Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Luận văn thạc sĩ kinh tế đề tài hoàn thiện phân tích hiệu quả hoạt động trong ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.38 KB, 47 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong hoạt động, các Ngân hàng thương mại đều mong muốn tăng khả năng
sinh lời và giảm thiểu rủi ro. Trong đó, tăng khả năng sinh lời là mục tiêu quan trọng
hơn cả vì nó là cơ sở bảo toàn vốn, giúp cho ngân hàng tồn tại và phát triển. Trong môi
trường cạnh tranh với các trung gian tài chính khác trên thị trường tài chính, Ngân
hàng thương mại luôn chịu áp lực giảm giá dịch vụ, các khoản cho vay truyền thống
của ngân hàng và tiền gửi của khách hàng cũng bị cạnh tranh mạnh mẽ đòi hỏi ngân
hàng phải không ngừng nâng cao hiệu quả. Hơn nữa, hiệu quả hoạt động của Ngân
hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp nói
riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Vì thế nâng cao hiệu quả hoạt động được các
nhà quản trị và lãnh đạo ngân hàng rất quan tâm. Một trong những giải pháp quan
trọng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng thương mại là hoàn thiện hệ
thống thông tin nói chung và thông tin hiệu quả nói riêng. Thông tin đa dạng, kịp thời
đầy đủ và chính xác thì chất lượng của những quyết định từ các nhà quản trị ngân hàng
càng cao, mang lại hiệu quả hoạt động càng lớn.
Tuy nhiên, trong những năm qua, mặc dù các nhà quản trị ngân hàng đã quan
tâm nhiều đến thông tin nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện hơn nữa cả về nội
dung và phương pháp phân tích hiệu quả. Trong đó, hệ thống các chỉ tiêu trong phân
tích hiệu quả được xem là quan trọng, vì một khi đã có các chỉ tiêu đúng, chính xác
phản ánh kịp thời các thông tin thì việc ra quyết định từ các nhà quản trị ngân hàng
mang lại hiệu quả cao.
Nhằm giải quyết vấn đề này, tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện phân tích
hiệu quả hoạt động trong Ngân hàng thương mại (Khảo sát tại Ngân hàng Công
Thương Đà Nẵng)” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu thực trạng các chỉ tiêu trong phân tích hiệu quả hoạt động của ngân
hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Từ đó làm cơ sở cho việc đánh giá xây dựng và
hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu mới nhằm giúp cho các ngân hàng thương mại có
được những thông tin đánh giá đầy đủ, chính xác và hệ thống hơn.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:


Hiệu quả hoạt động là phạm trù kinh tế phức tạp, hiện nay các NHTM khi
nghiên cứu hiệu quả thường quan tâm đến các chỉ tiêu về khả năng sinh lời và một số
chỉ tiêu về rủi ro. Do điều kiện có hạn đề tài chỉ tập trung nghiên cứu rủi ro trong hoạt


động các các ngân hàng thương mại. Khi nghiên cứu hiệu quả hoạt động luận văn đề
cập đến hệ thống chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động Ngân hàng thương mại Việt
Nam hiện nay.
Nguồn vốn phục vụ cho việc tính toán minh hoạ các chỉ tiêu hiệu quả được thu
thập tại Ngân hàng Công Thương thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến năm 2003 và
một số Ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy
vật lịch sử và các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tác giả sử dụng các
phương pháp cụ thể của phân tích hoạt động như: phương pháp so sánh, phương pháp
đồ thị, phương pháp chỉ số… và một số phương pháp khác.
V. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI :
- Trình bày có hệ thống về Ngân hàng thương mại: đặc điểm, chức năng, các
hoạt động của Ngân hàng thương mại….
- Đề tài tiến hành nghiên cứu, tổng hợp, đánh giá, và hoàn thiện hệ thống các
chỉ tiêu hiệu quả đang được sử dụng tại các ngân hàng thương mại.
- Thực hiện tính toán một số chỉ tiêu hiệu quả và vận dụng các chỉ tiêu đã hoàn
thiện vào phân tích tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
VI. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI :
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được trình bày trong
2 chương:
ChươngI: Những vấn đề lý luận cơ bản về phân tích hiệu quả hoạt động
trong Ngân hàng thương mại.
Chương II: Hoàn thiện phân tích hiệu quả hoạt động trong các Ngân hàng
thương mại hiện nay.



CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng có lịch sử phát triển lâu đời và gắn liền với nền sản xuất hàng hoá.
Cùng với sự phát triển của xã hội, các quan hệ tín dụng ngày càng được mở rộng, vượt
ra ngoài phạm vi quốc gia và ngân hàng được hình thành rõ rệt, bao gồm hai bộ phận
đó là Ngân hàng trung ương và Ngân hàng trung gian với những chức năng khác nhau.
Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ của nhà nước và hoạt động
chủ yếu không vì mục tiêu lợi nhuận mà mục tiêu cuối cùng là góp phần thực hiệu
mục tiêu kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng của
Ngân hàng trung ương, thuộc khu vực thể chế quản lý Nhà nước, nguồn vốn hoạt động
do ngân sách Nhà nước cấp.
Ngân hàng trung gian thực hiện nhiệm vụ trung gian tài chính giữa những
người cho vay và những người đi vay. Trong các Ngân hàng trung gian, Ngân hàng
thương mại có vị trí quan trọng và là doanh nghiệp đặc thù, kinh doanh đồng vốn, giữ
vai trò thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương chỉ đạo.
Theo “Luật các tổ chức tín dụng” được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 2 thông
quan ngày 12/12/1997, Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực
hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Ngân hàng
thương mại thuộc khu vực thể chế tài chính, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, quan hệ
hoạt động chủ yếu với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu về vốn và những dịch vụ ngân
hàng khác.
1.1.2 Chức năng của Ngân hàng thương mại:
1.1.2.1Chức năng trung gian tài chính
Ngân hàng là điểm nút trung gian chu chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế
từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ nơi có mức sinh lời thấp đến nơi có mức sinh lời cao hơn

và qua đó làm cho các nguồn vốn trong nền kinh tế được sử dụng có hiệu quả hơn.
Khách hàng

Nhận tiền gửi
Ủy thác đầu tư

NHTM

Cho vay
Đầu tư

Khách hàng


Với chức năng này, ngân hàng còn đóng vai trò là người vừa môi giới vừa là
người đi vay và cũng là người cho vay. Ngân hàng tập trung mọi nguồn vốn ở mọi nơi
trong nền kinh tế để phục vụ nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh.
1.1.2.2 Chức năng là thủ quỹ của khách hàng
Với hoạt động là huy động và cho khách hàng vay vốn, ngân hàng tiến hành mở
sổ sách theo dõi tài khoản và thực hiện các nghiệp vụ giao dịch lẫn nhau giữa các
khách hàng, bằng cách ngân hàng trích từ tài khoản này chuyển sang tài khoản khác
hoặc chuyển từ nơi này đến nơi khác thông qua hệ thống hay liên ngân hàng. Chức
năng này giúp cho ngân hàng tiết kiệm được nhiều chi phí liên quan đến việc sử dụng
tiền mặt và giảm tỷ lệ dự trữ tiền mặt thanh toán, từ đó hạn chế vốn ứ đọng trong thanh
toán và thúc đẩy luân chuyển tiền tệ nhanh chóng hơn.
1.1.2.3 Chức năng tạo tiền và huỷ tiền:
Do công việc thường xuyên của ngân hàng là nhận tiền gửi để cho vay, vậy nên
qua hệ thống ngân hàng một lượng tiền lớn được tạo ra dưới dạng ghi sổ, gọi là bút tệ
(tiền ghi sổ).
Quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và

