Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG NÔNG NGHIỆP-NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.86 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM
----------------------NGUYỄN VĂN QUYẾT

Nguyễn Văn Quyết

NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CỦA CÁC
CỘNG ĐỒNG NÔNG NGHIỆP-NÔNG THÔN TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
(Thông qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Nai)

Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62 31 70 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Hà Nội, 2013


1

Công trình được hoàn thành tại:
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Việt Bích
PGS.TS. Lương Hồng Quang: P
PgsPPGSp. ĐẶNG VIỆT BÍCPGS.TS. LƯƠNG HỒNG QUANG
Phản biện 1: PGS.TS. Trần Văn Ánh


Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Châm
Viện Nghiên cứu Văn hóa
Phản biện 3: PGS.TS. Bùi Quang Thanh
Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện
Họp tại: Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam
Số 32, phố Hào Nam, quận Đống Đa, Hà Nội.
Vào hồi:

giờ ngày

tháng năm 2013

Có thể tìm đọc luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình CNH, HĐH đất nước với sự đầu tư của các đối tác nước ngoài đã hình
thành ở nước ta các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao (gọi chung là
KCN), trong đó tập trung vào các tỉnh Đông Nam Bộ. Các KCN đã tạo nên sự phát
triển mới về sức sản xuất, góp phần đưa nước ta tham gia vào quá trình phân công lao
động quốc tế. Ở bình diện các tỉnh, việc phát triển các KCN đang được xem như một
phương thức nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện CNH, HĐH trên địa bàn.

Cùng với các chuyển đổi kinh tế xã hội là một phần của những biến đổi văn
hoá của các cộng đồng nông thôn khi bị lấy đất làm KCN. Đó là sự thay đổi trong
lối sống, từ nếp ăn, ở, mặc cho đến các sinh hoạt văn hoá như hưởng thụ văn hoá,
sáng tạo văn hoá, rồi đến tư duy, hệ giá trị, chuẩn mực, các phong tục tập quán như
tang ma, cưới xin, giỗ chạp, hệ thống niềm tin và tôn giáo… Một quá trình chuyển
đổi cơ cấu văn hóa tinh thần đang diễn ra do các biến đổi kinh tế xã hội, với sự
xuất hiện của các KCN.
Trong bối cảnh này, việc nghiên cứu thực trạng đời sống của các cộng đồng
nông nghiệp-nông thôn khi chuyển sang các cộng đồng có tính chất công nghiệp,
đô thị, sẽ có một ý nghĩa góp phần nhận diện thực trạng đời sống văn hoá nước ta
hiện nay trong bối cảnh đất nước có những chuyển đổi mạnh mẽ về chính trị, kinh
tế và xã hội, đồng thời góp phần vào việc đưa ra các luận cứ khoa học cho việc xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cho
việc đưa ra các căn cứ thực tiễn và phát triển chính sách cho ngành văn hoá ở trung
ương và các tỉnh.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận án lấy thực trạng biến đổi trong đời sống văn hóa của các cộng đồng dân cư
vốn là các cộng đồng nông nghiệp – nông thôn đang chuyển thành các cộng đồng
mang tính đô thị - công nghiệp do những tác động của quá trình xây dựng các KCN,
làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu của mình.


3

Phạm vi nghiên cứu của luận án là lấy tỉnh Đồng Nai như một trường hợp nghiên
cứu. Thời gian nghiên cứu là từ 1990 trở lại đây, sau khi Luật Đầu tư nước ngoài
được ban hành 12/1987 và đi vào thực hiện.
Luận án tập trung nghiên cứu các xã Hiệp Phước và Long Thọ (thành phố Nhơn
Trạch), Thạnh Phú (huyện Vĩnh Cửu), với các mức độ bị ảnh hưởng khác nhau.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Có 3 nhóm công trình có liên quan: các nghiên cứu lý thuyết về sự biến đổi văn
hóa chung và ở Việt Nam; các nghiên cứu về tỉnh Đồng Nai và cuối cùng là nhóm
các nghiên cứ có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án.
Với các công trình nghiên cứu về lý thuyết biến đổi, các động thái biến đổi văn
hóa của các cộng đồng nông thôn, là các bài viết đăng trong tuyển tập Hiện đại và
động thái của truyền thống ở Việt Nam: những cách tiếp cận nhân học, Đại học Quốc
gia Tp HCM ấn hành năm 2010, công trình Con người và văn hóa Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập năm 2011 của Nguyễn Văn Dân, Lương Văn Hy, Nguyễn
Thị Phương Châm, Nguyễn Văn Chính, Lương Hồng Quang, Phan Hồng Giang, Bùi
Quang Thắng… đã có các gợi ý về mặt mô hình nghiên cứu về sự biến đổi các cộng
đồng nông thôn, phù hợp với đặc điểm văn hóa và lịch sử phát triển của Việt Nam.
Trong đó biến đổi văn hoá được hiểu là quá trình vận động của tất cả các xã hội và
đây là đối tượng nghiên cứu trọng tâm của Nhân học. Các công trình này là một tham
khảo tốt cho đề tài luận án về định hướng nghiên cứu.
Về các nhóm tài liệu có liên quan trực tiếp đến đề tài, là nhóm các công trình
nghiên cứu về làng Hiệp Phước của nhóm tác giả do Lương Hồng Quang làm chủ
biên vào năm 1998. Từ 2001 - 2005, trong khuôn khổ chương trình khoa học công
nghệ cấp nhà nước KX 05 về phát triển văn hoá- con người và nguồn nhân lực, nhóm
tác giả do Đình Quang chủ biên đã xuất bản công trình Đời sống văn hóa của các đô
thị và KCN Việt Nam, đi chuyên sâu về đời sống văn hóa tinh thần của công nhân
KCN gắn với các cộng đồng nông thôn bị mất đất cho KCN, cung cấp một bức tranh
khá toàn diện về đời sống văn hóa tinh thần của công nhân các KCN, trong đó thiên
về sự tiêu dùng văn hóa của người dân. Vào các năm 2005 và 2006, Sở VHTT Đồng


