Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

Tư tưởng chính trị platon qua tác phẩm nền cộng hòa và ý nghĩa lịch sử của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 174 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
---------oOo----------

NGUYỄN THỊ THANH THỦY

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ PLATON QUA
TÁC PHẨM NỀN CỘNG HÒA VÀ Ý NGHĨA
LỊCH SỬ CỦA NÓ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Triết học

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
---------oOo----------

NGUYỄN THỊ THANH THỦY

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ PLATON QUA
TÁC PHẨM NỀN CỘNG HÒA VÀ Ý NGHĨA
LỊCH SỬ CỦA NÓ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Triết học
Mã số: 62228001

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. ĐINH NGỌC THẠCH


2. GS.TS. BÙI THẾ CƯỜNG

PHẢN BIỆN ĐỘC LẬP
1. GS.TS. PHẠM NGỌC QUANG
2. PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÀ

PHẢN BIỆN HỘI ĐỒNG
1. PGS.TS. ĐẶNG HỮU TOÀN
2. PGS.TS. LƯƠNG MINH CỪ
3. PGS.TS. NGUYỄN THẾ NGHĨA

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012


3

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đề cập quy luật về tính kế thừa trong sự phát triển tư tưởng, Ph.
Ăngghen viết: “tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng
lực của người ta mà có thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện,
và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là
nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước”[10, 487].
Trong tác phẩm Bút ký triết học V.I. Lênin cũng đã vạch ra những
“vòng khâu” hay những vòng tròn xoáy ốc của lịch sử nhận thức. V.I. Lênin
viết: “nhận thức của con người không phải là một đường thẳng, mà là một
đường cong đi gần vô hạn đến một loạt những vòng tròn, đến một vòng xoáy
ốc”.V.I. Lênin [51, 385].
Nhận định của những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho

thấy việc nghiên cứu quá khứ để rút ra những bài học cho hôm nay thực sự có
ý nghĩa.
Platon1 là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại. Tư
tưởng chính trị của ông hình thành trong điều kiện khủng hoảng của nền dân
chủ chủ nô, sự gia tăng căng thẳng và xung đột xã hội, sự mất phương hướng
của con người trong đời sống tinh thần. Vì thế, tư tưởng triết học – chính trị
của ông một mặt phản ánh lập trường của quý tộc chủ nô, mặt khác gợi mở
những giải pháp vượt qua tình trạng hiện có, vươn đến các giá trị tốt đẹp
trong cuộc sống.
Dưới hình thức duy tâm, ông phát triển tư tưởng của Socrates, xây
dựng những nền tảng vững chắc của ý thức con người. Ông có công lớn trong
việc nghiên cứu các vấn đề của ý thức xã hội, khẳng định vai trò to lớn của nó
Bản tiếng Anh dịch thành Plato, song chúng tôi để nguyên cách phiên âm ra tiếng Latin là
Platon (từ nguyên Hy Lạp: Πλάτων, phiên ra tiếng Latin: Plátōn)
1


4

trong việc hình thành nhân cách và ý thức cá nhân con người. Đồng thời bước
đầu ông xây dựng những nền tảng của các khái niệm, phạm trù và tư duy lý
luận nói chung. Mặc dầu có những hạn chế về thế giới quan và quan điểm
nhân sinh, xã hội, song ông được các nhà nghiên cứu xem như một bộ óc lớn
của thời đại, nhiều vấn đề do ông nêu ra đến nay tiếp tục được tìm hiểu, đánh
giá, rút ra những bài học bổ ích cho quá trình hoàn thiện các chuẩn mực, giá
trị xã hội.
Tư tưởng chính trị chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống tư tưởng của
Platon (Platon, 428/427 - 348/347 TCN)2. Từ Platon trở đi, suốt nhiều thế kỷ
vấn đề nhà nước, hay chế độ chính trị lý tưởng được nhiều nhà tư tưởng đề
cập, thể hiện khát vọng của nhân loại hướng đến một không gian xã hội tốt

đẹp, thay thế cho cái đang tồn tại.
Là nhân chứng của những biến cố lịch sử phức tạp tại Hy Lạp, gắn liền
với những thăng trầm của nền dân chủ chủ nô, Platon đã đưa vào các tác
phẩm của mình tâm trạng và khát vọng của người Hy Lạp, suy tư của triết gia
về sự cần thiết cải tổ đời sống xã hội vì mục tiêu nhân văn, khai sáng. Do
định kiến giai cấp và điều kiện lịch sử trong khuôn khổ chế độ chiếm hữu nô
lệ, một số quan điểm của ông, trong đó có quan điểm chính trị, chứa đựng
những yếu tố không tưởng và bảo thủ. Song, như một tất yếu của sự phát triển
tư tưởng, những vấn đề mà ông nêu ra, cùng với các tên tuổi của thế giới cổ
đại phương Tây như Solon, Pericles, Socrates, Democritos, Aristoteles,
Polybius, đã tạo nên điểm xuất phát của lịch sử tư tưởng chính trị phương
Tây.
Tác phẩm

c

h

hình thành vào giai đoạn phát triển rực rỡ của

tư tưởng triết học Platon. Tác phẩm này được xem như một trong những công

2

Việc xác định năm sinh và mất của Platon không thống nhất. Một số tài liệu xác định 424/423 - 348/347
TCN (Wikipedia, the free encyclopedia), hoặc 429 - 347 TCN (Stanford Encyclopedia of Philosophy), hoặc
427 - 347 TCN (Wikipedia tiếng Việt)…


5


trình tiêu biểu về chính trị3 của Platon, trong đó chứa đựng cách tiếp cận về
các vấn đề chính trị, xã hội sau hơn nửa thế kỷ sụp đổ của nền dân chủ
Athenes. Cái chết của Pericles (429 TCN), sự bất ổn trong nội bộ những
người đứng đầu Athenes, sự mệt mỏi và tâm trạng bất an của dân chúng,
những mâu thuẫn xã hội gay gắt và hàng loạt yếu tố khác đã khiến cho nền
dân chủ chủ nô - sự thể nghiệm đầu tiên mô hình nhà nước dân chủ đi đến
cáo chung.
Vấn đề chính trị - xã hội trong công trình của các nhà tư tưởng Hy Lạp,
La Mã cổ đại chứng tỏ rằng bất kỳ hệ thống triết học, chính trị nào cũng đều
là sản phẩm của thời đại, chịu sự chi phối của những điều kiện lịch sử - xã hội
của thời đại ấy. C. Mác từng khẳng định: “Mọi triết học chân chính đều là
tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình”[12, 157]. Có người hiểu “triết
học chân chính” một cách đơn giản và mang nặng tính định kiến về mặt thế
giới quan, song theo chúng tôi, nhận định ấy của C. Mác càng cho thấy triết
học, với tính cách là sáng tạo của tư duy con người trong quá trình hoàn thiện
đời sống xã hội, là một phần sống động của văn hóa, là linh hồn sống của văn
hóa. Nhận định của C. Mác trong trường hợp này không gắn giá trị của một
hệ thống triết học với một lực lượng xã hội, mà với toàn bộ dòng chảy của
lịch sử, trong đó sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là động lực
của phát triển. Triết học của Socrates, Platon, Aristoteles và nhiều tên tuổi lớn
khác của thế giới cổ đại phương Tây là một phần của kho báu tư duy nhân
loại.
Tư tưởng chính trị của Platon một mặt phản ánh lập trường chính trị
của giới quý tộc chủ nô, mong muốn thay thế chế độ dân chủ sơ khai, với tất
cả những thành quả và hạn chế của nó trong hơn nửa thế kỷ tồn tại bằng một
chế độ chính trị kết hợp cái tốt đẹp thuộc về dĩ vãng và những mặt tích cực
của quả đầu chính trị theo mô hình Sparte; mặt khác bày tỏ khát vọng của
3


