Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Lý thuyết của mác về khủng hoảng kinh tế với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua và việc chống suy giảm kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.88 KB, 22 trang )

Lý thuyết của Mác về khủng hoảng kinh tế với cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu vừa qua và việc chống suy giảm kinh tế ở nước ta
hiện nay
:
1.Quan điểm của Mác về khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế là khái niệm dùng để chỉ những hiện tượng
kinh tế mất ổn định kéo dài mà không điều chỉnh được của quá trình tái
sản xuất trong nền kinh tế gây ra những trấn động và hậu quả kinh tế xã
hội trong quy mô rộng hoặc hẹp. Khủng hoảng kinh tế diễn ra trong mọi
lĩnh vực của nền sản xuất xã hội trong tất cả các khâu của quá trình tái
sản xuất.
Khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và gồm có bốn giai đoạn:

1


 Khủng hoảng:đây là giai đoạn đầu của chu kỳ kinh tế. Xuất hiện
trước hết là khủng hoảng tiêu thụ, dự trự hàng hóa trong kho của các xí
nghiệp tăng lên, giá cả hàng hóa giảm xuống do cung lớn hơn cầu có khả
năng thanh toán cuộc cạnh tranh để tiêu thụ hàng hóa trở nên gay gắt,
các nhà tư bản buộc phải thu hẹp thạm chí đình chỉ sản xuất.
 Tiêu điều: là giai đoạn tiếp sau khủng hoảng. Đặc điểm của giai
đoạn này là sản xuất không tiếp tục giảm sút nữa nhưng cũng không tăng
lên, nền sản xuất ở trạng thái trì trệ. Để thoát khỏi tình trạng này, các
nhà tư bản tìm cách tăng cường bóc lột lao động bằng cách hạ thấp tiền
lương. Tăng cường độ lao động và thời gian lao động, để giảm chi phí
sản xuất và đổi mới tư bản cố định, cải tiến kỹ thuật.

2



 Phục hồi: là giai đoạn kế tiếp với giai đoạn tiêu điều. Từ tiêu điều
chuyển sang phục hồi và bắt đầu mở rộng sản xuất nhờ đổi mới tư bản
cố định. Sản xuất được mở rộng đạt mức trước khủng hoảng. Số người
làm việc tăng lên, giá cả hàng hóa cũng tăng lên, nền kinh tế bước sang
giai đoạn mới, giai đoạn hưng thịnh.
 Hưng thịnh: là giai đoạn phát triển cao nhất của chu kỳ kinh tế. Ở
giai đoạn này cung cầu về hàng hóa tăng lên, sản xuất mở rộng và phát
triển vượt mức cao nhất của chu kỳ trước. Thế là lại tạo điều kiện chuẩn
bị cho một cuộc khủng hoảng mới, bắt đầu và chín muồi.
Quan điểm của C. Mác và V.I.Lênin về khủng hoảng kinh tế như
sau: Khủng hoảng là đặc trưng của riêng chế độ tư bản chủ nghĩa do
mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất (được chính chủ nghĩa tư
bản xã hội hóa) và phương thức chiếm hữu tư nhân, cá nhân về tư liệu
sản xuất. Đó là sự rối loạn trong sản xuất, lưu thông hay phân phối.
Những biểu hiện
Một là: trắc trở trong việc mua và bán. Không bán được hàng hóa
hoặc phải bán rẻ, không đủ tiền thanh toán nợ đến hạn. Giá nguyên
liệu lên không đủ tiền mua, nếu không vay được thì phải giảm quy
mô sản xuất, sa thải công nhân, không tận dụng được công suất của
máy móc, thiết bị.
Việc mua và bán tách rời nhau về không gian và thời gian, nhưng lại
đòi hỏi phải ăn khớp với nhau. Sự gắn liền và chằng chịt với nhau

3


như thế của các quá trình tái sản xuất hay lưu thông của những tư bản
khác nhau, một mặt là hậu quả tất yếu của sự phân công lao động, và
mặt khác, là một sự ngẫu nhiên, và chỉ một điều đó cũng đã mở rộng
tính quy định của nội dung cuộc khủng hoảng.