thanh toán trong hệ thống ngân hàng, trong mối quan hệ chặt chẽ với hệ thống Ngân
hàng trung ương. Quá trình tạo ra tiền “bút tệ” được mô tả là khả năng biến mức tiền
gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn gấp
nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng thanh toán qua nhiều ngân hàng. Cụ thể
là một ngân hàng này cho vay xong là hết vốn, thì số vốn đó lại chuyển sang ngân
hàng khác trở thành vốn tiền gửi và lần lượt số tiền đó làm tăng thêm số vốn tiền gửi
của các ngân hàng khác.
Với cơ chế tạo tiền qua ngân hàng đã bỏ qua việc thanh toán bằng tiền mặt. Với
chức năng này, tổng lượng tiền trong nền kinh tế phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc
mà Ngân hàng Nhà nước ấn định cho các Ngân hàng thương mại.
1.1.3 Những đặc điểm và hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại:
1.1.3.1 Những đặc điểm cơ bản của Ngân hàng thương mại:
Thứ nhất, vốn và tiền vừa là phương tiện, vừa là mục đích kinh doanh nhưng
đồng thời cũng là đối tượng kinh doanh của NHTM.
Thứ hai, NHTM kinh doanh củ yếu bằng vốn của người khác. Trong vốn hoạt
động, vốn tự có của ngân hàng chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, nên việc kinh doanh của ngân
hàng luôn gắn liền với một sự rủi ro và ngân hàng buộc phải chấp nhận một mức độ
mạo hiểm nhất định. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước phải thiết lập một sự kiểm soát cả
về việc huy động và sử dụng vốn của NHTM.


Thứ ba, việc kinh doanh của ngân hàng có liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh
vực hoạt động và nhiều đối tượng khách hàng khác nhau.
Thứ tư, các NHTM hình thành nên một hệ thống có tính thống nhất cao. Mỗi
ngân hàng là một mắt xích trong hoạt động của thị trường liên ngân hàng, chúng vừa
cạnh tranh vừa phối hợp, hỗ trợ để cùng tồn tại và phát triển. Các chi nhánh ngân hàng
chịu sự điều khiển vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thành viên trở nên phức tạp, đôi
khi không có ý nghĩa.
Thứ năm, một trong những hoạt động kinh doanh chủ yếu và đặc biệt của ngân
hàng là “đi vay để cho vay”. Vì vậy, vốn huy động của ngân hàng vừa được xem là kết

quả trung gian vừa được xem là nguồn lực.
Thứ sáu, hoạt động kinh doanh của ngân hàng diễn ra một cách liên tục theo
thời gian và giữa các hoạt động có mối quan hệ hết sức chặt chẽ. Do vậy, đo lường chi
phí, kết quả hoạt động và hiệu quả trong từng thời kỳ cho từng hoạt động rất phức tạp
và chỉ mang ý nghĩa tương đối. Chu kỳ sản phẩm của ngân hàng có thể dưới hay trên
một năm nên xác định chi phí và kết quả của từng năm mang tính quy ước rất lớn.
Thứ bảy, trong quá trình hoạt động, dù kinh doanh theo cơ chế thị trường nhưng
các NHTM phải chịu sự khống chế của Ngân hàng Nhà nước.
Như vậy, hoạt động kinh doanh của NHTM có những đặc thù riêng mà các
doanh nghiệp trong các ngành khác không có. Những đặc thù này có ảnh hưởng đến
quan điểm, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả, xây dựng hệ thống chỉ tiêu và phương pháp
phân tích hiệu quả.
1.1.3.2 Những hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại:
Theo “Luật các tổ chức tín dụng” được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997,
hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng
các dịch vụ thanh toán. Như vậy, NHTM có những hoạt động cơ bản sau:
a) Hoạt động huy động vốn:
NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, nguồn vốn hoạt động chủ yếu được bổ
sung từ bên ngoài. Nguồn vốn mà ngân hàng huy động theo các dạng sau:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các
hình thức tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các loại giấy tờ có giá khác để huy
động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác.
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp phát vốn.
Các hình thức huy động khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.


b) Hoạt động tín dụng:

Ngân hàng cấp tín dụng cho các tổ chức và cá nhân dưới các hình thức cho vay,
chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ khác có giá khác, bảo lãnh và các hình thức
khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
c) Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ:
Dịch vụ thanh toán: các ngân hàng thực hiện các dịch vụ thanh toán như cung
ứng các phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán, dịch vụ thu chi hộ…
Mở tài khoản: các ngân hàng được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài
nước. Khách hàng được chọn một ngân hàng để mở tài khoản giao dịch chính.
Dịch vụ ngân quỹ: các ngân hàng được thực hiện dịch vụ kiểm điếm, thu và
phát tiền mặt cho khách hàng.
d) Những hoạt động dịch vụ khác:
Các Ngân hàng cung ứng các dịch vụ bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
Tham gia thị trường tiền tệ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Thực hiện dịch vụ uỷ thác và đại lý: Ngân hàng được quyền uỷ thác, nhận uỷ
thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản
lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng.
Cung ứng các dịch vụ như: tư vấn tài chính cho khách hàng, bảo quản hiện vật
quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ….
1.2 NỘI DUNG PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TRONG CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI:
1.2.1 Những quan điểm đánh giá hiệu quả hoạt động Ngân hàng thương mại:
Theo lý thuyết hệ thống, nếu xem NHTM như một hệ thống thì hiệu quả của nó
có thể được xem xét theo hai quan điểm:
Một là, hiệu quả được xem xét trên quan điểm biến đổi của đầu vào thành đầu
ra hay nói cách khác là khả năng sinh lời. Các NHTM đều hoạt động nhằm mục tiêu
lợi nhuận. Dưới áp lực phải hạ thấp chi phí trong điều kiện cạnh tranh với những chế
tài chính khác, quan điểm này thích hợp để đánh giá hiệu quả trong hoạt động của
ngân hàng.
Hai là, hiệu quả được xem xét theo xác suất hoạt động an toàn của ngân hàng,
đây chính là các quan điểm về rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Hoạt động của

ngân hàng có ảnh hưởng đến các ngân hàng khác trong nền kinh tế nên các nhà quản
trị ngân hàng thường quan tâm đến quan điểm này.
Theo Peter S.Rose, về bản chất của NHTM cũng là một tập đoàn kinh doanh
được tổ chức vì mục dích tối đa hoá lợi nhuận với mức rủi ro có thể chấp nhận được.
Các ngân hàng cần có kết hợp hài hoà giữa mục tiêu tăng lợi nhuận với hạn chế rủi ro.


Khả năng sinh lời là mục tiêu quan trọng hơn vì với thu nhập cao giúp bảo toàn vốn,
cung cấp cơ sở cho sự sống còn và tăng cường trong tương lai của các NHTM.
Xuất phát từ điều kiện thời gian và nguồn số liệu có hạn, đề tài chỉ xem xét hiệu
quả theo quan điểm biến đổi của đầu vào thành đầu ra hay nói cách khác là khả năng
sinh lời.
1.2.2 Các nguyên tắc cần đảm bảo khi phân tích hiệu quả hoạt động NHTM.
Khi phân tích hiệu quả hoạt động của NHTM cần tuân thủ theo những nguyên tắc sau:
Khi nghiên cứu một hiện tượng nào đó phải xem xét trong mối quan hệ hữu cơ của
các mặt, các yếu tố. Do các hiện tượng, hoạt động luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau
nên để đánh giá đúng, xác định những nguyên nhân ảnh hưởng cần thiết phải nghiên cứu
hiện tượng trong mối quan hệ hữu cơ của các mặt, các yếu tố, các hiện tượng khác. Theo
quan điểm biện chứng, mọi yếu tố, hiện tượng, hoạt động đều có quan hệ hữu cơ với
nhau. Vốn và lao động là hai yếu tố chủ yếu của quá trình hoạt động ngân hàng, khi
nghiên cứu hiệu quả của hai yếu tố này cần đặt chúng trong mối liên hệ. Các hoạt động
ngân hàng cũng có mối liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau. Hơn nữa trong quá
trình hoạt động, các NHTM có quan hệ chặt chẽ với các đơn vị kinh tế khác trong nền
kinh tế. Các NHTM được xem như một hệ thống con trong hệ thống các Ngân hàng trung
gian, nó chịu sự tác động và ảnh hưởng trở lại của các đơn vị khác. NHTM có quan hệ
cạnh tranh và hợp tác với các Ngân hàng trung gian và chịu sự điều tiết của Ngân hàng
Nhà nước. Phân tích hiệu quả cần phải gắn liền với phân tích chi phí và phân tích kết quả.
Như vậy, khi phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng cần xem xét toàn bộ sự kiện và
tiến hành phân tích trong mối quan hệ nhiều chiều như thế.
Cần quán triệt nguyên tắc toàn diện trong quá trình phân tích. Bản chất của hiện