Mặc dù, cũng như các tác phẩm khác,
c
h
chứa đựng các yếu tố bản thể luận, nhận thức luận.

không bàn về những vấn đề chính trị thuần tuý, mà


6

người Hy Lạp trong việc tìm kiếm hình mẫu lý tưởng của thiết chế chính trị,
với nguyên tắc hàng đầu là công bằng, đồng thời gắn với nó là tính trật tự,
nghiêm minh và ổn định.
Tác phẩm

c

h

và một số tác phẩm đối thoại khác như

t

h , h h tr , Critias, Timaeus là những tác phẩm điển hình của tư tưởng
chính trị Platon. Ngoài ra tư tưởng chính trị cũng được bàn đến ở những mức
độ khác nhau trong nhiều đối thoại khác, chẳng hạn Phedon (Phaedo),
Sophist… Dưới hình thức đối thoại, những tác phẩm ấy đã thể hiện quan
điểm chính trị cơ bản của Platon, thống nhất với thế giới quan và nhận thức
luận của ông. Tác phẩm


c

h

được hình thành nhằm giải đáp câu

hỏi: thế nào là một nhà nước hoàn thiện, hay nhà nước lý tưởng Câu trả lời
nằm ở nguyên tắc xuyên suốt của nhà nước là nguyên tắc công bằng. Sự cụ
thể hóa lời đáp ấy đã được Platon phân tích sâu sắc trong hàng loạt các vấn đề
có mối liên hệ hữu cơ với nhau, đó là: phân công lao động và phân tầng xã
hội, chủ thể quyền lực và tổ chức đời sống, sở hữu và gia đình, giáo dục và
nghệ thuật. Tất cả đều hướng đến kiểu nhà nước tốt đẹp, vượt qua những kiểu
nhà nước khác, mà theo Platon, đều ít nhiều vi phạm tính công bằng. Có thể
tìm thấy mối liên hệ giữa học thuyết về ý niệm và học thuyết về nhà nước
của Platon trong

c

h

. Tương tự như vậy đối với vấn đề phẩm chất

công dân và phẩm chất nhà nước, phân chia linh hồn và phân tầng xã hội. Tác
phẩm h h tr (Πολιτικός, phiên ra tiếng Latinh “Politikos”) đề cập tư cách
nhà chính trị, vấn đề quyền lực, mối quan hệ giữa luật pháp và nghệ thuật,
các hình thức cai trị hoàn thiện và không hoàn thiện. Tác phẩm

t h

đề


cập vấn đề lập pháp, tổ chức nhà nước lý tưởng vấn đề nghĩa vụ, giáo dục và
lối sống công dân, quan hệ công dân, vấn đề tội phạm và trừng phạt, vấn đề
tôn giáo, và cuối cùng là vấn đề bảo vệ luật pháp. Thị quốc thù địch với
Athenes là Atlantis hùng mạnh và kiêu ngạo được Platon nhắc đến trong
Critias và Timaeus.


7

Tư tưởng chính trị của Platon hình thành vào thời kỳ khủng hoảng của
nhà nước Athenes, nơi mà những thành công vĩ đại của nó trong chiều dài
nhiều thế kỷ, với đỉnh cao là nền dân chủ chủ nô, không thể che mờ những
bất cập và mâu thuẫn, những điều dẫn đến sự khủng hoảng không thể vượt
qua. Vì l đó, trong tư tưởng chính trị của mình Platon đã phê phán các kiểu
nhà nước không chân chính, trong đó có nền dân chủ. Sự phê phán này xuất
phát từ lập trường của quý tộc chủ nô, song đã để lại nhiều bài học quý giá
cho các thời đại sau.
Tư tưởng chính trị, đạo đức làm nổi bật hai hình ảnh trái ngược nhau
của Platon – Platon như nhà nhân văn, nhà khai sáng, và Platon như người
mở đường cho chủ nghĩa bảo thủ trong chính trị. Mô hình nhà nước của ông
thực chất là sự thụt lùi về quan điểm chính trị, vì ông đã lấy cái quá khứ làm
hình mẫu cho tư tưởng chính trị của mình, mà không nhìn vào tương lai, để
hiểu rằng nhân loại s đi trên con đường tiến bộ, gắn nguyên tắc công bằng
mà ông hằng ấp ủ với tự do, dân chủ và văn minh.
Nếu tác phẩm

c

hòa tập trung làm r mô hình nhà nước lý


tưởng dựa trên nguyên tắc công bằng,

t h



h h tr làm sâu sắc

thêm nghệ thuật quyền lực, thì Critias và Timaeus, với cách thể hiện sinh
động của một nhà nước kiểu mẫu về sự hùng mạnh là Atlantis, lại mô tả sức
mạnh của nhà nước trong cách tổ chức và hoạt động của nó. Nói khác đi, hai
tác phẩm sau cùng là sự triển khai tinh thần của tác phẩm

c

hòa,

nhưng dưới hình thức đối chiếu, vì ở đây Platon so sánh Athenes trên thực tế
với Atlantis trong tưởng tượng. Song, chính điều đó đã khiến cho mô hình
nhà nước lý tưởng của Platon trở nên sinh động. Các tác phẩm
h h tr ,

c

hòa,

t h , Critias, Timaeus và những tác phẩm khác có chứa đựng

tư tưởng chính trị của Platon đều làm nổi bật hình ảnh Platon như người tha

thiết với lý tưởng chính trị tốt đẹp. Tiếc thay, do điều kiện lịch sử chi phối mà


8

cách tiếp cận của Platon còn mang tính chất không tưởng, đôi ch rơi vào
quan điểm bảo thủ chính trị.
Cùng với khía cạnh thế giới quan và nhận thức luận, tư tưởng chính trị
Platon để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử tư tưởng nhân loại, từ thời cổ đại,
trung cổ, cận đại, và đến tận hôm nay vẫn tiếp tục gợi lên những suy nghĩ
khác nhau về mô hình nhà nước lý tưởng, vấn đề chủ thể quyền lực, tổ chức
đời sống xã hội, quan điểm về sở hữu và giáo dục… Ngay sau loạt tác phẩm
của Platon, chúng ta lại biết đến các tác phẩm
ic