Hai là: mất cân đối trong sản xuất. C. Mác đã phát hiện những
quan hệ tỷ lệ cân đối giữa các bộ phận tổng sản phẩm hàng năm giành
cho tái sản xuất ra tư bản và cho tiêu dùng cá nhân. Nếu một nước
không tự đảm bảo được những tỷ lệ cân đối đó thì sẽ lâm vào khủng
hoảng. Ngoại thương có thể tạm thời góp phần giải quyết những mất
cân đối đó, nhưng ngoại thương chỉ đẩy mâu thuẫn ra một trường
rộng rãi hơn, chứ không giải quyết được mâu thuẫn, khiến cho khủng
hoảng mang tính chất toàn thế giới.
Những điều kiện tạo ra sự trao đổi bình thường và quá trình bình
thường của tái sản xuất lại biến thành những điều kiện cho một quá
trình không bình thường, thành bấy nhiêu khả năng khủng hoảng, bởi
vì do tính chất tự phát của nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa,
bản thân sự cân bằng chỉ là một sự ngẫu nhiên.
Ba là: rối loạn hệ thống tín dụng. Trong một chế độ sản xuất mà tất
cả những mối liên hệ của quá trình tái sản xuất đều dựa trên tín dụng,
nếu đột nhiên tín dụng bị đình chỉ và chỉ những việc thanh toán bằng
tiền mặt mới có hiệu lực thôi, thì thế nào cũng xảy ra khủng hoảng và
tình trạng xô đẩy nhau chạy theo các phương tiện thanh toán.

4


Trong hệ thống tín dụng, các doanh nghiệp nợ lẫn nhau, nên khả năng
thanh toán của người này lại do khả năng thanh toán của người kia
quyết định. Chừng nào quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục, do đó
việc tư bản quay trở về vẫn được bảo đảm, thì chừng đó tín dụng vẫn
được duy trì bình thường. Nhưng nếu xảy ra một sự đình trệ do việc
tư bản quay trở về bị chậm lại, do thị trường ứ trệ, do giá cả sụt
xuống, hàng hóa không bán được hoặc phải bán rẻ không đủ khả năng
trả nợ, lòng tin vào tín dụng bị tan vỡ, không cần mua bán chịu v.v. sẽ

dẫn đến tình trạng khan hiếm tín dụng. Việc không có khả năng thanh
toán không chỉ xuất hiện ở một điểm mà ở nhiều điểm, do đó đẻ ra
khủng hoảng.
Bốn là: vi phạm quy luật về lưu thông tiền tệ. Phát hành giấy bạc
vượt số lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông sẽ gây lạm phát.
Nhưng phát hành giấy bạc không đủ cũng gây khủng hoảng. C. Mác
đã dẫn ra sự kiện đạo luật Ngân hàng Anh năm 1844 đã hạn chế số
lượng giấy bạc ngân hàng được phát hành dẫn đến khủng hoảng vào
năm 1847 và 1857, nhưng khi Chính phủ Anh xóa bỏ sự hạn chế đó
vào tháng Mười năm 1847 và tháng Mười Một năm 1857, thì cả hai
lần đều đẩy lùi được khủng hoảng, từ đó phải đình chỉ thi hành đạo
luật đó.
Năm là: mất cân đối giữa sản xuất và nhu cầu có khả năng thanh
toán. Do hệ thống tín dụng và ngoại thương mở rộng, do đầu cơ...đã
tạo ra những nhu cầu giả tạo vượt quá nhu cầu có khả năng thanh toán
5


thực sự, khiến cho quy mô sản xuất mở rộng quá mức, dẫn tới sản
xuất thừa thêm trầm trọng. Hơn nữa, lượng cầu từ phía công nhân
không đủ, bởi vì lợi nhuận tồn tại được chính vì lượng cầu mà công
nhân có thể đưa ra lại ít hơn giá trị sản phẩm của họ, và lợi nhuận sẽ
càng lớn nếu lượng cầu đó càng ít đi một cách tương đối. Sự tiêu
dùng của quần chúng nhân dân không tăng lên một cách tương ứng
với sự tăng lên của năng suất lao động.
Nguyên nhân cuối cùng của mọi cuộc khủng hoảng thật sự bao giờ
cũng vẫn là sự nghèo khổ của quần chúng và tính hạn chế của sự tiêu
dùng của họ.
Sáu là: xây dựng nhà ở không theo đơn đặt hàng mà chạy theo thị
trường và mang tính chất đầu cơ. Nhà thầu khoán vay ngân hàng