tượng thường được biểu hiện trên nhiều mặt, nhiều khía cạnh tương ứng. Chính yêu cầu
này đòi hỏi trong quá trình phân tích cần kết hợp chặt chẽ giữa quá trình phân tích và đánh
giá tổng hợp. Trong quá trình phân tích hiệu quả cần quán triệt sâu sắc quan điểm toàn
diện bởi vì hoạt động ngân hàng không ngừng thay đổi theo thời gian và không gian. Khi
nghiên cứu không đầy đủ các sự kiện sẽ dẫn đến những kết luận phiến diện, chủ quan.
Phương pháp phân tích phản khoa học là cô lập các hiện tượng, các mặt để nghiên cứu,
hay chỉ căn cứ vào một số tài liệu không đầy đủ, không toàn diện và thiếu hệ thống.
Phân tích với những hoạt động có tính chất khác nhau phải sử dụng các phương
pháp khác nhau. Ngân hàng thương mại có nhiều hoạt động khác nhau và khi nền kinh tế
phát triển, nhu cầu của xã hội ngày càng đa dạng hơn thì hoạt động ngân hàng trở nên đa
dạng hơn, cung cấp ngày càng nhiều loại sản phẩm dịch vụ. Mỗi hoạt động có những đặc
thù riêng đòi hỏi có phương pháp phân tích thích hợp. Mỗi phương pháp phân tích có tác
dụng và ý nghĩa riêng, không thể sử dụng một cách máy móc trong mọi trường hợp.


Phân tích hiệu quả hoạt động Ngân hàng thương mại trong trạng thái vận động
và phát triển.
Bởi vì tình hình hoạt động của ngân hàng luôn thay đổi theo thời gian, NHTM là
một hệ thống luôn vận động và phát triển không ngừng do đó để đánh giá kết luận chuẩn
xác thì các phương pháp và nội dung phân tích cần kết hợp giữa trạng thái tĩnh và động,
xem xét sự thay đổi, biến chuyển qua nhiều thời kỳ để thấy rõ xu thế biến động. Vì vậy,
ngoài việc phân tích hiệu quả ở một thời điểm hay thời kỳ nào đó, cần phải hình thành
những phương pháp phân tích biến động theo thời gian và không gian. Chính nhờ phân
tích như thế, các quản trị gia sẽ đánh giá được tình hình hiệu quả qua nhiều thời kỳ, xác
định được quy luật biến động của hiệu quả theo thời gian và không gian.
Khi phân tích cần quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể. Vì mọi hiện tượng đều có
quá trình phát triển không ngừng, bản chất của hiện tượng không phải luôn cố định
nên nhiều trường hợp cùng mức độ biểu hiện như nhau nhưng trong điều kiện này
được đánh giá tốt song trong điều kiện khác được đánh giá không tốt.
Khi phân tích hiện tượng cần xuất phát từ thực tế khách quan. Phân tích hiệu

quả hoạt động của NHTM là hoạt động của quá trình nhận thức và cải biến hoạt động
của ngân hàng, làm cho hoạt động của ngân hàng phù hợp với những điều kiện và yêu
cầu cụ thể của các quy luật kinh tế khách quan. Do vậy để nhận thức đúng hiện trạng
hoạt động của ngân hàng cần xuất phát từ thực tiễn của chính ngân hàng.
Cần tuân thủ nghiêm ngặt tính nhất quán và đồng nhất khi so sánh, phân tích.
Nguyên tắc này đòi hỏi khi tính toán các hệ số tương quan hay so sánh phải đảm bảo
cố định nhân tố và tính nhất quán giữa các thời gian so sánh phân tích hay các đối
tượng so sánh phải đồng nhất. Chẳng hạn khi so sánh giữa các ngân hàng với nhau, kết
quả đánh giá chỉ có ý nghĩa nếu các ngân hàng đó cùng loại hình, tương đương về quy
mô và những điều kiện kinh doanh gần như nhau.
Trên cơ sở các quan điểm và nguyên tắc trên để phân tích hiệu quả hoạt động
các NHTM sử dụng các chỉ tiêu phân tích sau.
1.2.3 Hệ thống các chỉ tiêu cơ bản phân tích hiệu quả hoạt động NHTM.
1.2.3.1 Hệ thống các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động:
Một trong những cơ sở cho các quyết định quản lý đem lại hiệu quả trong hoạt
động của các NHTM chính là những thông tin về hiệu quả từ các hoạt động. Chính vì
vậy, cần hình thành những chỉ tiêu nhằm đo lường hiệu quả từng hoạt động và toàn bộ
hoạt động của các NHTM. Hiện nay, các nhà quản trị ngân hàng thường sử dụng
những chỉ tiêu hiệu quả như trên hình 1-1.


Hệ thống các chỉ tiêu đo lường hiệu quả
hoạt động NHTM Việt Nam

Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả
từng hoạt động

Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả
toàn bộ hoạt động


Tổng dư nợ trên tổng tài sản

Tổng thu nhập trên tổng tài sản

Nợ quá hạn trên tổng tài sản

Tổng chi phí trên tổng thu nhập

Tổng dư nợ trên vốn huy động

Tỷ suất lợi nhuận

Vốn huy động trên vốn tự có

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế
trên tổng tài sản

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế
trên vốn tự có

Hình 1-1: Hệ thống các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động của NHTM Việt Nam
a) Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả từng hoạt động:
Hoạt động của ngân hàng có nhiều loại với hiệu quả khác nhau. Do vậy, các
nhà quản trị Ngân hàng cần phải đo lường hiệu quả cho từng hoạt động. Hiện nay, các
nhà quản trị chú trọng đến các chủ tiêu phản ánh hiệu quả sau:
*Tổng dư nợ trên tổng tài sản: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả tín dụng của một
đồng tài sản và xác định quy mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Công thức tính:
Tổng dư nợ
Tổng dư nợ trên tổng tài sản =

x 100%
Tổng tài sản


* Nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Chỉ tiêu này đo lường chất lượng tín dụng của
các Ngân hàng. Chỉ số này càng nhỏ chứng tỏ chất lượng tín dụng của các ngân hàng
càng cao.
Công thức tính:
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn trên tổng dư nợ =
x 100%
Nợ quá hạn
Trong đó:
Nợ quá hạn là tổng lượng vốn Ngân hàng đã cho vay nhưng đến hạn, khách
hàng chưa có khả năng trả tính cho đến thời điểm nghiên cứu.
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn trên
tổng dư nợ > 7% được xem là ngân hàng có hoạt động tín dụng kém.
* Tổng dư nợ trên vốn huy động: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả đầu tư của một
đồng vốn huy động, giúp so sánh khả năng cho vay của ngân hàng đối với vốn huy động.
Chỉ tiêu này được các ngân hàng sử dụng nhằm phân tích hiệu quả hoạt động tín dụng.
Công thức tính:
Tổng dư nợ
Tổng dư nợ trên vốn huy động =
x 100%
Vốn huy động
Trong đó:
Vốn huy động là những khoản tiền và tài sản của các chủ sở hữu khác trong nền
kinh tế mà ngân hàng có thể huy động và sử dụng với trách nhiệm hoàn trả đầy đủ và
đúng hạn cả gốc lẫn lãi. Vốn huy động của ngân hàng gồm tiền gửi không kỳ hạn và
có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn.