h h tr và

c học

c của Aristoteles, và tư tưởng chính trị của nhiều triết gia, sử gia Hy

Lạp, La Mã như Polybius, khoảng 2
là Cicero (



TCN), các nhà khắc kỷ, đặc biệt

– 43 TCN). Tư tưởng chính trị Platon được tiếp tục nhắc đến,


kế thừa hoặc phê phán ở các thời đại sau qua St.Augustine, Thomas Aquinas,
chủ nghĩa nhân văn Phục hưng, . Bacon, Hobbes, Kant, Fichte, Hegel, và
sau cùng là các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và thế giới phương
Tây hiện đại. Đó là minh chứng về giá trị và ý nghĩa lịch sử của tư tưởng
chính trị Platon.
Mặc dù không tránh khỏi hạn chế do điều kiện lịch sử chi phối, nhưng
những vấn đề của tư tưởng chính trị mà các tác phẩm của Platon đặt ra có ý
nghĩa thực sự đối với chúng ta. Tình yêu lý tưởng một cách tha thiết, ước
muốn về một không gian xã hội đồng thuận và ổn định dựa nguyên tắc công
bằng, với một

c

h

đặc trưng theo cách hiểu của Platon, nơi quyền

lực tập trung vào tay những người tiêu biểu cho trí tuệ của quốc gia, kết hợp
với các hình thức quyền lực đã có như quân chủ, quý tộc, quả đầu chính trị
(đầu sỏ, hoạt đầu), nhằm đảm bảo ổn định và trật tự của nhà nước, dựa trên
nguyên tắc xuyên suốt là công bằng, với hình ảnh Atlantis hùng mạnh trong
Timaeus và Critias, với “nghệ thuật quyền lực” trong h h tr và
tất cả đều là những gợi mở đáng trân trọng của Platon cho mai sau.

t h ,


9

Với sự cần thiết tìm hiểu tư tưởng chính trị Platon, qua đó làm r mối

liên hệ lịch sử giữa quá khứ và hiện tại, rút ra những vấn đề, những bài học
cho quá trình hoàn thiện nhà nước, phát triển xã hội trong điều kiện hiện nay,
nghiên cứu sinh chọn “Tư tưởng chính trị Platon qua tác phẩm Nền cộng
hòa và ý nghĩa lịch sử của nó” làm đề tài luận án của mình.
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại
Việt Nam, chúng ta một mặt kế thừa những tinh hoa và kinh nghiệm lịch sử
của nhân loại trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong đó có những yếu tố tích cực của tư tưởng chính trị phương Đông
và phương Tây cổ đại, tư tưởng pháp quyền của phương Tây cận đại, mặt
khác rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu của lịch sử, kể cả những bài
học “phản diện”, để vượt qua thách thức, khó khăn, hướng đến mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Tìm hiểu “

c

hòa” tỏ ra bổ ích, thiết thực, bởi l thông qua những đánh giá có tính phê
phán của Platon đối với nền dân chủ Athens, thiêt lập mô hình nhà nước lý
tưởng, Platon đã gửi đến chúng ta một thông điệp sau đây: một nhà nước
vững mạnh trước hết phải vững mạnh ở hệ thống chính trị, ở việc hiện thực
hóa các giá trị dân chủ, nhân văn, không biến dân chủ thành trò chơi chính trị
của giới cầm quyền, ở sự đồng thuận xã hội và sự ổn định. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Giữa chúng ta và Platon có
một khoảng cách lịch sử khá xa, ngót hơn 25

năm, và có những khác biệt

về chất trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên quy luật kế thừa tư
tưởng chỉ ra mối liên hệ lịch sử giữa quá khứ và hiện tại, giữa những vấn đề
của truyến thống với các chuẩn mực, lý tưởng của hôm nay. Tìm hiểu vấn đề

nguồn gốc và và hình thức nhà nước, thái độ của Platon đối với nền dân chủ
đang bị suy thoái, vấn đề chủ thể quyền lực, phân tầng xã hội, tổ chức đời
sống chính trị, vấ đề sở hữu, giáo dục, được thể hiện trong tác phẩm N n


10

c

h , chúng ta có thể rút ra nhiều điều thiết thực trong quá trình xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng triết học nói chung, và tư tưởng chính trị Platon nói riêng
luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước. Ngoài các tác phẩm của Platon đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong
đó có tiếng Việt, việc tìm hiểu tư tưởng của Platon nói chung, tư tưởng chính
trị nói riêng được quan tâm sâu sắc.

m theo các bản dịch là những bài giới

thiệu về tư tưởng Platon. iêng trong tư tưởng chính trị, tác phẩm

c

hòa được tìm hiểu nhiều nhất do tính chất điển hình của nó so với các tác
phẩm khác như Critias,

t h


h h tr

i



Tại miền Nam trước năm 975, đã có hàng loạt các công trình nghiên
cứu, bản dịch, trong đó đề cập đến Platon và tư tưởng chính trị của Platon,
như “Martin Heid

r và ự thất b i củ tư tưở

hươ

ây hiệ

i” (Lê

Tôn Nghiêm, Tư tưởng. Số 5/ 9 9), “ ch ử c c học th yết ch h tr ”
(Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy, Cấp tiến xuất bản, Sài gòn, 97 ) hay Lê
Tôn Nghiêm với “ ch ử triết học ây hươ
Hy

– thời kỳ kh i

” (Lá Bối, Sài gòn, 97 ); và “ riết học thời hượ

(Lá Bối, Sài Gòn, 973); Mặc Đ với công trình hầ
hươ


yê triết lý

cổ và r

cổ”

hâ và thầ th i Tây

(cơ sở Trương Vĩnh ý xuất bản); hay Platon- Bữ tiệc (bản dịch từ

tiếng Pháp của Nguyễn Văn, 9 4) Nietzsche – riết lý Hy
(Bản dịch Trần Xuân

thời bi k ch

iêm, Nxb Tân An, Sài Gòn 1975); Lê Tôn Nghiêm –

Socrates (ca dao - người dịch Hoài Khanh, Sài Gòn 1975). Cuốn sách

â

tr yệ triết học4 của Will Durant (bản dịch của Trí Hải và Bửu Đích, Nha tu
thư và sưu khảo, Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 97 ) không chỉ là những
câu chuyện thú vị về các triết gia và sự nghiệp của họ, mà còn chứa đựng
những đánh giá sâu sắc về tư tưởng của họ. Will Durant dành cho Platon sự
4

Có l do chịu ảnh hưởng của phuơng ngữ mà Trí Hải và Bửu Đích dịch “The story of philosophy” thành
“Câu tr yệ triết học”



11

quan tâm lớn về tư tưởng chính trị. Lý giải về tính hai mặt của nền dân chủ,
phân tích nguyên nhân khủng hoảng của nó, Durant viết: “…chính thể dân
chủ tự hủy vì quá dân chủ. Họ muốn rằng tất cả mọi người đều có quyền
tham gia chính phủ và ấn định đường lối quốc gia. Mới xem qua thì đó là một
lý tưởng quá tốt đẹp nhưng thực ra nó trở nên vô cùng nguy hiểm vì dân
chúng không được giáo dục để có thể lựa chọn người tài giỏi ra cầm quyền và
ấn định đường lối thích hợp nhất”

5, 37]. Hạn chế của nền dân chủ chủ nô,

theo Durant, nằm ở bản chất của chính xã hội chiếm hữu nô lệ, với số đông
dân chúng là nô lệ, chỉ rất ít người được gọi là công dân.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cũng giành sự quan tâm đến triết
học Hy Lạp trong đó có Platon: Đó là các tác phẩm Bả thả Ki h tế - triết
học ă

1844 (C. Mác);

hố

yrinh; Biệ ch

củ tự hiê (Ph.