4

Nai có kết hợp với Viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật đã xây dựng đề tài Khảo sát
về Đời sống Văn hóa Công nhân các KCN ở Đồng Nai, nghiên cứu trên nhiều địa bàn
của tỉnh, tập trung vào các KCN trên địa bàn tỉnh. Nghiên cứu này là một cơ sở tham

khảo hữu ích cho luận án trong thời điểm hiện nay khi muốn mở rộng diện khảo sát
và nghiên cứu. Năm 2010, công trình hợp tác giữa Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt
Nam và Viện Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc về Nghiên cứu các giải pháp nhằm giảm
thiểu xung đột giữa chủ Hàn Quốc và công nhân Việt Nam tại Việt Nam, cũng đã lấy
địa bàn Đồng Nai làm đối tượng khảo sát, đã cho thấy một phần đời sống văn hóa
tinh thần của công nhân KCN sinh sống trong các cộng đồng ven KCN. Đó chưa phải
là các nghiên cứu trực tiếp về các cộng đồng nông nghiệp – nông dân khi các KCN
hình thành trên mảnh đất của mình mà là nghiên cứu trực tiếp vào người công nhân
các KCN.
Các Hội thảo “Xây dựng đời sống văn hóa công nhân lao động ở các KCN đến
2015” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
Hội thảo: “Xây dựng môi trường sống cho công nhân xung quanh các KCN tại Việt
Nam” do Bộ Kế hoạch Đầu tư phối hợp cùng với Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam
tổ chức năm 2010; Hội thảo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư “Vấn đề lao động và điều
kiện sống của công nhân KCN, khu kỹ thuật” tổ chức năm 2011 trong khuôn khổ
chương trình tổng kết 20 năm phát triển KCN, cho thấy tầm quan trọng của công tác
xấy dựng đời sống văn hóa đối với việc phát triển các KCN cũng như gắn với các
cộng đồng dân cư xung quanh KCN
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án tập trung vào việc khảo sát những xu hướng biến đổi trong đời sống văn
hoá các cộng đồng dân cư nông nghiệp có liên quan tới quá trình phát triển các KCN
ở tỉnh Đồng Nai, từ đây, đề ra các căn cứ khoa học cho việc xây dựng và quản lý văn
hoá cộng đồng, góp phần vào sự phát triển chung của KCN cũng như các cộng đồng có
liên quan tới KCN.
Nhiệm vụ nghiên cứu:


5

-


Khảo sát các biến đổi đời sống văn hóa của 3 cộng đồng dân cư nông nghiệp-

nông thôn sau khi bị cắt một phần đất nông nghiệp, đất thổ cư để xây dựng các KCN
tập trung, đã bị biến đổi như thế nào trong một bối cảnh phát triển nhanh chóng, phát
triển “nóng”, mang tính “cưỡng bức” từ trên xuống.
-

Thông qua sự khảo sát khái quát lên một bức tranh phát triển đời sống văn

hóa của những cộng đồng dân cư có KCN tập trung, với tất cả những lợi thế, hạn chế,
thời cơ và thách thức đối với họ.
-

Xây dựng một số giải pháp mang tính lý luận và thực tiễn để góp phần vào

việc hình thành các quan điểm, cơ chế chính sách phát triển văn hóa của các cộng
đồng nông thôn Đồng Nai có KCN.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án được phát triển trên cơ sở các luận điểm của Đảng và
Nhà nước về CNH, HĐH đất nước.
Các lý thuyết về Biến đổi văn hoá được coi là những nền tảng lý thuyết của luận
án, với những nhân tố hợp lý của thuyết tiến hoá văn hoá như E. Taylor (1891) hay
L. Morgan (1877) với yếu tố coi biến đổi cần phải có quá trình; thuyết Truyền bá văn
hoá (đại diện là G.Elliot Smith 1911, W.Rivers 1914,…) cho rằng vấn đề mấu chốt
của biến đổi văn hoá là sự vay mượn hoặc sự truyền bá của các đặc trưng văn hoá từ
xã hội này sang xã hội khác; thuyết Vùng văn hoá (đại diện là C.L.Wissler 1923,
A.L.Kroeber 1925,…) nhấn mạnh đến sự tác động và ảnh hưởng của các nguồn gốc
văn hóa khác nhau khi dân cư cùng sinh sống trong một cộng đồng; thuyết thích nghi
văn hoá coi sự biến đổi có nền tảng là sự thích ứng của con người trong môi trường

sống mới.
Đặc biệt luận án đã tiếp thu quan điểm lý thuyết của Nguyễn Thị Phương Châm
trong công trình Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay, của Lương Hồng Quang
trong công trình nghiên cứu Câu chuyện làng Giang, gắn biến đổi văn hoá ở làng với
quá trình toàn cầu hoá và HĐH, trong đó biến đổi văn hoá được hiểu là quá trình vận
động của tất cả các xã hội, các khía cạnh của đời sống xã hội, với các va đập, mâu
thuẫn và tiến triển rất đa dạng và phức tạp, không đơn tuyến và một chiều.


6

Phương pháp nghiên cứu của luận án bao gồm: Thống kê, Điều tra xã hội học,
Nghiên cứu trường hợp, Phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, Quan sát thâm nhập,
Phương pháp chuyên gia.
6.

Bố cục luận án

Ngoài phần Mở đầu (16 trang), Kết luận (5 trang), Tài liệu tham khảo (14 trang)
và Phụ lục (40 trang), Luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Phát triển các KCN trong tiến trình CNH, HĐH ở tỉnh Đồng Nai (45 trang).
Chương 2: Các biến đổi trong đời sống văn hoá của các cộng đồng dân cư KCN
(47 trang).
Chương 3: Phương hướng, giải pháp về xây dựng đời sống văn hóa cho các cộng
đồng KCN (33 trang).


7

Chương 1

PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRONG
TIẾN TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HOÁ
Ở TỈNH ĐỒNG NAI
1.1. Vài nét về tỉnh Đồng Nai và sự phát triển của KCN
Đồng Nai có diện tích 5.903,4 km2, chiếm 1,76% diện tích tự nhiên cả nước và
chiếm 25,5% diện tích tự nhiên của vùng Đông Nam Bộ. Năm 2010, dân số toàn tỉnh
là 2.569.400 người, mật độ dân số: 435,000 người/km2 .
Đồng Nai là tỉnh đi đầu trong xây dựng KCN, với 30 KCN có tổng diện tích
9.573 ha, cụm công nghiệp, thu hút 1.130 dự án từ 35 quốc gia và vùng lãnh thổ,
có tổng số vốn đăng ký là 13 tỷ USD và hơn 31.600 tỷ đồng, thu hút 375 ngàn
lao động, trong đó có hơn 60% là người ngoại tỉnh.
Tỉnh Đồng Nai là một tỉnh có tốc độ CNH cao nhất nước, phấn đấu đến năm
2015 trở thành tỉnh CNH, HĐH. Các KCN tập trung đã tạo ra một lượng hàng hóa
lớn, đóng góp quan trọng vào cơ cấu GDP tỉnh.
1.2. Mô tả các cộng đồng được khảo sát
Các xã Hiệp Phước, Thạnh Phú và Long Thọ là các cộng đồng nông thôn điển
hình có vị trí địa lý nằm ở vùng trung tâm trồng lúa của hai huyện Nhơn Trạch và
Vĩnh Cửu, đất vườn xanh tươi, trù phú với các loại cây trồng như bưởi, mít, chuối,
xoài. Trước 2000, cả 3 xã đều là các xã nông nghiệp điển hình với lợi thế dựa vào
tiềm năng đất đai rộng, người dân cần cù sản xuất. Đây là 3 cộng đồng dân cư tiêu
biểu của đất Đồng Nai, có truyền thống lịch sử trên dưới 300 năm, gắn liền với lịch
sử phát triển, thể hiện trong hệ thống các di tích lịch sử văn hóa, các nghi lễ, phong
tục tập quán, lễ hội.
Mức độ CNH ở các xã trong mẫu nghiên cứu, chúng tôi thấy được các mức độ
phát triển kinh tế - xã hội chung của 3 xã như sau: (1) Do nằm trong các KCN và ven
các KCN nên diện tích đất bị thu hồi phục vụ các dự án mở rộng và xây mới các nhà
máy của cả 3 xã đều tăng. Chu kỳ 10 năm (2000-2010), diện tích đất của người dân


