Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Nâng cao hơn nữa đạo đức nhà giáo trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.07 KB, 21 trang )

Nâng cao hơn nữa đạo đức nhà giáo trong
giai đoạn hiện nay
TRAO ĐỔI

Trong những năm qua, lớp lớp thế hệ nhà giáo của ngành đã nỗ lực hết mình, vượt qua
bao khó khăn gian khổ để đào tạo cho quê hương, đất nước những thế hệ con người mới
có tri thức cao, có phẩm chất đạo đức tốt, có kĩ năng nghề nghiệp và kĩ năng sống, đáp
ứng được sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đa số đội ngũ nhà giáo của ngành tâm
huyết, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy với công việc, sáng tạo và có nhiều đóng góp cho
sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của đất nước, do
ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường, cùng với đời sống còn nhiều khó khăn, đã xuất
hiện một số nhà giáo chưa thật sự gương mẫu, đang có nguy cơ suy thoái về phẩm chất
đạo đức, nhân cách, xói mòn lương tâm nghề nghiệp.
Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng nói: “Phi trí bất hưng”, nghĩa là quốc gia muốn hưng
thịnh thì không thể không quan tâm đến sự nghiệp giáo dục. Giáo dục là sinh mệnh của
mỗi quốc gia, “giáo dục là cái gốc rễ để gây nền chính trị” (Phan Bội Châu). Ngày nay Đảng
và Nhà nước ta cũng xác định: “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Nhiệm vụ của
giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo ra những con
người mới, có kiến thức, có phẩm chất cách mạng, có kĩ năng để xây dựng và bảo vệ đất
nước. Đảm trách sứ mệnh quan trọng và thiêng liêng đó không ai khác chính là đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lí giáo dục, những người vẫn được xã hội tôn vinh trong sự nghiệp
“trồng người”. Đạo đức của nhà giáo có ảnh hưởng to lớn đến việc hình thành nhân cách,
đạo đức của người học. Bởi vậy việc nâng cao phẩm chất đạo đức của nhà giáo là vấn đề
vô cùng quan trọng đặt ra ở bất cứ thời nào, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư TW Đảng và Quyết định số
09/2005/QĐ-TTg ngày 11/1/2005 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định rõ tầm quan trọng
của việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục theo
hướng chuẩn hóa; đặc biệt chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức và lương
tâm nghề nghiệp cũng như trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, phong cách sư phạm
của đội ngũ nhà giáo. Quy định về đạo đức nhà giáo cũng được Bộ Giáo dục và Đào tạo
quy định rõ ngày 16/4/2008. Theo đó ngoài phẩm chất chính trị, lối sống, tác phong, nhà


giáo phải có đạo đức nghề nghiệp: “tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự,
lương tâm nhà giáo”; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc
sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, đối xử hòa nhã với người học, đồng
nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người học, đồng nghiệp
và cộng đồng. Nhà giáo phải “tận tụy với công việc”; “công bằng trong giảng dạy”, chống
bệnh thành tích, “thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn” để hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.


Ảnh minh họa.
Có thể nói, xã hội luôn đặt ra những yêu cầu rất cao về phẩm chất đạo đức của nhà giáo.
Bởi lẽ, “người cậy ở tâm, cây nương ở rễ”, tâm đức, phẩm hạnh là yếu tố làm nên căn cốt
của một con người, nhất là những người thầy. Và sản phẩm của giáo dục là con người,
không được phép “phế phẩm”; đạo đức của nhà giáo có ý nghĩa quan trọng tới việc hình
thành và phát triển nhân cách của người học. Người thầy giáo chân chính dạy học trò
không chỉ bằng vốn tri thức, hiểu biết, mà còn bằng chính nhân cách đạo đức trong sáng
của mình, để cảm hóa, để giáo dục và khai sáng. “Dạy chữ” là quan trọng, nhưng việc “dạy
người” còn quan trọng hơn. Mục đích của việc học đã được UNESCO khẳng định: “Học để
biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình”, nói cách khác, học để làm
người. Cho nên người học thường lấy hình ảnh các nhà giáo làm hình mẫu để noi theo.
Những bài giảng nhiệt huyết, say mê; lương tâm cùng tinh thần trách nhiệm; sự tận tụy của
nhà giáo; tấm gương học tập và rèn luyện cùng nhân cách trong sáng của người thầy sẽ
tạo một dấu ấn vô cùng sâu đậm trong tâm hồn các thế hệ học sinh.
Trong những năm qua, lớp lớp thế hệ nhà giáo của ngành đã nỗ lực hết mình, vượt qua
bao khó khăn gian khổ để đào tạo cho quê hương, đất nước những thế hệ con người mới
có tri thức cao, có phẩm chất đạo đức tốt, có kĩ năng nghề nghiệp và kĩ năng sống, đáp
ứng được sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đa số đội ngũ nhà giáo của ngành tâm
huyết, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy với công việc, sáng tạo và có nhiều đóng góp cho
sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của đất nước, do
ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường, cùng với đời sống còn nhiều khó khăn, đã xuất



hiện một số nhà giáo chưa thật sự gương mẫu, đang có nguy cơ suy thoái về phẩm chất
đạo đức, nhân cách, xói mòn lương tâm nghề nghiệp. Một bộ phận cán bộ quản lí giáo dục
chưa chủ động, sáng tạo trong việc quản lí, điều hành và đề xuất các biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục tại đơn vị; chưa gương mẫu trong việc thực hiện chức trách nhiệm
vụ của người đứng đầu, thậm chí còn buông lỏng quản lí dẫn tới để xảy ra những sai phạm
trong đơn vị, như tổ chức việc dạy thêm học thêm không vì lợi ích của người học, tình trạng
lạm thu... Những hiện tượng đó không nhiều nhưng cũng làm ảnh hưởng đến danh dự nhà
giáo và làm giảm uy tín của ngành.
Để nâng cao hơn nữa đạo đức nhà giáo đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp giáo dục và
đào tạo như xã hội trông đợi: giáo dục và đào tạo trở thành “quốc sách hàng đầu” để phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, chúng ta, những nhà giáo và cán bộ quản lí đang trên
con đường đảm trách sự nghiệp “trồng người” cần thực hiện tốt một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, tích cực và sáng tạo đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, thực hiện các Quy định về “những điều đảng viên không được làm” gắn với các
cuộc vận động, các phong trào thi đua của ngành, đặc biệt là cuộc vận động “Mỗi thầy cô
giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”.
Thứ hai, phải quán triệt nghiêm túc và sâu sắc Quy định về đạo đức nhà giáo đã được Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành và những quy định về chuẩn mực đạo đức nhà giáo theo
Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư TW Đảng. Đồng thời phải biến những
quy định đó thành chuẩn mực đạo đức để nhà giáo phấn đấu; thành tiêu chuẩn để đánh giá
quá trình tu dưỡng, tự rèn luyện, phấn đấu của nhà giáo. Toàn ngành và mỗi đơn vị phải
xây dựng đội ngũ nhà giáo có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất và lương tâm
nghề nghiệp trong sáng, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có lối sống
và ứng xử chuẩn mực, thực sự là tấm gương cho người học noi theo.
Thứ ba, phải làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cho mỗi nhà giáo và cán
bộ quản lí giáo dục. Nâng cao hơn nữa nhận thức về vai trò, trọng trách của nhà giáo để
mỗi nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục thấy rõ trách nhiệm của mình với xã hội, với việc
đào tạo bồi dưỡng con người cho đất nước; thấy rõ được trách nhiệm trong việc bảo vệ

danh dự của nhà giáo cũng như của ngành giáo dục, nhất là trách nhiệm của người đứng
đầu. Khơi dậy lương tâm, trách nhiệm, nhiệt huyết, nhiệt tình trong mỗi nhà giáo để mỗi
nhà giáo đều có khát vọng cống hiến cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo cũng như sự phát
triển của đất nước.
Thứ tư, các nhà trường và cơ sở giáo dục cần chăm lo đến đời sống của nhà giáo, tạo điều
kiện thuận lợi nhất (cả vật chất và tinh thần trong điều kiện có thể) để nhà giáo làm việc và


cống hiến. Kêu gọi sự quan tâm của toàn xã hội với sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nhất là
sự ủng hộ của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự đồng thuận của nhân dân.
Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để chấn chỉnh và xử lí kịp thời, nghiêm
túc những biểu hiện vi phạm về đạo đức nhà giáo, góp phần làm trong sạch môi trường
giáo dục; đồng thời tuyên dương những tấm gương nhà giáo tiêu biểu có lương tâm, trách
nhiệm, tận tụy, dành trọn tâm huyết và trí tuệ cho sự nghiệp giáo dục, hết lòng vì học sinh
thân yêu.
Như xây nhà cần có bản vẽ, học sinh rèn luyện nhân cách cũng cần có một mẫu hình lý
tưởng để hướng tới; mà một trong những hình mẫu lý tưởng đó chính là người thầy giáo những con người “mô phạm” về nhân cách đạo đức, được xã hội tôn vinh làm “nghề cao
quý nhất trong các nghề cao quý”. Để thực hiện tốt sứ mệnh “trồng người” thiêng liêng, mỗi
nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục cần ý thức rõ vai trò và trọng trách vinh quang, ra sức
thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
bức thư cuối cùng gửi cho ngành giáo dục tháng 10 năm 1968: “Dù khó khăn đến đâu cũng
phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”; nâng cao hơn nữa phẩm chất đạo đức nhà giáo
trong giai đoạn hiện nay để xứng đáng với niềm tin và sự kỳ vọng của các cấp ủy Đảng,
chính quyền và nhân dân.
NGƯT. Nguyễn Đức Hiền
Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở GD&ĐT
- See more at: />VAI TRÒ CỦA NGƯỜI THẦY GIÁO TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
Thứ tư - 26/11/2014 16:37






Vai trò của người thầy giáo trong xã hội hiện đại
1. ĐẶT VẤN ĐỀ Xã hội loài người đã trải qua nhiều chế độ xã hội khác nhau, nhiều phương thức sản xuất
khác nhau, vị trí, vai trò của người giáo viên trong từng chế độ đó cũng được quan niệm khác nhau, nhưng ý
nghĩa xã hội to lớn của nghề dạy học là không ai phủ nhận được. Nhìn chung, các dân tộc trên thế giới qua
các thời đại đều đánh giá cao vai trò của người thầy giáo.