Ăngghen), Bút ký triết học (V.I. Lê-nin), trong đó có những nhận định, phân
tích của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê nin, đó là định hướng và
chỉ dẫn quý báu đối với nghiên cứu sinh trong việc đánh giá quá khứ và rút ra

bài học cho hôm nay trong công trình nghiên cứu của mình.
Bên cạnh đó còn có những công trình nghiên cứu về tư tưởng chính trị
của Platon ở Việt Nam trong thời gian gần đây như tác phẩm;
th yết ch h tr trê thế iới (Lưu

ch ử c c học

iếm Thanh, Phạm Hồng Thái dịch, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà NộI, 1993); Vă học cổ iể Hy

Homer - Anh

hùng ca Iliade, Hoàng Hữu Đản dịch (tập , Nxb Văn học, Hà Nội 1997);
hầ th i Hy L

của Nguyễn Văn

1998, 2 tập). riết học Hy



quốc gia, Hà Nội 1999); hay
Nguyễn Thế Nghĩa, Nxb

hỏa (Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội,
i của Đinh Ngọc Thạch (Nxb Chính trị

ch ử c c học th yết ch h tr (Doãn Chính và


hoa học xã hội, 999); Tìm hiểu một cách thận

trọng những cách tiếp cận khác nhau của các tác giả nước ngoài như
E.Bréhier, J.Burnet,

.Jaspers… Lê Tôn Nghiêm đã phân tích chân dung tư

tưởng của Platon từ nhiều góc độ với tính cách là người hệ thống hóa và phát


12

triển tư tưởng Socrates trong điều kiện khủng hoảng của nền dân chủ chủ nô,
nhấn mạnh vai trò của Platon trong việc hình thành quan điểm chính trị - xã
hội, mà tác phẩm

c

h

là một sáng tạo tiêu biểu mang hình ảnh mô

phạm cao cả.
Gần đây ở Việt Nam có khá nhiều tác giả viết về triết học Hy Lạp - La
Mã như Đặng Hữu Toàn, Đinh Ngọc Thạch, Hà Thúc Minh, Đ Minh Hợp,
Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Thanh, Trần Văn Phòng… Trong các chuyên
khảo và bài viết của các tác giả trên có khá nhiều nhận định sâu sắc về Platon,
nêu được những mâu thuẫn của tư tưởng chính trị Platon, so sánh ông với
Aristoteles, ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Platon đến các thời đại sau.
riết học cổ


i Hy

của Hà Thúc Minh (Nxb Mũi Cà Mau, 99 )

phân tích khá sâu sắc và hệ thống tư tưởng chính trị, đạo đức của Platon, đánh
gia cáo quan niệm về công bằng…),

ch ử triết học của Nguyễn Hữu Vui

(Nxb Chính trị uốc gia, Hà Nội, 99 ). Điểm đáng trân trọng của cuốn sách
là trình bày khái quát toàn bộ lịch sử triết học Đông – Tây, giúp NCS có điều
kiện so sánh, đối chiếu tư tưởng Platon với các tư tưởng khác. riết học Hy
cổ

i của Thái Ninh (Nxb Sách giáo khoa Mác – Lênin, Hà Nội, 9 7)

trong đó có phân tích một cách tổng thể tư tưởng của các triết gia cổ đại.
Trong đó tác giả dành hẳn chương VI để trình bày triết học Platon.

những

n t khái quát nhất, tác giả chỉ ra những điểm nhấn có ý nghĩa trong tư tưởng
đạo đức và chính trị của Platon, với tư cách đại biểu của quý tộc chủ nô,
nhưng đặt ra lý tưởng công bằng như một thông điệp của tiến bộ lịch sử.
Các công trình nghiên cứu về triết học Hy Lạp, trong đó có triết học
Platon trong và ngoài nước nêu trên đã đề cập đến hệ thống triết học Platon,
trong đó phân tích tư tưởng chính trị của Platon, giúp cho người đọc có được
những thông tin và nhận định quý báu về thời kỳ đầu của triết học phương
Tây. Song, những công trình đó tập trung chủ yếu vào tất cả các vấn đề của

các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, mà Platon chỉ là một trong số những nhà triết


13

học được đề cập tới: vấn đề thế giới quan, vấn đề con người, đạo đức, thẩm
mỹ, chính trị - xã hội.
Cũng có những công trình mang tính chuyên sâu hơn về lịch sử các học
thuyết chính trị, trong đó đề cập đến học thuyết chính trị của các nhà triết học
Hy Lạp cổ đại.
nước ngoài việc nghiên cứu lịch sử triết học, nhất là triết học phương
Tây, từ cổ đại đến hiện đại, đạt được những thành quả lớn. Chúng tôi chỉ nêu
ra ở đây một vài công trình đã được dịch ra tiếng Việt.
Bertrand Russel trong phần 2 cuốn

ch ử triết học hươ

ây”

(nguyên tác: History of Western philosophy, bản dịch sang tiếng Nga:
История Западной философии и его связи с политическими и
социальными условиями от античности до наших дней, Москва,
“Академический проект”, 2

), có tựa đề “Socrates, Platon, Aristoteles”

đã đề cập không tưởng chính trị Platon, được thể hiện trong

c


hòa và

một số tác phẩm chính trị khác, đồng thời chỉ ra mối liên hệ từ Platon đến
trung cổ
tập

itô giáo và Nietzsche5. Nhà triết học Anh

của X h i

ở và hữ

kẻ thù củ

and its Enemies Người dịch: Nguyễn

. C. Popper dành hẳn

ó (Nguyên tác: The Open Society
uang A, 2 4 - 2 5, đối chiếu bản

dịch tiếng Nga “Otkrytoe obsestvo I evo vragi, dvukh tomakh, Moscow,
1992) cho Platon, có tên “Ph p thuật Platon”, lấy Platon làm nhân vật trung
tâm, xoay quanh là những tên tuổi khác như Heraclitus, Socrates… .C.
Popper vạch ra tính thống nhất của tư tưởng Platon, làm r mối liên hệ giữa
ba tác phẩm lớn về chính trị, đó là

c

h


, h h tr và

t h

, mối

liên hệ giữa tư tưởng chính trị Platon với những vấn đề của thế giới hiện đại.
Trong

ch ử triết học và c c l

(Samuel Enoch Stumpf, Biên

dịch Đ Văn Thuấn, Lưu Văn Hy Nxb Lao động, Hà Nội, 2 4), tác giả
S.E.Stumpf xem quan điểm về nhà nước của Platon là sự tiếp nối tư tưởng về
5

Xem Бертран Рассел: История Западной философии и его связи с политическими и социальными
условиями от античности до наших дней, Москва, “Академический проект”, 2
cтp. 113 - 122