8


phục vụ các KCN tăng gấp đôi (xã Hiệp Phước và Long Thọ), thậm chí xã Thạnh Phú
tăng gấp 4 lần; (2) Sự thay đổi về kết cấu không gian công đồng, từ một không gian
của cộng đồng nông nghiệp thành một kiểu không gian mang tính chuyển đổi, với các
kiểu không gian phục vụ sản xuất công nghiệp và sinh sống kiểu đô thị, thay vì chỉ có
các không gian mang chức năng phục vụ nông nghiệp như xưa; (3) Là quá trình nhập
cư mạnh của người dân nông thôn các tỉnh khác vào sinh sống và làm ăn ở các xã này
với nhiều hình thức khác nhau, họ sinh sống xen cùng với dân cư tại chỗ; (4) Chuyển
dịch cơ cấu lao động – nghề nghiệp, trong đó xu hướng nổi bật nhất là dân tại chỗ đa
phần chuyển sang làm công nhân KCN, một bộ phận nhỏ buôn bán dịch vụ; (5) Mức
sống tăng chủ yếu từ các khoản thu ngoài nông nghiệp, kèm theo đó là sự cải thiện
điều kiện sống, từ nhà ở, tiện nghi sinh hoạt đến các tiêu dùng phục vụ nhu cầu vật
chất.
Tiểu kết
Phát triển các KCN tập trung là một phương thức CNH đất nước, bằng việc thu
hút các nguồn đầu tư nước ngoài và trong nước cho các dự án phát triển sản xuất.
Chính chủ trương này làm cho các khu vực nông thôn có những thời cơ lớn trong tiến
trình phát triển, CNH, HĐH ngay chính mảnh đất của mình trong bối cảnh tiến trình
HĐH không có những nguồn lực tại chỗ. Đó là một thực tiễn khá phức tạp, không
đơn giản xuất phát từ chính sách phát triển công nghiệp dựa vào nhân công giá rẻ.
Ba xã được khảo sát là 3 xã nằm trên hai huyện có tốc độ phát triển KCN nhanh
và mạnh nhất tỉnh. Trong đó Hiệp Phước là xã có tốc độ phát triển cao nhất, kế đến là
Thạnh Phú và Long Thọ. Hiệp Phước nẳm tiếp giáp thành phố Nhơn Trạch, nên cũng
được “hưởng lợi” từ quá trình đô thị hóa này, bên cạnh quá trình đô thị hóa tại chỗ
đang diễn ra mạnh mẽ. Thạnh Phú phát triển được là nhờ ngay các công ty của KCN
Thạnh Phú thuộc xã, với lượng công nhân đông, trong khi đó Long Thọ phát triển
chậm hơn, mặc dù lượng đất đai lấy cho KCN nhiều nhưng một số chưa xây dựng.


9


Chương 2
CÁC BIẾN ĐỔI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CÁC
CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ KHU CÔNG NGHIỆP
2.1. Từ bình diện cộng đồng - sự tham gia của người dân vào các nghi lễ
cộng đồng
Cư dân trong vùng có một số lượng lớn tham gia vào thiết chế văn hóa truyền
thống là chùa Phật, với 67% người được hỏi tham gia. Tiếp đến là sự hiện diện của
thiết chế miếu 46.2%, đình với 41.4%, và nhà thờ đạo Thiên Chúa là 31.4%. Thiết
chế nhà thờ đạo Tin Lành chỉ chiếm 0.8%.
Đối tượng tham gia vào các sinh hoạt này chiếm tỉ lệ cao nhất là cư dân địa
phương 87%, tiếp đến là người dân nhập cư 74.6% và sau cùng là khách vãng lai
48.6%. Dân nhập cư, trong quá trình sinh sống tại cộng đồng, dù có hộ khẩu, dù có
được tham gia vào các hoạt động chính thức của xã, ấp thông qua các đoàn thể,
nhưng vẫn chưa được chấp nhận là thành viên chấp sự, tế tự việc làng. Họ có thể
cung tiến, cúng lễ, hỗ trợ cộng đồng địa phương tại chỗ nhưng không được tham gia
vào các hoạt động tế tự, bởi những nguyên tắc và chuẩn mực truyền thống về dân ngụ
cư. Được xác nhận là thành viên của cộng đồng làng, phải qua nhiều thế hệ.
2.1.1. Cúng đình
Hằng năm, mỗi đình ở 3 xã đều có nhiều ngày lễ. Các lễ nhỏ chỉ cúng chứ không
tế, lễ vật đơn giản và cúng ngắn gọn, như lễ rước ông bà, lễ Khai sơn, tết Đoan ngọ,
vía Thổ thần, các ngày lễ mang tính chất tôn giáo như cúng rằm Thượng nguyên
(tháng 3), Trung nguyên (tháng 7), Hạ nguyên (tháng 10). Các cư dân là công nhân
KCN tham dự vào những dịp lễ này với các mức độ tham dự và lòng thành kính khác
nhau.
2.1.2. Cúng chùa
Các ngôi chùa ở ba xã đều là các chùa mới xây dựng vài chục năm gần đây. Khác
với đình, chùa mang một ý nghĩa tôn giáo và tâm linh cho đời sống hàng ngày, cư
dân trong cộng đồng cầu cúng ngày sóc vọng, ngày thường, ở đây không có lễ hội