Cách đây 400 năm, J.A.Cômen xki đã gọi người giáo viên là người “ chuyển giao ngọn đuốc của nền văn minh”, “ sợi
dây chuyền giữa các thế hệ” và coi chức vụ mà xã hội trao cho người giáo viên là chức vụ quang vinh mà dưới ánh
mặt trời này không có chức vụ nào ưu việt cho bằng. A.Đixtecvec nhận định: “chính giáo viên là những người gieo
hạt giống, không có giáo viên thì thế giới sẽ lùi lại chỗ dã man. K.Đ.Usinxki cũng đã khẳng định: “sự nghiệp dạy học
trông bề ngoài thì bình thường, nhưng đó là sự nghiệp vĩ đại nhất của lịch sử loài người” ... Nhiều lời ca ngợi và
nhiều danh hiệu cao quý được trao cho người giáo viên: “ Người kỹ sư tâm hồn”; “viên kim cương của nhân loại”, “
người gieo hạt giống vàng của chân lý”, “ nhà kiến trúc mẫu người tương lai của đất nước” ...
Nước ta có truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Trải qua bao thăng
trầm của lịch sử, truyền thống đó vẫn được bảo tồn và phát triển, người giáo viên vẫn luôn được nhân dân yêu mến
và ca ngợi. Từ xưa đến nay, trong dân gian ai cũng thuộc câu: “ không thày đối mày làm nên”, “ Nhất tự vi sư, bán tự
vi sư”: Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy... Cả đến khi công thành doanh toại, người ta cũng nhắc nhau: “
Mười
năm
rèn
luyện
sách
đèn,
công
danh
gặp

bước
chớ
quên
ơn
thầy”.
Ở thời kỳ phong kiến - khi mà tri thức là thầy, thầy là tri thức, thầy có quyền ban phát tri thức cho người học. Thì thời
đại ngày nay, tri thức không còn nằm độc quyền trong tay người thầy nữa mà bản thân người học có thể tìm kiếm tri
thức ở nhiều nguồn khác nhau, người thầy lúc này chỉ là người cầu nối, là một trong những kênh để cung cấp tri
thức
cho
người
học.
Do vậy trong thời đại ngày nay, giáo dục luôn được xem là động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội,
vai trò của người giáo viên đặc biệt được coi trọng, chức năng của người giáo viên có nhiều thay đổi và yêu cầu đối
với
nhân
cách
người
giáo
viên
cũng
ngày
càng
cao
hơn.
2. VỊ TRÍ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN TRONG LỊCH SỬ GIÁO DỤC THẾ GIỚI.
Lịch sử phát triển của giáo dục và nhà trường qua các thời kì xã hội, đã chứng tỏ rằng trong xã hội, có giai cấp thì
giai cấp thống trị bao giờ cũng dành độc quyền về giáo dục, dùng giáo dục làm công cụ, phương thức truyền bá tư
tưởng chính trị, đường lối chính sách và duy trì vị trí xã hội của mình. Do vậy, giai cấp thống trị xã hội bao giờ cũng
nắm lấy đội ngũ giáo viên, tìm mọi cách buộc đội ngũ giáo viên trở thành người tuyên truyền tư tưởng, thực hiện ý

đồ và bảo vệ những quyền lợi của giai cấp thống trị. Xét trên quan điểm lịch sử, bất kì một chế độ xã hội nào, một
giai đoạn phát triển nào của nhân loại, mục đích giáo dục vẫn là chuẩn bị một lớp người thay thế, là chăm sóc, dạy
dỗ con người..., cho nên, đội ngũ giáo viên trong xã hội ấy vẫn là lực lượng chủ yếu thực hiện mục đích giáo dục.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện sứ mệnh cao cả của mình, đã có nhiều thầy giáo dám đấu tranh với những bất
công trong xã hội, có những tư tưởng tiến bộ, những đóng góp lớn lao vì một nền giáo dục tiến bộ. Họ là những tấm
gương lớn về nhân cách của nhà giáo mà sử sách còn lưu truyền đến hôm nay.
Bắt đầu từ chế độ chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô đã dựng ra “ nhà trường” là nơi con cái chủ nô đến để được
chăm sóc, giáo dục, chủ nô cũng uỷ quyền cho một lớp người chuyên môn làm nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục con
cái họ - đó là thầy giáo. Thầy giáo dạy trực tiếp cho trò theo hình thức dạy học cá nhân, mỗi thầy một trò... Giáo dục
nhằm tạo ra 2 lớp người trong xã hội: tầng lớp lao động trí óc thuộc về chủ nô, tầng lớp lao động chân tay thuộc về
người

lệ

dân
tự
do...
Giai đoạn phát triển tiếp theo của chế độ chiếm hữu nô lệ là chế độ phong kiến – xã hội có giai cấp với hai giai cấp
chính là địa chủ và nông dân ở phương Đông, lãnh chúa và công nô ở phương Tây. Các triều đại phong kiến Trung
Hoa- Quốc gia phong kiến điển hình ở phương Đông -đều dựng ra trường học riêng để giáo dục cho con cái của
tầng lớp quý tộc. Do vậy, người thầy giáo trong xã hội phong kiến cũng thực hiện mục đích giáo dục đào tạo con
người nhằm phục vụ cho lợi ích của tầng lớp trên của xã hội phong kiến. Chẳng hạn, Khổng Tử là một thầy giáo, từ
năm 20 tuổi ông đã làm nghề dạy học và chu du khắp thiên hạ để truyền đạo lý của mình: đạo Nho- cũng là nội dung
giáo dục chủ yếu trong nhà trường phong kiến. Thông qua việc dạy học đạo Nho, tầng lớp quí tộc nắm được đạo
Nho và điều hành nhà nước theo đạo Nho, Khổng Tử đã tạo nên “ một nội các” đủ tài đức về mọi lĩnh vực chấp
chính bộ máy xã hội phong kiến Trung Hoa theo lý tưởng đạo Nho( Khổng Tử có đến 3000 học trò, trong đó có tới
72 người tài giỏi về mọi lĩnh vực).Tuy đứng trên quan điểm của tầng lớp quý tộc vì lợi ích của giai cấp thống trị,
nhưng những tư tưởng tiến bộ của Khổng Tử còn có giá trị trong thời đại ngày nay. Người thầy giáo Khổng Tử vẫn
luôn coi trọng việc giáo dục đạo đức trong nhân cách của con người, đó là việc giáo dục lòng nhân ái, biết sống có
trên dưới, trung thực, thuỷ chung, có kỉ cương từ gia đình đến xã hội. Ông luôn tâm niệm trau dồi đạo đức của ông

thầy để người thầy luôn là tấm gương sáng cho trò noi theo. Muốn vậy, thì thầy phải dạy không biết mệt mỏi để trò
không
biết
chán

tình
cảm
thầy
trò
như
tình
cha
con.
Từ cuối thế kỉ XV đến giữa thế kỉ XVII, ở các nước Tây Âu, giai cấp tư sản mới ra đời như là một lực lượng tiến bộ


xã hội chống lại giai cấp phong kiến, nhưng thực chất vẫn là giai cấp bóc lột. Nhiều nhà giáo dục là đại biểu trung
thành của giai cấp tư sản và quý tộc mới trên con đường phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng
họ đã có những tư tưởng giáo dục tiến bộ như đề cao vai trò của giáo dục; chủ trương giáo dục bình đẳng cho mọi
trẻ em, giáo dục con người phát triển toàn diện, coi trọng khoa tự nhiên và các phương pháp dạy học phát huy tính
tích cực của người học... Một số nhà giáo dục tiêu biểu của thời kì này là: J. A. Cômexki ( 1592 – 1670), J. Locke
(
16321704),
J.J.Ruxô(
1712

1778)...
J. A. Cômexki không chỉ là “ông tổ của nền giáo dục cận đại”, “ một thiên tài rực rỡ, một nhà phát minh lỗi lạc, một
Galilê của giáo dục”, ông đồng thời cũng là một nhà giáo. Ông không dạy trẻ bằng roi vọt và hình phạt, một kiểu giáo
dục lúc bấy giờ, mà bằng “ bộ mặt vui tươi, lời nói dịu dàng, nụ cười hiều hậu” và bằng các phương pháp mới kích

thích ham muốn hiểu biết của trẻ, trái ngược với phương pháp giáo điều, kinh viện thời bấy giờ. Ông cho rằng giáo
dục cần thiết cho mọi người, do đó giáo dục phải trở thành quyền lợi của mọi người, trước hết là đối với lứa tuổi
thanh niên. “Tất cả các em trai gái, con nhà giàu cũng như con nhà thường dân ở thành phố lớn hay ở thôn xóm đều
được vào trường học một cách bình đẳng”. Tuy nhiên, thực hiện một nền giáo dục bình đẳng trong xã hội bấy giờ là
một điều không tưởng. Cômnexki là một thầy giáo mẫu mực, hiền hoà, tỉ mỉ giảng dạy cho trẻ trên lớp học như
người làm vườn chăm chút từng mầm non. Theo ông, người thầy giáo là người có tình cảm gắn bó nhất đối với học
sinh sau tình cảm ruột thịt của cha mẹ. Do đó, không thể hoàn thành được trách nhiệm của người thầy giáo nếu như
không có tình yêu thương chân thật đối với học sinh.Ông khẳng định: “ Nếu anh không như một người cha thì cũng
không thể là một người thầy”. Cômexki coi người thầy giáo có vai trò vô cùng to lớn đối với kết quả giáo dục, ông ví
chức trách của người giáo viên như một người thợ nặn cao cả, nặn những tâm hồn trẻ thơ, hoặc như một ngọn lửa
xua đuổi hết thảy những bóng tối trong trí óc, do đó dưới mặt trời, không có nghề nghiệp nào ưu việt bằng. Người
thầy giáo theo quan điểm của ông, hơn ai hết là người phải có đạo đức, gương mẫu về mọi mặt vì “ trẻ em học bắt
chước
khi
học
biết”.
Từ sau cách mạng tư sản Pháp(1789) đến đầu thế kỉ XX là thời kì phát triển mạnh mẽ nhất của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, tư tưởng tiến xã hội đều hướng vào việc đấu tranh với nhà nước tư sản vì một nền giáo dục
tiến bộ. Giáo dục là nhu cầu chính đáng của mọi người lao động nên xu thế chung là đấu tranh cho một nền giáo dục
bình đẳng. Vai trò của thầy giáo được đề cao. Nhà giáo dục tiêu biểu, đồng thời là một nhà giáo lẫy lừng người Thuỵ
sỹ thời bấy giờ là Petxtalôdi(1746 – 1827). Có thể nói cả cuộc đời Petxtalôdi dành cho sự nghiệp giáo dục, nhất là
giáo dục cứu vớt cho trẻ em nghèo khổ nên người. Ảnh hưởng lớn quan điểm giáo dục tự nhiên của J.J. Ruxô;
Petxtalôdi cho rằng thầy giáo không được đàn áp, đè nén sự phát triển tự nhiên của trẻ em, thầy giáo phải quán triệt
nguyên tắc: “ Giáo dục phải phù hợp với tự nhiên”. Nhưng với một cách nhìn đầy đủ và toàn diện hơn, ông cho rằng
con người cần phải can thiệp vào sự phát triển của trẻ như là sự định hướng vào đời cho trẻ trên cơ sở quy luật tự
nhiên của trẻ. Ông nói: “ Nếu chỉ chờ đợi ở tự nhiên việc phát triển mọi tiềm năng ở con người mà thiếu sự giúp đỡ
từ bên ngoài thì con người được giải phóng rất chậm chạp khỏi những thuộc tính của sinh vật”. Phải chăng
Petxtalôdi đã thấy rõ vai trò của giáo dục và của người giáo viên trong việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ
em? Petxtalôdi cũng cho rằng mục đích giáo dục là làm phát triển mọi tiềm năng tự nhiên ở con người, cho nên cần
tiến hành trên những nội dung giáo dục nhiều mặt như đức dục, trí dục, thể dục, giáo dục lao động.... Để thực hiện

những nội dung đó không thể thiếu được thầy giáo. Theo ông, thầy giáo không chỉ là người có học vấn, có giáo dục
mà phải biết và làm được việc giáo dục người khác. Muốn vậy, thầy giáo chỉ có thể thành công trong công tác giáo
dục nếu biết tiến hành công tác giáo dục dựa trên đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ. Vì thế, tri thức về con
người và về giáo dục trẻ là điều không thể thiếu được đối với thầy giáo. Mặc dù còn nhiều hạn chế trong quan điểm
giáo dục do hạn chế lịch sử, nhưng Pextalôdi để lại cho đời một tấm gương sáng về lòng nhân ái, về tình thương
yêu
học
sinh,
về
sự
tận
tuỵ
với
nghề

nhiều

luận
giáo
dục
xuất
sắc.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỉ XX, các nước tư bản chủ nghĩa phát triển ở phương Tây chuyển sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa. Chủ nghĩa đế quốc xuất hiện làm cho mâu thuẫn vốn có giữa giai cấp tư sản và vô sản càng thêm sâu
sắc. Giáo dục thời kì đế quốc chủ nghĩa hết sức đa dạng nhưng mục đích chung là chuẩn bị cho trẻ em của giai cấp
tư sản có đủ năng lực để quản lý nhà nước và quản lý nền kinh tế – sản xuất hiện đại. Do đòi hỏi của nền sản xuất
công nghiệp phát triển buộc giáo dục tư sản lúc này phải chuẩn bị cho người lao động vốn tri thức và kỹ năng tối
thiểu để có thể trở thành người lao động làm thuê nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất cho chủ. Phong trào “ nhà trường
mới” ra đời với việc tổ chức, nội dung, phương pháp và đầu tư cho giáo dục đều ưu việt hơn nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục để chuẩn bị một lớp người kế tục sự nghiệp quản lý nhà nước tư bản chủ nghĩa. Như vậy, “ Nhà