14

thế giới, về đạo đức, và là “hình ảnh phóng đại của con người”. Ông cũng
nhấn mạnh rằng chính Platon là người đã xác lập “nghệ thuật quyền lực” trên
cơ sở hiểu biết về bản chất con người [79, 62 – 67].
Cuốn Hà h trì h cù


triết học, do Ted Honderich chủ biên (Biên

dịch: Lưu Văn Hy Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2

) dù chỉ dưới hình

thức từ điển triết học, song cũng có những thông tin đáng chú ý, nhất là việc
phân loại các tác phẩm của Platon theo ba thời kỳ - thời kỳ đầu, thời kỳ giữa,
thời kỳ cuối, trong đó

c

h

được xếp vào các tác phẩm đối thoại thời

kỳ giữa [84, 849].
Đối thoại
riết học hâ

c

hòa cũng được tác giả Stanley

osen trong cuốn

i h (Biên dịch: Nguyễn Minh Sơn, Lưu Văn Hy, Nguyễn

Đức Phú Nxb Lao động, Hà Nội, 2 4) xem là một trong ba tác phẩm mẫu
mực, thể hiện triết học nhân sinh Platon (cùng với “Gorgias” và “Bữa tiệc

đêm”).
Công trình

ch ử c c tư tưở

ch h tr (Marcel Br lot và Georges

Lescuyer người dịch Bùi Ngọc Chương chương trình

X 5- 2, Hà Nội,

1992) là một trong những công trình lớn về tư tưởng chính trị thế giới, trong
đó tư tưởng chính trị Hy Lạp – La Mã, sự phân loại tư tưởng chính trị dân chủ
và chống nền dân chủ, quan điểm không tưởng về chính trị của Platon được
phân tích khá sâu sắc.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin dành sự quan tâm đáng
kể đến triết học Hy Lạp, trong đó có Platon. Chính Ph. Ăngghen đã viết:
“…từ các hình thức muôn hình muôn vẻ của triết học Hy Lạp, đã có mầm
mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này” [7, 491].
Từ luận án tiến sĩ ( 4 ) đến những bài viết những năm
phẩm kinh tế những năm
V.I. Lênin như hố
hĩ d y v t và chủ

42 - 1844, các tác

của C. Mác, các công trình của Ph. Ăngghen và
yrinh, Biệ ch
hĩ ki h


hiệ

củ tự hiê (Ph. Ăngghen), hủ
hê h

, Bút ký triết học (V.I.


15

Lênin) triết học Hy Lạp, trong đó có triết học Platon, được đánh giá một cách
xác đáng và sâu sắc, trong đó có sự kết hợp hai cách tiếp cận - thế giới quan
và giá trị luận. Những nhận định, phân tích của các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác - Lênin về lịch sử triết học phương Tây, mà triết học Hy Lạp cổ đại là
điểm xuất phát, có ý nghĩa chỉ dẫn và định hướng quý báu đối với nghiên cứu
sinh trong việc đánh giá quá khứ và rút ra bài học cho hôm nay trong chuyên
đề của mình.
Nếu C. Mác trong Bả thả ki h tế – triết học ă 1844 ngụ ý về kiểu
chủ nghĩa cộng sản trại lính của Platon, thì trong Bút ký triết học V.I. Lênin
vạch ra hạn chế của chủ nghĩa duy tâm Platon, việc các lực lượng bảo thủ
chính trị lợi dụng chủ nghĩa duy tâm thần bí để phục vụ lợi ích của mình.
Cuối cùng, để đọc và hiểu tư tưởng chính trị của Platon trong tác phẩm
c

hòa và một số tác phẩm khác, cần tiếp cận chính văn của tác phẩm

này. Hiện nay, cùng với việc xuất bản thành những cuốn sách riêng hoặc
trong toàn tập Platon, đối thoại

c


h

đã được phổ biến rộng rãi trên

các phương tiện thông tin, nhất là trên mạng internet. Tại Việt Nam
hòa và

t h

c

đã được biên dịch ra tiếng Việt trong cuốn Platon chuyên

khả của Benjamin Jowett & M.J. night (Lưu Văn Hy và Trí Tri biên dịch,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2
1 (Nguyễn Văn

).Trong cuốn l t

ối th i Socratis

hoa dịch, chú giải và dẫn nhập Nxb Tri thức, 2

), nền

dân chủ Athenes được xác định từ 594 đến 322 TCN. Dịch giả và nhà nghiên
cứu Nguyễn Văn

hoa nhắc đến những thăng trầm của nền dân chủ, những


biểu hiện của trò chơi dân chủ với Hội nghị nhân dân (Nguyễn Văn

hoa

dịch là đại hội quôc dân) “sặc mùi rượu và có n t điên”, cái chết của Socrates
và sự phản ứng tất yếu đối với nền dân chủ đang sa đọa. Chắc hẳn những biến
cố này ảnh hưởng không nhỏ đến các tác phẩm chính trị của Platon. Ngoài ra,
cũng cần nói thêm rằng, do cuốn Platon ch yê khả được xuất bản ở Việt
Nam dưới hình thức biên dịch, nên chắc hẳn đôi ch người biên dịch đã thoát


16

khỏi nguyên bản để thể hiện cách diễn đạt của mình. Do đó, để đảm bảo tính
trung thực của văn bản, chúng tôi đối chiếu thêm một bản dịch từ tiếng gốc,
đó là bản dịch tiếng Nga, trong đó Πολιτεία” (phiên ra tiếng Latin là Politeia)
được dịch thành hà ước. Tương tự như vậy đối với tác phẩm

t h



các tác phẩm khác.
Nhìn chung, những công trình vừa nêu đã đánh giá xác đáng những
mặt tích cực và hạn chế của tư tưởng chính trị Platon, cũng như của triết học
Platon nói chung.
Việc phân tích các tác phẩm riêng biệt của Platon về chính trị là một
việc không đơn giản, vì chúng được hình thành dưới hình thức đối thoại, và
các chủ đề đôi khi đan xen nhau, khó tách biệt, từ bản thể luận đến quan điểm

nhân sinh, xã hội. Điều này chứng tỏ tính thống nhất tư tưởng của Platon,
song lại buộc người đọc phải tách biệt các vấn đề nhằm làm nổi bật cái cốt l i
nhất.
hảo sát tình hình nghiên cứu về Platon cho thấy, việc tìm hiểu và
nghiên cứu tư tưởng chính trị của Platon, và rút ra những bài học cho hôm
nay vẫn là vấn đề còn bỏ ngỏ, cần được tiếp tục làm sáng tỏ trong điều kiện
lịch sử mới.
3. Mục đích nhi m vụ của lu n án
Mục đích của luận án là phân tích, đánh giá nội dung tư tưởng chính trị
của Platon trong tác phẩm

c

h

, từ đó rút ra ý nghĩa, mối liên hệ

giữa tư tưởng chính trị Platon với những vấn đề của thời đại chúng ta, trong
đó có thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt
Nam. Để đạt được mục đích trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau:
-

hái quát điều kiện lịch sử và tiền đề lý luận dẫn đến sự hình thành

tư tưởng chính trị Platon; vạch ra mối liên hệ về thế giới quan giữa bản thể
luận, nhận thức luận và tư tưởng chính trị Platon


17


- Giới thiệu tóm tắt một số tác phẩm của Platon về chính trị, có mối
liên hệ với tác phẩm chính –

c

h

;

