoài ra, Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) của Liên Hiệp Quốc và Bảng cán cân
thanh toán của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF cũng đã khá thống nhất về khái niệm XKDV, theo
đó, XKDV là “việc người cư trú cung cấp cho người phi cư trú vì mục đích thương mại”.

1.2. Đặc điểm của xuất khẩu dịch vụ
Từ những khái niệm về thương mại dịch vụ và XKDV, ta có thể thấy một số điểm
khác biệt của XKDV so với xuất khẩu hàng hóa như:


XKDV đôi khi không phải là ý muốn chủ quan của người xuất khẩu. Ví dụ như khi
một người nước ngoài đến Việt Nam, ở trọ tại một khách sạn thì khách sạn đó
đương nhiên trở thành nhà XKDV mà thực tế có thể đã không chủ định từ trước.
Trong trường hợp này, người tiêu dùng dịch vụ mới chính là người chủ động yêu



cầu cung cấp dịch vụ.
XKDV không đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư. Điển hình là XKDV tại chỗ, với
nguồn vốn đã được đầu tư vào cơ sở vật chất ngay trong nước, có thể đồng thời



cung cấp dịch vụ cho cả người tiêu dùng trong và ngoài nước.

Hoạt động XKDV phụ thuộc rất nhiều vào uy tín của công ty trên thị trường. Đối
với dịch vụ, do đặc tính của nó là vô hình, khó lượng hóa, tiêu chuẩn hóa nên uy



tín là một yếu tố quyết định đối với kết quả của hoạt động XKDV.
XKDV còn gặp phải nhiều khó khăn từ những rào cản kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển XKDV đặc biệt từ các
nước đang phát triển sang các nước phát triển.

3


1.3. Một số loại hình xuất khẩu dịch vụ cơ bản


Xuất khẩu dịch vụ du lịch
Theo bảng phân loại các ngành dịch vụ của WTO, dịch vụ du lịch gồm có: dịch vụ

khách sạn, nhà hàng (gồm cả ăn uống); dịch vụ đại lý lữ hành và các công ty điều hành
tour; dịch vụ hướng dẫn du lịch; các dịch vụ khác.
XKDV du lịch có hiệu quả kinh tế cao hơn so với xuất khẩu hàng hóa do dịch vụ
có tính vô hình, nên tiết kiệm được các chi phí đóng gói, vận chuyển, … Hơn nữa dịch vụ
du lịch cũng ít đòi hỏi về công nghệ phức tạp, mà chủ yếu khai thác các tài nguyên thiên
nhiên, văn hóa của đất nước. XKDV du lịch giúp tạo ra nhiều việc làm góp phần giảm
thất nghiệp, tạo ra một cầu nối văn hóa giữa các dân tộc trên thế giới.


Xuất khẩu dịch vụ vận tải – logistics
Dịch vụ logistics là một chuỗi các hoạt động trong đó có thu mua, vận tải, giao


nhận, kho bãi, phân phối sản phẩm, quản lý hàng tồn kho… để tạo ra hiệu quả tối ưu cho
sản xuất kinh doanh.
XKDV vận tải – logistics cũng giống như XKDV du lịch có ý nghĩa rất lớn tới sự
phát triển kinh tế của một quốc gia, do các ngành khác trong nền kinh tế thế giới hầu hết
đều phụ thuộc rất nhiều vào ngành vận tải. Và cũng vì vậy, tiềm năng phát triển ngành
này là rất lớn.


Xuất khẩu dịch vụ tài chính – ngân hàng
Theo WTO, dịch vụ tài chính bao gồm: dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan

(trong đó có bảo hiểm trực tiếp, tái bảo hiểm, trung gian bảo hiểm như môi giới, đại lý…)
dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (gồm cho vay, nhận ký quỹ, đặt cọc,
chuyển tiền, bảo lãnh, cho thuê tài chính…).
Lợi ích của XKDV tài chính: XKDV tài chính hiện nay có rất nhiều lợi ích như
tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm. Ngoài ra nước nhập khẩu dịch vụ này còn có một số lợi
ích như: được chuyển giao công nghệ và phát triển kỹ năng cho nguồn nhân lực trong
nước.

4




Xuất khẩu dịch vụ giáo dục
Trong bảng phân loại các ngành dịch vụ của WTO, dịch vụ giáo dục được phân

thành: dịch vụ giáo dục cơ sở; dịch vụ giáo dục trung học; dịch vụ giáo dục nâng cao;
dịch vụ giáo dục người lớn; và các dịch vụ giáo dục khác.

XKDV giáo dục chiếm một phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội
của một quốc gia, ngoài lợi ích kinh tế mang lại, hoạt động này còn góp phần không nhỏ
vào sự phát triển nền tri thức nhân loại, giúp giao lưu văn hóa. Ngoài ra, XKDV giáo dục
còn có những tác động đến cán cân thương mại của quốc gia, đặc biệt là ở những quốc gia
đang phát triển, nơi chủ yếu nhập khẩu các dịch vụ giáo dục.


Xuất khẩu dịch vụ viễn thông
Trong bảng phân loại các ngành dịch vụ của WTO, dịch vụ viễn thông gồm có dịch

vụ điện thoại tiếng, dịch vụ telex, điện báo, fax, thư điện tử, thu thập thông tin và cơ sở dữ
liệu trên mạng… trong đó, các dịch vụ di động ngày càng được ưa chuộng hơn, lấn át các
dịch vụ cố định do tính linh hoạt và thuận tiện của nó.
Ngành viễn thông có vai trò rất quan trọng trên thế giới ngày nay, với vai trò kết
nối mọi người giúp hoạt động trao đổi liên lạc diễn ra nhanh và thuận tiện hơn. Cùng theo
xu thế chung của thế giới, ngành dịch vụ này trong những năm gần đây đã có những thay
đổi rõ rệt điển hình là việc chuyển từ độc quyền sang cạnh tranh, theo đó, người tiêu dùng
cũng có được nhiều lợi ích hơn

1.4. Vai trò của xuất khẩu dịch vụ


Giúp phát triển kinh tế
Tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế hiện nay là khá cao, khoảng 60-

70% ở các nước phát triển và 30-50% tại các nước đang phát triển, XKDV trên thế giới
cũng giúp nhiều nước trên thế giới giảm thâm hụt hay thậm chí góp phần quan trọng làm
thặng dư thêm trong cán cân xuất nhập khẩu quốc gia. Vì vậy, sự phát triển của dịch vụ
nói chung và XKDV nói riêng có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển chung của nền kinh
tế.