trường mới” chỉ là trường học dành riêng cho tầng lớp trên của xã hội tư bản và một bộ phận giáo viên thuộc tầng


lớp trên làm việc trong các nhà trường này cũng trung thành với mục đích đào tạo con người phục vụ giai cấp tư
sản.
Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử do những đòi hỏi của thực tế khách quan để phát triển xã hội loài người.
Học thuyết Mác bao gồm triết học Mác xít, chủ nghĩa xã hội khoa học và kinh tế chính trị Mác xít là vũ khí tư tưởng,
vũ khí luận và là kim chỉ nam cho hành động của giai cấp vô sản thế giới trong cuộc đấu tranh tự giải phóng và xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa cộng sản. Học thuyết giáo dục của Mác – ăng nghen là một bộ phận của chủ nghĩa
cộng sản khoa học, nó được hoàn thiện dần bằng tư tưởng giáo dục vĩ đại của V.I. LêNin, của các nhà giáo dục xã
hội chủ nghĩa, trước hết là các nhà giáo dục Xô Viết. Bàn về người thầy giáo xã hội chủ nghĩa, Lê Nin nhiều lần nhấn
mạnh tất cả nhiệm vụ nặng nề của nhà trường Xô viết chỉ có thể thực hiện tốt nếu có sự tham gia của đội ngũ giáo
viên. Người đánh giá cao vị trí xã hội, vai trò của người thầy giáo trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ cũng như trong
cuộc cách mạng văn hoá, khoa học, kỹ thuật: “ Giáo viên có nhiệm vụ truyền bá giáo dục to lớn, trước hết phải trở
thành đội quân chủ yếu của sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa, phải giải phóng cuộc sống, tri thức khỏi phụ thuộc
giai cấp tư sản, khỏi sự đô hộ của giai cấp bóc lột...” . Từ đó Lê Nin khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa phải thay đổi
vị trí xã hội của người giáo viên, phải có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người thầy giáo thực hiện nhiệm
vụ của họ... A. S. Makaarencô( 1888 – 1939) là nhà giáo dục Xô viết lỗi lạc đã để lại cho nhân loại một kho tàng lý
luận giáo dục vô giá, nhưng trước hết ông là một nhà giáo hoạt động trong thực tiễn giáo dục suốt 32 năm. Vì
vậy,hơn ai hết ông hiểu rõ vai trò to lớn của người giáo viên – nhà giáo dục, đồng thời ông cũng yêu cầu rất cao đối
với nhân cách của họ. Macaarencô yêu cầu tất cả mọi người làm công tác giáo dục phải rèn luyện và học tập, không
chỉ về phẩm chất tư cách mà về tri thức, năng lực, nghệ thuật giáo dục, dạy học. Ông nói: “ Tôi đi đến một niềm tin
sâu sắc là không có nhà giáo dục nào cả, còn tốt hơn là có những nhà giáo dục tự rèn luyện kém. Thà có 4 nhà giáo
dục có khả năng còn hơn là có 40 người thiếu khả năng hoặc được đào tạo tồi”.và “điều quan trọng là phải làm
việc một cách có ý thức và tích cực, coi trọng nghề nghiệp”. Makarencô cũng yêu cầu tập thể các nhà giáo dục phải
là một thể thống nhất trong suy nghĩ và hành động, “Không có gì nguy hiểm hơn là chủ nghĩa cá nhân và sự tranh
chấp trong tập thể giáo viên, không có gì ghê tởm hơn, nguy hại hơn cái đó”. Ông cho rằng: “ Sự giáo dục đúng đắn
chỉ có thể thực hiện được với tập thể nhà giáo dục nhất trí về quan điểm và tin tưởng giúp đỡ lẫn nhau...” . Đóng góp
lớn lao của Makarencô cho khoa học đào tạo giáo viên chính là ở chỗ xác định ý nghĩa, vai trò của tập thể các nhà
giáo dục, tính thống nhất trong hoạt động sư phạm, những điều đó trong lịch sử giáo dục nhân loại, chưa có ai đề

cập tới sâu sắc, có giá trị thực tiễn Makarencô. Ngày nay, những kinh nghiệm và lý luận của ông về người giáo viên,
và tập thể giáo viên cần được quán triệt sâu sắc trong công tác đào tạo giáo viên của các trường sư phạm.
Tóm lại: Điểm quan vài nét những tư tưởng, quan điểm về vai trò, chức năng của người giáo viên trong lịch sử giáo
dục thế giới, chúng ta thấy rằng giáo dục là một hiện tượng xã hội, hiện diện trong tất cả mọi chế độ, mọi giai đoạn
phát triển của lịch sử. Do vậy, dù khác nhau về địa lý, lịch sử, truyền thống, dù được đặt vào những vị trí khác nhau
trong từng chế độ xã hội.... nhưng vai trò, tác dụng của người giáo viên vẫn được khẳng định và đánh giá cao trong
lịch
sử
giáo
dục
của
nhân
loại.
3.VỊ
TRÍ
VAI
TRÒ
CỦA
NGƯỜI
GIÁO
VIÊN
VIỆT
NAM.
Đất nước ta luôn tự hào với truyền thống ngàn năm văn hiến. Lịch sử dân tộc ta ghi nhiều trang oanh liệt, văn
chương và tư tưởng Việt Nam có vẻ đẹp riêng, khoa học kỹ thuật Việt Nam vẫn đúc kết nên những kinh nghiệm nhất
định...Tất cả những thành quả ấy là do sức sống, do bản lĩnh của nhân dân, trong đó có phần của những thầy giáo
qua
các
thời
đại.

Ở nước ta, trong xã hội cũ trước năm 1945 ( xã hội phong kiến và thời kỳ Việt Nam bị nước ngoài đô hộ), giai cấp
thống trị cũng luôn ý thức một cách sâu sắc vai trò, ý nghĩa của giáo dục nên cũng luôn tìm cách nắm lấy đội ngũ
giáo viên, buộc họ phải thực hiện ý đồ chính trị, tư tưởng đạo đức của giai cấp mình. Trong cuộc đấu tranh gây gắt
giữa các giai cấp về giáo dục, đội ngũ giáo viên bị phân hoá thành hai bộ phận: một bộ phận giáo viên làm việc trong
các nhà trường dành cho con em giai cấp thống trị, do vậy, họ có điều kiện sống và làm việc thuận lợi hơn; đại bộ
phận giáo viên làm việc trong các nhà trường dành cho con em nhân dân lao động thì có cuộc sống vật chất khó
khăn, không được tôn trọng về mặt pháp lý, bị coi thường, luôn phải chịu đựng những bất công...Tuy nhiên, trong
hoàn cảnh chung đó, một bộ phận giáo viên đã thể hiện tài đức cao sáng và có công lớn trong việc đem giáo dục
đến
với
quần
chúng
nhân
dân
lao
động.
Trong xã hội phong kiến có những người dã từ bỏ chức tước, địa vị cao sang ở chốn quan đường để sống một cuộc
đời thanh bạch nhưng cao thượng, làm người giáo viên dạy dỗ con em nhân dân lao động, nêu cao khí tiết và tinh
thần dân tộc, yêu nước thương nòi. Thông qua những trường tư do họ mở ở các địa phương và với vai trò là những


thầy “ đồ”, họ đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí và đào tạo nhân tài cho đất nước. Nhân dân kính
mến yêu thương họ, học sinh cảm phục và biết ơn họ. Những tấm gương thầy giáo tiêu biểu soi sáng muôn đời sau
như Chu Văn An( 1292 – 1370), Nguyễn Bỉnh Khiêm ( 1491 – 1585), Ngô Thế Vinh( 1803- 1856), Nguyễn Đức
Đạt( 1825 – 1887), Nguyễn Văn Siêu (1796-1869); Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888)...
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm chiếm nước ta làm thuộc địa. Cùng với chính sách bình định, khủng bố, cai trị,
thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân rất thậm tệ. Trong khuôn khổ chính sách giáo dục và tổ chức nhà
trường công khai dưới chế độ thực dân Pháp, đội ngũ giáo viên tất nhiên không phải là thuần tuý, nhưng những thầy
giáo đúng đắn, nghiêm túc vẫn xứng đáng với lòng kỳ vọng của học sinh và nhân dân. Họ đã cố gắng say mê, tận
tuỵ với nghề, áp dụng những kinh nghiệm sư phạm phương Tây vào công tác dạy học. Trong hoàn cảnh thực dân

Pháp muốn học sinh Việt Nam quên mình, quên dân tộc mình... họ đã góp phần làm cho học sinh hiểu được cái hay,
cái đẹp của tiếng mẹ đẻ, của nền văn chương Việt Nam, nuôi dưỡng tinh thần tự hào dân tộc, giữ gìn được lương tri
của người dân mất nước. Họ cũng nêu tấm gương sáng về học lực uyên bác, về phương pháp sư phạm xuất sắc và
lòng nhân hậu đối với học sinh. Những thầy giáo tiêu biểu như : Dương Quảng Hàm, Nguyễn Hữu Tảo, Đặng Thai
Mai.... Cũng trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, nhiều nhà giáo dục đã đứng lên đấu tranh, trở thành những tấm
gương của ý chí tự cường, tinh thần độc lập tự do, yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm như Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh... Một số thầy giáo đã trở thành những chiến sĩ cách mạng đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập dân tộc
và bình đẳng xã hội, tiêu biểu nhất là thầy giáo Nguyễn Tất Thành – Chủ tịch Hồ Chí Minh...
Nhìn chung, vị trí của người giáo viên Việt Nam trong xã hội cũ là không xứng đáng với nghề nghiệp của họ, nhưng
đội ngũ giáo viên đã đóng góp to lớn vào công tác giáo dục thế hệ trẻ, giữ gìn và phát huy những truyền thống quý
báu của dân tộc Việt Nam. Tinh thần tôn sư trọng đạo, nói một cách thiết thực hơn là hiếu học, trọng thầy của nhân
dân ta luôn có những nét riêng biệt. Nhân dân, học sinh trọng thầy, biết ơn thầy vì gắn thành quả của thầy với thành
quả của lao động, “ Không thầy đố mày làm nên”. Mặt khác, ông thầy trong xã hội Việt nam xưa – không kể bọn thầy
đồ, nho sĩ tha hoá - đại đa số là những người thực sự có công với đất nước. Có thể khẳng định rằng, trên thế giới
này, ít có một đất nước mà hầu hết những con người có vai trò quan trọng trong lịch sử đều trải qua nghề thầy và có
khá nhiều người thầy không có chức tước, học vị gì cao, nhưng lại có công lớn ( Lý Công Ẩn đào tạo ra Lý Thường
Kiệt, Trương Văn Hiến dạy dỗ Quang Trung, Nguyễn Thức Tự bồi dưỡng cho Phan Bội Châu...). Người thầy giáo
vẫn
được
coi

cầu
nối,
nối
liền
quá
khứ,
hiện
tại,
tương

lai.
3.1.
Vai
trò
của
người
giáo
viên
trong

hội
mới
Trong suốt cuộc đấu tranh trường kỳ giữ nước và dựng nước, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn vinh nghề dạy học và vị
trí cao cả của người thầy, Bác Hồ đã nói: “ Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp
phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt – thầy giáo xứng đáng là thầy giáo- là
người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những thầy giáo tốt
là những anh húng vô danh”.Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: “ Nghề dạy học là một nghề cao quí... nghề dạy học
là một nghề sáng tạo vào bậc nhất trong các nghề sáng tạo... vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII khẳng định đội ngũ giáo viên giữ vai trò quyết
định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh[7]. Vai trò của người giáo viên Việt Nam trong thời đại ngày nay
được
thể
hiện
một
cách
cụ
thể