bằng cầm cố bất động sản. Ngân hàng chỉ giải ngân dần dần theo tiến
độ xây dựng. Nếu có trục trặc nhà thầu khoán không trả được nợ đúng
kỳ hạn sẽ bị đình chỉ cho vay. Nếu phải bán nhà theo giá rẻ để thanh
toán thì sẽ lỗ, thậm chí phá sản.
Bảy là: những chứng khoán không đại biểu cho tư bản thực tế,
không có bảo đảm ngày càng được phát hành nhiều hơn. C. Mác
đã dẫn ra những tư liệu về những khoản tín dụng giả được tạo ra bằng
phương pháp có tính chất kỹ thuật. Thí dụ Ngân hàng địa phương sau
khi chiết khấu kỳ phiếu lại đưa cho Billbroker (người môi giới chứng
khoán) đem đi chiết khấu lại ở thị trường Luân Đôn. Việc này chỉ
hoàn toàn dựa vào khả năng tín dụng của ngân hàng, không kể gì đến
6


phẩm chất khác của kỳ phiếu; lại cộng thêm những trường hợp đầu cơ
chứng khoán nữa.
Các loại của cải giả tưởng trên, không những là một bộ phận rất lớn
tài sản của các tư nhân mà cũng là một bộ phận lớn của tư bản ngân
hàng. Nếu đột nhiên hệ thống tín dụng bị trục trặc thì những chứng từ
ảo ấy sẽ lộ rõ bộ mặt thật và vỡ như bong bóng, tất yếu xảy ra khủng
hoảng.
Những biểu hiện trên dù mới chỉ được nêu rất sơ lược, nếu đem so
sánh với các cuộc khủng hoảng đã xảy ra, sẽ thấy tuy có những chi
tiết cụ thể khác nhau, nhưng về nguyên lý thì vẫn đúng. Cái gọi là
khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, nổ ra đầu tiên ở Hoa Kỳ,
bởi bong bóng nhà ở do tín dụng dưới chuẩn được cấp quá dễ dãi và
nghiệp vụ “chứng khoán hóa”, có thể tương ứng với điểm ba, điểm
sáu và điểm bảy ở trên.
2.Lý thuyết của Mác về khủng hoảng kinh tế với cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua

- Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế
Có thế miêu tả quá trình dẫn tới khủng hoảng một cách đơn giản như
sau: NSX( nhà sản xuất) dùng giấy ghi nợ của NTD ( người tiêu
dùng) làm thế chấp để vay tiền của ngân hàng ( NH ) . NH chuyển
các thế chấp này thành các cổ phiếu để bán trên thị trường chứng
khoán. Vì được dùng trước trả sau nên NTD tăng tiêu dùng, dẫn đến

7


tăng cầu. Do tăng cầu nên nhà sản xuất tăng giá bán sản phẩm ( dù
thu về chỉ là giấy ghi nợ) do đó cổ phiếu cũng tăng giá trên thị trường
chứng khoán.Tạo nên một bong bóng giả tạo là ai cũng giàu lên. Dây
chuyền này chỉ bị phá vỡ khi ngân hàng đòi nhà sản xuất thanh toán
thực thụ và vì NTD đã tiêu quá khả năng thanh toán thực thụ nên các
giấy ghi nợ mà NSX dùng làm thế chấp không đưa lại đúng giá trị của
nó.Nhà sản xuất tuyên bố vỡ nợ. Giá của các cổ phiếu giảm mạnh và
mất giá trị. Các NH đứng trước nguy cơ phá sản vì nợ xấu.Lúc này
chính phủ đã quyết định dùng ngân sách để cứu một số ngân hàng lớn
tránh việc sụp đổ toàn bộ hệ thống.
+, Nguyên nhân trực tiếp là các hoạt động tài chính(cho vay tiêu dùng
đặc biệt là thị trường bất động sản) đã không được giám sát chặt
chẽ.Thêm vào đó là sự tách biệt giữa tiêu dùng và khả năng chi trả
thực tế đã mở rộng quy mô của sự vỡ nợ, và từ đó sự khủng hoảng tài
chính đã trở nên rất lớn vì bị che dấu trong thời gian dài từ 10 – 15
năm nay. Do không công ty nào đánh giá được mức độ rủi ro thực sự
của các cổ phiếu này và họ cũng không có động cơ đánh giá đúng
mức độ rủi ro, vì cơ chế hoạt động cũng như các kênh tài chính là rất
phức tạp, vừa khó vừa tốn kém trong việc đánh giá.
+, Tuy nhiên nguyên nhân sau xa hơn chính là niềm tin vào”thị

trường sẽ tự điều chỉnh về cân bằng tối ưu”. Chính vì niềm tin vào
bàn tay vô hình này mà chính phủ đã mất cẩn trọng tài chính nới nỏng