5




Góp phần hỗ trợ các ngành kinh tế phát triển
Khi dịch vụ phát triển cả về số lượng và chất lượng, XKDV theo đó cũng phát

triển. Khi XKDV đã phát triển đủ mạnh, nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành kinh
tế khác phát triển, do các ngành dịch vụ mà điển hình là các ngành như vận tải, du lịch, tài
chính – ngân hàng…có những liên hệ rất mật thiết đến các ngành kinh tế khác ở nhiều
mặt. Hơn nữa, giống như xuất khẩu hàng hóa, XKDV góp phần tạo nguồn vốn ngoại tệ
chủ yếu cho hoạt động nhập khẩu (nguyên liệu đầu vào, máy móc kỹ thuật…), tiếp tục
chu kỳ sản xuất của nhiều ngành kinh tế.


Tạo công ăn việc làm
Với tỷ trọng ngày càng lớn của dịch vụ và XKDV trong GDP, số lượng việc làm

được tạo ra bởi khu vực dịch vụ là nhiểu nhất ở hầu hết các nước. Ở các nước đang phát
triển, tỷ trọng này còn ít nhưng không thể phủ nhận là nếu tập trung phát triển mạnh các
ngành dịch vụ để xuất khẩu, chắc chắn sẽ giải quyết được việc làm cho rất nhiều người
dân.
Ngoài ra, XKDV phát triển sẽ giúp thúc đẩy phân công lao động, tăng tỷ trọng của
dịch vụ trong cơ cấu kinh tế. Việc thay đổi trong phân công lao động khi thương mại dịch
vụ phát triển sẽ góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn cho cả lĩnh vực sản xuất và
dịch vụ.



Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Việc thúc đẩy XKDV phát triển vừa làm tăng nguồn thu về ngoại tệ vừa giúp thu

hút đầu tư nước ngoài. Khi doanh thu từ hoạt động XKDV tăng, nguồn vốn FDI sẽ nhanh
chóng được đổ vào để tham gia cung cấp dịch vụ, tận dụng cơ hội.
Thêm vào đó, dịch vụ đang hiện diện ngày càng nhiều trong các hoạt động kinh tế
quốc tế, cũng như hoạt động của các công ty đa quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) vào các ngành dịch vụ có sự tăng trưởng nhanh chóng, đặc biệt là dịch vụ tài chính
và dịch vụ kinh doanh, do sự kích thích bởi áp lực cạnh tranh của thị trường trong nước
khiến các công ty đa quốc gia phải tìm kiếm các thị trường mới để phát huy lợi thế cạnh
tranh của họ.
6


2. CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU DỊCH VỤ CỦA THÁI LAN GIAI
ĐOẠN 2006 – 2015

2.1. Chính sách xuất khẩu dịch vụ của Thái Lan
Thứ nhất, Chính phủ có các chương trình hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu cũng
như các khoản tài trợ tài chính cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ để những doanh
nghiệp này hoạt động hiệu quả hơn, năng động hơn.
Năm 2013, bộ Thương mại Thái Lan thông qua một khoản ngân sách 67,5 triệu
baht (hơn 2,1 triệu USD) nằm trong dự án hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ để giúp hơn
500 doanh nghiệp loại này đối phó với những khó khăn trong xuất khẩu.
Khoản ngân sách này sẽ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tham gia 81 hội
chợ thương mại và cùng phối hợp với các phái bộ thương mại ở nước ngoài để thúc đẩy
xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ. Vụ Xúc tiến thương mại quốc tế thuộc Bộ Thương mại Thái
Lan ước tính sẽ có khoảng 33.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước này cần tới sự hỗ
trợ của chính phủ.
Vụ Xúc tiến thương mại quốc tế hiện đang xem xét mở rộng dự án tới các địa

phương để có thể giúp đỡ thêm nhiều doanh nghiệp. Chính sách xuất khẩu một số ngành
dịch vụ điển hình của Thái Lan
Thứ hai, xóa bỏ rào cản trong hoạt động XKDV của Thái Lan thông qua việc mở
cửa thị trường, tích cực tham gia các tổ chữ kinh tế thế giới.
Là một trong 6 nước thành viên sáng lập ra Khu vực Thương mại Tự do ASEAN
(AFTA), Thái Lan ngày nay vẫn không ngừng phát triển hoạt động hội nhập kinh tế thế
giới. Thái Lan hiện là thành viên của các cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới, như
ASEAN, ASEM, Hợp tác Kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương
mại Thế giới và tiếp tục tham gia đàm phán các quá trình đàm phán thoả thuận thương
mại tự do và hợp tác kinh tế chặt chẽ hơn với nhiều quốc gia trên thế giới.
Thứ ba, đảm bảo thông tin và dữ liệu thống kê trong ngành dịch vụ chính xác.

