Tải bản đầy đủ (.pdf) (218 trang)

Khảo sát đặc điểm truyện ngắn đồng bằng sông cửu long từ 1975 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.49 MB, 218 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN MẠNH HÙNG

Chuyên

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI

HƯỚNGHOA

HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN MẠNH HÙNG

Chuyên ngành

: Văn học Việt Nam

Mã số

: 62 22 34 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011


LỜI CAM ĐOAN CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả được trình bày trong luận án này là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án

Trần Mạnh Hùng


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- Đồng bằng sông Cửu Long ( ĐBSCL)
- Nhân vật (NV)


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ...................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................ 12
4. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu .......................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 13
6. Những đóng góp của luận án ................................................................ 14
7. Cấu trúc của luận án.............................................................................. 14
CHƯƠNG 1:


KHÁI QUÁT VỀ T U

N NG N

ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ 1

Đ NN

1.1. Khái quát về lịch sử, xã hội, văn hoá vùng ĐBSCL Cửu Long .......... 14
1.1.1. Khái quát về lịch sử, xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long ......... 15
1.1.2. Khái quát về văn hoá vùng đồng bằng sông Cửu Long ................... 18
1.2. Quan niệm về truyện ngắn và truyện ngắn ĐBSCL ............................ 22
1.2.1. Quan niệm về truyện ngắn................................................................ 23
1.2.2. Quan niệm về truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long .................... 27
1.3. Đội ngũ tác giả truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long..................... 28
1.4. Sự vận động của truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến
nay ....................................................................................................... 31
CHƯƠNG 2: NHỮNG CẢM HỨNG TRONG TRUY N NG N ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ 1

Đ N NAY

2.1. Cảm hứng ngợi ca thiên nhiên và con người đồng bằng sông Cửu
Long .................................................................................................... 38
2.1.1. Cảm hứng ngợi ca thiên nhiên.......................................................... 38
2.1.2. Cảm hứng ngợi ca con người ........................................................... 48
2.2. Cảm hứng phê phán cái hạn chế, cái tiêu cực trong đời sống ............. 56



2.2.1. Phê phán sự ấu trĩ, nóng vội, quan liêu, vô cảm .............................. 56
2.2.2. Phê phán mặt trái của đô thị hóa nông thôn ..................................... 60
2.2.3. Phê phán tác động tiêu cực của kinh tế thị trường ........................... 65
2.3. Cảm hứng nhận thức tìm kiếm bản thể của con người........................ 68
2.3.1. Con người với tình yêu và hạnh phúc .............................................. 69
2.3.2. Con người tự vấn ............................................................................. 76
2.3.3. Con người với đời sống tâm linh ...................................................... 80
2.4. Cảm hứng nhận thức về đời sống văn hóa ......................................... 85
2.4.1. Nghệ thuật cải lương ....................................................................... 87
2.4.2. Lễ hội dân gian ................................................................................. 90
2.4.3. Văn hóa ẩm thực ............................................................................... 91
CHƯƠNG 3: M T

HƯƠNG I N NGH THU T C

NG N ĐỒNG BẰNG ÔNG CỬU LONG TỪ 1

T U

N

Đ NN

3.1. Nghệ thuật tạo dựng tình huống, kết cấu, không gian, thời gian nghệ
thuật ..................................................................................................... 98
3.1.1. Nghệ thuật tạo dựng tình huống ...................................................... 98
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng kết cấu .......................................................... 112
3.1.3. Nghệ thuật tạo dựng không gian, thời gian .................................... 122
3.2. Nghệ thuật khắc họa nhân vật.………...............................................134
3.2.1. Miêu tả nhân vật qua mâu thuẫn, xung đột .................................... 134

3.2.2. Miêu tả ngoại hình .......................................................................... 140
3.2.3. Miêu tả hành động nhân vật ........................................................... 142
3.2.4. Miêu tả trạng thái cảm xúc nhân vật ............................................. 150
3.3. Nghệ thuật sử dụng phương ngữ Nam bộ ......................................... 154
3.3.1. Nghệ thuật sử dụng lớp từ biến âm ............................................... 156
3.3.2. Nghệ thuật sử dụng lớp từ chỉ địa danh ......................................... 158
3.3.3.Nghệ thuật sử dụng lớp từ chỉ sự vật, hiện tượng ........................... 160