* Vốn huy động trên vốn tự có: Chỉ số này phản ánh khả năng và quy mô thu
hút vốn từ nền kinh tế của Ngân hàng thương mại.
Công thức tính:
Vốn huy động
Vốn huy động trên vốn tự có =
x 100%
Vốn tự có
Trong đó:
Vốn tự có được xác định là gồm có giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ,
một số tài sản “Nợ” khác của tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
b) Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả toàn bộ hoạt động:
Ngoài việc đo lường hiệu quả của từng hoạt động, các quản trị còn tính toán
các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho tất cả các hoạt động. Hiện nay các Ngân hàng
thương mại dùng các chỉ tiêu sau:
* Tổng thu nhập trên tổng tài sản: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng tổng
tài sản của Ngân hàng. Trị số của chỉ tiêu lớn phản ánh ngân hàng đã phân bổ tài sản
một cách hợp lý nhằm nâng cao lợi nhuận của ngân hàng.


Công thức tính:
Tổng thu nhập trên tổng tài sản

=

Tổng thu nhập
Tổng tài sản

x

100%


* Tổng chi phí trên tổng thu nhập: Chỉ tiêu này phản ánh khả năng bù đắp chi
phí trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thông thường, trị số của chỉ tiêu này
phải nhỏ hơn 1. Nếu lớn hơn 1, hiệu quả hoạt động ngân hàng kém, có nguy cơ phá
sản. Chỉ tiêu này còn có tên gọi là tỷ số hiệu quả hoạt động.
Tổng chi phí trên tổng thu nhập
Tổng chi phí
=
Tổng thu nhập
(Tỷ số hiệu quả hoạt động)
* Tỷ suất lợi nhuận: là chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của tài sản sinh lời.
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận =
Tài sản sinh lời
Lợi nhuận sau thuế là kết quả còn lại sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho
Nhà nước trong một thời kỳ nhất định.
Tài sản sinh lời là giá trị những tài sản đem lại lợi nhuận trong hoạt động của
ngân hàng, bao gồm: dư nợ cho vay có khả năng thu được lãi (dư nợ trừ nợ quá hạn
khó đòi, các khoản nợ chờ xử lý, nợ cho vay được khoanh), tiền gửi ở các tổ chức tín
dụng khác, các khoản hùn vốn, liên doanh, mua cổ phần và các khoản đầu tư khác.
* Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROA): là chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả sử dụng tổng tài sản của ngân hàng.
Công thức tính:
Lợi nhuận sau thuế
ROA
=
Tổng tài sản
Chỉ tiêu ROA phản ánh khả năng sinh lời của tài sản nên còn có tên gọi là tỷ lệ
sinh lời của tài sản.
ROA thể hiện khả năng sử dụng linh hoạt tài sản, trị số của chỉ tiêu càng lớn chứng

tỏ hiệu quả hoạt động của ngân hàng càng cao. ROA giúp nhà quản trị thấy được khả năng
bao quát của ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập từ tài sản. ROA là thước đo hiệu quả đầu
tư của ngân hàng, vì mọi tài sản đều là những khoản đầu tư. Tất cả các loại tài sản như cho
vay, … đều sinh ra lãi ngoại trừ hai loại tài sản dự trữ tiền mặt và tài sản cố định.
ROA được sử dụng rộng rãi trong phân tích hiệu quả hoạt động và đánh giá tình
hình tài chính của ngân hàng.
* Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn tự có (ROE): là chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả sử dụng vốn tự có của ngân hàng.
Công thức tính:
Lợi nhuận sau thuế
ROE
=
Vốn tự có


Chỉ tiêu ROE được sử dụng rộng rãi trong phân tích hiệu quả hoạt động nhằm
phản ánh hiệu quả sử dụng vốn tự có, đo lường hiệu quả sử dụng một đồng vốn tự có,
và đo lường khả năng lành mạnh của ngân hàng. Nếu ROE quá lớn so với ROA chứng
tỏ vốn tự có chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, cho thấy ngân hàng đã huy
động vốn nhiều để cho vay.
Phạm vi sử dụng chỉ tiêu ROE bị hạn chế, ít được sử dụng để phân tích hiệu
quả các ngân hàng thành viên. Bởi vì, vốn tự có của ngân hàng thành viên được điều
chuyển từ ngân hàng thành viên ngày sang ngân hàng thành viên khác một cách
thường xuyên nên việc tính toán chỉ tiêu này tại các chi nhánh của các NHTM thì
không phù hợp và có ý nghĩa.
1.2.3.2 Hệ thống các chỉ tiêu đo lường chi phí hoạt động:
Trong quá trình hoạt động của mình các ngân hàng phải bỏ ra một lượng chi phí
nhất định, mỗi hoạt động có một loại chi phí đặc thù riêng, cần sử dụng nhiều chỉ tiêu
khác nhau để đo lường chúng. Hiện nay các nhà quản trị ngân hàng đang sử dụng
những chỉ tiêu như trên hình 1-2 để đo lường chi phí.

Hệ thống các chỉ tiêu đo lường chi phí
hoạt động NHTM Việt Nam

Các chỉ tiêu đo lường chi phí
từng hoạt động

Chi phí hoạt động huy động vốn

Các chỉ tiêu đo lường chi phí
toàn bộ hoạt động

Quỹ lương

Chi phí hoạt động tín dụng
Tổng chi phí
Chi phí hoạt động dịch vụ
thanh toán và ngân quỹ
Chi phí hoạt động khác

Hình 1-2: Hệ thống chỉ tiêu
đo lường chi phí hoạt động
của các NHTM Việt Nam


a) Các chỉ tiêu đo lường chi phí từng hoạt động:
* Chi phí hoạt động huy động vốn: là toàn bộ những chi phí phục vụ cho hoạt
động huy động vốn của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định gồm:
Chi trả tiền gửi: Gồm các khoản trả lãi tiền gửi bằng đồng VN, ngoại tệ cho các
tổ chức kinh tế, cá nhân, tổ chức tín dụng khác ở trong nước và ngoài nước.
Chi trả tiền vay: Gồm các khoản trả lãi tiền vay Ngân hàng Nhà nước, vay các

tổ chức tín dụng khác ở trong nước và ngoài nước.
Chi trả lãi phát hành giấy tờ có giá: Gồm các khoản trả lãi cho các giấy tờ có
giá mà ngân hàng phát hành.
Chi phí khác: Gồm các khoản chi phí của ngân hàng ngoài các khoản chi phí
nói trên về hoạt động huy động vốn.
* Chi phí hoạt động tín dụng: là toàn bộ những chi phí phục vụ cho hoạt động
tín dụng của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định gồm các khoản chi phí về thẩm
định dự án cho vay, thành lập các hội đồng xét duyệt vay…
* Chi phí hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: là toàn bộ những chi phí
phục vụ cho hoạt động thanh toán và ngân quỹ của ngân hàng trong một thời kỳ nhất
định gồm:
Chi về dịch vụ thanh toán: chi phí in các mẫu biểu dùng cho khách hàng, ngân
hàng, các khoản chi về quảng cáo…
Cước phí bưu điện về mạng viễn thông: chi thuê đường truyền viễn thông,
mạng Internet…
Chi về ngân quỹ: Gồm các khoản chi phí về vận chuyển, bốc xếp, xăng dầu
dùng cho vận chuyển, kiểm đếm phân loại, đóng gói, bảo vệ tiền, giấy tờ có giá và
phương tiện thanh toán thay tiền.
* Chi phí hoạt động khác: là toàn bộ những chi phí phục vụ cho hoạt động khác
ngoài ba hoạt động trên gồm:
Chi về tham gia thị trường tiền tệ: mua bán các giấy tờ có giá.
Chi về kinh doanh ngoại hối: lỗ kinh doanh ngoại tệ, vàng…phí dịch vụ thanh
toán ngoại tệ, mua bán các bản tin…
b) Các chỉ tiêu đo lường chi phí toàn bộ hoạt động:
* Quỹ lương: là toàn bộ tiền chi trả lương và những khoản phụ cấp khác mà ngân
hàng đã trả cho toàn thể cán bộ công nhân viên làm việc trong một thời kỳ nhất định.
* Tổng chi phí: là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những hao phí về lao động sống và
lao động vật hoá cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định.
Chỉ tiêu tổng chi phí được sử dụng rộng rãi trong phân tích chi phí, là cơ sở tính
lợi nhuận và một số chỉ tiêu hiệu quả.