10

chùa như ở phía Bắc. Dân nhập cư mang vào đây một số vấn hầu đồng, được cư dân
tại chỗ chấp nhận.
2.1.3. Sinh hoạt tôn giáo của nhóm cư dân đạo Cao Đài
Tại Thánh thất Ngọc Linh ở xã Hiệp Phước, các hoạt động của người dân theo
đạo Cao Đài được tổ chức một cách quy củ, có tổ chức, nghiêm cẩn theo đúng quy
định về mặt lễ tiết.
Tín đồ theo đạo Cao Đài ở Hiệp Phước sống hiền hòa, ít có những tệ nạn xã hội,
ứng xử và giao tiếp theo khuôn mẫu truyền thống, hiếu lễ với ông bà cha mẹ, ít tranh
cãi, tôn trọng thứ bậc trong gia đình và dòng họ. Dân nhập cư không theo đạo Cao
Đài.
2.1.4. Sinh hoạt tôn giáo của nhóm cư dân đạo Thiên Chúa
Các cư dân theo đạo Thiên chúa ở 3 xã thuộc giáo phận Xuân Lộc với hơn
700.000 người của 12 giáo hạt. Thành phố Biên Hòa có Giáo hạt Biên Hòa, với 13
giáo xứ, 49.429 giáo dân. Cộng đồng Thiên chúa giáo được tổ chức tốt về sinh hoạt
nên ở đây ta thấy các dáng dấp của một xã hội văn minh đô thị.
Sinh hoạt tôn giáo của giáo dân là công nhân, họ có thể đề nghị công ty
cho về sớm hơn, vào bất cứ Giáo xứ nào để tham dự lễ cho kịp. Về phía Giáo xứ, họ
cũng chấp nhận con chiên nơi khác đến được dự lễ ở các nhà thờ khác miễn là họ có
giấy giới thiệu của giáo xứ nơi họ sinh ra, được cha nơi giáo xứ mới tiếp nhận. Khi
có việc hôn nhân, tang ma, họ phải học các quy định của đạo về hôn nhân gia đình,
về trách nhiệm của vợ, chồng, với gia đình, được làm lễ tại nhà thờ bởi cha xứ nơi họ
định cư.
2.2. Các nghi lễ tại gia đình
2.2.1. Tang ma
Ngày nay, nhiều nghi lễ đã được giản tiện và có thay đổi, thêm, bớt cho phù hợp
với từng hoàn cảnh, điều kiện của từng gia đình, từng vùng, nhất là ở vùng thành thị.
Các nghi thức từ nhập quan, lễ thành phục, cúng cơm, động quan, cung thổ thần, hạ

huyệt vẫn được duy trì. Các tục lệ sau khi đưa đám, bao gồm Cúng ba ngày, Lễ Mở
cửa mả, Cúng cơm hàng ngày, Cúng Thất thất lai tuần, Giỗ đầu, Giỗ hết vẫn được


11

lưu giữ, được các gia đình tại chỗ cúng đầy đủ và nghiêm cẩn. Riêng đối với nhóm
dân nhập cư, các lễ cúng cơm hàng ngày và sau đó thường ít được tuân thủ nghiêm
cẩn bởi một số là do gia đình gốc đảm nhiệm, hoặc điều kiện làm việc không cho
phép, họ giản tiện phần nghi lễ, có làm thì cúng sơ rồi mời một nhóm bạn, hàng xóm
đến nhậu, không có nhiều ý nghĩa nghi lễ như xưa.
Trong các gia đình cư dân tại chỗ, do có người dân nhập cư sinh sống trong
khuôn viên nhà mình, do ở lâu, nên khi gia đình có việc tang, họ cũng tham gia vào
việc tổ chức cỗ bàn, tiếp khách song họ tuyệt nhiên không được tham gia vào việc
nghi lễ. Khi các hộ gia đình người nhập cư là công nhân có người mất, nếu gia đình ở
xa, họ cũng hỏi thăm, gửi đồ phúng viếng; nếu chết tại chỗ, họ cử người giúp đỡ, có
nêu các nghi thức phải làm song đó chỉ là tham khảo, gia chủ, tùy vào gốc quê hương
mà thực hành nghi lễ song giản tiện, thiêu, mang tro cốt về quê nhà.
2.2.2. Cưới
Theo tục lệ xứ Đồng Nai, cưới hỏi tiến hành theo: 1/Lễ coi mặt (dạm ngõ); 2/Lễ
giáp lời (kết sui); 3/Lễ sơ vấn (đám hỏi); 4/Lễ nạp sinh (nạp tài); 5/Lễ cưới; 6/Lễ phản
bái (lại mặt). Khoảng ba bốn năm nay, cưới hỏi chỉ còn hai lễ chính: Lễ hỏi và Lễ
cưới.
Đối với đám cưới của dân nhập cư, ở các địa bàn thuộc phạm vi khảo sát của luận
án đang trong quá trình công nghiệp hóa – đô thị hóa với sự xuất hiện của nhiều công
ty, xí nghiệp; kéo theo đó là một đội ngũ dân nhập cư ồ ạt đổ xô lập nghiệp ở địa
phương này, phần lớn là thanh niên. Do đó, sự xuất hiện của những người nhập cư,
cũng đã phần nào tác động đến cuộc sống của người dân tại cộng đồng khi họ mang
theo những nếp sống, chuẩn mực, văn hóa từ các vùng quê đến nơi ở mới.
2.3. Từ bình diện cá nhân - các hưởng thụ văn hóa trong đời sống hàng ngày

Luận án đã nghiên cứu riêng nhu cầu hưởng thụ văn hóa trong đời sống hàng
ngày của nhóm công nhân và nhóm cư dân tại chỗ.
Do trong các khu nhà trọ không có các khoảng không gian công cộng để tổ chức
các hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí, cộng với thời gian hạn hẹp nên họ
thường ít tổ chức được các hoạt động vui chơi giải trí có ý nghĩa tích cực. Hoạt động


12

văn hoá thường xuyên nhất là nghe đài, xem vô tuyến, chơi bài, nhậu, nghĩa là các
hoạt động có tính thụ động và ít tính sáng tạo. Tổ chức sinh nhật cũng đôi nhưng
nặng về ý nghĩa ăn nhậu hơn là ý nghĩa văn hoá. Việc đến các thiết chế văn hoá là
hầu như không có.
Các dịp cưới hỏi, giỗ chạp là những dịp để nhóm công nhân có một sự liên hệ với
truyền thống, nghĩa là có cơ hội nghĩ tới gia đình gốc và các mối liên hệ với cội
nguồn nhưng họ hầu như không có thời gian, điều kiện tài chính để về quê hay tổ
chức các lễ trọng này tại các nhà trọ.
Tiểu kết
Các biến đổi trong đời sống văn hóa của các cộng đồng dân cư KCN ở nói chung,
3 xã được khảo sát sâu nói riêng đã phản ánh những động thái phát triển của tỉnh và
vùng Đông Nam Bộ từ thập niên 90 cho đến nay, đó là sự phát triển các KCN như
một yếu tố động lực phát triển vùng và mỗi cộng đồng dân cư. Đi kèm với tiến trình
này là làn sóng di dân và sự biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội của chính mỗi cộng đồng
theo hướng ĐTH, HĐH, với các chỉ báo thay đổi về cơ cấu kinh tế; cơ cấu dân số; kết
cấu cơ sở hạ tầng làm thay đổi kết cấu không gian làng quê cổ truyền; gia tăng mức
thu nhập từ công nghiệp - dịch vụ, thay vì chủ yếu từ nông nghiệp như trước những
năm 2000; hiện đại hóa nhà ở và trang thiết bị, tiện nghi sinh hoạt; di động xã hội lớn
hơn bởi quá trình chuyển dịch nghề nghiệp diễn ra nhanh và mạnh hơn trước. Các
quá trình này đặt một nền tảng mới của những biến đổi văn hóa tinh thần của cư dân
các xã bị lấy đất xây dựng KCN.