3.3.4. Nghệ thuật sử dụng lớp từ chỉ tên người ........................................ 163
3.3.5.Nghệ thuật sử dụng lớp từ khẩu ngữ ............................................... 165
3.4.Giọng điệu……………………………………………………...........169
3.4.1. Giọng điệu dân dã, mộc mạc .......................................................... 171
3.4.2.Giọng điệu trữ tình đằm thắm ......................................................... 175
3.4.3.Giọng điệu hài hước ........................................................................ 181
3.4.4. Giọng điệu suy ngẫm sâu xa........................................................... 183
KẾT LUẬN ................................................................................................... 188
CÁC BÀI BÁO LIÊN QUAN....................................................................... 191
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 192
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 207


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước bước sang
một giai đoạn lịch sử mới. Văn học cả nước nói chung, văn học đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng cũng có sự vận động và phát triển, kịp
thời phản ánh đời sống xã hội trước yêu cầu mới của thời đại.

1.2. Truyện ngắn ĐBSCL gắn liền với nhiều nhà văn được người đọc
mến mộ như: Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức,…và
gần đây là Nguyễn Ngọc Tư. Họ viết hết mình về vùng đất nơi họ sinh ra, lớn
lên và trải nghiệm suốt cả cuộc đời từ nhiều góc độ, phương diện cảm nhận
cũng như cách thể hiện.
Thật sự thì gần đây có nhiều tác giả truyện ngắn viết về ĐBSCL khá
thành công và có nhiều triển vọng sẽ đi xa hơn. Điều đó đã mở ra nhiều
hướng đi mới đầy triển vọng cho văn chương vùng ĐBSCL.
1.3. Văn học cũng đòi hỏi có sự tổng kết ở từng giai đoạn để tạo thế đi
lên. Mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác đều cần được khuyến khích
tìm tòi, thể nghiệm.
So với các thể loại văn học khác, truyện ngắn ĐBSCL sau 1975 phát
triển nhanh về số lượng và có những đóng góp đặc sắc về nội dung cũng như
nghệ thuật, nhất là việc thể hiện đời sống, tâm hồn, tính cách của người
ĐBSCL trong thời kỳ này.
Thế nhưng đến nay các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở một số
tác giả như Sơn Nam, Trang Thế Hy, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng … và
chủ yếu là những sáng tác của họ trước 1975, và gần đây là một số công trình
nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Ngoài ra, cũng có một vài công trình nghiên cứu truyện ngắn ở một số
địa phương, như truyện ngắn An Giang, Đồng Tháp,…mà chưa có công trình


2

nghiên cứu mang tính hệ thống, toàn diện về truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến
nay.
Sinh ra và lớn lên ở vùng đồng bằng Bắc bộ, nhưng phần lớn cuộc đời
tôi lại gắn bó sâu nặng với ĐBSCL. Vẻ đẹp của ‘‘nắng chói chang vàng tươi
lúa hát’’ và ‘‘những con người mặt đẹp như hoa’’ (Lê Anh Xuân) cùng cái

trong trẻo mát lành của một dòng sông quê đỏ nặng phù sa, rồi tình đất, tình
người, hương rừng, hương biển... Ở nơi đây đã tạo nên một hương vị rất
riêng, cũng như làm cho chúng tôi thêm gắn bó sâu nặng với vùng đất này,
vừa gần gũi, thân quen, song cũng vừa độc đáo mới mẻ đến vô chừng.
Với những lẽ trên, chúng tôi đi vào nghiên cứu vấn đề Khảo sát đặc
điểm truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tổng hợp, đánh giá dựa trên các
nguồn tư liệu sau:
Các tham luận trong Hội thảo bàn tròn Văn xuôi đồng bằng lần thứ 1 tại
thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Lời giới thiệu ở các Tập truyện ngắn và Tuyển tập truyện ngắn từ 1975
đến nay của các nhà văn ở ĐBSCL.
Một số luận văn Cao học thực hiện đề tài về truyện ngắn ĐBSCL trong
phạm vi một tỉnh hoặc một tác giả cụ thể.
Trên các báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam), Văn nghệ trẻ, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, Tạp chí Nhà văn…
Trên các website như:
- ;
- , ...
Từ những tư liệu thu thập được, chúng tôi tạm chia thành hai loại ý kiến
sau:


3

- Ý kiến bàn về những đóng góp nổi bật của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay.
- Ý kiến bàn về hạn chế của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay.
2.1. Ý kiến bàn về những đóng góp của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975