7


Chính phủ Thái Lan nhận thức được rằng, nguồn dữ liệu nghèo nàn, sai lệch sẽ làm
cho Nhà nước có những đánh giá không đúng về ngành dịch vụ cũng như công việc mà
nó tạo ra, gây khó khăn cho việc hoạch định các chiến lược phát triển. Thái Lan đã tập
trung vào việc phát triển các phương pháp đo lường, thống kê tiên tiến hỗ trợ cho việc lên
chính sách và ra quyết định về dịch vụ. Hệ thống thống kê ở Thái Lan là hệ thống phân
cấp từ trung ương xuống địa phương. Cơ quan Thống kê Quốc gia (NSO) với chức năng
chủ yếu của NSO không chỉ là sản xuất dữ liệu thống kê mà còn là trung tâm xây dựng
các phân ngành thống kê của Thái Lan. Dựa trên cở sở phân ngành thống kê quốc tế, có
thể sử dụng và so sánh thông tin và dữ liệu được chuẩn hoá giữa Thái Lan và quốc tế.
Thứ tư, chính sách quy hoạch đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của Thái Lan.
Thái Lan chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống đường bộ, đường sắt, hệ
thống sân bay, bến cảng, khu công nghiệp, kho bãi hiện đại... Thái Lan cũng đã xây dựng
thành công hệ thống viễn thông, bưu điện, mạng internet thông suốt cả nước phục vụ cho
hoạt động kinh doanh quốc tế.
Thứ năm, đào tạo nguồn nhân lực phát triển ngành dịch vụ.

Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngoài việc nâng cao thể chất, về
thực chất là phát triển giáo dục, đào tạo, mà trọng tâm là nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo đã và đang trở thành mục tiêu theo đuổi
của hệ thống giáo dục ở Thái Lan. Chính phủ Thái Lan cam kết bảo đảm tiếp cận bình
đẳng với giáo dục suốt đời, đào tạo cho tất cả các công dân Thái Lan để có được kỹ năng
sống cơ bản cần thiết.
Bên cạnh đó, Chính phủ Thái Lan đưa hàng chục nghìn sinh viên ra nước ngoài để
đào tạo trên cơ sở học bổng. Mục tiêu của dự án là nhằm tạo ra các chuyên gia khoa học
và công nghệ hàng đầu trong các lĩnh vực. Những người được nhận học bổng sẽ trở lại
Thái Lan để làm việc trong các cơ sở nghiên cứu và đào tạo.
Đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ y tế, Thái Lan đã đào tạo được một đội ngũ nhân
viên y tế chuyên nghiệp với trình độ chuyên môn cao. Mỗi năm Thái Lan đào tạo thêm
khoảng 2 bác sĩ, 12 nhân viên y tế để chăm sóc sức khỏe cho 100 nghìn dân. Trước đó, để
8


chuẩn bị cho tiến trình hội nhập khu vực, Bộ Y tế Thái Lan đã lên kế hoạch tăng số lượng
y tá được đào tạo hàng năm từ 8.000 người lên 10.000 người cho đến năm 2016.

1.1. Chính sách xuất khẩu một số ngành dịch vụ điển hình của Thái Lan
1.1.1. Xuất khẩu dịch vụ du lịch
Chính phủ Thái Lan rất chú trọng phát triển ngành du lịch. Đặc biệt Chính phủ
Thái Lan rất chú trọng thu hút khách du lịch quốc tế, bởi đây là một phương thức xuất
khẩu dịch vụ có hiệu quả cao. Ngành du lịch Thái Lan xuất khẩu dịch vụ du lịch chủ yếu
qua hình thức “tiêu dùng dịch vụ ngoài lãnh thổ” tức là cung cấp dịch vụ du lịch cho
khách nước ngoài đến Thái Lan, cộng với hình thức xuất khẩu tại chỗ các mặt hàng lưu
niệm cho khách du lịch quốc tế. Để tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế, Chính phủ
Thái Lan thực hiện nhiều chính sách, cụ thể:
Thứ nhất, coi trọng xây dựng chiến lược, kế hoạch và các chính sách thúc đấy
phát triển du lịch.

Chính phủ Thái Lan nhận thức rằng, muốn đưa du lịch trở thành một trong những
ngành kinh tế hàng đầu thì phải đặt nó trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia. Chiến lược ưu tiên phát triển du lịch này phải thông qua một hệ thống cơ chế
chính sách đồng bộ nhằm huy động mọi nguồn lực để thực hiện đưa du lịch phát triển với
tốc độ cao và vững chắc. Hệ thống cơ chế chính sách phải xuất phát từ những đặc trưng
của du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng, xã hội hóa cao, mang
tính toàn cầu hóa, khu vực hóa.
Thứ hai, tăng cường đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng du lịch.
Chính phủ Thái Lan chú trọng đầu tư cho phát triển du lịch quốc tế thông qua các
chính sách:


Đầu tư quy hoạch và phát triển đường giao thông có hệ thống và hiện đại góp phần



rút ngắn thời gian đi lại cho du khách.
Đầu tư mở rộng cơ sở lưu trú và vui chơi giải trí, các khu du lịch và các quần thể
du lịch để tăng nguồn thu và tăng khả năng hấp dấn khách đến nhiều lần.

9




Đầu tư phát triển nguồn nhân lực du lịch, đào tạo và hình thành một đội ngũ hướng
dẫn viên du lịch chuyên nghiệp.
Thứ ba, có chính sách giá dịch vụ hợp lý để thu hút du khách nước ngoài.
Thứ tư, tăng cường maketing du lịch với sự tham gia của Chính phủ.
Một nét nổi bật trong chính sách du lịch ở Thái Lan là Chính phủ trực tiếp làm tiếp