- Phân tích và đánh giá những nội dung cơ bản của

c

h

- tác

phẩm tiêu biểu của Platon về chính trị;
- Nêu ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Platon đến lịch sử tư tưởng
chính trị châu u.
- Làm r những vấn đề đặt ra từ tư tưởng chính trị Platon trong
c

h

đối với thời đại hiện nay, trong đó có vấn đề xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Cơ sở lý lu n và phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận

của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó
trong quá trình thực hiện đề tài tác giả còn sử dụng các phương pháp khác
nhau như: phân tích, tổng hợp, lôgic, lịch sử….
5. Phạm vi nghiên cứu của lu n án
Đề tài luận án không nghiên cứu tất cả các tác phẩm liên quan đến
chính trị mà tập trung vào tác phẩm chính

c

h

, tác phẩm thể hiện

tiêu biểu quan điểm chính trị của Platon, có liên hệ với các tác phẩm khác. Từ
đó rút ra ý nghĩa lịch sử, những bài học của tư tưởng chính trị Platon, những
vấn đề đặt ra từ tư tưởng chính trị Platon đối với quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay và chú trọng mối liên hệ
lịch sử giữa Platon và tư tưởng chính trị sau Platon, cũng như hiện thực chính
trị hiện nay, đặc biệt là vấn đề chính thể nhà nước.
Đóng góp m i của lu n án
Đề tài luận án ư tưở
và ý

hĩ l ch ử củ

ch h tr Platon q

t c hẩ

c


h

ó tập trung tìm hiểu tư tưởng chính trị của Platon qua

một tác phẩm tiêu biểu, có đối chiếu với một số tác phẩm khác, để qua đó nêu
bật tính thống nhất trong hệ thống tư tưởng triết học Platon. Đề tài được thực


18

hiện từ cách tiếp cận của triết học chính trị. Cái mới mà nghiên cứu sinh thể
hiện trong luận án.
h
c

hất thông qua một tác phẩm chính trị điển hình – tác phẩm

h à, luận án vạch ra tính thống nhất của tư tưởng triết học Platon ở các

khía cạnh bản thể luận, nhận thức luận và nhân bản xã hội.
h h i phân tích một cách có hệ thống những nội dung tư tưởng
chính trị cơ bản của tác phẩm

c

hòa, nêu bật những giá trị và hạn chế

của tư tưởng chính trị Platon, xác định mối liên hệ lịch sử giữa Platon và quá
trình phát triển tư tưởng chính trị phương Tây, qua đó làm sáng tỏ quy luật kế

thừa tư tưởng
h b , rút ra từ sự phân tích đó những vấn đề cần thiết cho quá trình
xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam
hiện nay.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của lu n án
Luận án góp phần làm sáng tỏ nhận thức về di sản tư tưởng của Platon
trong tác phẩm

c

h

một trong những tên tuổi lớn của triết học Cổ

đại ở phương diện triết học chính trị qua các nội dung cơ bản như vấn đề
phân chia giai cấp và quyền lực chính trị, quan niệm về sở hữu và các kiểu
nhà nước…, gợi mở một số vấn đề liên quan đến thời đại hiện nay, trong đó
có vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nội
dung luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người
quan tâm đến những vấn đề về triết học và tư tưởng chính trị trong lịch sử tư
tưởng nhân loại, trong đó có tư tưởng chính trị của Platon.
8. Kết cấu lu n án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án gồm ba chương, 6 tiết


19

Chương 1
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN


QUÁ TRÌNH

HÌNH TH NH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ PLATON
1.1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH TH NH TƯ
TƯỞNG CHÍNH TRỊ PLATON

1.1.1. Điều ki n lịch sử tác đ ng đến sự hình thành tư tưởng chính
trị Platon
Một trong những trang sử đầy ý nghĩa trong đời sống chính trị xã hội
Hy Lạp cổ đại là sự ra đời, phát triển của nền dân chủ chủ nô. Thuật ngữ “dân
chủ” theo từ nguyên Hy Lạp là “demokratia” (δημοκρατία), tức là quyền lực
của nhân dân, hay “dân chủ”, được hợp nhất và giản lược từ “Demos”
(δῆμος, nhân dân) và “ ratos” (κράτος, quyền lực), và được hiểu là hình thức
nhà nước, một chế độ chính trị được xác lập trên cơ sở thừa nhận nhân dân là
nguồn gốc của quyền lực, trên nguyên tắc bình đẳng và tự do 57, 146].
Nền dân chủ chủ nô được bắt đầu từ những cải cách của Solon (Solon
khoảng 638-558 TCN) từ thế kỷ VI TCN, đạt đến sự phát triển cực thịnh và
được thể chế hóa vào nửa sau thế kỷ V TCN.
Ngay sau khi nắm quyền vào năm 594 TCN, Solon bắt đầu thực hiện
một cuộc cải cách nổi tiếng, gọi là sêsasơchêia, tiếng Hy Lạp cổ có nghĩa là
trút gánh nặng. Ông tuyên bố xóa bỏ mọi nợ nần, nhổ hết những thẻ cầm cố
ruộng đất cắm khắp đồng ruộng của nông dân. Ông giải phóng cho những
người nô lệ vì nợ và cấm họ gán mình hay vợ con làm nô lệ cho kẻ khác để
chuộc nợ, cấm ký kết những văn tự lấy bản thân con nợ làm bảo đảm. Những
nông dân trước đây vì nợ mà phải bán mình làm nô lệ hoặc phải đi lưu vong,
đều k o nhau trở về quê hương nhận phần ruộng đất cũ của mình để làm ăn
với tư cách là người nông dân tự do. Solon còn quy định mức độ ruộng đất tối
đa mà m i cá nhân có thể chiếm hữu được, nhằm ít nhất là hạn chế phần nào
tham vọng về đất đai của giới quý tộc đối với ruộng đất của nông dân.



20

Cải cách trên của Solon có một ý nghĩa cách mạng lớn lao, mở đầu cho
một loạt những cái mà người ta gọi là cách mạng chính trị. Điều đó cũng
được Aristoteles (384 - 322 TCN) nhận định: “Solon cấm mọi người gán thân
làm nô lệ để chuộc nợ. Bằng cách đó ông đã giải phóng cho nhân dân thời
bấy giờ cũng như cả về sau nữa” [6, 170].
Những cuộc cải cách trên đây của Solon có ý nghĩa tiến bộ r rệt. Nó
nhằm thay đổi hẳn chế độ chính trị và xã hội cũ Athenes, đánh một đòn nặng
nề vào những tàn tích của chế độ thị tộc và sự thống trị của giai cấp quý tộc
thị tộc, tạo điều kiện cho sự phát triển của chế độ tư hữu, đặt cơ sở cho nền
dân chủ chủ nô Athenes.
Bắt đầu từ giữa thế kỷ V TCN sau khi cuộc chiến tranh Hy Lạp và Ba
Tư kết thúc, tại nhiều quốc gia - thành thị Hy Lạp nằm trên bán đảo Ban
căng, đặc biệt là ở Athenes, thủ công nghiệp rất phát triển, sản xuất hàng hóa
tăng nhanh, quan hệ thương mại được mở rộng, nông nghiệp chuyển hướng
mạnh từ việc trồng trọt ngũ cốc sang trồng nho và ôliu nhằm mục đích xuất
cảng nhiều rượu vang và dầu ôliu để đổi lấy lúa mì. Trong thời gian này, thế
kỷ V – IV TCN tại những quốc gia - thành thị tiên tiến nhất như Athenes,
Egine, Megare, Corinth, Milet...., phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ đã
đạt đến mức hoàn chỉnh nhất và cao nhất của nó.
Trong những năm 47 - 4