đến nay
2.1.1. Những đóng góp về nội dung truyện ngắn ĐBSCL
Trong bài Truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ năm 1975 đến nay Thành tựu và những điều trăn trở, Hoài Phương nhìn nhận:“Truyện ngắn đã
có những cách tân và đạt nhiều thành tựu đáng tự hào về nội dung lẫn hình
thức thể hiện”[123]. Còn trong bài Đi tìm ‘‘chân dung’’ truyện ngắn đồng
bằng sông Cửu Long, Võ Tấn Cường nhận xét: “Phác thảo chân dung truyện
ngắn ĐBSCL, tôi cảm nhận được tính cách con người, sắc màu văn hóa của
vùng đất này’’[24]. Trong bài Văn xuôi đồng bằng sông Cửu Long: một khu
vực văn xuôi có nhiều đặc sắc, Chiêm Thành cũng đề cập đến: “tính cách con
người Nam bộ trong thời hiện đại đa diện và rất phức tạp, chứ không phải
đơn giản là phóng khoáng, hào hiệp, giàu tình nghĩa như cái nhìn bất di bất
dịch của một số người”[135, tr.53]. Còn ở bài Cá tính và bản lĩnh văn xuôi
Nam bộ, Hồ Tĩnh Tâm đã chỉ ra những đóng góp của truyện ngắn ĐBSCL từ
1975 đến nay về nội dung phản ánh: ‘‘Dựng nên bức chân dung về tâm linh,
tình cảm của con người Nam bộ trong cuộc sống. Đó là những vấn đề luôn
tạo nên niềm trăn trở, thao thức trong đời sống hôm nay như: nỗi đau sau khi
chiến tranh qua đi; thân phận con người bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh; khát
vọng tình yêu và hạnh phúc; tự vấn lương tâm trước những những gì đã và
đang diễn ra trong cuộc sống’’[147].
Với bài Văn xuôi đồng bằng sông Cửu Long - một chặng đường phát
triển, tác giả đánh giá cao một số tác phẩm có giá trị đích thực đáng được
quan tâm với hai mảng đề tài lớn trong sáng tác văn học sau 1975 là ‘‘chiến


4

tranh cách mạng và quá trình xây dựng, đổi mới của đất nước’’. Trong đó,
vấn đề tự vấn lương tâm diễn ra xuyên suốt ở hai mảng đề tài này “Thân phận
nhân vật trong các tác phẩm thường gởi một phần cuộc đời trong chiến tranh
bom đạn, một phần thao thức vươn tới cuộc sống mới. Trong kháng chiến, văn

học hướng con người vươn tới giành chiến thắng; ngược lại thời bình, văn
học rộng đường khai thác hơn, khắc họa hình tượng con người với nhiều mối
quan hệ, con người trong đời thường, trong nghịch cảnh, bất hạnh, niềm vui
và nỗi đau,…”[134, tr.57].
Trong bài Một phong vị truyện ngắn đồng bằng riêng biệt trên trang Web
Văn nghệ sông Cửu Long, Tường Vi nhận xét: “Có truyện ngắn còn đi vào
tâm trạng phức tạp của những con người thành thị, bị dằn vặt giữa những
mâu thuẫn tiền tài và khát vọng tình yêu,... hoặc câu hỏi lớn về căn bệnh quan
liêu của các quan chức…Dù dưới góc nhìn nào, các tác giả cũng mở cho
nhân vật một lối thoát, chứa đựng nhân sinh quan: Cuộc sống vốn sẽ không
quá khắc nghiệt với những ai biết vươn lên và phục thiện”[195].
Còn qua bài Truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay thành tựu và những điều trăn trở, Hoài Phương cho rằng: ‘‘Truyện có sự vận
động và phát triển rất nhanh, đáp ứng kịp thời sự chuyển đổi của xã hội và
con người sau chiến tranh. Chính nhờ sự chuyển tải nhanh và kịp thời nhiều
vấn đề bức xúc, gần gũi với đời sống xã hội, cùng với giọng văn trầm lắng,
nhẹ nhàng, tâm tình như len lỏi vào tận đáy sâu tâm hồn con người’’[123].
Với bài Nhà văn Nguyễn Thanh - người nặng nợ văn chương, tác giả
khái quát nội dung phản ánh trong sáng tác của ông: “Truyện của ông nhiều
chi tiết nhỏ nhít mà sống động lạ lùng, đọc lên cứ như mình đang ở đó, trong
hoàn cảnh đó, nói mấy câu dân dã đó…nếu ngày xưa ông say mê xây dựng
hình tượng người lính thì sau này, nhân vật của ông chủ yếu là nông dân. Họ
hào sảng, tốt bụng, nhân nghĩa nhưng phải trăn trở, day dứt rất nhiều trong