1.2.3.3 Hệ thống các chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt động:
Hoạt động của ngân hàng thương mại rất đa dạng với những đặc thù và hiệu
qua riêng. Nền kinh tế càng phát triển, nhu cầu của xã hội đa dạng hơn thì càng đòi hỏi
ngân hàng phải mở rộng những loại hình hoạt động khác nhau. Nhằm đo lường kết quả
hoạt động ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng dùng các chỉ tiêu như hình 1-3
Hệ thống các chỉ tiêu đo lường kết quả
hoạt động của NHTM Việt Nam

Các chỉ tiêu đo lường kết quả
từng hoạt động

Các chỉ tiêu đo lường kết quả
toàn bộ hoạt động

Doanh số cho vay

Tổng thu nhập

Tổng dư nợ

Lợi nhuận trước thuế

Thu từ hoạt động tín dụng

Lợi nhuận sau thuế

Thu từ dịch vụ thanh toán và
ngân quỹ


Thu từ hoạt động khác

Vốn huy động
Hình 1-3 Hệ thống các chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt động của các NHTM Việt Nam


a) Các chỉ tiêu đo lường kết quả từng hoạt động
Ngân hàng thực hiện nhiều hoạt động khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu đa
dạng của xã hội. Chính vì vậy các nhà quản trị ngân hàng cần tính toán những chỉ tiêu
phù hợp để đo lường kết quả từng hoạt động. Tuy nhiên, hiện nay ngân hàng chỉ dùng
các chỉ tiêu sau:
* Doanh số cho vay: là bộ các khoản cho vay mà ngân hàng cho các tổ chức
kinh tế hay dân cư vay trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này được sử dụng nhằm
phản ánh quy mô hoạt động ngân hàng. Doanh số cho vay không phản ánh mục đích
cuối cùng mà là bước trung gian trên con đường tìm kiếm lợi nhuận.
* Tổng dư nợ: là toàn bộ các khoản dư nợ tại một thời điểm nào đó, hay nói
cách khác là tổng lượng vốn ngân hàng cho các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức vay
nhưng chưa đến hạn hoàn trả hoặc đã đến hạn trả nhưng các tổ chức, cá nhân trên
không thể hoàn trả cho ngân hàng tính đến thời điểm nghiên cứu. Chỉ tiêu này được sử
dụng rộng rãi nhằm phản ánh quy mô hoạt động ngân hàng. Ngoài chỉ tiêu thời điểm,
các nhà phân tích còn cần tính các chỉ tiêu bình quân trong từng thời kỳ nhằm làm cơ
sở cho phân tích hiệu quả và một số chỉ tiêu phân tích khác.
Khi nghiên cứu chỉ tiêu tổng dư nợ, trong ngân hàng cần tính riêng chỉ tiêu nợ
quá hạn. Dư nợ quá hạn là tổng lượng vốn ngân hàng đã cho vay nhưng đến hạn,
khách hàng chưa có khả năng trả tính cho đến thời điểm nghiên cứu. Trong nợ quá hạn
cần phân biệt nợ quá hạn dưới 90 ngày, từ 91 đến 180 ngày, từ 181 đến 360 ngày và
nợ khó đòi. Nợ khó đòi là chỉ tiêu cảnh báo cho ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu
để thu hồi. Với cách tính chi tiết này, các nhà phân tích có thể tính nhiều chỉ tiêu như
tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ và một số chỉ tiêu

khác nhằm đánh giá hiệu quả của hoạt động tín dụng. Những chỉ tiêu này có quan hệ
với nhau rất chặt chẽ và phản ánh các mức rủi ro tín dụng khác nhau. Tuy rủi ro tín
dụng là không tránh khỏi trong hoạt động tín dụng nhưng các nhà quản trị ngân hàng
cần quản lý rủi ro nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra.
* Thu từ hoạt động tín dụng gồm:
Thu lãi cho vay, đây là khoản thu nhập lớn của ngân hàng, thu lãi vay bao gồm
vay ngắn hạn, trung gian và dài hạn.
Thu từ nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng bao gồm: Bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh
thanh toán, bảo lãnh các hình thức hợp đồng….
Thu từ nghiệp vụ cho thuê tài chính: Thu lãi theo các hợp đồng tín dụng thuê mua
Thu khác về hoạt động tín dụng.


* Thu từ hoạt động thanh toán và ngân quỹ gồm:
Thu lãi tiền gửi: Do ngân hàng gởi tiền ở các tổ chức tín dụng khác, ở Ngân
hàng Nhà nước và được hưởng lãi trên số dư tiền gửi.
Thu dịch vụ thanh toán như: thu phí dịch vụ thanh toán đối với khách hàng,
dịch vụ thu hộ, lệ phí hoa hồng và các dịch vụ thanh toán khác.
* Thu từ hoạt động khác gồm:
Thu lãi góp vốn, mua cổ phần.
Thu từ tham gia thị trường tiền tệ bao gồm: Thu lãi mua bán chứng khoán, lãi
tham gia thị trường tiền tệ.
Thu từ kinh doanh ngoại hối: Bao gồm thu về kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc.
Thu từ nghiệp vụ uỷ thác và đại lý.
Thu từ kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm, thu từ dịch vụ tư vấn.
Thu từ các dịch vụ khác bao gồm: Cung ứng dịch vụ bảo quản tài sản, cho thuê
két sắt, dịch vụ khác…
* Vốn huy động: Chỉ tiêu này đã được đề cập trong hệ thống chỉ tiêu đo lường
hiệu quả hoạt động. Một đặc điểm khác biệt cơ bản của ngân hàng với các doanh
nghiệp phi tài chính khác là nguồn vốn mà ngân hàng kinh doanh lại là kết quả nỗ lực

trong hoạt động huy động vốn của mình. Vì vậy, vốn huy động còn được xem là chỉ
tiêu kết quả hoạt động trung gian của hoạt động ngân hàng.
b) Các chỉ tiêu đo lường kết quả toàn bộ hoạt động:
Nhằm đo lường kết quả toàn bộ hoạt động kinh doanh, ngân hàng cần tính toán
nhiều chỉ tiêu khác nhau. Hiện nay, các nhà quản trị ngân hàng dùng các chỉ tiêu như sau:
* Tổng thu nhập: là toàn bộ các khoản thu từ các hoạt động khác nhau như hoạt
động tín dụng, hoạt động thanh toán và ngân quỹ và các hoạt động khác của ngân hàng
trong một thời kỳ nhất định.
Chỉ tiêu tổng thu nhập phản ánh kết quả trung gian của ngân hàng. Cơ cấu tổng
thu nhập có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Nỗ lực của các ngân hàng trong tìm
kiếm lợi nhuận là xác định một cơ cấu tổng thu nhập tối ưu.
* Lợi nhuận trước thuế: là toàn bộ kết quả thu được trong một thời kỳ nhất định
của ngân hàng sau khi trừ đi toàn bộ chi phí. Chỉ tiêu này được sử dụng rất phổ biến để
đánh giá kết quả hoạt động ngân hàng và được sử dụng để tính các chỉ tiêu phân tích khác.
* Lợi nhuận sau thuế: là kết quả còn lại sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
cho Nhà nước trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế phản ánh kết
quả hoạt động cuối cùng của ngân hàng và được sử dụng rộng rãi trong phân tích kết
quả và hiệu quả hoạt động ngân hàng.