8


sự điều tiết, cho phép các ngân hàng tham gia sâu vào lĩnh vực đầu tư
rủi ro mà không bị kiểm soát chặt chẽ.
+, Các nhà Mac xit nhìn nhận, vấn đề của mọi vấn đề chính là câu hỏi
về hệ thống các quan hệ kinh tế chính trị tư bản chủ nghĩa. Một hệ
thống vẫn dựa trên lòng tham vị kỷ và các mục tiêu lợi nhuận sẽ tất
yếu dẫn tới đầu cơ hơn là đầu tư và các “ bong bóng tài chính” chỉ là
hệ quả của nó.
- Chủ nghĩa Mác và sự phê phán hệ thống TBCN
Một trong những nguyên nhân nền tảng được những người theo chủ
nghĩa tân tự do nhắc đến là “ sự tham lam quá độ” tính ích kỷ của con
người.Với cách nhìn nhận này nguyên nhân được gắn cho các cá nhân
và các bản chất cố hữu của họ, còn bản thân cấu trúc thể chế là tốt.
Các phân tích khác thì gán cho các tổng giám đốc các nhà điều hành
không đủ năng lực và sự công tâm. Hiển nhiên, các lập luận này có
phần đúng tuy nhiên cần phải thấy rằng trong một thế giới phức tạp
với vô số các kênh tác động của các công cụ tài chính như hiện nay
vấn đề không thể là tìm ra người toàn tài như vậy.Vấn đề chính là xây
dựng một cỗ máy thể chế mà những con người như hiện tại có thể
điều hành được nó.
Khi nhìn nhận như vậy, người ta tất yếu sẽ quay lại với cách nhìn
tổng thể hệ thống kinh tế chính trị của CNTB như Mác đã từng nhìn
nhận. Thậm chí sâu xa hơn cỗ máy thể chế này cũng phải thúc đẩy sự

9



phát triển của bản chất con người với các bản chất mới giá trị mới.
Tức là những thể chế đó có chức năng khai mờ nhận thức. Biến đổi
con người trở lên vị tha và khôi phục đúng bản chất con người.
Quay lại với cuộc khủng hoảng có thế thấy nguyên nhân sâu xa đã bắt
đầu từ cuộc khủng hoảng những năm 1970. Trong suốt thời gian này
số liệu cho thấy : thu nhập thực tế của người lao động đã không tăng
mặc dù năng suất lao động đã tăng đáng kể( wolff 2008). Nói cách
khác xét về mặt tổng thể, mặc dù số lượng hàng hóa tăng lên đáng kể
nhưng khả năng thanh toán của người lao động đã không tăng lên. Do
vậy, việc cho vay tiêu dùng là tất yếu. Việc cho vay như vậy rõ ràng
chỉ có thể trì hoãn được khủng hoảng chứ không chữa được căn bệnh
kinh niên là người lao động tiêu dùng phần không thuộc về mình
trong tổng sản phẩm. Phần không thuộc về mình đó là tiêu điểm của
sự xem xét Mác xit như chúng ta đã biết, vì đáng ra nó ( sản phẩm
thặng dư đó) phải thuộc về người lao động , nhưng cấu trúc sở hữu và
hệ thống chính trị pháp lý đã đảm bảo rằng nó thuộc về giới chủ tư
bản. Đây là nguyên nhân sâu xa nhất mà nếu không giải quyết được
mức hệ thống sẽ không bao giờ giải quyết được căn bệnh của khủng
hoảng chu kỳ.
Ngoài ra khi nhìn vào hệ thống kinh tế TBCN hiện đại sự cạnh tranh
vì lợi nhuận đã dẫn đến các doanh nghiệp, vốn có tính chất công , như
các doanh nghiệp đánh giá mức độ rủi ro, cung cấp thông tin về khả
năng sinh lợi của các giấy tờ có giá(cổ phiếu ,trái phiếu…) lại không
10


có động cơ làm tốt việc đó. Chính vì thiếu các thông tin và sự kiểm
soát này mà mâu thuẫn nền tảng giữa chủ và thợ về phân phối lợi ích