những
nội

dung
sau:
- Giáo viên là người giáo dục và đào tạo học sinh – thế hệ tương lai của dân tộc, của đất nước.
Chức năng trọng yếu của giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách con người toàn diện. Lực lượng chủ yếu
đảm nhận và thực hiện chức năng ấy là đội ngũ giáo viên. Việc hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ đang
lớn lên là trách nhiệm của toàn xã hội, của gia đình và hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó đội ngũ giáo viên có
trách nhiệm nặng nề nhất vì họ là những người chuyên trách công việc giáo dục. Người giáo viên là những người
trực tiếp giáo dục đào tạo thế hệ trẻ theo đúng mục đích giáo dục. Cụ thể người giáo viên có trách nhiệm truyền đạt
cho thế hệ trẻ hệ thống tri thức khoa học, và kỹ năng, kỹ xảo lao động nghề nghiệp, truyền bá cho họ lý tưởng và
đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hoá của dân tộc và nhân loại, đào luyện họ trở thành những
lớp người có ích cho đất nước. Nền văn hoá của nhân loại và dân tộc chỉ được bảo tồn và phát triển thông qua sự
lĩnh hội và sáng tạo của thế hệ trẻ. Muốn cho sự lĩnh hội đó của thế hệ trẻ đầy đủ, chính xác, muốn cho nền văn hoá
đó biến thành những cơ sở trọng yếu để xây dựng nhân cách cho họ thì họ phải được rèn luyện theo phương thức
đặc biệt – phương thức nhà trường thông qua vai trò người thầy giáo. Có thể nói thầy giáo là cái “ dấu nối” giữa nền
văn hoá xã hội và việc tái sản xuất nền văn hoá đó ở thế hệ trẻ. Mặt khác, việc hình thành và phát triển nhân cách
con người là một quá trình lâu dài, nhưng giai đoạn được giáo dục ở nhà trường là giai đoạn phát triển mạnh mẽ


nhất của nhân cách.Vì vậy, những tác động và kết quả giáo dục của giáo viên đối với học sinh vừa có tác dụng đặt
nền móng, vừa có tác dụng định hướng, dẫn dắt cho quá trình phát triển nhân cách. Sự phát triển tương lai của học
sinh phụ thuộc nhiều vào kết quả giáo dục của giáo viên. Giáo viên chính là người “ kỹ sư thiết kế nên tâm hồn” học
sinh.
Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, trước những yêu cầu cao của xã hội đối với giáo dục, vai trò của người giáo viên
càng được tôn vinh. Báo cáo của uỷ ban quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI đã khẳng định vai trò quyết định của người
thầy giáo trong việc chuẩn bị thế hệ trẻ có trách nhiệm xây dựng tương lai của nhân loại theo hướng toàn cầu hóa,
đoàn kết, hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau, sống trong hoàn bình, bao dung.Tất cả phụ thuộc rất nhiều vào việc đội ngũ
giáo viên phải rèn luyện được ở thế hệ trẻ một trí tuệ nghiêm túc, tình cảm sâu sắc, thông cảm lẫn nhau cùng với
tính
độc
lập

ngày
càng
cao”.
- Đối với nhà trường, giáo viên là lực lượng chủ đạo trong công tác giáo dục học sinh
Từ việc khái quát những thành công của hoạt động giáo dục trên thế giới, người ta khẳng định rằng: “Giáo viên giữ
vai trò quyết định trong quá trình nhận biết học – dạy và đặc trưng trong việc định hướng lại giáo dục. Người ta luôn
luôn nhận thấy rằng thành công của các cuộc cải cách giáo dục phụ thuộc dứt khoát vào “ ý chí muốn thay đổi” cũng
như chất lượng giáo viên. Không một hệ thống giáo dục nào có thể vươn cao quá tầm những giáo viên làm việc cho
nó”.
Ngày nay, những ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình dạy học ngày càng nhiều, các phương tiện kỹ thuật
dạy học ngày càng phát triển hiện đại... nhưng chỉ có tác dụng giảm nhẹ sức lao động, tăng thêm năng lực dạy học,
giáo dục của giáo viên chứ hoàn toàn không thể thay thế vai trò của họ. Điều đó có thể lý giải rằng giáo viên không
chỉ dạy tri thức khoa học,dạy kỹ năng, kỹ xảo; phát triển trí tuệ học sinh mà còn truyền bá cho họ thế giới quan khoa
học, lý tưởng, niềm tin đúng đắn, khơi dậy và bồi dưỡng cho họ những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, năng lực sáng
tạo của một người công dân. Giáo viên phải giáo dục học sinh về tâm hồn, về đạo lý,công lý...phải thông qua “dạy
chữ” mà “dạy người”.Giáo viên phải giáo dục nhân cách học sinh bằng chính nhân cách của mình, cho nên không có
máy móc nào hiểu được con người, tác động đến con người sâu sắc bằng chính con người.
Thời đại thông tin đã tạo những cơ hội mới, nhưng cũng đặt nhà giáo trước thách thức mới. Vậy nhà giáo phải làm
gì trước tình hình đó?Tư liệu của Hội nghị Paris về giáo dục đại học có nêu tóm tắt yêu cầu đối với một “ nhà giáo
mới” ở đại học: “ Phải làm chủ được môi trường công nghệ thông tin và truyền thông mới, đồng thời phải chuẩn bị về
mặt tâm lý cho một sự thay đổi cơ bản về vai trò của họ”. Như đã nói, nhà giáo hiện nay không còn là người truyền
thụ kiến thức, mà là người hỗ trợ hướng dẫn tìm chọn và xử lý thông tin. Từ đó có người hỏi: Vậy,vị trí của nhà giáo
trong thời đại mới như thế nào, họ có bị “ ra rìa” không, câu ngạn ngữ “ không thầy đố mày làm nên” của dân ta có
còn đúng nữa không? Chúng tôi cho rằng vai trò của nhà giáo thay đổi, nhưng vị trí của nhà giáo hoặc là không đổi,
hoặc là được nâng cao hơn so với trước đây, nếu nhà giáo thoả mãn được những đòi hỏi của thời đại mới.
Hội nghị Paris về giáo dục đại học cho rằng trong giáo dục phương thức giáo dục mặt đối mặt vẫn chiếm vị trí hàng
đầu, tác dụng của sự tương tác trong việc dạy và học luôn luôn được nhấn mạnh. Trong các mối tương tác đó, vị trí
của một đối tác có bề dày về kinh nghiệm sống, kinh nghiệm chọn nhập và xử lý thông tin sẽ nổi trội, sự đóng góp
của đối tác đó trong quá trình học sẽ rất lớn không phải bằng sự độc quyền về thông tin và tri thức có tính đẳng cấp,
mà bằng trí tuệ và sự từng trải của mình. Rõ ràng là nhà giáo có thể và cần phải khẳng định vị trí của mình trong các

mối
tương
tác
đó.
Nhà giáo hiện nay có sứ mạng đi đầu để chuẩn bị cho cuộc cách mạng thực sự về giáo dục như đã dự báo. Vai trò
tiên phong đó sẽ nâng vị trí của nhà giáo lên rất nhiều so với trước đây. Với cơ hội mà công nghệ thông tin truyền
thông mới đưa lại. Những kinh nghiệm và ý tưởng sáng tạo thật sự có giá trị của bất kì một cá nhân nhà giáo nào
cũng dễ dàng được truyền bá rộng rãi đến số lượng người học đông hơn nhiều so với trước đây, không chỉ giới hạn
trong bốn bức từơng lớp học mà có thể lan rộng ra cả nước và thậm chí vượt qua mọi biên giới quốc gia, điều đó
làm cho vị trí của nhà giáo thật sự được nâng lên cao hơn nhiều so với trước đây. Rõ ràng là vị trí của nhà giáo trong
thời đại thông tin không hề giảm, mà có cơ hội tăng lên. Tuy nhiên, việc có giữ vững vàng và nâng cao được vị trí đó
hay không còn tuỳ thuộc vào sự phấn đấu của bản thân từng nhà giáo để đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới.
Chúng ta có thể hi vọng, trước cơ hội và thách thức của thời đại mới, đa số nhà giáo chúng ta sẽ không bị “ ra rìa” .
Nói cách khác, việc đào tạo giáo viên hiện nay phải theo hướng đào tạo người dạy tư duy, dạy năng lực gia công xử

thông
tin
khoa
học.
+ Trong nhà trường,giáo viên đóng vai trò chủ đạo có nghĩa giáo viên không chỉ là người truyền đạt thông tin mà còn
là người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển, điều chỉnh quá trình nhận thức và quá trình hình thành nhân cách của học


sinh.
Ngày nay, những đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại đang đặt ra những yêu cầu cao đối với chất lượng nguồn
nhân lực, đòi hỏi phải đổi mới giáo dục một cách toàn diện. Xu hướng đổi mới cơ bản là chuyển từ kiểu dạy học “
lấy giáo viên làm trung tâm” sang kiểu “dạy học lấy học sinh làm trung tâm”.Nói cụ thể hơn là dạy học phải hướng
vào người học. Đặt người học vào vị trí trung tâm của quá trình giáo dục – dạy học không có nghĩa là phủ nhận hay
xem nhẹ vai trò chủ đạo của giáo viên trong quá trình giáo dục. Cần phải nhận thức rằng học sinh là đối tượng của
giáo dục, vì vậy phải tôn trọng lợi ích, nhu cầu của người học. Lợi ích và nhu cầu cơ bản nhất của học sinh là sự

phát triển nhân cách của họ, cho nên mọi nỗ lực của nhà trường, của giáo viên trong hoạt động giáo dục và dạy học
đều phải hướng tới việc tạo điều kiện thuận lợi để học sinh, bằng hoạt động của mình, hình thành và phát triển nhân
cách. Trong dạy học lấy học sinh làm trung tâm, vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh được phát huy,
nhưng vai trò của giáo viên không hề bị hạ thấp, yêu cầu đối với người dạy không hề giảm nhẹ, trái lại, giáo viên
càng phải có trình độ cao về chuyên môn nghiệp vụ mới có thể đóng vai trò là người cố vấn, người trọng tài luôn
luôn giữ vai trò chủ đạo trong quá trình sư phạm. Chính vì vậy, A. Đixtecvec cho rằng: “ Người giáo viên bình thường
mang chân lý đến cho trò, người giáo viên giỏi biết dạy
cho trò đi tìm chân lý”.
Trong một thế giới khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển vừa mang lại sự biến đổi nhanh trong đời sống xã hội,
vừa tạo ra sự chuyển dịch các định hướng giá trị, thì người giáo viên không thể chỉ đóng vai trò truyền đạt tri thức,
mà đồng thời phải có khả năng phát triển những cảm xúc, thái độ, hành vi ứng xử của học sinh, đảm bảo cho học
sinh làm chủ được và biết ứng dụng hợp lý những tri thức đó....Một trong những tư tưởng chủ yếu trong chiến lược
phát triển giáo dục thế kỷ XXI của UNESCO là giáo viên phải được đào tạo để trở thành những nhà giáo dục hơn là
những chuyên gia truyền đạt kiến thức. Tư tưởng đó nhấn mạnh người giáo viên phổ thông trong thời đại mới phải
biết phát triển ở người học ý thức về các giá trị đạo đức, tinh thần, thẩm mỹ tạo nên bản sắc văn hoá truyền thống
riêng của từng dân tộc.Giáo viên hơn ai hết phải là nhà giáo dục, bằng chính nhân cách của mình tác động tích cực
đến
sự
hình
thành