thị du lịch. Các quan chức nước này luôn đặt mục tiêu tìm kiếm khách hàng thường xuyên
cho ngành du lịch nước nhà.
Thái Lan thường đưa giá chào tour du lịch hấp dẫn cho các nhà lãnh đạo cao cấp
của các công ty nước ngoài. Khuyến khích đặt đại diện du lịch quốc gia dưới hình thức
văn phòng đại diện hay đại diện du lịch để làm công tác xúc tiến, quảng bá, nghiên cứu
thị trường thu hút khách vào nước mình.
2.1.1. Xuất khẩu dịch vụ vận tải – logistics
Nhờ vào lợi thế vị trí địa lý chiến lược, Thái Lan đặt mục tiêu phát triển trở thành
điểm trung chuyển Logistics trong khu vực. Triển vọng kế hoạch này ngày càng được
củng cố thêm bởi việc tăng cường thương mại biên mậu tại tiểu vùng Mekong lớn GMS4,
cũng như việc thực thi cộng đồng kinh tế ASEAN Economic Community (AEC) từ năm
2016. Để đạt được mục tiêu phát triển xuất khẩu dịch vụ logistic, Thái Lan đưa ra một số
các chính sách:
Thứ nhất, xây dựng các tuyến giao thông hành lang trong khu vực.
Ngành dịch vụ Logistics Thái Lan được hỗ trợ đáng kể từ kết quả gia tăng sản
lượng nhanh chóng của ngành công nghiệp, và kế hoạch xây dựng các tuyến giao thông
hành lang trong khu vực.
Thứ hai, cho phép khu vực tư nhân được xây dựng các điểm kiểm soát biên giới,
bao gồm việc xây dựng các đường giao thông biên giới và chuyển đổi 10 điểm kiểm soát
tạm thời thành các điểm kiểm soát thường xuyên
Trong khối ASEAN, Malaysia là quốc gia có trao đổi ngoại thương lớn nhất với
Thái Lan. Hội đồng thương mại Thái Lan Board of Trade dự báo rằng, thương mại biên
giới (Cross-border Trade) với các quốc gia láng giềng Malaysia, Myanmar, Laos và
10


Cambodia trong năm 2014 sẽ tiếp tục tăng 7%, kéo theo đó là xuất khẩu dịch vụ Logistic
của đất nước này cũng tăng trưởng. Giá trị kim ngạch trao đổi thương mại biên giới năm
2013 đã đạt xấp xỉ 30 tỷ $, chiếm khoảng 70% toàn bộ giá trị kim ngạch ngoại thương với

bốn quốc gia láng giềng này. Nhằm tạo động lực thúc đẩy, phòng Thương mại Thai
Chamber of Commerce đưa ra khuyến nghị rằng, cho phép khu vực tư nhân được xây
dựng các điểm kiểm soát biên giới, bao gồm việc xây dựng các đường giao thông biên
giới và chuyển đổi 10 điểm kiểm soát tạm thời thành các điểm kiểm soát thường xuyên.
Hiện tại đang tồn tại 34 cửa khẩu thường xuyên.
Thứ ba, triển khai mạng lưới Logistics điện tử E-Logistics; Thủ tục hải quan điện
tử tại các cửa khẩu vùng GMS.
Nhiều giải pháp từ phía Chính phủ đã tác động nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh - trong đó, phải kể đến việc triển khai mạng lưới Logistics điện tử E-Logistics; Thủ
tục hải quan điện tử tại các cửa khẩu vùng GMS; và việc thiết lập Trung tâm dịch vụ xuất
khẩu một cửa “One Stop Export Service Center” - là một đơn vị liên kết của 14 tổ chức
liên đới tới hoạt động xuất khẩu nhằm đẩy nhanh việc giải quyết các thủ tục xuất khẩu.
Thứ tư, thiết lập các trạm trung chuyển đa phương thức tại các nút vận chuyển
chiến lược.
Nhằm chuyển đổi phương thức vận tải theo hướng tăng tỷ trọng vận tải đường sắt
và giảm tỷ trọng vận tải đường bộ trong dài hạn, các chuyên gia đề xuất giải pháp trước
mắt là thiết lập các trạm trung chuyển đa phương thức tại các nút vận chuyển chiến lược,
với các trang thiết bị hiện đại nhằm rút ngắn thời gian trung chuyển Container. Ngay cả
các phương tiện cơ giới cũng cần phải được đổi mới theo hướng chuẩn hóa - ví dụ như lắp
đặt chế độ vận hành thông minh, tối ưu hóa cung đường với hỗ trợ hệ thống định vị GPS,
hoặc ứng dụng các công nghệ vận chuyển mới như giá xếp kệ hàng nhiều lớp v.v.
Để duy trì được năng lực cạnh tranh cao của ngành công nghiệp Thái Lan phải kể
tới đóng góp của chiến lược Logistics định hướng sản xuất tinh gọn thông qua mô hình
quản trị cung ứng nhanh chóng “Just-in-time”.

11


Thứ năm, tăng cường phối hợp hoạt động kinh doanh với các quốc gia láng
giềng.

Ủy ban quản lý bất động sản công nghiệp Thái Lan Industrial Estate Authority of
Thailand (IEAT) dự kiến xây dựng một khu dịch vụ Logistics nằm ở biên giới với Lào tại
thành phố Chiang Rai.
Thứ sáu, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư.
Chính phủ Thái Lan đang khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào
các dịch vụ logistics tích hợp song song với quản lý có hiệu quả sản xuất và chuỗi cung
ứng sản phẩm. Trong đó đặc biệt khuyến khích đầu tư vào công nghệ thông tin để thực
hiện quản lý và kiểm soát các hoạt động logistics.

2.2. Đánh giá chính sách xuất khẩu dịch vụ của Thái Lan
2.2.1. Ưu điểm


Khuyến khích các công ty vừa và nhỏ hay cá nhân có thể XKDV. Điển hình là
XKDV tại chỗ, với nguồn vốn đã được đầu tư vào cơ sở vật chất ngay trong nước,




có thể đồng thời cung cấp dịch vụ cho cả người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Nâng cao vị trí của Thái Lan trong lĩnh vực xuất khẩu dịch vụ.
Giới thiệu và tạo ấn tượng tốt đẹp đối với những đối tượng sử dụng dịch vụ xuất



khẩu của Thái Lan.
Hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu các dịch vụ đem lại nguồn cung ngoại tệ, phát triển
kinh tế Thái Lan.

2.2.2. Nhược điểm



Chính phủ Thái Lan chú trọng vấn đề xuất khẩu dịch vụ có thể làm cho ngành dịch



vụ phục vụ nội địa chưa được quan tâm và phát triển.
Chính sách xuất khẩu dịch vụ với phương thức “tiêu dùng dịch vụ ngoài lãnh thổ”
có thể dẫn đến nhiều vấn đề xã hội từ bên ngoài đem lại như làm tình hình an ninh
không được đảm bảo, ô nhiễm môi trường tăng cao.