Sự biến đổi văn hóa, ở các cộng đồng có KCN, trong hơn 20 năm qua, với 3 bình
diện: cộng đồng, gia đình và cá nhân, chúng ta có thể thấy: Các loại hình sinh hoạt
văn hóa truyền thống/dân gian đã và đang được bảo lưu trong đời sống cộng đồng, từ
lễ cúng đình, cúng miếu, cúng chùa, cho đến các nghi lễ trong tang, cưới, giỗ chạp.
Đó là một tiến trình bảo lưu mang tính tự nhiên, được các tổ chức trong cộng đồng và
nhóm người cao tuổi bảo lưu và gìn giữ. Khi xuất hiện những thành phần cư dân mới,
sự biến đổi của các hoạt động văn hóa là có, thể hiện một sự cộng cư bởi các các
quan hệ kinh tế - xã hội và nhờ đó, các hoạt động văn hóa tinh thần được ảnh hưởng


13

qua lại, song đó mới chỉ là tác động vào vỏ bề ngoài (giản tiện, gộp các hoạt động),
hạt nhân là các nghi lễ, về cơ bản, là vẫn được lưu giữ, với ý nghĩa tinh thần là cố kết
cộng đồng, thể hiện sức mạnh và bản sắc (trong các sinh hoạt văn hóa cộng đồng);
bảo lưu giá trị gia đình và dòng họ, biết ơn tổ tiên, sự kính trọng người cao tuổi
(trong các sinh hoạt văn hóa ở gia đình); xuất hiện các động thái tiêu dùng văn hóa
mới (ở bình diện cá nhân),


14

Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA CHO CÁC CỘNG ĐỒNG NÔNG THÔN TRONG
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
3.1. Các cơ sở lý luận
Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển các KCN ở
Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, trong đó xác định: Mục tiêu
phát triển các KCN tại Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 là hình

thành hệ thống các KCN chủ đạo có vai trò dẫn dắt sự phát triển công nghiệp quốc
gia, đồng thời hình thành các KCN có quy mô hợp lý để tạo điều kiện phát triển công
nghiệp, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại những địa phương có tỷ trọng công
nghiệp trong GDP thấp.
Ở bình diện tỉnh, Nghị quyết Đại hội đảng bộ lần thứ IX tỉnh Đồng Nai năm 2010
đã xác định các nhiệm vụ và giải pháp lớn: Phát triển văn hóa nông thôn theo phương
châm phát huy vai trò chủ động của cộng đồng dân cư địa phương là chính. Đề án:
Phát triển văn hóa nông thôn tỉnh Đồng Nai đến năm 2015, định hướng đến năm
2020, nhấn mạnh: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị,
đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ
môi trường sinh thái của đất nước.
Thục tiễn cho thấy cần phải xây dựng các quan điểm chỉ đạo cơ bản sau, gắn các
quá trình định hướng sự biến đổi của các cộng đồng nông nghiệp, nông dân và nông thôn
khi bị các KCN tác động, đó là:
- Gắn phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, coi đây vừa là nền tảng,
vừa là một bộ phận không thể tách rời của tiến trình phát triển văn hóa mỗi cộng
đồng. Không có phát triển kinh tế xã hội, không có quá trình gia tăng mức sống,


15

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động – việc làm, không thể có cơ sở và nền tảng để
phát triển văn hóa trong giai đoạn hiện nay.
- Các KCN là động lực, là “đầu tàu” để cho các tiến trình ở trên phát triển. Như
một thực thể “lai ghép”, “cấy” vào trong các cộng đồng nông thôn, nó cần phải có
thời gian và những định hướng chính sách để cùng với cộng đồng nông thôn phát
triển một cách hài hòa, bảo đảm các lợi ích của doanh nghiệp cũng như lợi ích của
cộng đồng địa phương. Cần phải coi các doanh nghiệp và văn hóa doanh nghiệp của

các doanh nghiệp đóng trên địa bàn là một bộ phận không thể tách rời của cơ cấu
văn hóa nông thôn mới.
- Vai trò của chủ thể văn hóa, của các tổ chức văn hóa và thiết chế văn hóa
truyền thống, của cá nhân mỗi người dân là rất quan trọng trong tiến trình xây dựng
cơ cấu văn hóa mới cũng như tổ chức xây dựng đời sống văn hóa nông thôn. Phát
huy vai trò của cộng đồng cùng với sự định hướng và hỗ trợ của Nhà nước là hai mặt
của một tiến trình định hướng chính sách nhất quán cho các cộng đồng nông thôn
trong bối cảnh CHN, HĐH.
- Văn hóa doanh nghiệp và văn hóa cộng đồng nông thôn sẽ “hợp tác” như thế
nào, đó là một câu hỏi cần có sự nghiên cứu và xây dựng các mô hình hợp tác.
3.2.Xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách ở tầm vĩ mô
Một hệ thống cơ chế chính sách ở tầm vĩ mô, vượt ra khỏi khuôn khổ của một
tỉnh, sẽ là một khung chính sách chung cho việc phát triển văn hóa cho các cộng đồng
dân cư có KCN. Đây là một hệ thống chính sách phản ánh các nỗ lực gắn KCN với
cộng đồng dân cư tại chỗ, gắn hoạt động nhà nước với hoạt động của người dân, gắn phát
triển kinh tế - xã hội với phát triển đời sống tinh thần.
* Nhóm các chính sách điều kiện:
Quy hoạch KCN và doanh nghiệp:
Quy hoạch về hệ thống cơ sở hạ tầng dành cho văn hoá - nghệ thuật, trong đó
trước hết là quy hoạch về các quảng trường nhỏ, công viên nhỏ, các giao lộ phục vụ
các sinh hoạt động văn hoá công cộng, các lễ hội, …