phát
triển
nhân
cách
của
học
sinh.
Tóm lại, trong xã hội hiện đại, thông qua chức năng dạy học và giáo dục, đội ngũ giáo viên có vị trí, vai trò vô cùng
quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đánh giá cao vai trò của đội ngũ giáo viên trong xã hội mới, coi họ là lớp

người vẻ vang của đất nước, vì nếu “ không có thầy giáo thì không có giáo dục”. Từ đó Người cũng chỉ rõ: vấn đề
then chốt, quyết định chất lượng giáo dục là phải xây dựng được một đội ngũ đông đảo những người làm công tác
giáo dục yêu nghề, yêu trường, hết lòng thương yêu, chăm sóc, giáo dục học sinh… Cố tổng bí thư Lê Duẩn cũng
từng nói: “ Đảng và nhân dân ta giao phó việc dạy dỗ con em mình cho các giáo viên, cũng là phó thác cho họ sứ
mệnh đào tạo thế hệ tương lai cho cả dân tộc ta”. Nhà thơ Ấn Độ Tago viết: “ Giáo dục một người đàn ông được một
người đàn ông; giáo dục một người đàn bà được cả một gia đình; giáo dục một người Thầy được cả một xã hội”.
4. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN
Công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược giáo dục trong những
năm đầu thế kỷ XXI. Đội ngũ giáo viên phải được xây dựng đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và loại hình, có chất
lượng ngày càng cao về đạo đức, lòng yêu nghề và năng lực sư phạm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
4.1.Về
công
tác
đào
tạo
giáo
viên
*
Xác
định
lại
mục
tiêu
đào
tạo
Chức năng của các trường sư phạm hiện nay là đào tạo chuẩn mực, chất lượng cao giáo viên cho tất cả các cấp
học, ngành học, cung cấp nguồn nhân lực cho các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân từ mẫu giáo tới đại học.
Khi xác định “ mô hình nhân cách của sinh viên sư phạm lúc tốt nghiệp”, các nhà nghiên cứu vẫn xác định hai thành
phần cơ bản trong cấu trúc nhân cách là phẩm chất tư tưởng chính trị, đạo đức và năng lực nghề nghiệp. Tuy nhiên,
trước yêu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông, các trường sư phạm cần phải xác định lại mục tiêu đào tạo theo

hướng coi trọng hơn nữa mặt giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện các phẩm chất cơ bản của người giáo viên, mặt
khác, nâng cao hơn nữa năng lực nghề nghiệp cho sinh viên. “ Hệ thống đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ thầy giáo
cũng phải đổi mới nhằm tăng cường hiệu quả nghiệp vụ, thực sự là dạy nghề, nâng cao tay nghề và tiềm lực nghề
cho những người hành nghề”. Bàn đến những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người giáo viên tương lai “ Về
lý thuyết không phải là mới, nhưng cái mới là nhận thức lại cụ thể hơn và phải tìm cách thực hiện có hiệu quả trên
thực
tế”
.
* Xây dựng một cách tường minh hệ thống kiến thức mà người giáo viên tương lai cần chiếm lĩnh trong suốt quá trình
đào
tạo.
Tuỳ theo mục tiêu đào tạo giáo viên cụ thể ở từng bậc học, cấp học, môn học mà xác định được hệ thống kiến thức


cơ bản cả về lý thuyết và thực hành. Hệ thống kiến thức này phải cập nhật được những thành tựu và tiến bộ của
khoa học – công nghệ, văn hoá - xã hội... Đối với nghề dạy học, hệ thống kiến thức này phải bao gồm:
+ Phần kiến thức chung nhằm hình thành cho sinh viên một trình độ văn hoá chung, một cách nhìn nhận biện chứng
để
xem
xét


giải
các
vấn
đề
của
khoa
học


đời
sống.
+ Phần kiến thức thuộc về các khoa học cơ bản có quan hệ tới các môn học mà sinh viên sẽ giảng dạy sau này.
+ Phần kiến thức về khoa học giáo dục như Tâm lý học, Giáo dục học, PPDH các môn học và tổ chức các hoạt động
giáo
dục.
Phải thoát ra khỏi quỹ đạo quen thuộc là chỉ cần chăm lo đào tạo giáo viên môn học, chỉ tập trung vào việc trang bị
kiến thức và kỹ năng dạy học về một vài môn học trong trường phổ thông. Phải đảm bảo cho người giáo viên được
đào
tạo
theo
quan
điểm
nhân
văn,
vừa

người
dạy,
vừa

nhà
giáo
dục.
Nội dung đào tạo ban đầu trong trường sư phạm thường gồm hai phần chủ yếu là chuyên môn và nghiệp vụ, nhưng
vấn đề đặt ra là cần xác định tương quan hợp lý giữa hai mặt này trong kế hoạch đào tạo của mỗi cấp sư phạm. Nội
dung đào tạo thay đổi tùy yêu cầu kinh tế – xã hội, điều kiện tuyển sinh. Theo yêu cầu phát triển kinh tế xã hội hiện
đang đưa thêm các nội dung mới như giáo dục dân số, giáo dục môi trường, giáo dục sức khoẻ, tin học, công nghệ
học, kinh tế học giáo dục, xã hội học giáo dục... tăng cường đưa các kiến thức về pháp luật vào nhà trường... Đang
có những nỗ lực khắc sự đào tạo theo diện chuyên môn quá hẹp, sự thiếu cân đối giữa lý thuyết và thực hành, sự

không ăn khớp giữa sư phạm và phổ thông. Kế hoạch đào tạo đang được mềm hoá, giảm số giáo trình bắt buộc cho
mỗi
đầu
sinh
viên,
tăng
cường
các
giáo
trình
chuyên
đề
tự
chọn,
tự
nguyện.
*
Đổi
mới
mạnh
mẽ
phương
pháp
dạy
học

các
trường

phạm

Tương ứng với sự chuyển biến về mục tiêu, nội dung giáo dục- đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm, cần có đổi
mới và chuyển biến kịp thời về phương thức đào tạo, trước hết là PPDH các môn học. Nghị quyết Hội nghị lần thứ II
Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VIII chỉ rõ: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng
các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào QTDH, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho sinh viên” [7].Từ đó các nhà nghiên cứu đã xác định ba hướng chính đổi mới PPDH ở trường sư phạm hiện nay
là:
+ PPDH cần phát huy cao độ tính tích cực, độc lập, phát triển tư duy sáng tạo cho sinh viên
+
Bồi
dưỡng
năng
lực
tự
học,
tự
nghiên
cứu
+
Rèn
luyện
KN
thực
hành,
KN
nghề
nghiệp
cho
sinh
viên
Những định hướng đó có mối quan hệ mật thiết với việc chuyển biến từ kiểu dạy học “lấy giáo viên làm trung

tâm”sang “ lấy người học làm trung tâm”. Trong kiểu dạy học này, giảng viên không còn đóng vai trò chính là người
truyền đạt kiến thức mà là người gợi mở, hướng dẫn, tổ chức,cố vấn, trọng tài cho các hoạt động tìm tòi, tranh luận
của sinh viên. Theo đó những PPDH tích cực đang dần thay thế các PPDH thụ động nhằm phát huy tính tích cực
chủ
động
sáng
tạo
của
người
học.
Đối với các trường sư phạm lôi cuốn sinh viên vào các hoạt động một cách độc lập, sáng tạo lại càng có ý nghĩa cần
thiết khi muốn hình thành cho họ những cơ sở của năng lực sư phạm. Tạo mọi điều kiện để sinh viên thực sự độc
lập, chú trọng khi tham gia các hoạt động thực hành và thực tập sư phạm, điều này chỉ có thể thực hiện khi xây
dựng được một qui trình hình thành những kỹ năng sư phạm trong quá trình đào tạo ở trường.
Từng bước hiện đại hoá thiết bị dạy học có một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình dạy học, đặc biệt khi công
nghệ thông tin phát triển với tốc độ nhanh và được ứng dụng rộng rãi. Vì thế muốn đổi mới PPDH phải tăng cường
thiết bị, phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại như là một thành phần hỗ trợ đắc lực cho hoạt động dạy học của
giáo
viên

học
sinh.
+ Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá theo hướng đánh giá toàn diện, nhưng chú trọng mặt kỹ năng thực
hành,

duy
sáng
tạo
của
sinh

viên.
Đổi mới chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, giảng viên, chú trọng việc rèn luyện, giữ gìn và nâng cao
phẩm
chất
đạo
đức
nhà
giáo.
* Về hình thức tổ chức cần thực hiện theo tinh thần giáo dục liên tục, giáo dục suốt đời dưới nhiều hình thức: học
ngoài giờ làm việc tại một trường đại học ở gần, học tập trung từng đợt tách khỏi giảng dạy với sự hỗ trợ tài chính
hoặc tự túc, học bằng thư, học từ xa, tự học là chính rồi dự các kì kiểm tra, thi do ngành tổ chức. Nội dung bồi
dưỡng được phân hoá, đáp ứng các nhu cầu khác nhau của mỗi nhóm đối tượng.
Hình thức bồi dưỡng đa dạng phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của các loại giáo viên, thực hiện bằng một hệ


thống trường bồi dưỡng bên cạnh các trường Sư phạm hoặc trường Sư phạm kiêm nhiệm, thực hiện bằng nhiều
kiểu như lớp ngắn ngày, lớp chuyên đề, lớp hàm thụ, lớp đài phát thanh, truyền hình.
4.2.
Về
công
tác
đào
tạo
lại

bồi
dưỡng
giáo
viên
Đội ngũ giáo viên phổ thông nước ta có một lịch sử về trình độ đào tạo ban đầu không cao, đa dạng về nguồn gốc

đào tạo, tỉ lệ chưa đạt chuẩn đào tạo theo luật giáo dục còn cao, nhất là ở vùng khó khăn. Một bộ phận giáo viên các
cấp còn non yếu trong việc sử dụng phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, chưa
có tiềm lực để đáp ứng yêu cầu khi phải dạy theo chương trình, SGK mới... Bên cạnh đó, phương pháp bồi dưỡng
giáo viên trong những năm qua còn bộc lộ các nhược điểm như: mang tính “quảng canh”, thể hiện ở chỗ chưa bảo
đảm đầy đủ yêu cầu phân hoá về trình độ, về nhu cầu của người giáo viên; chưa bảo đảm để người giáo viên tự học
là chính; chưa chú ý đến những đặc điểm học tập của người lớn... . Xuất phát từ những vấn đề trên, công tác đào
tạo
lại

bồi
dưỡng
giáo
viên
cần
tuân
theo
các
định
hướng
lớn
sau
đây:
+ Đào tạo lại để chuẩn hoá trình độ cho số giáo viên các cấp chưa đạt trình độ chuẩn đào tạo theo qui định của Luật
giáo dục. Từng bước đào tạo đội ngũ giáo viên cốt cán, giáo viên giỏi của các cấp học có trình độ đào tạo trên
chuẩn.
+Tiếp tục thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên gắn liền với bồi dưỡng giáo viên phục vụ yêu cầu đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông. Trước mắt là bồi dưỡng giáo viên dạy thí điểm, tiếp đến là dạy đại trà chương
trình

sách

giáo
khoa
các
lớp
cải
cách.
+ Đổi mới phương thức học tập của giáo viên trong các chương trình đào tạo lại và bồi dưỡng theo hướng tập trung
vào hoạt động của giáo viên với phương châm lấy tự học, tự bồi dưỡng là chính, “ biến quá trình bồi dưỡng thành
quá trình tự bồi dưỡng” , “ mỗi trường học là một đơn vị bồi dưỡng”. Lôi cuốn, tổ chức, hướng dẫn cho giáo viên tích
cực, chủ động, sáng tạo trong học tập với sự trợ giúp của tài liệu và phương tiện nghe nhìn, luôn phát hiện, tìm tòi,
không
cứng
nhắc,


rập
khuôn
theo
những

đã

trong
tài
liệu.
+ Tăng cường tổ chức học tập theo nhóm môn học trong từng tập thể sư phạm, nên thắc mắc,tự giải đáp ở tổ, nhóm
có chuyên gia giải đáp...Tạo điều kiện cho giáo viên được đóng góp kinh nghiệm bản thân vào xây dựng nội dung
chương
trình,
đổi

mới
phương
pháp
dạy
học

giáo
dục
+ Tập trung bồi dưỡng về PPDH phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Không đi vào PPDH nói
chung mà bồi dưỡng những PPDH cụ thể, áp dụng vào từng bài giảng để giáo viên có thể vận dụng ngay vào quá
trình
dạy
học
của
mình.
+ Bồi dưỡng thường xuyên cũng nhằm cập nhật, bổ sung, hiện đại hoá kiến thức cho giáo viên để họ có thể nắm
vững những kiến thức mới và được bổ sung, mới được đưa vào chương trình và sách giáo khoa, đặc biệt là những
kiến
thức
tích
hợp
từ
nhiều
môn
học.
+ Tăng cường và có biện pháp đặc biệt để đào tạo bồi dưỡng các loại hình giáo viên còn thiếu ở các cấp học như
thể dục, mỹ thuật, âm nhạc, giáo dục công dân, kỹ thuật, tin học... Đưa các nội dung giáo dục mang tính xã hội như
phòng chống ma tuý, môi trường, dân số, giới tính... vào chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên.
+ Xây dựng, tổ chức đội ngũ chuyên gia làm công tác đào tạo lại, bồi dưỡng. Củng cố, tăng cường năng lực của các
trường


phạm
đào
tạo,
bồi
dưỡng
giáo
viên....