ròng , giá trị thặng dư đã được che dấu và tích tụ dưới sự phức tạp của
các công cụ tài chính , các bong bóng chứng khoán hay bất động sản
cho đến khi chúng chạm trần giới hạn.
Như vây, quan hệ tư bản lao động cũng như các giá trị mà hệ thống
thị trường cạnh tranh là hai cấu trúc nền tảng cơ bản quy định tính tất
yếu của các cuộc khủng hoảng như vậy. Các giải pháp kinh tế nếu
không động đến hai cấu trúc này sẽ chỉ cùng lắm là trì hoãn và tích tụ
các cuộc khủng hoảng và các xung đột hệ thống này như chúng ta đã
thấy.
- Các ý nghĩa chính trị
Với tất cả sự hồi sinh của cách nhìn phê phán Mác xít, cần phải nói
rằng việc hệ thống TBCN có các nhược điểm như vậy không chứng tỏ
việc hơn hẳn của hệ thống kinh tế kế hoạch tập trung XHCN như đã
từng có. Cũng như việc chỉ ra người khác xấu cũng chưa chứng tỏ
mình là người tốt, và đây là điều cần cảnh báo đầu tiên bởi vì chúng
ta đã thấy có những kết luận khoa học kiểu này, và thậm chí còn được
tán đồng bởi các nhóm lợi ích muốn giữ nguyên trạng những điều bất
hợp lý. Theo nhiều chỉ số kinh tế, hệ thống kinh tế như hiện tại của
chúng ta cũng chưa có gì để khẳng định tính ưu việt.

11


Ở đây vấn đề đặt ra với các nhà Mác xít phương tây cũng rất khác với
chúng ta. Ví dụ như, một trong các lời kêu gọi khi chính phủ lấy tiền
thuế của dân để cứu các doanh nghiệp tư nhân, một yêu cầu có tính
chính trị được đặt ra là liệu chính phủ có thay đổi cả cấu trúc sở hữu
và quản lý của doanh nghiệp đó không? VD như việc quy định sự
ngang bằng của tiếng nói công nhaanngay trong ban quản trị.Hơn thế
nữa khi cứu một loạt các doanh nghiệp cùng ngành chính phủ có nên

làm gì để thay đổi sự cạnh tranh có tính hủy diệt như đã thấy bằng sự
cộng tác giữa các doanh nghiệp này vì lợi ích chung? Đây là điều mà
các nhà cánh tả phương tây gọi là “ move beyond capitalism” – vượt
qua chủ nghĩa tư bản.
3. Về việc chống suy giảm kinh tế ở nước ta hiện nay
- Những giải pháp, điều chỉnh nhằm chống khủng hoảng kinh tế trong
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
 Tác động tới lực lượng sản xuất.
Thúc đẩy cách mạng công ngệ thông tin (CNTT) và công nghệ cao
phát triển mạnh mẽ. Cách mạng IT khởi nguồn từ các nước phương Tây
là bước nhảy vọt mang tính lịch sử to lớn của sự phát triển KH-KT, là
kết quả của sự tích luỹ KH-KT lâu dài của các nước TBCN.
Phát triển nền kinh tế tri thức với hàm lượng chất cao.Trong kinh tế
tri thức, vai trò của tri thức và kĩ thuật đã cao hơn các yếu tố như nguồn
tài nguyên tự nhiên,…và trở thành yếu tố quan trọng nhất. Sáng tạo kĩ

12


thuật và sáng tạo cơ chế đóng vai trò then chốt trong sự phát triển của
kinh tế tri thức.
 Tác động tới quan hệ quản lý.
Quan hệ sở hữu có những thay đổi biểu hiện nổi bật là sự phân tán
quyền nắm cổ phiếu tăng lên. Các nhà tư bản tìm cách chia nhỏ cổ phần,
phân tán quyền nắm cổ phiếu cho nhiều cá nhân, nhưng nhà tư bản vẫn
nắm trong tay lượng cổ phiếu lớn nhất, để có khả năng chi phối doanh
nghiệp.
Kết cấu giai cấp cũng có những biến đổi lớn. Các giai cấp, tầng lớp,
đoàn thể xã hội và tập đoàn cùng tồn tại và tác động lẫn nhau. Nổi bật là
sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu hay còn gọi là giai cấp trung sản,