12


1.1.

13


3. CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ THÁI LAN VÀ GIẢI PHÁP CHO
VIỆT NAM

3.1. Những vấn đề đặt ra trong xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam


Quy mô XKDV nói chung còn nhỏ
Tỷ trọng kim ngạch XKDV trong tổng kim ngạch xuất khẩu còn rất nhỏ: năm 2011

chỉ chiếm 8,4%. Tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế còn thấp, chiếm khoảng
trên 35% trong khi nhiều nước, tỷ lệ này đã lên đến 70-80%. Tăng trưởng XKDV mới chỉ

chủ yếu tận dụng các lợi thế có sẵn chứ chưa tập trung vào việc tạo lập, phát triển các lợi
thế cạnh tranh, mới tập trung phát triển theo chiều rộng chứ chưa theo chiều sâu, chưa
đuổi kịp xu hướng chung của thế giới là chuyển sang nền kinh tế tri thức.


Cơ cấu XKDV còn một số bất hợp lý
Dịch vụ du lịch chiếm tỷ trọng cao nhất (66,8 %) trong tổng kim ngạch XKDV

Việt Nam năm 2014 nhưng tốc độ tăng còn thấp và “mật độ” khách du lịch quốc tế đến
Việt Nam cũng chưa nhiều so với của các nước trong khu vực và trên thế giới, chưa tương
xứng với tiềm năng vốn có.
Bảng 3.1: Xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam chia theo nhóm ngành 2005 – 2014
Đơn vị: triệu USD
Năm
Du lịch

2005
2.300

Vận tải

1.167

Tài chính
BC - VT
Bảo hiểm
Chính phủ
DV khác
Tổng số


220
100
45
33
400
4.265

2006 2007
2.850 3.75
0
1.540 1.87
9
270
332
120
110
50
65
40
45
230
279
5.100 6.46
0

2008 2009
3.930 3.05
0
2.356 2.06
2

230
175
80
124
60
65
50
100
300
190
7.006 5.76
6

2010
4.45
0
2.30
6
192
137
70
105
200
7.46
0

2011 2012
5.710 6.85
0
2.227 2.07

0
208
150
145
138
81
64
110
110
210
238
8.69 9.62
1
0

2013
7.250

2014
7.330

2.230

2.320

183
140
60
125
722

10.71
0

175
145
58
137
805
10.970

Nguồn: Tổng cục thống kê

14


Ngoài dịch vụ vận tải và du lịch chiếm phần lớn tỷ trọng XKDV của Việt Nam,
một số ngành dịch vụ khác chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ, như dịch vụ bảo hiểm chiếm 0,5%,
dịch vụ bưu chính viễn thông chiếm 1,3%, dịch vụ tài chính cũng chỉ chiếm 1,6% trong
tổng kim ngạch XKDV của Việt Nam năm 2014. Điều này cũng phần nào cho thấy sự
kém phát triển của ngành tài chính trong nước, trong khi đây là ngành có vai trò rất quan
trọng trong việc tài trợ vốn của hầu hết các ngành trong nền kinh tế, và rất cần thiết phải
được phát triển nếu muốn hỗ trợ cho các ngành khác và nền kinh tế đi lên.


Năng lực cung cấp dịch vụ của Việt Nam còn yếu.
Do dịch vụ phần lớn phụ thuộc vào con người, doanh thu từ dịch vụ sẽ bị ảnh

hưởng rất nhiều khi nguồn nhân lực phục vụ trong ngành dịch vụ còn thiếu, yếu trong
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm… Từ đó, chất lượng trong các giao dịch
cũng không cao thể hiện ở tính chuyên nghiệp, tác phong công nghiệp, hơn nữa giá dịch

vụ cũng chưa có khả năng cạnh tranh cao.


Các chính sách về XKDV còn chưa thực sự hiệu quả.
Tuy trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản, nghị

quyết thể hiện quyết tâm phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như chất lượng các ngành
dịch vụ, song vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn do hiệu lực triển khai còn kém,
nhập siêu dịch vụ của Việt Nam trong thời gian gần đây vẫn còn rất cao và không có xu
hướng giảm.


Còn nhiều yếu kém trong quản lý Nhà nước và hiệu lực pháp lý.
Khu vực dịch vụ gồm rất đa dạng các loại hình dịch vụ nên mỗi Bộ sẽ tham gia

quản lý một nhóm dịch vụ nhất định, tuy nhiên đôi khi vẫn có sự chồng chéo trách nhiệm
của nhau do một ngành dịch vụ có thể liên quan đến nhiều ngành dịch vụ khác mà giữa
các Bộ lại không có sự phối hợp cũng như phân chia trách nhiệm hợp lý.


Vấn đề độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước còn khá phổ biến.
Điều này không những hạn chế sự phát triển của khu vực tư nhân mà còn làm giảm

sự cạnh tranh trong khu vực dịch vụ, chất lượng dịch vụ do đó cũng không được cải thiện
nhiều. Mặc dù, nhiều dịch vụ công đã được xã hội hóa từ giữa những năm 1990, nhưng
15


hiện nay, cũng do những hạn chế trong triển khai chiến lược, mà số lượng các doanh
nghiệp tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ vẫn còn chưa nhiều.