KẾT LUẬN
Trong bất kỳ xã hội nào, bất kỳ giai đoạn phát triển nào của nhân loại, đội ngũ giáo viên đều đóng vai trò vô cùng
quan trọng, bởi vì họ là những người trực tiếp làm công tác giáo dục - đào tạo thế hệ tương lai. Ở nước ta, trong
suốt cuộc đấu tranh trường kỳ giữ nước và dựng nước, nhân dân ta, Đảng và nhà nước ta luôn luôn tôn vinh nghề
dạy học và vị trí cao cả của người thầy. Đội ngũ giáo viên đã không quản khó khăn gian khổ, vượt qua mọi thiếu thốn
có mặt trên khắp mọi miền đất nước, cống hiến toàn bộ tài năng cho sự nghiệp “ trồng người”, góp phần vào sự
nghiệp
chung.
Ngày nay, trước xu thế đổi mới của thế giới- thời đại của khoa học- công nghệ hiện đại. Đất nước Việt Nam đang
bước vào giai đoạn phát triển mới- một xã hội công nghiệp, hiện đại, văn minh, công bằng, thì vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của nhà trường, của người giáo viên đã có sự thay đổi cơ bản. Người giáo viên của thế kỷ XXI phải được
đào tạo ở trình độ cao về học vấn cả về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội – nhân văn và khoa học giáo dục; phải
nắm vững phương pháp dạy học theo xu thế dạy học lấy học sinh làm trung tâm; phải được trang bị những tri thức


cơ bản về công nghệ thông tin và ứng dụng vào trong quá trình dạy học. Người giáo viên không chỉ thực hiện chức
năng dạy học, giáo dục mà còn là một nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà đạo đức, nhà hoạt động xã hội....
Muốn có một đội ngũ giáo viên như vậy, cần “phát triển đội ngũ nhà giáo”, trong đó đổi mới công tác đào tạo, bồi
dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục phải được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục
hiện
nay

Tóm
tắt
Dân tộc ta vốn có truyền thống tôn sư trọng đạo. Các câu thành ngữ “Không thầy đố mày làm nên”; “Muốn sang thì
bắc cầu Kiều/Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”... đã khẳng định vị thế của người thầy giáo trong xã hội và đức tính
hiếu học của nhân dân ta. Trong thời đại xây dựng xã hội học tập ngày nay, vai trò của người thầy lại càng không thể
thiếu trong quá trình định hướng về tri thức, nhân cách và phương pháp, là tấm gương sáng đối với các thế hệ người
học. Do vậy cần thiết phải có một định hướng, một cách nhìn mới đối với việc đào đào và bồi dưỡng người thầy giáo
trong

hội
hiện
nay.

SUMMARY
Our people traditionally respected professors of religion. The proverb "No teacher should quiz you do"; "If you want to
bypass the overseas / Want to grab our son loves the word you see" ... has confirmed the status of teachers in
society and studious qualities of our people. In the era of building a learning society today, the role of the teacher is
even more indispensable in the process-oriented knowledge, personality and approach, a good example for
generations of students. Therefore necessary to have a direction, a new vision for training and refresher training
teacher
in
today's
society.

LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo. Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2002
2. Lê Khánh Bằng. Yêu cầu mới của thời đại, của đất nước đối với giáo viên và phương hướng đổi mới phương
pháp
dạy
học


các
trường

phạm.
Tạp
chí
giáo
dục
122.
Số
9/
2005.
3. Nguyễn Hữu Dũng. Định hướng đổi mới phương pháp đào tạo giáo viên. Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 11/ 1996
trang7-9
4.Vũ Văn Dụ. Để tạo sự chuyển biến căn bản chất lượng bồi dưỡng giáo viên phổ thông. Tạp chí giáo dục số 96(9/
2004)
trang
7-8
6.
Chiến
lược
phát
triển
giáo
dục 2001

20010.
NXBGD.
H

2001
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ 2, BCHTW khoá 8, NXBGD Chính trị quốc gia, HN. 1997.
8. Phạm Minh Hạc. Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã hội – kinh tế. NXBGDHN 1996.
9. Phạm Minh Hạc. Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI.NXB Chính trị quốc gia Hà Nội 2002
10. Bùi Văn Huệ. Đào tạo bồi dưỡng giáo viên đáp ứng đổi mới giáo dục phổ thông. Tạp chí giáo dục số 12( 9/2001)
trang
9-10.
11. Vũ Ngọc Khánh. Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945. NXBGD HN 1985.
12.
Luật
giáo
dục.
Nhà
xuất
bản
thống

2006
13.Trần Hồng Quân. Về vai trò của giáo viên và vị trí của hệ thống sư phạm. Tạp chí nghiên cứu giáo dục. Số 3/
1996
,
trang
1

2.
14. Raja Roy Singh. Nền giáo dục cho thế kỷ XXI: Những triển vọng Châu Á - Thái Bình Dương . Viện Khoa học Giáo
dục
Việt
Nam
1994

15. Tài liệu tham khảo số 4/2001. Dự báo xu thế phát triển của thế giới đầu thế kỉ XXI. Thông tấn xã Việt Nam
16. Hà Nhật Thăng - Đào Thanh Âm. Lịch sử giáo dục thế giới. NXBGD HN 1998
17. Thái
Duy
Tuyên. Giáo
dục
học
hiện
đại.
NXBĐHQG

Nội
2001.
18. Nguyễn
Đặng
Tiến,
Lịch
sử
giáo
dục
Việt
Nam,
NXBGD
HN
1996.
19. Lê Công Triêm. Một số vấn đề hiện nay của phương pháp dạy học đại học. NXBGDHN 2002.


Tác giả bài viết: Nguyễn Thị Hiền


Chuẩn mực đạo đức của người thầy
trong nhà trường: Lời dạy của Bác luôn
là phương hướng hành động
(HQ Online)- Thấm nhuần lời dạy của Bác về đạo đức cách mạng, người
thầy giáo cần phải làm gì để xứng đáng với danh xưng đó?

Làm theo lời Bác sẽ góp phần xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục trong sạch và vững mạnh.(Trong ảnh: Một buổi học tại Trường Hải
quan Việt Nam). Ảnh: Quang Hinh
Thứ nhất, mỗi giảng viên, giáo viên thấm nhuần tư tưởng của Người: “Giáo
dục phải tạo ra được những người lao động mới” là người vừa có tài vừa có
những phẩm chất cách mạng, lòng yêu nước, có đạo đức trong sáng, có chí
khí hăng hái vươn lên, không sợ hy sinh gian khổ, dũng cảm, khiêm tốn, thật
thà, cần cù, tiết kiệm, giản dị, và sức khỏe để sẵn sàng đi xây dựng đất nước
ngày càng giàu mạnh, văn minh. Giảng viên, giáo viên phải có ý thức trách
nhiệm phục vụ nhân dân trong các hoạt động giáo dục, nâng cao ý thức trách
nhiệm để hoàn thành tốt nhất công việc của mình là sự thể hiện rõ nhất việc
“phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Thứ hai, là rèn luyện tài, phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ. Bác dạy: “Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ
được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội ngày càng đi tới, công việc ngày càng
nhiều, máy móc ngày càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà
lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình”. Làm theo lời dạy của Bác ở nhà
trường cần khuyến khích việc tự học và học lẫn nhau của giáo viên, nhân
viên. Chú trọng phân công giáo viên có kinh nghiệm kèm cặp giáo viên mới
vào nghề, học lẫn nhau về nghiệp vụ chuyên môn, về kinh nghiệm giáo dục
học sinh, học lẫn nhau về ứng dụng công nghệ thông tin. Xác định học không
chỉ để lấy bằng, chứng nhận ở một cấp nào đó mà phải thực sự tích tụ kiến
thức, học để truyền thụ, để đào tạo thành những con người mới có năng lực,



có phẩm chất để xây dựng đất nước. Muốn có kiến thức thực tiễn phải đi xâm
nhập thực tế, phải nghiên cứu nhiều sách, tài liệu viết về thực tế…
Thứ ba, là rèn luyện đức, Bác từng nói: “Có tài mà không có đức thì vô dụng,
có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Người thầy cần có thái độ,
tác phong, ngôn ngữ ứng xử chuẩn mực khi thực hiện giảng dạy và trong lối
sống của mình. Người thầy cần phải có cái tâm trong sáng, thể hiện ở đạo
đức và hành vi hết lòng vì học sinh, tận tâm dạy bảo học sinh, luôn tìm tòi,
sáng tạo để tìm ra cách dạy hay nhất. Người thầy phải công bằng, công tâm
đối với học viên, không bị “khúc xạ” bởi những cám dỗ vật chất tầm thường,
kiên quyết đấu tranh chống những cái xấu, cái sai trong xã hội, trong chính
bản thân mình và trong đồng sự.
Thứ tư, là rèn luyện tâm, người thầy phải có tâm huyết với nghề. Nghề giáo là
nghề cao quý nhất trong mọi nghề cao quý! Tâm yêu nghề thể hiện ngay
trong bài giảng của mình, trong từng trang giáo án mà người thầy hàng ngày
bổ sung kiến thức. Tâm huyết với nghề còn được đánh dấu và ghi nhận bằng
sự sáng tạo của người giáo viên trong sự nghiệp “trồng người”. Câu khẩu
hiệu “Tất cả vì học sinh thân yêu” làm kim chỉ nam hành động đối với những
người làm công tác giáo dục, đào tạo. Hết lòng trong từng tiết giảng, công
tâm trong từng điểm chấm đối với học viên là biểu hiện rõ nét của ý thức
trách nhiệm ở từng giảng viên. Mọi sự hách dịch khi lên lớp, tư tưởng trù học
viên, vòi vĩnh tiền bạc… dựa trên quyền lực người thầy là hoàn toàn xa lạ đối
với ý thức trách nhiệm của người thầy.
Bản thân là một cán bộ giảng viên của Trường Hải quan Việt Nam, tôi luôn
nhận thức sâu sắc những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng, rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân trong công tác giảng dạy.
Tôi luôn ghi nhớ điều Bác dạy “Làm việc gì cũng phải có cái tâm và yêu nghề
thì chúng ta mới thành công được”. Là một giảng viên trẻ, để bước lên bục
giảng dạy, tôi luôn đặt ra cho mình rất nhiều yêu cầu như làm thế nào để học
viên thích học, làm thế nào để truyền đạt phương pháp giảng dạy hiệu quả

nhất cho học viên, làm thế nào để học viên hứng thú với tiết học của mình…
Lời dạy của Bác luôn là phương hướng hành động, là kim chỉ nam để tôi
hoàn thành tốt công việc của mình.
Muốn được như vậy, mỗi nhà giáo thường xuyên rèn luyện đạo đức, năng lực
tự học và sáng tạo theo gương Bác sẽ là bước đột phá, góp phần xây dựng


đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong sạch và vững mạnh, tạo
động lực thúc đẩy đổi mới mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục-đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới.
Đặng Thị Quỳnh (Trường Hải quan Việt Nam)

Trăn trở một chữ THẦY
(HNM) - Những hành vi lệch chuẩn của cả thầy và trò thời gian gần đây khiến người ta lo ngại
về sự xuống cấp của đạo đức tại một môi trường và trong một mối quan hệ vốn được coi là
chuẩn mực. Cuối tuần qua, một hội thảo về đạo đức, lối sống của học sinh, sinh viên được tổ
chức.
Cuộc "hội chẩn" quy mô quốc gia này đã chỉ ra rằng, tình trạng học sinh không thực hiện đúng
khuôn phép của đạo làm trò ngày càng phổ biến có nguyên nhân từ giáo dục trong gia đình, trong
việc dạy Người ở trường học, do những biến động của đời sống xã hội. Tại đây, những người trong
ngành giáo dục cũng đã thừa nhận, trò không ra trò một phần là do thầy không ra thầy.
Trên thực tế, đa phần giáo viên đều đang rất nỗ lực để hoàn thành sứ mạng cao cả "trồng người".
Tuy nhiên, bên cạnh những người thầy nêu tấm gương sáng rất đáng trân trọng vẫn có không ít
thầy, cô giáo không coi nghề dạy học mình theo đuổi là một nghề cao quý, mà chỉ coi đó như một
phương tiện để kiếm tiền. Bởi thế, họ không giống như người thầy khi xưa, trước trò không bao giờ
lỡ miệng, lỡ tay; trước xã hội không bao giờ để cho người ta có thể nghĩ xấu về mình, về người thầy
giáo. Bây giờ, tình trạng dạy thêm một cách tùy tiện, tràn lan; tệ mua - bán điểm; hiện tượng "chạy
trường, chạy lớp"... không khó để có thể nhận thấy, là hình ảnh phản cảm, đáng xấu hổ của nền
giáo


dục

nói

chung



của

người

thầy

nói

riêng.

Ngày xưa, mỗi niềm vui hay mỗi nỗi buồn của học trò, thầy luôn là người chia sẻ đến nơi đến chốn,
còn ngày nay, giáo viên ít quan tâm đến diễn biến tư tưởng của học sinh, không nhiều thầy cô là
chỗ dựa đáng tin cậy để các em bày tỏ tâm tư, suy nghĩ của mình mỗi khi gặp khó khăn. Cũng
không ít thầy cô có thái độ nóng nảy, thiếu kiềm chế, thiếu phương pháp sư phạm trong xử lý tình
huống dẫn tới những phản ứng, hành động tiêu cực, bột phát ở học sinh; cá biệt có giáo viên còn
hành xử không tốt như xâm phạm thân thể, danh dự của trò. Nhiều thầy cô không còn là tấm gương
sáng cho học sinh noi theo. Thậm chí, có cả những việc trái đạo đức vốn là tối kỵ đối với nghề dạy
học, đối với người thầy giáo, vẫn xảy ra. Bảo mẫu đánh trẻ mầm non, thầy xâm hại trò, gạ tình nâng
điểm, rút ruột khẩu phần ăn của trẻ ở lớp bán trú, thầy trò hỗn chiến trên bục giảng, thầy tát trò đến
thủng màng nhĩ… là những sự việc khiến người làm nghề buồn giận và xấu hổ, người ngoài ngành
thì giận dữ, lên án. Trong khi đó, hiện tượng trò vô lễ, thiếu tôn trọng thầy cô bây giờ không phải là
cá biệt. Theo Bộ GD-ĐT, mỗi năm đều có một vài nghìn vụ học sinh, sinh viên vô lễ, xúc phạm cán

bộ, giáo viên đến mức phải xử lý kỷ luật được thống kê. Cũng đã xuất hiện ngày càng nhiều những
hiện tượng xuống cấp của đạo làm trò như học viên cao học khẩu chiến với giảng viên, học sinh


xông vào lớp hành hung cô giáo, trò đánh trả thầy… Tất cả, tuy chỉ là những chấm đen, nhưng đã
làm

xấu

thêm

bức

tranh

giáo

dục

vốn

đang

ít

màu

sáng.

Tại Hội nghị quán triệt Nghị quyết 29-NQ/TƯ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn

bản và toàn diện GD-ĐT do Bộ GD-ĐT tổ chức mới đây, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã nói rằng,
có những thứ không cần dự án triệu đô, không cần đến tiền mà vẫn có thể làm ngay, đó là dạy cho
học sinh, giáo viên đạo đức làm người. Tác động đến người thầy để làm thay đổi trò là hướng đi
ngắn và hiệu quả nhất, bởi đạo đức người thầy sẽ quyết định đến đạo đức của trò, của thế hệ sau.
Sự khác biệt nhất của nghề giáo so với những nghề khác chính là ở đối tượng tác động và phương
tiện tác động. Đối tượng tác động của giáo dục là con người có ý thức, có nhận thức và xúc cảm.
Trong giáo dục có một đặc trưng là sự noi gương. Sự kính trọng ngưỡng mộ của học trò với tài
năng, nhân cách của thầy là xuất phát điểm cho niềm tin vào cái đẹp, cái thiện trong cuộc đời, là sự
khởi đầu cho sự hình thành nhân cách. Đặc trưng nghề nghiệp đòi hỏi người thầy không chỉ cần có
kiến thức và năng lực sư phạm, phương tiện giáo dục quan trọng nhất chính là nhân cách người
thầy. Nhà giáo dục nổi tiếng người Nga K.D.Usinxki từng nói: "Nhân cách của người thầy là sức
mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với học sinh, sức mạnh đó không thể thay thế bằng bất kỳ cuốn sách
giáo khoa nào, bất kỳ câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách
phạt nào khác". Bởi thế không thể tính đếm hết hậu quả nặng nề từ những ứng xử phi sư phạm của
người thầy trong môi trường giáo dục. Cũng bởi thế, người thầy luôn phải chuẩn mực về đạo đức.
Đạo đức nhà giáo không bao giờ là vấn đề xưa cũ, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nó càng mang
tính thời sự. Với mỗi nghề, bên cạnh những tiêu chuẩn chung cho mọi lĩnh vực thì đều có những
tiêu chuẩn đạo đức riêng phù hợp với tính đặc thù của ngành đó. Đối với nghề thầy giáo - nghề cao
quý nhất trong những nghề cao quý, sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo, thì từ lâu trong xã
hội đã hình thành những quy tắc, chuẩn mực của nhà sư phạm, đến nay đã thành truyền thống. Tuy
nhiên, ngày nay, sự biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội đã tác động không nhỏ tới đời sống xã hội
nói chung, đời sống đạo đức nói riêng, trong đó có cả sự biến đổi của đạo đức người thầy theo
nhiều chiều hướng khác nhau. Vì vậy, cần phải có sự nhìn nhận thật đầy đủ về đạo đức nghề
nghiệp, phải thực sự coi đó như là yếu tố nội lực của sự phát triển. Tuy nhiên, đạo đức người thầy
không thể tự có mà phải được hình thành từ khi là sinh viên sư phạm và tích cực rèn luyện, phấn
đấu tích cực mới có được. Vì vậy, giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho các thế hệ sinh viên sư phạm
là một trong những biện pháp then chốt để thầy ra thầy, từ đó góp phần giáo dục đạo đức, rèn luyện
lối sống cho trò. Bộ GD-ĐT đã có quy định về đạo đức nhà giáo, nhưng số lượng sinh viên các
trường sư phạm biết đến văn bản này qua khảo sát hồi tháng 1 vừa qua chiếm tỷ lệ thấp. Kết quả
điều tra cũng cho thấy các hoạt động rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên sư phạm chưa

phong phú, chưa đủ hấp dẫn để lôi cuốn sinh viên, chưa thường xuyên. Đạo đức nghề nghiệp cũng
là chủ đề được bàn luận nhiều nhất tại hội nghị của Hội đồng hiệu trưởng các trường sư phạm, cho
thấy bên cạnh những mối lo về chất lượng sinh viên sư phạm, vấn đề giáo dục đạo đức nghề
nghiệp và tình yêu nghề của giáo sinh thực sự đã trở nên cấp thiết. Thậm chí có ý kiến bày tỏ sự lo
ngại trước một thực tế, ở các trường đại học, giảng viên là người gắn bó với các chức danh, học vị
bên cạnh tên môn, còn sinh viên chỉ là hàng trăm cái tên gắn với khoa, khóa, lớp học rộng lớn với


hàng trăm con người cùng ngồi, cùng chép, cùng chờ chuông reo. Không có những sự trao đổi, hỏi
han về tâm tư nguyện vọng nên sinh viên học được sự thờ ơ và học được bài học "Không chia sẻ,
không
quan
tâm".
Một thực tế đáng quan tâm nữa là hiện nay sinh viên sư phạm đang yếu kỹ năng sư phạm. Có vẻ
như, trường sư phạm chỉ chú trọng rèn cho sinh viên về chuyên môn mà ít quan tâm đến việc rèn
luyện kỹ năng ứng xử, kỹ năng tổ chức sinh hoạt cộng đồng, kỹ năng lắng nghe và thuyết phục học
sinh - những kỹ năng đặc thù của nghề dạy học. Bên cạnh đó, môn giáo dục học, tâm lý học trong
trường sư phạm cũng không được các thầy cô tương lai coi trọng. Đa phần giáo sinh chỉ học để đủ
điểm vượt qua môn này, sau đó quên tất cả để tập trung vào chuyên môn. Và vì thế, khi gặp phải
những tình huống sư phạm đòi hỏi kỹ năng xử lý linh hoạt, họ lúng túng, thậm chí không kiềm chế
cảm xúc bản thân và có những hành động, những cử chỉ thể hiện sự không tôn trọng học sinh, thậm
chí có khi vô tình còn sỉ nhục học sinh của mình. Chính những điều như vậy đã tạo ra sự căng
thẳng ngấm ngầm giữa thầy và trò, trò thì không thấy được điều gì để phục thầy, thầy thì tìm mọi
cách để thể hiện uy quyền của mình, kể cả bằng những cách không hợp lý. Đã đến lúc cần xem xét
lại quy trình đào tạo của các trường sư phạm, đưa vào đó những tiết học phân tích đánh giá và giải
quyết những tình huống sư phạm mà sinh viên có thể gặp trong công tác sau này, do chính các giáo
viên giỏi của các trường phổ thông có kinh nghiệm lâu năm về giáo dục giảng dạy, bởi họ có những
bài
học
thực

tế

giảng
viên

phạm
khó


được.
Mục tiêu đổi mới công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên là dạy học sinh những
giá trị đạo đức cơ bản của con người, hình thành những thói quen đạo đức và kỹ năng sống đúng
đắn. Điều này chỉ có thể có được khi người thầy có đạo đức và có kỹ năng chuẩn mực.