chiếm 40-50%. Trên thực tế, phần lớn trong số này có cổ phiếu hoặc một
phần vốn rất nhiều trong số họ là phần tử tri thức hoặc nhân viên chuyên
ngành có địa vị nghề nghiệp khá tốt, đã không còn là giai cấp vô sản
theo quan niệm truyền thống nữa.
Thu nhập bảng tiền lương của người lao động cũng có được mức tăng
trưởng khá lớn( thực chất chỉ tăng trên tiền công danh nghĩa, tiền công
thực tế vẫn bị coi là giảm so với sự tăng giá hàng hóa nhằm thu lợi của
các nhà tư bản).
 Thể chế kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý, thiết lập cơ cấu tổ chức hàng
ngang và mạng lưới, xoá bỏ hệ thống kiểu kim tháp truyền thống như tập
13


trung quá lớn quyền lực, đa tầng thứ và theo chiều dọc, thay thế bằng hệ
thống kiểu mạng lưới phân quyền, ít tầng thứ và theo chiều ngang.
Dùng công nghệ cao cải cách cơ chế quản lý sản xuất. Doanh nghiệp
thiết lập hệ thống sản xuất linh hoạt.hệ thống SX bằng máy tính , chế độ
cung cấp thích hợp và cơ chế phát triển theo nhu cầu
Thực hiện cải cách quản lý lao động, lấy con người làm gốc, yêu cầu
đối với công nhân chủ yếu không phải là thể lực mà phải có kỹ năng và
tri thức cao hơn, để họ phát huy tính chủ động và sang tạo, từ đó nâng
cao năng suất lao động và tăng cường thế cạnh tranh của DN.
Thay đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp, xuất hiện xu thế loại hình
lớn hoá và nhỏ hoá cùng hỗ trợ lẫn nhau và cùng tồn tại. Các DN lớn đã
khôg ngừng mở rộng ưu thế về quy mô, tăng cường sức mạnh thị trường
của công ty.Đồng thời, các DN nhỏ cũng linh hoạt hơn và phát triển
mạnh mẽ làm cho kinh tế TBCN có sức sống và hiệu quả cao.
 Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong
hệ thống kinh tế CNTB, là lực lượng chủ yếu thúc đẩy toàn cầu hoá.

Các công ty xuyên quốc gia (TNC) là các công ty tư bản độc
quyền, bành trướng thế lực ra nước ngoài. Hiện tại, các TNC được nhà
nước ở các nước TBCN nâng đỡ, thông qua trực tiếp đầu tư ra nước
ngoài trên quy mô lớn, các TNC mua và thôn tính các tài sản ở nước
ngoài, không ngừng tăng cường thực lực, mở rộng thị trường.,…
 Tăng cường điều tiết phối hợp và hợp tác quốc tế
14


Các nước tư bản lớn trên thế giới thời gian qua đã tăng cường đối
thoại và cùng nhau hợp tác giải quyết những vấn đề nóng của chủ nghĩa
tư bản.
Đối với các biện pháp chống khủng hoảng kinh tế trong nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa, việc áp dụng vào nền kinh thế thị trường hiện nay đem
lại cả mặt tích cực và tiêu cực.
Đối với nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, việc các nước tư
bản áp dụng các điều chỉnh, biện pháp nhằm chống khủng hoảng; một
mặt đã tạo ra những chuyển biến tích cực cho nền kinh tế, tình trạng vô
chính phủ được giải quyết, hiệu quả sản xuất tăng cao, giải phóng sức
lao động của con người, đưa nền kinh tế của nhân loại bước vào một
thời đại mới: thời đại kinh tế tri thức.
Tư bản cố định là cơ sở vật chất cho những cuộc khủng hoảng chu kỳ,
vì khủng hoảng bao giờ cũng cấu thành khối điểm cho những khoản đầu
tư mới và lớn của tư bản. Do đó, đứng về toàn thể xã hội mà xét thì
khủng hoảng ít nhiều đều tạo một cơ sở vật chất mới cho chu kỳ chu
chuyển sau đó. Tiến bộ khoa học, công nghệ lại làm cho cuộc đời của tư
bản cố định bị rút ngắn do những biến thiên không ngừng trong các tư
liệu sản xuất. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển thì
những biến thiên này càng xảy ra thường xuyên hơn. Gắn với tình hình
này là sự thay thế tư bản cố định sớm hơn do hao mòn vô hình, trước khi

những tư liệu sản xuất ấy sống trọn đời sống thể chất của chúng. Do đó
chu kỳ khủng hoảng được rút ngắn lại.
15