16

Quy hoạch về hệ thống các thiết chế văn hoá công cộng như nhà văn hoá (câu lạc
bộ), các khu vui chơi giải trí tổng hợp hay chuyên dụng;
Quy hoạch về các không gian công cộng trong các khu vực ở, trong mỗi công sở
nhằm phát triển các không gian xanh, các không gian chuyển tiếp giữa nơi ở với các
hệ thống giao thông, bảo đảm mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên nơi sinh

sống, các khu vực nghỉ ngơi, giải trí nhỏ cho mỗi khu nhà, tạo ra một môi trường làm
việc “thân thiện” với môi trường tự nhiên.
Luật pháp:
Bổ sung và phát triển các điều luật và quy định trong thiết kế, xây dựng các thiết
chế cơ sở văn hoá trong KCN, các khu vực vui chơi giải trí, có tính đến các nhu cầu
sinh hoạt của người tàn tật là công nhân KCN (chỗ ngồi, đường di chuyển, hệ thống
vệ sinh…)
Xây dựng chính sách về đất đai cho các tụ điểm văn hoá công cộng như dành
quỹ đất cho các khu vực công cộng tại KCN và mỗi doanh nghiệp; quỹ đất xây dựng
các thiết chế văn hoá công cộng tại khu dân cư như nhà văn hoá (câu lạc bộ), các khu
vui chơi giải trí tổng hợp hay chuyên dụng; quỹ đất cho việc xây dựng các không
gian công cộng trong các khu vực ở, trong mỗi công sở, nhà xưởng, ấp;
Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách kinh tế - tài chính:
Chính sách về giảm thuế cho các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội
đối với công nhân, bao gồm các phúc lợi xã hội và chăm lo đời sống văn hoá tinh
thần cho công nhân, xây dựng các thiết chế văn hoá, có các hoạt động cộng đồng;
Chính sách về thuế đất cho các cơ sở văn hoá trên cơ sở phân loại các loại hình
văn hoá để có chính sách ưu tiên cho các cơ sở văn hoá công ích, thuế kinh doanh cho các
doanh nghiệp văn hoá có chương trình phục vụ công nhân KCN.
Các chính sách thu hút đầu tư của khu vực tư nhân vào hạ tầng xã hội phục vụ
các KCN, bên cạnh các chính sách về đầu tư xây dựng nhà ở đã ban hành, đó là các
chính sách về xây dựng các khu vui chơi giải trí đa chức năng, các công viên xanh,
hồ bơi, sân thể thao…, thực hiện chính sách “xã hội hoá” VHTT của Đảng và Nhà
nước.


17

Sử dụng có hiệu quả và phát triển thiết chế văn hoá:
Xây dựng các kế hoạch hàng năm và dài hơi hơn cho hệ thống các thiết chế

VHTT trên địa bàn tỉnh phục vụ công nhân KCN nhằm sử dụng sức mạnh tổng hợp
của cả ngành, gắn kết các hoạt động VHTT phục vụ công nhân, tăng mức hưởng thụ
văn hoá của công nhân.
Nâng cao năng lực của các trung tâm VHTT xã/phường có nhiều công nhân KCN
sinh sống bằng việc đầu tư trang thiết bị, chương trình, hướng dẫn nghiệp vụ, đào tạo
để họ có thể tự tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ phục vụ công nhân, huy
động dân cư tại chỗ và cư dân là công nhân tham gia các hoạt động này.
Phát triển các tổ hợp văn hoá đa năng phục vụ nhiều loại hình văn hoá, các dịch
vụ thương mại, hội nghị, vui chơi giải trí hiện đại…; Phát triển các trung tâm vui chơi
giải trí công nghệ cao, các khu văn hoá thể thao phục vụ tầng lớp thanh niên, đáp ứng
nhu cầu tìm tòi, giải trí, tính năng động của tuổi trẻ.
Tăng cường sự tham gia:
Phát huy vai trò của các tổ chức cấp cơ sở, các tổ chức tự quản tại khu dân cư
như đoàn thanh niên, các hội phụ nữ, mặt trận, cựu chiến binh, các tổ dân phố trong
các việc tổ chức các hoạt động văn hoá hàng ngày, các phong trào, đợt sinh hoạt văn
hoá do trên đưa xuống;
Duy trì an ninh trật tự, vệ sinh nơi ở, nếp sống văn minh bởi các tổ chức tự quản,
các tổ, đội của các đoàn thể cấp cơ sở tại các khu dân cư là công nhân.
Huy động sự tham gia tài trợ của các nhà hảo tâm, các nhân vật xã hội nổi tiếng
vào các hoạt động văn hoá nghệ thuật ở đô thị thông qua các hình thức hội chợ, hội
diễn, các phiên bán đấu giá các tác phẩm văn học nghệ thuật, trên các “shows” diễn
nhằm huy động các nhà hảo tâm, những người yêu thích văn hoá nghệ thuật;
Huy động sự tham gia của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ
chức văn hoá quốc tế và các quỹ, tổ chức văn hoá ở nước ngoài tham gia vào việc tổ
chức các hoạt động văn hoá ở KCN;
Xây dựng một mạng liên kết các nhà tài trợ, các Mạnh thường quân cho văn hoá
nghệ thuật nhằm liên kết các nhu cầu, các lợi ích, các phương pháp làm việc, các kế


18


hoạch tổ chức các hoạt động văn hoá nghệ thuật vốn vừa thừa, vừa thiếu các hoạt
động văn hoá nghệ thuật.
3.2.

Xây dựng các mô hình phát triển văn hóa

Mục tiêu của các mô hình tổ chức đời sống văn hóa cho các cộng đồng dân cư có
KCN là: Cung cấp một phương thức tổ chức đời sống văn hoá cho các cộng đồng dân
cư có KCN theo nguyên tắc phát triển bền vững, tăng cường sự tham gia từ dưới lên,
đáp ứng nhu cầu của công nhân KCN và người dân tại chỗ, đa dạng các hoạt động
văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, du lịch, từ đây xây dựng năng lực quản lý cho
các doanh nghiệp và các thiết chế, điểm văn hoá trên địa bàn dân cư để họ có thể tự
tổ chức đời sống văn hoá.
Các mô hình này được vận hành trên nguyên tắc: (1) Phát triển bền vững: Các
hoạt động trong giai đoạn triển khai thí điểm phải được duy trì bằng những can thiệp
nhằm duy trì khả năng tự quản lý của các điểm được can thiệp; (2) Tăng cường sự tham
gia từ dưới lên: sự tham gia của cộng đồng và doanh nghiệp sẽ là yếu tố quyết định cho
sự duy trì và phát triển của các mô hình, trên tinh thần tự nguyện, tự tổ chức, tự quản lý;
(3) Đáp ứng đúng nhu cầu: các hoạt động được xây dựng trên cơ sở nhu cầu của công
nhân, trên phương châm là chọn lựa các ưu tiên và khả năng nguồn lực mà tổ chức các
hoạt động vào những thời điểm thích hợp; (4) Đa dạng hóa các loại hình hoạt động:
nhằm bảo đảm khả năng giao lưu giữa các điểm văn hoá, các doanh nghiệp trong và
ngoài KCN, giữa chúng với các hoạt động của các đơn vị thuộc ngành VHTT, các ngành
khác trong tỉnh đưa văn hoá đến cơ sở; (5) Xã hội hoá: Huy động các nguồn lực tại chỗ,
của các lực lượng xã hội, các cá nhân vào việc tổ chức các hoạt động văn hoá phục vụ
công nhân KCN, bao gồm tiền, công sức, các ý tưởng, các sáng kiến, các hình thức đóng
góp bằng vật chất và tinh thần khác; (5) Có sự giám sát: nhằm bảo đảm các hoạt động
được triển khai trên tinh thần minh bạch, hiệu quả, thiết thực. Hình thức giám sát có thể
là do cộng đồng tự tổ chức hay do trên tiến hành. Các hoạt động giám sát là nhằm thúc

đẩy các hoạt động tại các điểm triển khai mô hình, chứ không phải là hoạt động kiểm tra,
kiểm soát.