TCN ở Athenes nổi lên Pericles khoảng

495-429 TCN), cháu ngoại của nhà cải cách Colisthenes. Ông là nhà chính trị
và nhà hùng biện có biệt tài và cũng là nhà quân sự l i lạc cầm đầu đảng dân
chủ ở Athenes lúc này. Trong thời kỳ nắm quyền lãnh đạo ở Athenes, Pericles
và đảng của ông đã thực hiện nhiều chính sách tiến bộ có thể thỏa mãn được

một phần nào những nguyện vọng và những yêu cầu của các tầng lớp dân tự
do bên dưới của xã hội Athenes. Ông đã mạnh dạn hoàn thành chương trình
cải cách của Ephiantes, đưa nền chính trị dân chủ chủ nô ở Athenes phát triển
đến mức hoàn hảo nhất.


21

Trước hết, Pericles ban hành chế độ trả lương cho các công chức phục
vụ trong bộ máy nhà nước Athenes. Có thể xem đây là chế độ trả lương cho
công chức đầu tiên trong lịch sử. Chế độ này đã tạo điều kiện cho những
người công dân Athenes lớp dưới có thể thoát ly sản xuất tham gia một cách
thiết thực vào việc công. Từ năm 457 TCN, lần đầu tiên trong lịch sử, những
người thuộc tầng lớp trung nông đã được bầu làm chấp chính quan, sau đó thì
cả những người thuộc tầng lớp ngh o nhất cũng được cử giữ mọi chức vụ lớn
nhỏ trong bộ máy nhà nước. Như vậy, chế độ trả lương cho công chức đã cho
ph p các tầng lớp dân ngh o đó sử dụng một cách thiết thực quyền tham gia
quản lý nhà nước của họ.
Dưới thời Pericles, chính phủ thực hành một cách rộng rãi chế độ di
dân đến các vùng nhượng địa, là đất đai mà các nước chư hầu của Athenes
tham gia đồng minh Đêlôt, buộc phải cắt nhường cho Athenes để di dân
ngh o của mình đến đó sinh sống. Thời kỳ này có trên một vạn gia đình công
dân Athenes ngh o di cư được cấp phát ruộng đất ở nước ngoài. Bằng cách
đó, không những Pericles đã thỏa mãn yêu cầu của nông dân Athenes là có
ruộng đất để cày, mà còn tăng sức khống chế của Athenes đối với các nước
chư hầu về mặt chính trị, quân sự và cả mặt kinh tế của Athenes trên đất đai
của các nước đồng minh chư hầu.
Ngoài ra, Pericles còn có sáng kiến tiến hành những công trình quốc
phòng và kiến thiết quy mô như: củng cố thành trì, quân cảng, xây dựng đền
đài, dinh thự ... nhằm tạo công ăn việc làm cho những người ngh o khổ.

Nhưng đáng chú ý nhất trong chính sách cải cách của Pericles là việc thực
hành rộng rãi chế độ bổ nhiệm bằng phương pháp bốc thăm, theo đó trừ một
số rất ít chức vụ đặc biệt đòi hỏi phải có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn
nhất định, hoặc đòi hỏi có sự bảo vệ tài sản là do phổ thông đầu phiếu mà
bầu ra, còn hầu hết các chức vụ lớn nhỏ trong bộ máy nhà nước đều phải
thông qua phương pháp bốc thăm để cắt cử người phụ trách. Nếu như trước


22

kia chỉ tầng lớp quý tộc giàu có mới được sử dụng các chức vụ quan trọng thì
từ nay (năm 457TCN) cả tầng lớp dân ngh o, nói chung là quần chúng dân tự
do lớp dưới đều có thể bằng phương pháp bốc thăm, được cử giữ bất cứ một
chức vụ gì trong bộ máy nhà nước, kể cả chức chấp chính quan. Người
Athenes quan niệm rằng, nếu thực hành phương pháp phổ thông đầu phiếu thì
thông thường chỉ những người có tài sản, có danh vọng hay có tài năng mới
được trúng cử, chi bằng cứ theo phương pháp bốc thăm thì bất cứ người công
dân Athenes nào, không phân biệt dòng họ, sang h n, giàu ngh o, cũng đều
có khả năng được cắt cử giữ bất cứ một chức vụ nào trong chính phủ có như
vậy thì mới thật là hoàn toàn bình đẳng. Đó chính là quan niệm tự do, dân
chủ, bình đẳng dùng làm cơ sở cho những nguyên tắc xây dựng nền dân chủ
chủ nô ở Athenes. Với cải cách của Pericles, quyền lợi chính trị trong nội bộ
các tầng lớp dân tự do Athenes được phổ cập hết sức rộng rãi.
uyền tối cao trong nhà nước thuộc về Hội nghị nhân dân, tương tự
như

uốc hội ngày nay. Với tư cách là cơ quan quyền lực tối cao, Hội nghị

nhân dân thảo luận về mọi vấn đề liên quan đến việc quản lý nhà nước và có
quyền quyết định mọi vấn đề lớn nhỏ, về mặt đối nội cũng như về mặt đối

ngoại. Chính Hội nghị nhân dân là nơi người ta lựa chọn ra tất cả các viên
chức nhà nước. Chính đây cũng là nơi các viên chức này phải báo cáo công
tác của mình và cũng là nơi người ta thường định ra tất cả những luật lệ đẳng
cấp.
Như vậy Hội nghị nhân dân thực hiện quyền bầu cử và giám sát đối với
tất cả những chức vụ dân cử và nói chung đối với tất cả những viên chức đại
diện cho quyền lực công cộng.

uyền giám sát đó có thể thực hiện một cách

dễ dàng, vì trên nguyên tắc, bất cứ một người công dân nam giới nào cũng có
quyền tham gia và phát biểu ý kiến ở Hội nghị nhân dân.
Hội nghị nhân dân là cơ quan đại diện nhà nước về mặt quan hệ ngoại
giao, có nhiệm vụ đón tiếp các Đại sứ của các nước đến và giới thiệu họ ra