Cơ giới hóa nâng cao năng suất lao động, cũng vì vậy mà công nhân
lao động sẽ bị các nhà tư bản bóc lột nhiều hơn
Cạnh tranh khắc nghiệt làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, bất
công xã hội, chênh lệch mức sống người dân giữa các nước ngày càng
gia tăng.
Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta
hiện nay, có thể áp dụng, nhưng phải có sự chọn lọc và điều tiết hợp lý.
Nói có thể áp dụng các biện pháp chống khủng hoảng vào nền kinh tế
nước nhà là bởi vì giữa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của
nước ta và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa có một số điểm chung cơ bản:
Sự giống nhau: xuất phát từ tính khách quan của nó. Cả hai kiểu kinh
tế thị trường này đều chịu sự tác động của cơ chế thị trường với hệ thống
các quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh, lưu thông tiền tệ , … Đồng
thời cả nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đều là các nền kinh tế hỗn hợp, tức là nền
kinh tế thị trường có sự điều tiết, quản lý của nhà nước. Nhà nước có 3
chức năng kinh tế rõ rệt là: can thiệp, quản lý và điều hòa phúc lợi. Nhà
nước có một vai trò chính đáng và thường xuyên trong các nền kinh tế
hiện đại.
Nhưng phải có sự chọn lọc và điều tiết hợp lý là về căn bản vẫn có sự
khác nhau rõ rệt giữa hai hệ thống kinh tế:

16



Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là ở mục tiêu, phương thức,
mức độ can thiệp của nhà nước và sự can thiệp này là do bản chất của
nhà nước quyết định. Được thể hiện qua những đặc điểm sau.
Cơ chế thị trường trong nền kinh tế TBCN luôn hoạt động trên nền
tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, trong đó các công ty tư bản
độc quyền giữ vai trò chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Còn
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lại hoạt động trong môi
trường của sự đa dạng các quan hệ sở hữu, trong đó chế độ công hữu giữ
vai trò nền tảng của nền kinh tế, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Tính chất giai cấp của nhà nước và mục đích quản lý, trong nền kinh
tế thị trường TBCN, sự quản lý của nhà nước luôn mang tính chất tư sản
và trong khuôn khổ của chế độ tư sản với mục đích nhằm bảo đảm môi
trường kinh tế- xã hội thuận lợi cho sự thống trị của giai cấp tư sản, cho
sự bền vững của chế độ bóc lột TBCN. Còn trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN thì sự can thiệp của nhà nước XHCN vào nền kinh tế
lại nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của toàn thể nhân dân lao động,
thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng , văn minh.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn điều khiển nền kinh tế
nhiều thành phần tới đích XHCN theo phương châm nhà nước điều tiết

17


vĩ mô. Ngược lại, kinh tế TBCN hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng
tư sản cầm quyền.
Phát triển kinh tế với công bằng xã hội,Vấn đề công bằng xã hội trong
nền kinh tế TBCN chỉ được đặt ra khi mặt trái của cơ chế thị trường đã

làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra nguy cơ bùng nổ xã hội, đe dọa sự
tồn vong của CNTB. Trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhà
nước chủ động giải quyết ngay từ đầu.
Các ứng phó của Việt Nam đối với cuộc khủng hoảng kinh tế
Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế giới, vả lại ngày nay
kinh tế nước ta đã hội nhập đầy đủ với nền kinh tế thế giới, chúng ta
không thể không tính đến những tác động sâu xa, mạnh mẽ của cuộc
khủng hoảng toàn cầu đối với Việt Nam, không thể không nghĩ tới một
số vấn đề nảy sinh đối với nước ta.
Về tác động thì có lẽ nên tính tới cả những tác động ngắn hạn lẫn
trung hạn và dài hạn. Về những tác động ngắn hạn đã được nói tới nhiều,
thậm chí đang được xử lý, nên có lẽ không cần đề cập lại.
Ở tầm trung hạn, đã đến lúc nghĩ tới và chuẩn bị cho thời kỳ “hậu
khủng hoảng”. Hiện nay chưa thể dự báo được quá trình phục hồi của
kinh tế thế giới sẽ ra sao, nhanh hay chậm, mạnh hay yếu. Dù sao đi nữa
thì thị trường thế giới hàng hoá và cả dịch vụ, trong đó có các dịch vụ du
lịch, lao động..., sẽ sống động trở lại đi đôi với những biện pháp bảo hộ
và sự cạnh tranh gay gắt hơn; nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài sẽ quay lại;