19

Để thực hiện tốt mục tiêu, một loạt các hoạt động, bao gồm các hoạt động tại chỗ
và từ trên đưa xuống, các hoạt động thường xuyên và các hoạt động theo dịp lễ tết,
cần được tổ chức, cụ thể là:
- Các hoạt động giao lưu;
- Các hoạt động văn hoá văn nghệ;
- Các hoạt động học tập, phổ biến kiến thức;
- Các hoạt động thể thao, trò chơi;
- Các hoạt động an sinh xã hội, hoạt động cộng đồng:
3.3. Các biện pháp tăng cường phát triển văn hóa tại các cộng đồng dân cư
có KCN ở tỉnh Đồng Nai
3.3.1. Tham mưu xây dựng cơ chế chính sách, kết hợp nguồn lực nhà nước
với nguồn lực xã hội hoá, xây dựng các thiết chế văn hóa
Trong quy hoạch KCN và quy hoạch văn hóa nông thôn, cần gắn với quy hoạch
phát triển các thiết chế văn hoá để đảm bảo phát triển hài hoà kinh tế và văn hoá; sản
xuất và an sinh dân cư. Đầu tư xây dựng Trung tâm văn hoá thể thao liên phường,
liên xã. Đặc biệt cần đầu tư xây dựng một số nhà sinh hoạt cộng đồng để tổ chức các
cuộc họp, các đám cưới, các sinh hoạt văn nghệ tại nơi cư dân tập trung.
Hình thành “Quỹ phát triển đời sống văn hoá công nhân” bằng hình thức xã
hội hoá thì có nhiều điều kiện hơn để duy trì, phát triển hình thức hoạt động văn
hóa thể thao cho công nhân, người lao động các khu vực tập trung (bởi ngân
sách nhà nước còn hạn chế, đồng thời cũng là nâng cao trách nhiệm của các nhà
đầu tư, chủ doanh nghiệp sử dụng lao động với đời sống văn hoá công nhân.
Kết nối hoạt động nhịp nhàng cùng với Trung tâm văn hoá 11 huyện, thị xã,
thành phố, Trung tâm Văn hóa tỉnh, Nhà Thiếu nhi tỉnh thành một hệ thống chặt chẽ.

Bằng các phương tiện cổ động trực quan, bằng các chương trình hội, hội diễn (thông
tin lưu động, với chủ đề bám sát chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước, phòng
chống tệ nạn xã hội, an toàn giao thông…). Các trung tâm văn hoá, nhà văn hoá xã,
vừa là nơi sinh hoạt văn hoá, thể thao của nhân dân khu vực, nơi giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc, truyền nghề và đào tạo năng khiếu cho lớp trẻ.


20

Nâng mức đầu tư cho hoạt động của các thiết chế hiện nay được Nhà nước đầu tư
xây dựng.
Đảm bảo diện tích đất sử dụng theo đúng quy hoạch phát triển hệ thống thiết chế
văn hóa cơ sở; từng bước xây dựng các thiết chế.
Xây dựng nhà văn hóa, khu thể thao cấp ấp: Phát triển nhà văn hóa, khu thể thao
ở cấp ấp gắn với phong trào xây dựng ấp văn hóa; Xây dựng hạt nhân văn hóa, thể
thao làm nòng cốt để duy trì thường xuyên các hoạt động của nhà văn hóa, khu thể
thao cấp ấp.
3.3.2. Đẩy mạnh phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá và
xây dựng gia đình hạnh phúc, phòng chống bạo lực gia đình
Tiến hành đánh giá thường xuyên trên cơ sở xây dựng các tiêu chí đánh giá cho
phong trào này, trong đó chú trọng vào các cộng đồng dân cư có KCN ở các khía
cạnh: (1) Gắn hoạt động văn hóa nghệ thuật với các hoạt động phát triển kinh tế - xã
hội khác; (2) Phát huy vai trò của chủ thể văn hóa, với các nhóm xã hội trong cộng
đồng, trong đó vai trò chủ chốt là người cao tuổi, các trí thức trong cộng đồng; (3)
Tạo lập các hoạt động văn hóa giữa các nhà máy thuộc KCN với cộng đồng bản địa; (4)
Gắn bó chặt chẽ giữa hai khối dân cư, bảo đảm cho dân nhập cư hòa nhập được vào đời
sống văn hóa cộng đồng tại chỗ.
3.3.3. Phát triển mạnh phong trào văn hoá văn nghệ quần chúng, thể dục thể
thao quần chúng trong các cộng đồng dân cư KCN
Tuỳ theo từng đối tượng, đặc điểm lao động, tâm sinh lý, ngành tổ chức các hội

thi, hội diễn quần chúng phù hợp, vừa góp phần nâng cao đời sống văn hoá tinh, vừa
tạo điều kiện cho quần chúng sáng tạo trong văn học nghệ thuật.
Phát động và duy trì phong trào toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ
vĩ đại tiếp tục phát triển, số người tập thể dục đạt 29%. Tổ chức thành công đại hội
thể dục thể thao cấp cơ sở và cấp tỉnh; nhiều lần đạt huy chương vàng bóng đá U17,
U19, U21 toàn quốc; đạt nhiều huy chương vàng các môn thể thao cấp quốc tế, quốc
gia, khu vực.


21

Tăng cường các hoạt động sáng tác và phổ biến các tác phẩm văn hóa - nghệ
thuật, các chương trình tuyên truyền về đề tài nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tăng
cường hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa Nhà nước, đưa các chương trình
hoạt động văn hóa, nghệ thuật phục vụ đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số; đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ cho cán bộ văn hóa - xã hội cấp xã và
hạt nhân văn hóa cơ sở cấp ấp; tạo điều kiện để người dân ở nông thôn tham gia sáng
tạo, bảo tồn và truyền dạy các loại hình văn nghệ dân gian truyền thống.
3.3.4. Phối hợp với Hội VHNT tỉnh tổ chức các cuộc liên hoan văn nghệ, triển
lãm, thi sáng tác văn học, mỹ thuật
Các cuộc thi nhiếp ảnh Nhịp sống Đồng Nai, cảnh đẹp Đồng Nai, mỹ thuật
Đồng Nai, sáng tác văn học (giải Trịnh Hoài Đức), nhiếp ảnh khu vực, triển lãm mỹ
thuật (hội hoạ, điêu khắc mỹ thuật…) miền Đông, tạo điều kiện cho các tác giả trong
tỉnh và trong khu vực miền Đông Nam Bộ có điều kiện giao lưu học hỏi, đưa các tác
phẩm nghệ thuật đến với công chúng trong và ngoài tỉnh.
Xây dựng những chương trình nghệ thuật có chất lượng đáp ứng yêu cầu thưởng
thức nghệ thuật của công chúng, phục vụ nhiệm vụ chính trị.
Tiểu kết
Các định hướng và giải pháp phát triển văn hóa cho các cộng đồng dân cư KCN
được phát triển trên các nền tảng lý luận và thực tiễn của gần 20 năm phát triển các