23

trước Hội nghị nhân dân. Có thể nói, dưới thời Pericles, chính trị dân chủ của
Athenes đã phát triển đến mức triệt để trong thế giới cổ đại. hông phải ngẫu
nhiên mà thời kỳ chấp chính của Pericles (461-469 TCN) được coi là thời kỳ
cực thịnh của quốc gia – thành thị Athenes và của cả lịch sử Hy Lạp. Cũng
không phải ngẫu nhiên mà tên tuổi của Pericles được người ta dùng để đặt tên
cho thời đại vẻ vang nhất đó của lịch sử Hy Lạp, thế kỷ V TCN, mà người Hy
Lạp gọi là thế kỷ vĩ đại hay thế kỷ Pericles.
Như vậy, nếu Solon là người khởi xướng các cải cách dân chủ, thì thời
đại Pericles chính là thời đại thể chế hóa nền dân chủ, là thời đại nền dân chủ
đã được xác định theo nghĩa cụ thể và trực tiếp nhất – “quyền lực của nhân
dân” (Demokratia).
Trong tư tưởng dân chủ của mình Pericles nhấn mạnh trước tiên

nguyên tắc bình đẳng chính trị, theo đó tất cả mọi người đều được hưởng bình
đẳng, bình đẳng đời sống trong riêng tư, bình đẳng trong việc tham gia tổ
chức quyền lực. Đặc biệt Pericles nhấn mạnh rằng “những người làm nghề
lao động chân tay không xa lạ với chính trị”. Bình đẳng chính trị là cơ sở cho
tính tích cực công dân. Pericles nói: “Chúng ta là những người duy nhất coi
người công dân xa lạ với các công việc chung không phải như là một sinh vật
nhàn r i và như một sinh vật vô ích” [70, 35]. Pericles cũng đề cao quyền tự
do tư tưởng, đề cao quyền bày tỏ chính kiến của cá nhân. Ông xác định mục
đích của nhà nước là lợi ích của toàn xã hội, không phân biệt các tầng lớp,
giai cấp.
Sự hưng thịnh của nền dân chủ chủ nô đã tác động đến mọi mặt của đời
sống xã hội, đối nội và đối ngoại, biến Athenes thành trung tâm và biểu tượng
của Hy Lạp cổ đại. Trong thời kỳ Pericles nắm chính quyền (những năm 3 –
4 của thế kỷ V TCN) Athenes đạt tới mức phát triển cao nhất về kinh tế,
chính trị, văn hóa và khoa học.


24

Vào thời kỳ này, những tri thức của người Hy Lạp cổ đại về văn học,
nghệ thuật, y học, thiên văn, vật lý, toán học đã trở nên sâu sắc hơn nhiều, với
những tên tuổi lớn như Aeschylus, Sophocles, Euripides, Aristophanes (văn
học), Hyppocrates (y học), Phidias, Polykleitos (điêu khắc). Trong toán học,
sự nghiệp của Thales và Pythagoras tiếp tục được kế thừa tại các thị quốc.
Tuy nhiên, ngay từ giữa thế kỷ V TCN, dù đang trong thời cực thịnh
nền dân chủ Athenes đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn, báo trước sự khủng hoảng
đang đến. Cuộc chiến tranh giữa Athenes và Corinth đã nhanh chóng trở
thành cuộc chiến đấu khốc liệt giữa những lực lượng dân chủ do Athenes lãnh
đạo và tầng lớp thượng lưu quý tộc tập hợp xung quanh Sparte. Chiến tranh
Peloponese (431- 4 4 TCN) làm phá sản nền kinh tế Athenes và đưa tới cuộc

khủng hoảng của nền dân chủ nô Athenes. Thủ công nghiệp, nông nghiệp và
thương mại đi đến ch suy thoái, chiến tranh liên miên xảy ra giữa những tỉnh
thành thị Hy Lạp – những (Polis). Trong nội bộ những thành bang, diễn ra
một cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt giữa các tập đoàn chủ nô khác nhau.
Mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ, giữa người giàu và người ngh o, giữa phe
đầu sỏ và thường dân, trở nên sâu sắc.
Người Hy Lạp phát minh ra dân chủ, nhưng đó là nền dân chủ dành
cho thiểu số các “công dân tự do”. Nô lệ không được gọi là con người, mà chỉ
là thứ công cụ biết nói, hàng hóa trao đổi giữa các chủ nô. Nhiều triết gia như
Anaxagoras và Socrates trở thành nạn nhân của dân chủ, bởi họ dám thách
thức các nghi lễ tín ngưỡng cổ hủ. Sự trừng phạt của giới thống trị đối với tư
tưởng bài thần của Anaxagoras và cái chết của Socrates đã khiến cho Platon
một mặt tìm kiếm sự an ủi ở thế giới lý tưởng siêu việt, mặt khác tỏ thái độ ác
cảm đối với chính thể dân chủ, nhìn chế độ đó từ lập trường chống dân chủ.
Một số nhà nghiên cứu lịch sử nhận định: “Một đằng thì người Hy Lạp đã
khám phá, hay phát minh ra nền dân chủ, kịch nghệ, triết lý, nhưng đằng khác
họ lại bo bo giữ lấy những nghi lễ, tín ngưỡng cổ hủ và không tránh được nội


25

chiến. Người Athenes chuộng tự do mà lại xử tử Socrates. Tuy họ đưa ra
thuyết “Tri bi” và thuyết trung dung, thực hiện được những kiến trúc cân đối,
hoàn mỹ, và nền giáo dục của họ phát triển toàn diện con người về thể xác
cũng như về trí tuệ, họ thường tỏ ra khinh mạn con người... ngạo mạn đã
mang hình phạt tới cho họ” [59, 83].
Hơn nữa, trong khi ở Athenes, nền dân chủ đang được thực hiện, thì
Sparte láng giềng lại tồn tại chế độ cai trị hoạt đầu. Chiến tranh xảy ra vào
năm (43 – 4 4 TCN) giữa Sparte và Athenes đã đưa đất nước tới ch suy
vong. Vua Philip xứ Macedonia lợi dụng thời cơ đánh chiếm Hy Lạp năm

3 7 TCN. Sau khi Philip chết, con trai là Alexander xây dựng được một đế
quốc rộng lớn, nhưng ông lại chết sớm, khi mới 33 tuổi. Suốt hai mươi năm
trời các tướng lĩnh chỉ lo tranh giành quyền lực, khiến xã hội xa vào tình
trạng kiệt quệ. Cuối cùng cả Hy Lạp, Macedonia và đế quốc của Macedonia
bị La Mã dùng vũ lực chinh phục và thôn tính vào năm 4 TCN.
Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội chiếm hữu nô lệ được hình thành là mâu
thuẫn giữa chủ nô và nô lệ. Người nô lệ chống lại sự áp bức nghiệt ngã, sự
xâm phạm thô bạo đến phẩm giá con người của họ. Sự uất hận của họ nhiều
lúc đã bùng lên thành cuộc khởi nghĩa. Song, xiềng xích nô lệ mà họ mong
muốn vứt bỏ để giành tự do cá nhân đã không thực hiện được. Tuy vậy cuộc
đấu tranh của những người nô lệ, các phong trào sâu rộng của người dân mất
quyền và ngh o đói đã có ảnh hưởng to lớn đối với hệ tư tưởng chính trị.
Nhiều quan niệm về bình quyền tự nhiên và tự do cho tất cả mọi người đã nảy
sinh, có những cuộc nổi dậy chống đối chế độ chiếm hữu nô lệ và đòi thiết
lập nhà nước, nơi mà lao động trở thành trách nhiệm của m i con người.
Sự thăng trầm của nền dân chủ xuất phát từ những nguyên nhân bên
trong, trước hết từ những mâu thuẫn của bản thân nền dân chủ. Nền dân chủ
Athenes, dù tạo ra sự khởi sắc nhất định trong đời sống xã hội, vẫn chỉ là hệ
thống chính trị hạn chế, chật hẹp và kh p kín, chỉ mở rộng cửa cho dân tự do,


×