18


giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới, kể cả giá nhiên liệu sẽ gia tăng,
có thể lạm phát sẽ diễn ra do vừa qua các nước tung ra lượng tiền cứu
trợ quá lớn, thâm hụt ngân sách nghiêm trọng, lãi suất không còn thấp
như hiện nay...
Trong hoàn cảnh đó sẽ nổi lên 4 yêu cầu lớn: khôi phục và mở rộng
thị trường bên ngoài đi đôi với việc đề phòng các biện pháp bảo hộ mậu
dịch, nhưng không lơi lỏng thị trường trong nước; tạo dựng môi trường
kinh doanh thật thông thoáng để thu hút các nguồn vốn đầu tư cả trong

lẫn ngoài nước; đề phòng lạm phát tái bùng nổ, trong đó có nhiệm vụ
quan trọng là giảm thiểu bội chi ngân sách, thu hẹp các biện pháp cứu
trợ kinh tế từ ngân sách; chú trọng xử lý các vấn đề xã hội do kinh tế
giảm sút gây ra, nhất là tình trạng tái nghèo.
Trong lúc bươn trải đối phó với những khó khăn trước mắt càng cần
quan tâm tới các vấn đề lâu dài của nền kinh tế nước ta, chỉnh sửa những
điểm yếu phát lộ rõ nét trong cơn khủng hoảng. Điều này càng trở nên
bức thiết trong bối cảnh chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010
sắp kết thúc và nước ta bước vào thời kỳ chiến lược 10 năm mới nhằm
một mục tiêu khác về chất; đó là biến nước ta về cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Đây là vấn đề lớn, cực kỳ quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với
con đường phát triển của nước ta trong thời gian dài, cần có sự nghiên
cứu thấu đáo, chưa thể lạm bàn. Tuy nhiên, đối chiếu với những gì đang

19


diễn ra dưới tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu, sơ bộ có mấy vấn
đề cần suy nghĩ.
Một là, sẽ diễn ra quá trình cơ cấu lại nền sản xuất thế giới theo
hướng tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu; chú trọng các nguồn năng
lượng tái sinh; sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy nước nào không bắt trúng mạch của xu
thế phát triển đều lún sâu vào cảnh tụt hậu ngày càng xa. Vậy nước ta sẽ
cơ cấu lại nền kinh tế ra sao? Chắc chắn rằng không thể tiếp tục con
đường phát triển dựa vào khai thác và tiêu hao tài nguyên, phá hoại môi
trường; cũng không thể tiếp tục chạy theo tốc độ, không chú trọng đúng
mức tới hiệu quả và tính bền vững.
Hai là, sẽ tính toán sao đây về mối quan hệ giữa thị trường trong nước

và thị trường thế giới, hay nói một cách khác, kim ngạch xuất - nhập
khẩu nên chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong GDP là hợp lý? Xưa kia nhiều
nước đi theo con đường thay thế nhập khẩu rồi có thời người ta đề cao
tác dụng của chiến lược hướng mạnh ra xuất khẩu (và trên thực tế nó đã
đem lại sự phát triển vượt bậc của hàng loạt quốc gia), vậy nay sẽ như
thế nào?
Ba là, cơ cấu lại và hoàn thiện thể chế giám sát hệ thống tài chính tiền
tệ, nhất là các ngân hàng này bao gồm rất nhiều ngân hàng tư nhân và cả
ngân hàng nước ngoài, thị trường chứng khoán, bất động sản trở thành

20


yêu cầu bức bách và cực kỳ quan trọng đối với sự ổn định kinh tế - xã
hội.
Bốn là, trước thất bại của chủ nghĩa tân tự do, nay người ta nói nhiều
tới vai trò điều tiết của nhà nước. Lâu nay, khi chuyển sang thể chế thị
trường chúng ta vẫn coi trọng vai trò điều tiết của nhà nước. Nhưng điều
đó không đồng nghĩa với việc quay trở lại thể chế tập trung, quan liêu
bao cấp, can thiệp vô lối vào hoạt động sản xuất kinh doanh; không đồng
nghĩa với việc từ bỏ con đường cổ phần hoá, làm sống lại các doanh
nghiệp quốc doanh theo kiểu cũ.
Năm là, với việc cơ cấu lại vị thế của các quốc gia trong nền kinh tế
(và cả chính trị) cũng như hệ thống tài chính - tiền tệ quốc tế, chúng ta
cần chủ động định vị vị thế của mình, trong một thế giới đã thay đổi ở
thời kỳ “hậu khủng hoảng”.

21



22



×