KCN, đó là đường lối CNH, HĐH đất nước, của các định hướng phát triển nông
nghiệp - nông dân - nông thôn, của đường lối phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc chung trong cả nước và tỉnh Đồng Nai. Các cơ sở thực tiễn
của các định hướng này là thành tựu và những hạn chế của quá trình phát triển KCN
trong cả nước, các tỉnh Đông Nam Bộ và riêng tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua.
Các hệ thống chính sách ở tầm vĩ mô, vượt ra khỏi khuôn khổ của một tỉnh sẽ là
cơ sở và nền tảng cho sự phát triển văn hóa của các cộng đồng nông thôn bị lấy đất
xây dựng KCN. Ở bình diện một tỉnh, cũng cần xây dựng một hệ thống các giải pháp
mang tính hành động và kế hoạch hóa. Hai hệ thống chính sách này bảo đảm tính hệ
thống và hỗ trợ cho nhau


22

Các giải pháp phát triển đời sống văn hóa các cộng đồng nông thôn KCN bao
gồm các giải pháp về cơ chế chính sách, nâng cao năng lực quản lý và tự quản của
người dân, xây dựng thiết chế văn hóa, tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ tại
chỗ, đưa văn hóa về KCN và cộng đồng địa phương tại chỗ.
Các mô hình tổ chức hoạt động trong chương này là một cách hiện thực hóa các
mục tiêu, nguyên tắc và phương châm tổ chức đời sống văn hóa cho các cộng đồng dân
cư có KCN, bao gồm hai mô hình tổ chức hoạt động tại doanh nghiệp và tại cộng đồng
dân cư. Hai mô hình này được thiết kế trên tư tưởng là các hoạt động được tổ chức trên
tinh thần doanh nghiệp và cộng đồng dân cư là một thể thống nhất, văn hóa doanh
nghiệp và văn hóa nông nghiệp - nông thôn là hai thực thể của một chỉnh thể thống
nhất hữu cơ, trong văn hóa các cộng đồng nông thôn có KCN là có văn hóa của các
doanh nghiệp.


23


KẾT LUẬN
Quá trình CNH, HĐH đất nước đã hình thành ở nước ta những KCN, trong đó tập
trung vào trọng điểm kinh tế phía Nam với các tỉnh Đông Nam Bộ vốn đã có những
tiềm lực công nghiệp như Bình Dương, Tp. HCM, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu,.. từ
các mô hình này, các KCN đã được mở rộng ra các khu vực Trung và Bắc Bộ.
Về mặt xã hội và văn hoá, việc hình thành các KCN đã tạo nên những luồng di cư
mới từ nông thôn ra đô thị, từ các tỉnh có nền kinh tế chậm phát triển đến các vùng
nông thôn của các tỉnh có nền kinh tế phát triển hơn, hình thành ở các địa phương có
KCN những vấn đề văn hóa xã hội mới: tốc độ đô thị hoá tăng vọt, cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và xã hội được tăng cường hơn nhiều so với trước, mức sống dân cư được cải
thiện đáng. Bên cạnh đó, quá trình này cũng tạo ra những phức tạp trong quản lý xã
hội, một số tệ nạn xã hội phát triển, đời sống văn hoá tinh thần của các cư dân vốn cư
trú trong các cộng đồng làng xã nay bị các luồng di cư làm xáo trộn... Đó là một thực
tiễn phát triển đa diện và phức tạp hơn nhiều so với những làng quê nông nghiệp.
Cùng với các chuyển đổi kinh tế xã hội là một phần của những biến đổi văn hoá
của các cộng đồng nông thôn có KCN. Đó là sự thay đổi trong lối sống, từ nếp ăn, ở,
mặc cho đến các sinh hoạt văn hoá, phong tục tập quán như tang ma, cưới xin, giỗ
chạp, hệ thống niềm tin và tôn giáo… Một quá trình chuyển đổi cơ cấu văn hóa tinh
thần đang diễn ra do những biến đổi kinh tế xã hội, với sự xuất hiện của các KCN.
Luận án đã chỉ ra được các xu hướng biến đổi và nguyên nhân của các xu hướng trên.
Sự thay đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của các cộng đồng dân cư có KCN
đang diễn ra phụ thuộc vào mức độ, quy mô CNH và HĐH của từng cộng đồng. Với
3 cộng đồng được khảo sát, Hiệp Phước là cộng đồng có mức biến đổi nhanh nhất,
mạnh mẽ nhất, kế đến là Thạnh Phú và cuối cùng là Long Thọ.
Quá trình biến đổi này cũng có những mặt trái, đó là sự xuất hiện những chuẩn
lệch của một bộ phận dân cư, những xáo trộn gây nên những lo lắng cho giới quản lý,
đó là sự mất đất và tình trạng không nghề nghiệp của một bộ phận nông dân, một số
tệ nạn xã hội, tâm lý sính tiêu dùng văn hóa vượt quá khả năng chi trả.



24

Ở bình diện tỉnh Đồng Nai, sự chủ động đi trước một bước bằng các nghiên cứu
thực tiễn và xây dựng mô hình văn hóa dựa vào khu dân cư, vào doanh nghiệp vẫn
đang là một quá trình tìm tòi, vận dụng, tháo gỡ từng bước những khó khăn. Cơ sở
của việc nâng cao hơn nữa chất lượng đời sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng
dân cư KCN là quyết tâm chính trị của Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể của
tỉnh, là các đầu tư và tổ chức nhiều chương trình, đề án phát triển cho các cộng đồng
này. Tuy nhiên, quá trình này không phải không có những thách thức; và có những
vấn đề chế độ chính sách thuộc thẩm quyền của Chính phủ và các Bộ ngành trung
ương. Song sự quyết tâm chính trị đi kèm với những dự án phát triển cụ thể sẽ là cơ
sở để ra đời các mô hình văn hóa cho cộng đồng dân cư KCN, bao gồm cả dân cư tại
chỗ và dân nhập cư, để họ có cơ hội, điều kiện sinh sống ổn định và thực hiện quyền
văn hóa của mình.
Ở tầm mức sự sáng tạo văn hoá, sự thay đổi hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa, trong
phạm vi nội dung, luận án chưa đủ cơ sở dữ liệu để chứng minh và phân tích, do
những hạn chế về nguồn tư liệu và khả năng của tác giả. Song đó là những chủ đề cần
được tiếp tục nghiên cứu tiếp theo mà tác giả luận án sẽ phải tiếp tục nghiên cứu.


×