3.2. Áp dụng bài học kinh nghiệm của Thái Lan cho phát triển xuất khẩu dịch vụ
của Việt Nam
Thứ nhất, cần phải chú trọng phát triển mạnh mẽ các ngành dịch vụ của Việt Nam,
xây dựng một hình ảnh tốt đẹp về quy mô và chất lượng phục vụ của các ngành dịch vụ
này. Từ đó sẽ có một lượng khách hàng trong nước ổn định và quảng bá các hình ảnh tốt
đẹp đó ra thị trường nước ngoài, đây cũng là một bước quan trọng để phát triển XKDV
của Việt Nam. Muốn vậy, Chính phủ cần phải có những chương trình đầu tư thích hợp
cho ngành dịch vụ, với nhiều chính sách khuyến khích phát triển tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ.
Thứ hai, quản lý Nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ cần phải được cải thiện cho hiệu
quả hơn, với hệ thống luật pháp điều chỉnh ngành dịch vụ, XKDV rõ ràng và ổn định.
Điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho việc kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia hoạt
động này.
Thứ ba, Việt Nam nên tích cực tham gia ký kết các hiệp định song phương và đa
phương với các nước có thị trường XKDV tiềm năng. Bằng cách này, các rào cản về
nhiều mặt sẽ được giảm thiểu hay xóa nhòa, giúp doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập sâu
hơn vào thị trường các quốc gia khác, nơi vốn được nhà nước hỗ trợ, bảo vệ khá chặt chẽ
ở nhiều nước nhằm giúp đỡ ngành dịch vụ nước họ phát triển.
Thứ tư, Việt Nam cần có những chính sách hỗ trợ, tạo bước phát triển vượt bậc
cho ngành công nghệ thông tin để cải thiện hệ thống thống kê thông tin, dữ liệu một cách
chính xác, kịp thời. Tuy Việt Nam đã có những quan tâm nhất định đến sự phát triển của
ngành này, nhưng hầu như vẫn chưa coi công nghệ thông tin như một phần quan trọng
cho việc phát triển dịch vụ và XKDV. Vì thế, Chính phủ cần phải có các chiến lược cụ thể
hơn, liên kết chặt chẽ hơn giữa công nghệ thông tin với các ngành khác, chỉ đạo doanh
nghiệp dịch vụ áp dụng công nghệ thông tin trong các công đoạn của quá trình cung cấp.

16



Thứ năm, Việt Nam cũng có thể xây dựng các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp
XKDV phù hợp như việc thành lập các diễn đàn phát triển XKDV thành công, từ đó sẽ
giúp doanh nghiệp phát triển theo đúng hướng và có nguồn giải đáp các thắc mắc về tình
hình phát triển dịch vụ trên thế giới. Điều này là hoàn toàn có thể và đặc biệt hữu ích do
ngành dịch vụ ở Việt Nam và đặc biệt là XKDV còn rất non trẻ, chưa có nhiều kinh
nghiệm phát triển, trong khi phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài với quy mô
lớn, nhiều kinh nghiệm và rất có uy tín trên thị trường.
Thứ sáu, Việt Nam cần đẩy mạnh việc đầu tư quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng,
giao thông vận tải đồng bộ nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu
rộng vào nề Kinh tế quốc tế như hiện nay. Với tình trạng thiếu hụt cơ sở hạ tầng, Việt
Nam rất dễ mất đi những cơ hội đầu tư mà hội nhập kinh tế đem lại.
Thứ bảy, Việt Nam cần tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực sẽ
cung cấp cho doanh nghiệp nguồn vốn nhân sự chất lượng cao góp phần nâng cao khả
năng cạnh tranh trước các đối thủ. Qua đó góp phần thực hiện tốt chiến lược chung về
nhân sự của một doanh nghiệp và cao hơn là chiến lược chung về nhân sự của quốc gia.

3.3. Triển vọng phát triển xuất khẩu dịch vụ ở Việt Nam
Việt Nam hiện có rất nhiều cơ hội và triển vọng phát triển khu vực dịch vụ để đẩy
mạnh xuất khẩu như:


Cơ hội từ hội nhập quốc tế
Việt Nam, sau khi gia nhập WTO, có nhiều cơ hội hơn để mở rộng thương mại

dịch vụ với những nước đang phát triển khác, từ đó thúc đẩy việc thành lập các liên doanh
cũng như nhiều thỏa thuận hợp tác khác, đặc biệt trên cơ sở khu vực. Các liên minh khu
vực này sẽ có nhiều tiềm năng cạnh tranh hơn với các nước phát triển trên thị trường dịch
vụ. Hơn nữa, các nước thành viên có thể trao đổi, phát triển thêm nhiều kỹ năng và kinh
nghiệm, từ đó uy tín cũng như khả năng của từng thành viên cũng được nâng cao, tiến tới

cạnh tranh độc lập với các doanh nghiệp khác trên thế giới.
17


Việc mở cửa khu vực dịch vụ là một trong các yêu cầu bắt buộc khi gia nhập
WTO. Việt Nam đã cam kết mở cửa 11 ngành dịch vụ, trong đó gồm khoảng 110 phân
ngành dịch vụ trong tổng số 12 ngành và 155 phân ngành dịch vụ (VCCI). Các doanh
nghiệp Việt Nam được hưởng lợi rất nhiều từ các cam kết tự do hóa trong dịch vụ cũng
như thương mại dịch vụ của Việt Nam, rào cản tiếp cận thị trường dần dần được xoá bỏ,
giảm bớt từ đó cũng có nhiều cơ hội hơn để XKDV ra nước ngoài.


Cơ hội từ đầu tư nước ngoài
Việt Nam trong nhiều năm qua luôn được đánh giá là một địa điểm hấp dẫn đối với

các nhà đầu tư và các tổ chức tài trợ nước ngoài, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập
WTO. Do vậy, Việt Nam có nhiều cơ hội XKDV tới ngay các nhà đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam, từ đó mở rộng các cơ hội xuất khẩu thêm ra nước ngoài. Hơn nữa, sự có mặt
của các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam còn tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong
nước học tập những thông lệ quốc tế tốt nhất cũng như được chuyển giao công nghệ
thông qua các doanh nghiệp liên doanh, liên kết; nhiều việc làm được tạo ra hơn, tốc độ
tăng trưởng được đảm bảo để đạt được các mục tiêu quốc gia.
Nhận thức của Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam về tầm quan trọng của
dịch vụ và XKDV ngày càng tiến bộ. Chính phủ đã có những định hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong các năm tới với tỷ trọng dịch vụ trong GDP ngày càng cao. Đã có nhiều
cải cách, sửa đổi trong một số văn bản pháp luật quan trọng (như luật Đất đai, luật Cạnh
tranh…), và hứa hẹn sẽ có những sửa đổi, bổ sung ở nhiều luật khác (đặc biệt trong lĩnh
vực dịch vụ) trong thời gian tới. Chính phủ cũng đã xây dựng bản báo cáo “Chiến lược
tổng thể phát triển ngành dịch vụ tới năm 2020 và tầm nhìn tới năm 2025” thuộc dự án
Mutrap; trong đó thể hiện quyết tâm hội nhập quốc tế về dịch vụ, và cam kết hỗ trợ mạnh