Ngoài những chỉ tiêu phân tích hiệu quả hoạt động như đã trình bày, các nhà
quản trị ngân hàng còn xây dựng một số chỉ tiêu khác để phân tích đánh giá về tình
hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, mục tiêu chính của đề tài là
phân tích hiệu quả hoạt động của NHTM, nên không trình bày tất cả các chỉ tiêu mà
các nhà quản trị ngân hàng đề cập. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những chỉ tiêu hiệu
quả chủ yếu liên quan đến hoạt động của NHTM.
1.2.4 Các phương pháp sử dụng trong phân tích hiệu quả hoạt động NHTM
Các phương pháp sử dụng trong phân tích hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
cũng như trong ngân hàng, hiện nay các ngân hàng thương mại thường sử dụng các
phương pháp sau:

1.2.4.1 Phương pháp phân tích tỷ lệ:
Phương pháp phân tích tỷ lệ dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng
chỉ tiêu này trong các quan hệ tỷ lệ với các đại lượng của chỉ tiêu khác trong ngân
hàng. Sự biến đổi các tỷ lệ này cố nhiên là sự biến đổi của các đại lượng kinh tế khác.
Về nguyên tắc, phương pháp phân tích tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các ngưỡng,
các định mức chuẩn để so sánh. Trên cơ sở so sánh về tỷ lệ các chỉ tiêu kinh tế với giá
trị của các tỷ lệ định mức chuẩn có thể rút ra những kết luận về tình hình hoạt động
của ngân hàng.
Trong phân tích tình hình hoạt động của ngân hàng, các tỷ lệ của những chỉ tiêu
kinh tế được phân tích từ các nhóm đặc trưng phản ánh những nội dung cơ bản theo
các mục tiêu của hoạt động ngân hàng. Đó là các nhóm tỷ lệ về thu nhập từ các hoạt
động, dịch vụ; nhóm tỷ lệ về chi phí theo các hoạt động, chi phí của các hoạt động, chi
phí quản lý; nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời của tài sản, vốn….
1.2.4.2 Phương pháp chi tiết hoá chỉ tiêu phân tích:
Các chỉ tiêu kinh tế, tài chính của NHTM thường đa dạng, phong phú, để có thể
nắm bắt được bản chất của chỉ tiêu phân tích, ta phải phân chia các chỉ tiêu đó theo
thời gian, không gian hoặc theo yếu tố cấu thành. Cả ba tiêu thức trên nếu được sử
dụng một cách kết hợp sẽ đem đến kết quả phân tích đầy đủ hơn và sâu sắc hơn.
Thông thường trong phân tích, phương pháp chi tiết được thực hiện theo những
hướng sau:
- Chi tiết theo các bộ phận hay yếu tố cấu thành chỉ tiêu. Chi tiết các chỉ tiêu
theo các bộ phận cùng với sự biểu hiện về lượng của các bộ phận đó sẽ giúp ích trong
việc đánh giá chính xác kết quả đạt được.
- Chi tiết theo thời gian: kết quả hoạt động kinh doanh là kết quả của một quá
trình, do nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan khác nhau, tiến độ thực hiện
quá trình đó trong từng đơn vị thời gian xác định thường không đồng đều. Việc phân


tích chi tiết theo thời gian sẽ giúp ích cho việc đánh giá kết quả kinh doanh được sát,
đúng và tìm được các giải pháp thiết thực. Tuỳ theo đặc tính của quá trình hoạt động,

nội dung kinh tế của chỉ tiêu phân tích và mục đích phân tích để lựa chọn khoảng thời
gian cần chi tiết và chỉ tiêu phải chi tiết.
1.2.4.3 Phương pháp so sánh:
So sánh là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong phân tích để xác định mức
độ biến động, xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích. Vì vậy, để tiến hành so sánh
phải giải quyết những vấn đề cơ bản như: xác định số gốc để so sánh, xác định điều
kiện so sánh và xác định mục tiêu so sánh.
Tuỳ vào mục đích cụ thể của phân tích mà xác định tiêu chuẩn so sánh, tức là
lựa chọn chỉ tiêu gốc là căn cứ so sánh như:
- Sử dụng số liệu tài chính ở nhiều kỳ trước để đánh giá và dự báo.
- Sử dụng số liệu trung bình ngành để đánh giá sự tăng trưởng, phát triển.
- Sử dụng các số kế hoạch, số dự toán để đánh giá tình hình đạt các mục tiêu
trong hoạt động của ngân hàng trong năm.
Điều kiện so sánh yêu cầu các chỉ tiêu phân tích phải phản ánh cùng nội dung
kinh tế, có cùng phương pháp tính toán và có đơn vị đo lường như nhau.
Khi trình bày báo cáo dưới dạng so sánh nhằm xác định mức biến động tuyệt
đối và tương đối của từng chỉ tiêu qua các thời kỳ.
1.2.4.4 Phương pháp liên hệ:
Mọi kết quả kinh doanh đều có mối liên hệ mật thiết với nhau giữa các mặt, các
bộ phận….Để lượng hoá mối quan hệ đó, ngoài các phương pháp đã nêu trong phân
tích kinh tế còn sử dụng phổ biến các cách nghiên cứu liên hệ như: liên hệ cân đối, liên
hệ tuyến tính và liên hệ phi tuyến.
- Liên hệ cân đối: Cơ sở của phương pháp này là sự cân bằng về lượng giữa hai
mặt của các yếu tố và quá trình kinh doanh. Chẳng hạn như giữa tổng số tài sản và
tổng số nguồn vốn, giữa nguồn thu, huy động và tình hình sử dụng các loại vốn, các
quỹ,… Mối liên hệ cân đối vốn có về lượng của các yếu tố dẫn đến sự cân bằng cả về
mức biến động (chênh lệch) giữa các mặt của các yếu tố và quá trình kinh doanh. Từ
đó có thể xác định mức ảnh hưởng của các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích
được biểu hiện dưới dạng “tổng số” hoặc “hiệu số” bằng liên hệ cân đối.
- Liên hệ trực tuyến: là mối liên hệ theo một hướng xác định giữa chỉ tiêu phân

tích, tuỳ theo mức độ phụ thuộc giữa các chỉ tiêu có thể phân thành hai loại quan hệ
chủ yếu:


• Liên hệ trực tiếp: là mối liên hệ giữa các chỉ tiêu nhân tố với chỉ tiêu phân tích
được xác định một cách trực tiếp, không cần thông qua chỉ tiêu trung gian nào.
• Liên hệ gián tiếp: là quan hệ giữa các chỉ tiêu trong đó mức phụ thuộc giữa
chúng được xác định bằng một hệ số riêng.
- Liên hệ phi tuyến tính là mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trong đó mức liên hệ
không được xác định theo tỷ lệ và chiều hướng liên hệ luôn biến đổi: giữa lượng vốn
sử dụng với sức sản xuất và mức sinh lợi của vốn….
1.2.4.5 Phương pháp đồ thị:
Phương pháp đồ thị là phương pháp trực quan sinh động có sức thuyết phục
trong phân tích, đặc biệt trong trình bày. Bằng cách lựa chọn loại đồ thị, màu sắc thích
hợp góp phần nâng cao hiệu quả phân tích nói chung và phân tích hiệu quả nói riêng.
Các nhà quản trị ngân hàng thường sử dụng nhiều đồ thị khác như: đồ thị hình tròn, đồ
thị hình cột…
1.2.4.6 Phương pháp chỉ số:
Trong phân tích, phương pháp chỉ số cho kết quả rất tốt. Phương pháp này
không đòi hỏi nhiều số liệu như phương pháp hồi quy và tương quan. Trong điều kiện
số liệu của ngân hàng, phương pháp này là thích hợp nhất và có hiệu quả nhất, nhưng
phương pháp này chỉ sử dụng trong những trường hợp đơn giản. Đối với các hiện
tượng phức tạp, phương pháp này chưa được sử dụng.
1.2.4.7 Phương pháp tương quan:
Giữa các chỉ tiêu tài chính thường có mối tương quan với nhau, chẳng hạn
tương quan giữa số lượng sản phẩm sản xuất với tổng chi phí, tương quan giữa doanh
thu với các khoản nợ phải thu,… Phân tích tương quan sẽ giúp đánh giá tính hợp lý về
biến động của các chỉ tiêu tài chính, xây dựng các tỷ số tài chính được phù hợp hơn và
phục vụ công tác dự báo tài chính.
1.2.4.8 Phương pháp hồi quy:

Đây là phương pháp nghiên cứu các dữ liệu được sắp xếp theo thời gian nhằm
tìm ra quy luật về mối quan hệ giữa chúng. Mối quan hệ đó được biểu diễn thành một
phương trình (hay mô hình) gọi là phát triển hồi quy. Dựa vào phương trình đó có thẻ
giải thích bằng các kết quả lượng hoá về bản chất, hỗ trợ, củng cố các lý thuyết và dự
báo tương lai.
1.2.5 Tổ chức công tác phân tích hiệu quả hoạt động NHTM:
Phân tích hiệu quả hoạt động là một trong những nội dung của phân tích hoạt
động kinh doanh trong doanh nghiệp nói chung và trong ngân hàng nói riêng, vì vậy tổ
chức công tác phân hiệu quả nằm trong nội dung của tổ chức công tác phân tích hoạt
động kinh doanh.


Công tác phân tích hoạt động kinh doanh nói chung bao gồm các bước sau:
Bước 1: Lập kế hoạch phân tích. Đây là khâu đầu tiên của công tác phân tích.
Nội dung chủ yếu của kế hoạch phân tích phải chỉ rõ nội dung cần phân tích, phạm vi
về thời gian phân tích, dự kiến nhân sự, thời hạn phân tích và dự kiến kinh phí phục vụ
phân tích.
Bước 2: Sưu tầm, lựa chọn và kiểm tra số liệu, tài liệu phân tích, số liệu và tài
liệu được sưu tầm, lựa chọn phải phù hợp với nội dung phân tích. Phải có sự kiểm tra
đối chiếu để đảm bảo tính chính xác và thống nhất của các thông tin phục vụ phân tích.
Bước 3: Xử lý số liệu và tính toán các chỉ tiêu phân tích, xác định mức độ ảnh
hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế. Đây là bước cơ bản nhất quyết định chất
lượng của công tác phân tích.
Bước 4: Lập báo cáo phân tích. Báo cáo phân tích thể hiện nội dung và kết quả
phân tích bằng lời văn, phải bao gồm đầy đủ các kết luận về các ưu, nhược điểm chủ
yếu, những nguyên nhân cơ bản và đề xuất các biện pháp quản lý.
1.2.6 Nguồn thông tin làm cơ sở tính toán và phân tích:
Các báo cáo tài chính và báo cáo tình hình hoạt động của ngân hàng chính là
nguồn thông tin chủ yếu cho việc tính toán và phân tích tình hình hoạt động cũng như
hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Cụ thể bao gồm các báo cáo sau:

- Báo cáo thu nhập, chi phí, kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đây
là báo cáo tổng hợp toàn bộ các khoản thu nhập, chi phí cũng như kết quả trong suốt
một thời kỳ hoạt động của ngân hàng, thường là một năm tài chính.
- Bảng tổng kết tài sản thể hiện hoạt động cơ bản của ngân hàng. Với kết cấu:
Tổng tài sản có
=
Tổng tài sản nợ
+
Tổng vốn
Trong đó: tài sản nợ của NHTM là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng, còn tài sản có cho biết những khoản mà thị trường nợ ngân hàng,
tức là những khoản NHTM cho thị trường vay. Vì mục tiêu của ngân hàng là cho vay để
kiếm lời nên tài sản có hay các tài khoản mà ngân hàng cho thị trường vay còn được gọi
là “đầu tư của ngân hàng”. Với các chỉ tiêu trên bảng tổng kết tài sản thể hiện những nét
đặc trưng về tình hình hoạt động của ngân hàng trong suốt một năm tài chính.
- Bảng thuyết minh báo cáo tài chính với các số liệu cụ thể về từng chỉ tiêu, như
về các khoản cho vay, đầu tư chứng khoán, góp vốn, về tài sản cố định, chi tiết các
khoản phải thu, các khoản phải trả, các khoản thu nhập từ lãi, chi trả lãi, chi phí hoạt
động,….
- Các bảng đồ thị phân tích kết quả hoạt động, các đồ thị thể hiện cơ cấu thu
nhập, cơ cấu tài sản, cơ cấu vốn,…


Ngoài các báo cáo trên, khi phân tích đánh giá tình hình cũng như hiệu quả hoạt
động cần tham khảo, thu thập những thông tin khác về môi trường kinh doanh, những
giới hạn pháp lý được kiểm soát bởi NHNN.

KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các ngân hàng thương mại chịu những
sức ép cạnh tranh rất lớn trong hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, các nhà quản trị

ngân hàng phải luôn nỗ lực để đạt được các mục tiêu trong hoạt động. Điều này đòi
hỏi các nhà quản trị phải được cung cấp những thông tin chính xác và đầy đủ nhất về
tình hình hoạt động cũng như hiệu quả của các hoạt động của ngân hàng, để từ đó có
thể ra các quyết định, chiến lược đúng đắn và phù hợp cho sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng. Do vậy tầm quan trọng của việc phân tích hiệu quả hoạt động của ngân
hàng được đặt ra một cách cấp thiết hơn bao giờ hết.
Qua nghiên cứu về phân tích hiệu quả hoạt động của NHTM hiện nay, bên cạnh
những ưu điểm đạt được vẫn còn những hạn chế, thiếu sót chưa hoàn chỉnh cần phải
được tiếp tục hoàn thiện.
Để có sự nhìn nhận đúng đắn về thực tế phân tích hiệu quả hoạt động của các
NHTM hiện nay, đề tài đi vào phân tích hiệu quả hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng
Công thương Thành phố Đà Nẵng.