Vũ Vân

ĐẠO ĐỨC NGƯỜI THẦY TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
[ 14-11-2012-Sưu tầm ]

ĐẠO ĐỨC NGƯỜI THẦY TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Nhà giáo dục học vĩ đại Cô-men-xki đã từng nói: “Dưới ánh mặt trời, không
có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học”, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng
định: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục, không có giáo dục thì không có
cán bộ, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn hoá”.
Sản phẩm của giáo dục, dạy học là con người, là thế hệ tương lai của dân tộc,
vì vậy, không được phép tạo ra “phế phẩm”. Một người công nhân tồi có thể làm
hỏng một vài sản phẩm, một người kỹ sư tồi có thể làm hỏng một vài công trình,
nhưng, một người giáo viên tồi có thể làm hỏng cả một thế hệ, đó là hậu quả khôn
lường mà cả xã hội phải gánh chịu cho đến tận mai sau. Vì vậy, Bác Hồ nhận
định: “Có thầy giỏi thì rồi sẽ có phương pháp hay, do đó, sẽ có trò giỏi, còn thầy đã

kém thì khó lấy gì bù đắp nổi”. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, những vấn đề
liên quan đến chất lượng giáo dục, đạo đức người giáo viên...đang đặt ra những vấn
đề cần suy nghĩ.


Nhìn lại nền giáo dục nước nhà, kế thừa và phát huy những tinh hoa trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định: “giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và
công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước”. Trong những năm qua, chúng ta đã chú trọng việc “bảo đảm
đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc học”.
Tuy nhiên, bên cạnh những người thầy âm thầm cống hiến cho sự nghiệp trồng
người, hết lòng vì học sinh thân yêu, sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình để cứu
học sinh trong cơn bão lũ. Và cảm động nữa là không ít những giáo viên đã sẻ chia
phần thu nhập ít ỏi của mình, giúp học sinh nghèo, học giỏi… Những hành động
bình dị ấy đã hun đúc nên sự vẻ vang của nền giáo dục nước nhà nói chung và đạo
đức giáo dục nói riêng. Thì bên cạnh chúng ta cũng không khỏi băn khoăn khi ngày
càng nhiều trên các trang báo, trên các phương tiện thông tin đại chúng, một bộ phận
giáo viên tha hóa về đạo đức, nhân cách: lợi dụng học trò và phụ huynh, chạy theo
thành tích, thậm chí thầy cô giáo đánh đập học sinh, dùng áp lực, xúc phạm đến
nhân cách học sinh...
Đã có một số thầy cô giáo “con sâu làm rầu nồi canh”, sống ngụy biện để lừa
gạt dư luận, lừa dối chính mình. Họ cho phép mình kiếm tiền bằng mọi hình thức, tự
đánh mất mình, mất lòng tin của xã hội, làm hình ảnh của mình xấu dần trong mắt
học trò.
Nhiều thầy cô giáo bằng lòng với kiến thức đã học trong các trường cao
đẳng, đại học. Họ tôn sùng sách giáo khoa, khăng khăng bảo thủ cho rằng kiến thức
trong sách giáo khoa là duy nhất đúng. Phương pháp dạy khô cứng, đơn điệu, đọc
sách giáo khoa bắt học sinh chép hoặc chỉ tóm tắt sách giáo khoa. Đó là cách dạy
không phù hợp với nền giáo dục hiện nay, không sáng tạo, kiến thức của thầy cũ kỹ,
không đảm bảo chất lượng chuyên môn của tiết dạy.

Nghề dạy học có đặc thù riêng, sản phẩm là con người trong mối tổng hòa xã
hội. Thầy giáo, ngoài tiết dạy trên lớp phải quan tâm tới hoạt động ngoại khóa, bạn
bè, cuộc sống ngoài xã hội của trò, phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh, kịp thời
nắm bắt diễn biến tình cảm, tư tưởng của học sinh, sinh viên. Người thầy không chỉ
quản lý học sinh trong giờ học, mà phải quản chặt học sinh do mình chủ nhiệm, phụ
trách khi chúng về nhà và hành vi của các em ngoài xã hội. Tiếc rằng, chính sự vô
tâm của một số thầy cô giáo đã làm cho quan hệ giữa thầy và trò có cả một khoảng
cách lạnh lùng, trò không hiểu thầy, thầy không hiểu trò. Đã không hiểu nhau thì
cộng tác với nhau khó đem lại hiệu quả tốt.
Nhiều người vào nghề dạy học, có thể là thầy chọn nghề, hay nghề chọn thầy,
muốn hay không muốn thì “đã mang lấy nghiệp vào thân”, phải tìm hiểu, xác định
đặc thù nghề nghiệp, sản phẩm làm ra là Con Người Mới, những công dân tốt, nhân
tài của đất nước. Nếu thầy đạo đức không chuẩn mực, chuyên môn không vững
vàng, không biết mình, biết người, bảo thủ đứng trên bục giảng thì làm ảnh hưởng
lớn các thế hệ học trò. Làm thầy phải biết hy sinh cho nghề nghiệp, “tử vì nghề”. Ở


ngành khác, người ta có thể mặc quần jean, áo thun khi đi làm nhưng thầy giáo
không thể diễn chiếc quần jean bạc trắng đứng trước học sinh thao thao giảng về cái
đẹp trong ăn mặc. Thầy không thể vừa hút thuốc, vừa giảng bài. Thầy phải biết giữ
mình, tránh xa mọi cám dỗ tầm thường, giữ cho tâm hồn trong sáng, mọi hành vi
phải nâng lên thành văn hóa trong đối nhân xử thế, từ việc nhỏ nhất đến việc lớn
nhất.
Chúng ta đều biết rằng, tuổi học trò luôn có tâm hồn trong trắng, ngây thơ,
các em là những mầm non, tương lai của đất nước. Giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ là
một chiến lược quan trọng của quốc gia. Đó thật sự là một việc làm vừa hợp ý Đảng
và Nhà nước lại vừa hợp lòng dân, mà trọng trách lớn được đặt trên vai những nhà
giáo. Vì vậy, thầy cô giáo chính là tấm gương để học sinh soi vào. Khi tấm gương ấy
thực trong sáng, thì những tiêu cực sẽ hạn chế và sớm bị loại trừ. Chính vì vậy,
chúng ta hãy nâng cao phẩm chất đạo đức của nhà giáo theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh, mỗi một thầy cô giáo phải hiểu, thấm nhuần tư tưởng và đạo đức của Bác
Hồ về giáo dục; mỗi người phải không ngừng rèn luyện để hoàn thiện lối sống, nhân
cách của mình; sống có tấm lòng nhân ái, làm việc có trách nhiệm với chính mình và
xã hội. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần xây dựng được đội ngũ những người làm công
tác giáo dục có đầy đủ phẩm chất, năng lực, vừa “hồng”, vừa “chuyên” như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dạy. Điều này không những để khẳng định tri thức, trình độ phát
triển giáo dục của dân tộc, mà còn góp phần quan trọng cho thắng lợi của công cuộc
hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển đất nước hôm nay.
Với tầm cao của nền kinh tế tri thức, mọi hành vi thái độ, lời nói việc làm
của nhà giáo đều là tấm gương phản ánh nhiều chiều nhưng không ai khác hơn chính
nhà giáo phải tự soi mình. Ai cũng đã biết là thước thì phải thẳng đã là cân thì phải
chính xác, nhưng muốn"thẳng" hay "chính xác" đều phụ thuộc ở người cầm. Tuy là
việc khó nhưng không thể buông lơi bởi lẽ trau dồi và nâng cao phẩm chất năng lực
là yêu cầu tự thân của mỗi nhà giáo, những giáo viên dù đã nghỉ hưu hay đang còn
đang đứng trên bục giảng phải luôn tâm niệm. Chính điều đó đã sẽ cụ thể hóa cho
các cuộc vận động cũng như các phong trào được toàn ngành phát động và được xã
hội nhiệt liệt hưởng ứng :“Nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo”, “Mỗi thầy cô
giáo là một tấm gương tự học, tự rèn luyện” hay "Nói không với tiêu cực và bệnh
thành tích trong giáo dục"...
Trong bất kỳ xã hội nào vị trí của người thầy cũng luôn được đề cao. Với
nước ta hiện nay, khi mà khoảng 1/4 dân số đi học và có 1,2 triệu nhà giáo thì những
hoạt động của giáo dục luôn trở thành tâm điểm của toàn xã hội. Bởi vậy thật không
vui ở đâu đó còn xuất hiện những câu chuyện buồn về sự xuống cấp của đạo đức nhà
giáo hay những hành vi làm tổn thương nghiêm trọng truyền thống “tôn sư trọng
đạo". Những hiện tượng đó chỉ là cá biệt trong số hơn 1 triệu nhà giáo ngày đêm trau
dồi kiến thức kinh nghiệm của bản thân để truyền lửa cho thế hệ mai sau những nhà
giáo dám dấn thân cho sự nghiệp trồng người. Họ là những tấm gương sáng về đạo
đức nhà giáo, những người dành trọn tâm huyết, công sức, trí tuệ cho sự nghiệp



trồng người; đã giành được sự kính trọng của toàn xã hội và tác động không nhỏ đến
sự hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức, trách nhiệm công dân của lớp lớp các
thế hệ học trò. Những tấm gương các nhà giáo “hết lòng vì học sinh thân yêu”, giữ
trọn và phát huy phẩm chất người thầy phải được tôn vinh để các thế hệ học sinh và
giáo viên noi theo, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, hiện đại phù hợp với
thời kì mới của đất nước. Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục càng phải nhận
thức đúng đắn vai trò, bổn phận và trách nhiệm to lớn của mình; ra sức thi đua, phấn
đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nặng nề nhưng hết sức vẻ vang của sự nghiệp
trồng người mà Ðảng, nhân dân đã tin yêu và giao phó.
Thực tiễn phát triển xã hội đòi hỏi phải đẩy mạnh xây dựng đạo đức mới,
trong đó có đạo đức nghề nghiệp, đạo đức người thầy, làm cho đất nước ngày càng
phát triển. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang đặt ra những yêu
cầu bức thiết đối với nền đạo đức xã hội nói chung và việc lưu giữ, phát huy những
giá trị cao đẹp của đạo đức người thầy trong truyền thống nói riêng; Để tạo ra một
lớp người Việt Nam cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trí tuệ, đủ năng
lực đưa nước ta hội nhập với văn minh nhân loại mà bản sắc dân tộc vẫn được giữ
vững, là nhiệm vụ của toàn xã hội nhưng trong đó người thầy giữ vai trò không nhỏ.
Để hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, mỗi người thầy phải không ngừng
tự đổi mới, hoàn thiện bản thân để đáp ứng yêu cầu mới, phải có ý thức quyết tâm đi
vào khoa học kỹ thuật, nhất là khoa học giáo dục, làm tốt công tác “dạy chữ, dạy
nghề, dạy người”. Tập thể người thầy, cá nhân người thầy không ngừng nêu cao đạo
đức, tác phong mẫu mực của nhà giáo xã hội chủ nghĩa. Phải làm sao để mỗi người
thầy không những là nhà sư phạm mà còn là nhà mô phạm. Say mê, bền bỉ, cần cù,
nghiêm túc và sáng tạo trong lao động sư phạm, thành công không kiêu căng, thất
bại không nản chí, thương yêu, gần gũi học sinh, đoàn kết với đồng nghiệp, thực sự
là những “tấm gương sáng cho học sinh noi theo”.
Thật hạnh phúc khi chúng tôi được tôi là những người đưa đò qua sông rồi
thấy học trò của mình học giỏi trưởng thành và trở thành những con người có ích
cho xã hội. Nếu người kỹ sư vui mừng nhìn thấy cây cầu mà mình vừa mới xây
xong, người nông dân mỉm cười nhìn đồng lúa mình vừa mới trồng, thì người giáo

viên vui sướng biết bao nhiêu khi nhìn thấy học sinh đang trưởng thành, lớn lên. Sự
trưởng thành, lớn lên của học trò có sự đóng góp rất nhiều từ kiến thức và nhân cách
của người thầy. Cho phép tôi mượn câu nói của Nhà Sư phạm người Nga- Usinxki
để kết thúc bài tham luận của mình: “Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh
hưởng to lớn đối với học sinh, sức mạnh đó không thể thay thế bằng bất kỳ cuốn
sách giáo khoa nào, bất kỳ câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống
khen thưởng hay trách phạt nào khác."



×