mẽ ngành dịch vụ của Chính phủ Việt Nam. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam
cũng đã tham gia rất nhiều vào việc cung cấp dịch vụ (một nửa số doanh nghiệp trên thị
trường là doanh nghiệp dịch vụ), tuy còn hoạt động nhỏ lẻ nhưng đã có mặt ở hầu hết các
ngành dịch vụ chính hiện có trên thế giới, trong đó nhiều ngành đã xuất khẩu thành công.

18


3.4. Một số giải pháp nhằm phát triển xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về vai trò của dịch vụ, xuất khẩu dịch vụ trong nền
kinh tế.
Trước hết, cần phải có quy định cụ thể về XKDV trong luật, đây là yếu tố đầu tiên,
ảnh hưởng đến mọi hoạt động của doanh nghiệp dịch vụ. Ngoài ra, do dịch vụ có tính vô
hình, các doanh nghiệp dịch vụ mới là các nhân tố quan trọng quyết định sự thành công
của hoạt động XKDV. Vì vậy, vấn đề quan trọng là các doanh nghiệp này phải biết “tự
thân vận động”, xây dựng lòng tin ở khách hàng, liên tục đổi mới, sáng tạo, cải tiến chất
lượng dịch vụ… Nếu thực hiện tốt được các điều trên, hoạt động XKDV của Việt Nam
trong tương lai chắc chắn sẽ có nhiều khởi sắc.
Thứ hai, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chính sách liên quan tới
dịch vụ, xuất khẩu dịch vụ.
Hiện nay, Việt Nam đã có khá nhiều luật liên quan đến hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực dịch vụ như luật doanh nghiệp, luật thương mại, luật ngân hàng, bộ luật hàng hải,
luật viễn thông, luật du lịch… song hầu như chưa có nhiều luật về hoạt động thương mại
dịch vụ hay XKDV trong những ngành dịch vụ này, gây nhiều khó khăn cho các doanh
nghiệp muốn thực hiện hoạt động XKDV. Vì vậy cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện
những luật này cũng như xây dựng thêm những luật mới cho các ngành dịch vụ mới đang
có khả năng phát triển cao.
Thứ ba, tham gia tích cực vào các thỏa thuận, hợp tác về thương mại dịch vụ.
Với Việt Nam, một nước đang phát triển, việc ký kết và thực hiện các hiệp định,
hầu hết là với các nước phát triển, sẽ gặp rất nhiều khó khăn, bất lợi do vị thế kinh tế khác

nhau giữa Việt Nam với các nước đó, nên nếu không thận trọng thì rất dễ trở thành nước
nhập khẩu dịch vụ mạnh của những nước này.Vì vậy, cần phải có những đánh giá chính
xác về tình hình phát triển của Việt Nam rồi đưa ra các lộ trình phát triển, mở cửa cụ thể,
có lợi nhất và có thể thực hiện được cho Việt Nam khi ký kết các hiệp định song phương,
đa phương. Và một điều quan trọng là Việt Nam cần phải thực hiện nghiêm túc các cam
kết này để tạo thuận lợi, uy tín cho việc ký kết các hiệp định khác sau này.
19


Thứ tư, cải tiến công tác thống kê, thu thập dữ liệu các ngành dịch vụ, xuất khẩu
dịch vụ.
Việt Nam cần có nhiều cải tiến, đổi mới trong công tác thống kê XKDV, áp dụng
thống nhất các phương thức, chuẩn mực thống kê trong từng ngành dịch vụ, khuyến khích
sự sáng tạo, phát triển thêm các phương thức thống kê mới, phù hợp nhất với đặc thù của
Việt Nam.
Cần có sự phối hợp hiệu quả giữa các Bộ, ban, ngành với nhau và với Tổng cục
thống kê trong thống kê về dịch vụ, XKDV, nhằm có được những số liệu nhanh chóng,
phù hợp và chính xác nhất. Thêm vào đó, cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống báo
cáo và các quy định thống kê XKDV cho các ngành dịch vụ chủ yếu.
Thứ năm, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu về phát triển dịch vụ, xuất khẩu dịch vụ
ở các trường đại học, các viện nghiên cứu.
Cần có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại cho sinh viên và các cán bộ chuyên ngành
dịch vụ, thương mại dịch vụ. Khuyến khích công tác nghiên cứu, thực tập thực tế của sinh
viên và giáo viên trong nhà trường để có những phân tích đúng đắn phục vụ cho việc phát
triển dịch vụ, XKDV của Việt Nam, rồi phổ biến các kết quả nghiên cứu đó ở dạng dễ
hiểu tới các cơ quan quản lý các cấp để có những điều chỉnh chính sách phù hợp.
Thứ sáu, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ.
Để thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ, đầu tiên cần
phải tạo ra một môi trường pháp lý thông thoáng, minh bạch cho các nhà cung cấp dịch
vụ. Ngoài ra, các hạn chế với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài về đối xử quốc gia cũng

phải dần được loại bỏ hay giảm bớt. Khuyến khích vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
vào các ngành dịch vụ một cách đa dạng thay vì chủ yếu tập trung vào các mặt hàng xuất
khẩu truyền thống.
Thứ bảy, đẩy mạnh việc phát triển công nghệ thông tin trong các ngành dịch vụ,
xuất khẩu dịch vụ
Việt Nam cần phải có các chiến lược, chính sách phát triển CNTT hơn nữa, và đặc
biệt phải có sự gắn kết với từng ngành dịch vụ, hoạt động XKDV bằng việc đào tạo cán
20