CHƯƠNG II
HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI HIỆN NAY
2.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Trong những năm qua hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những đổi mới và
phát triển đáng kể, có thể nói hoạt động của ngân hàng đã có những đóng góp trong sự
nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước. Bên cạnh những kết quả đạt được hệ thống
ngân hàng Việt Nam cũng bộc lộ nhiều yếu kém trong nhiều mặt, đặc biệt là việc quản
lý hoạt động của các NHTM. Những yếu kém đó là khó tránh khỏi khi mà các lý
thuyết cũng như kinh nghiệm về quản lý các NHTM chưa được nghiên cứu một cách
khoa học và đầy đủ. Để có thể quản lý các hoạt động của ngân hàng một cách hiệu
quả, các nhà quản trị ngân hàng cần có những công cụ quản lý đắc lực, mà một trong
những công cụ cần thiết đó là hệ thống thông tin phản ánh hoạt động cũng như hiệu
quả hoạt động của ngân hàng. Do vậy cần thiết phải xây dựng một hệ thống phân tích
hiệu quả hoạt động với những chỉ tiêu và phương pháp phù hợp; khoa học để đáp ứng

yêu cầu thông tin cho công tác quản trị ngân hàng một cách tốt nhất và là cơ sở để các
nhà quản trị ngân hàng ra các quyết định đúng đắn trong quá trình lãnh đạo điều hành
hoạt động ngân hàng.
Để thực hiện phân tích hiệu quả hoạt động của các NHTM vấn đề quan trọng
cần được giải quyết trước hết là xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích
hiệu quả. Hệ thống chỉ tiêu là cơ sở để tiến hành thu thập chọn lọc số liệu từ đó đánh
giá tình hình hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra hệ thống chỉ tiêu còn có quan hệ chặt
chẽ với phương pháp phân tích, bởi vì việc tiến hành phân tích hiệu quả hoạt động của
ngân hàng cũng không ngoài mục tiêu là đánh giá đo lường quá trình thực hiện các
chiến lược kinh doanh để có thể phát hiện điểm mạnh, điểm yếu của ngân hàng nhằm
có biện pháp điều hành thích hợp đảm bảo an toàn trong hoạt động và nâng cao lợi
nhuận của ngân hàng. Do đó sử dụng phương pháp phân tích phù hợp và xây dựng hệ
thống chỉ tiêu phân tích hoàn chỉnh và khoa học là yêu cầu cấp thiết trong công tác
quản trị ngân hàng hiện nay. Do điều kiện có hạn đề tài chỉ hoàn thiện hệ thống các chỉ
tiêu phân tích hiệu quả hoạt động nhằm giúp cho các ngân hàng thương mại có một hệ
thống các chỉ tiêu, cách tính toán phù hợp hơn trong tình hình hiện nay.


2.2. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Hiệu quả kinh tế là phạm trù phức tạp và trở nên phức tạp hơn khi nghiên cứu
nó hoạt động của các NHTM. Do vậy các nhà quản trị ngân hàng không ngừng hoàn
thiện hệ thống chỉ tiêu nhằm đo chỉ tiêu nhằm đo lường nó. Sau khi nghiên cứu đặc thù
hoạt động của ngân hàng, thực trạng hệ thống các chỉ tiêu, đề tài hoàn thiện hệ thống
chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động NHTM theo hướng sau:
Hệ thống các chỉ tiêu phân tích hiệu quả hoạt động NHTM gồm: Hệ thống các
chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động, hệ thống các chỉ tiêu đo lường chi phí và hệ thống các
chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt động của các NHTM. Hiệu quả hoạt động là vấn đề các
nhà quản trị ngân hàng quan tâm nhiều nhất trong tình hình hiện nay. Chính vì vậy mà
luận văn đi vào hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu phân tích hiệu quả hoạt động trong

các NHTM.
Đối với các chỉ tiêu đo lường hiệu quả từng hoạt động luận văn giữ nguyên các
chỉ tiêu như: Tổng dư nợ trên tổng tài sản, Nợ quá hạn trên tổng dư nợ, Tổng dư nợ
trên vốn huy động, Vốn huy động trên vốn tự có, ngoài ra đề tài bổ sung thêm chỉ tiêu
thu nhập lãi suất ròng trên tổng tài sản sinh lời bình quân, chỉ tiêu thu nhập lãi suất
ròng trên tổng thu nhập, chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn huy động.
Đối với các chỉ tiêu đo lường hiệu quả toàn bộ NHTM, đề tài giữ nguyên các
chỉ tiêu như đã trình bày, điều chỉnh công thức tính cho các chỉ tiêu ROA, ROE và bổ
sung thêm chỉ tiêu tỷ lệ thu nhập lãi cận biên, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên, tỷ lệ
thu nhập d cận biên, tỷ lệ hiệu suất sử dụng tài sản tỷ lệ nhập ròng trên tổng thu nhập.
Để hệ thống và phản ánh rõ hơn các chỉ tiêu phân tích hiệu quả hoạt động của
các NHTM đề tài thể hiện các chỉ tiêu trên hình 2-1.


Hệ thống các chỉ tiêu đo lường hiệu quả
hoạt động NHTM Việt Nam

Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả
từng hoạt động

Tổng dư nợ trên vốn huy động

Tổng dư nợ trên tổng tài sản

Nợ quá hạn trên tổng dư nợ

Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả
toàn bộ hoạt động

Tổng thu nhập trên tổng tài sản

Tổng chi phí trên tổng thu nhập
Tỷ suất lợi nhuận

Vốn huy động trên vốn tự có

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế
trên tổng tài sản

Hiệu quả sử dụng vốn huy động

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế
trên vốn tự có

Thu nhập lãi suất ròng
trên tổng thu nhập

Thu nhập lãi suất ròng trên
tổng tài sản sinh lời bình quân

Tỷ lệ hiệu suất sử dụng tài sản

Tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên

Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên

Tỷ lệ thu nhập ròng
trên tổng thu nhập

Hình 2-1: Hệ thống các chỉ tiêu phân tích hiệu quả hoạt động NHTM Việt Nam
đã được hoàn thiện



2.2.1. Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả từng hoạt động
* Tổng dư nợ trên tổng tài sản: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả tín dụng của
một đồng tài sản và xác định quy mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Công thức tính:
Tổng dư nợ
Tổng dư nợ trên tổng tài sản =
x 100 (%)
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này thường được các NHTM dùng để so sánh, đánh giá giữa các ngân
hàng thành viên trong hệ thống, trên cơ sở chỉ tiêu này sẽ biết được khả năng khai thác
và mở rộng hoạt động cho vay trên các địa phương khác nhau, từ đó giúp các nhà
hoạch định ngân hàng đưa ra các quyết nên đầu tư vào đâu thì có hiệu quả nhất.
* Nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Chỉ tiêu này đo lường chất lượng tín dụng của
các ngân hàng. Chỉ số này càng nhỏ chứng tỏ chất lượng tín dụng của các ngân hàng
càng cao.
Công thức tính:
Nợ quá hạn
Nợ quá hạn trên tổng dư nợ
=
x 100 (%)
Tổng dư nợ
Tuy nhiên, trong nợ quá hạn các NHTM cần phân biệt nợ quá hạn dưới 90
ngày, từ 91 đến 180 ngày, từ 181 đến 360 ngày và nợ khó đòi. Nợ khó đòi là chỉ tiêu
cảnh báo cho ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để thu hồi. Với cách tính chi tiết
này, các nhà phân tích có thể tính nhiều chỉ tiêu như tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ,
tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ và một số chỉ tiêu khác nhằm đánh giá hiệu quả củ
hoạt động của tín dụng. Những chỉ tiêu này có quan hệ với nhau rất chặt chẽ và phản
ánh các mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Tuy rủi ro tín dụng là không tránh khỏi hoạt

động tín dụng nhưng các nhà quản trị ngân hàng cần quản lý rủi ro nhằm hạn chế đến
mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra.
Hiện nay các NHTM có xu hướng mở rộng đầu tư cho vay đối với các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh hơn là các doanh nghiệp quốc doanh. Điều này cũng dễ
hiểu, vì hiện nay các doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu là vay tín chấp nên khi doanh
nghiệp gặp khó khăn về tài chính thường không trả được nợ đối với khối doanh nghiệp
này cũng rất khó khăn vì liên quan đến nhiều bộ ban ngành, nhiều lĩnh vực… Trong
khi đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì việc vay vốn ngân hàng phải
có tài sản đảm bảo nên khi có xảy ra vấn đề không thu được thì các NHTM vẫn có tài
sản để xử lý.
* Tổng dư nợ trên vốn huy động: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả đầu tư của một
đồng vốn huy động, giúp so sánh khả năng cho vay của ngân hàng đối với vốn huy
động tín dụng.


×