bộ dịch vụ về CNTT hay cung cấp thêm một số kiến thức về dịch vụ cho các cán bộ có
chuyên môn cao về công nghệ để việc ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp XKDV thêm
chính xác và thích hợp.
Thứ tám, tăng cường đầu tư phát triển nguồn lực cho xuất khẩu dịch vụ
Do dịch vụ là vô hình, việc phát triển nó chủ yếu phải dựa vào các nguồn lực hữu
hình như cơ sở vật chất, và nguồn nhân lực, và đặc biệt với XKDV, các yếu tố trên trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết khi mọi công đoạn đều phải được thực hiện tốt hơn để cạnh
tranh được trên thị trường quốc tế.
Đầu tư vào cơ sở vật chất: Trước hết cần tập trung phát triển những ngành cơ sở,
tạo tiền đề cho các ngành khác như đường sá, điện lực, viễn thông… Cơ sở vật chất phải
được nâng cấp lên trình độ khu vực, quốc tế với các trang thiết bị hiện đại để khuyến
khích các cá nhân, tổ chức nước ngoài đến Việt Nam sử dụng dịch vụ của Việt Nam và
người Việt Nam không cần dùng dịch vụ nước ngoài. Ngoài ra, cần tăng đầu tư Nhà nước
cho phát triển dịch vụ với công nghệ cao, phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế dịch
vụ, kinh tế tri thức trên thế giới.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực: Cần phải có chiến lược đầu tư tốt trong công tác
đào tạo và tuyển dụng nguồn lực cho ngành dịch vụ để đáp ứng được yêu cầu về nguồn
nhân lực chất lượng cao. Ngoài ra, cần tranh thủ hợp tác quốc tế để tiếp thu các chuyên
môn và kinh nghiệm; đào tạo những chuyên gia đầu ngành trong việc soạn thảo chiến
lược, hoạch định chính sách để có được những bước đi đúng đắn cho XKDV của Việt

Nam.
Thứ chín, triển khai các chương trình xúc tiến xuất khẩu dịch vụ.
Ngành dịch vụ, XKDV của Việt Nam còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm phát
triển, cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài hơn hẳn chúng ta về mọi mặt. Do đó,
rất cần thiết phải có các chương trình xúc tiến XKDV để hỗ trợ các doanh nghiệp dịch vụ
nói chung và hoạt động XKDV của Việt Nam nói riêng.
Một hoạt động cần thiết của chương trình xúc tiến này là tạo và duy trì một diễn đàn
chuyên về XKDV với các chuyên gia tư vấn đầu ngành, giúp giải đáp thắc mắc của các
21


doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Song song, diễn đàn cũng cần có các cuộc khảo
sát thị trường, xây dựng và quảng bá thương hiệu, tổ chức các sự kiện xúc tiến để đảm
bảo hoạt động hiệu quả nhất.

22


KẾT LUẬN
Dịch vụ là một lĩnh vực mà mỗi quốc gia đều rất chú ý trong thúc đẩy và phát triển
nền kinh tế. Chính vì thế, tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ của mỗi quốc gia luôn là một
mục tiêu được đặt lên hàng đầu trong các chính sách phát triển kinh tế của mỗi chính phủ.
Đối với một đất nước như Thái Lan, nơi mà tỉ trọng ngành dịch vụ ngày càng cao trong
nền kinh tế thì các chính sách phát triển càng được chú trọng mạnh mẽ.
Qua nghiên cứu, nhóm chúng em đã phân tích những thực trạng trong phát triển
ngành dịch vụ của Thái Lan giai đoạn từ 2006 – 2015. Quá trình đánh giá các chính sách
bắt đầu từ các chính sách dành cho ngành dịch vụ của họ, tiếp đó là đi sâu vào phân tích
các chính sách một số ngành mà họ có thế mạnh, những ngành dịch vụ điển hình. Từ
những phân tích thu được, tiến hành đánh giá tổng quan toàn bộ quá trình nghiên cứu,
tổng thế và thực trạng thực hiện các chính sách trong xuất khẩu dịch vụ của Thái Lan.

Cùng trong khu vực ASEAN, văn hoá có một số điểm tương đồng, nên Việt Nam và Thái
Lan có thể giao lưu và chia sẻ các chính sách đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ, học
tập kinh nghiệm trong một số ngành mà Thái Lan có thế mạnh, có thể kể đến như du lịch.
Những bài học kinh nghiệm rút ra là rất quý báu, từ đó có thể căn cứ vào tình hình thực
tiễn phát triển xuất khẩu dịch vụ tại Thái Lan để đưa ra những giải pháp phù hợp đẩy
mạnh và nâng cao chất lượng phục vụ, từng bước đưa ngành dịch vụ thành một trong
những ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp vào sự phát triển của đất nước.

23


4. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Phan Huy Đường & Đỗ Hữu Tùng, 2011, Xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam: Thực
trạng và giải pháp, Tạp chí Kinh tế & Dự báo, số 497, tr.22-24.

2.

TS.Hà Văn Hội, 2010, Chính sách xuất khẩu dịch vụ trong điều kiện Việt Nam hội
nhập kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

3.

Nguyễn Thái Ngọc Anh, 2009, Đẩy mạnh một số loại hình dịch vụ - kinh nghiệm thế
giới và bài học cho Việt Nam, Đại học Ngoại Thương.

4. TS. Phạm Hùng Tiến, 2016, Hội nhập cộng đồng Kinh tế ASEAN – góc nhìn từ ngành
dịch vụ Logistics Thái Lan và vận dụng kinh nghiệm phát triển Logistics tại Việt
Nam,


Đại

học

Kinh

tế

-

Đại

học

quốc

gia



Nội.

/>5.

TS. Hà Văn Hội, 2009, Xuất khẩu dịch vụ Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng tài
chính toàn cầu, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 25 (2009) 176
– 184. />
6.


Trang

web

Tổng

cục

thống

kê:

Xuất

nhập

khẩu

dịch

vụ:

/>
24



×