5

cuộc mưu sinh. Và những người phụ nữ luôn hiện ra với tất cả vẻ đẹp, cái đẹp
lấp lánh từ đau khổ, hy sinh, từ sự vùi dập…”[173, tr.29].
Trong lời giới thiệu tập truyện ngắn Bóng chiều hôm - Nguyễn Thanh,
Nguyễn Thị Thanh Xuân đưa ra nhận xét đối với cảm hứng về con người và

cuộc sống ở vùng đất cực Nam của Tổ quốc: ‘‘Cảm hứng kín đáo xuyên suốt
tác phẩm của Nguyễn Thanh là cái thường ngày của cuộc đời. Bằng một bút
pháp trầm tĩnh, chân tình, đôi khi còn có phần chân phương trong cách viết,
Nguyễn Thanh đưa chúng ta đến với những cuộc sống và thế giới tinh thần
của những con người bình thường ở vùng đất cực Nam của Tổ quốc. Bằng
những chi tiết nhỏ tươi nguyên, trang viết của Nguyễn Thanh phản ánh cuộc
sinh sôi thầm lặng hay cuộn chảy ào ạt ở Cà Mau trong dịp xây dựng. Ở đó
có những con người làm việc không mệt mỏi với một ý thức lao động đẹp đẽ
không hề nhân danh cho những giá trị lớn lao. Ở đó đầy ắp tiếng cười con
trẻ, tiếng sóng biển, ánh lửa đốt đồng, tiếng vịt gọi bầy, tiếng xuồng lao trong
đêm trên kênh rạch thoảng mùi bùn nồng ấm’’[133].
Bàn về Thế giới truyện ngắn Bích Ngân, Huỳnh Phan Anh nhận định:
“Qua từng trang toát ra hơi thở và nhịp đập của vùng đất thân thương nơi
tận cùng của đất nước, tác giả đã đưa người đọc đến hoặc đến gần hơn, với
những mảnh đời và cảnh đời làm nên hồn đất lẫn hồn người, hiền hoà và
mãnh liệt, đã mở ra nhiều cánh cửa nhưng còn đó bao điều bí ẩn. Ngôn ngữ
và phong cách Bích Ngân in rõ những nét đặc trưng Nam bộ… Nhưng điều
đáng nói và cũng hiện rõ trong tài năng của cô là chất giọng Nam bộ vẫn in
đậm trên từng trang viết nhưng không nặng phần câu nệ hay cứng nhắc đến
cường điệu trong từng câu, từng chữ mà vẫn toát ra nét tinh tế và trữ tình
riêng mở toang mọi giới hạn…Truyện ngắn Bích Ngân thường dung dị, với
những con người và cuộc sống thật bình thường, gần gũi, dễ tìm tới nhất, dễ
bắt gặp nhất…”[7].


6

Đánh giá về nhà văn Trang Thế Hy, Chiêm Thành trong bài văn xuôi
ĐBSCL có nhiều đặc sắc đã nhận xét: ‘‘Ông đã ý thức được sức nặng của
từng con chữ - sức nặng ấy có được là nhờ sự chiêm nghiệm về cuộc đời mà

trên hết là nhờ nỗi đau đớn trong ý thức trả những món nợ nước mắt của thế
gian”[135].
Nhà văn Nguyên Ngọc cũng có nhận xét khá thú vị về Nguyễn Ngọc Tư,
ông ví: “Cô ấy như một cái cây tự nhiên mọc lên giữa rừng tràm hay rừng
đước Nam bộ vậy, tươi tắn lạ thường, đem đến cho văn học một luồng gió mát
rượi, tinh tế mà chân chất, đặc biệt Nam bộ”[115].
Trong Bài học văn chương từ cánh đồng bất tận, Bùi Việt Thắng đã có
những nhận xét khá sắc sảo về nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư: “Nguyễn Ngọc
Tư đã xây dựng biểu tượng văn chương và ngôn ngữ văn chương, trong đó
cánh đồng là một biểu tượng giàu ý nghĩa. Cánh đồng không phải là cánh
đồng mẹ, nơi lưu giữ tâm thức của cộng đồng, nơi truyền tình thân yêu nước,
là bằng chứng về sự cố kết máu thịt giữa con người và đất đai… mà là cánh
đồng chết”[144].
Nguyễn Lâm Điền - Huỳnh Hải Đăng cũng đã khái quát những dấu ấn
văn hóa của vùng đất ĐBSCL được Nguyễn Ngọc Tư thể hiện sinh động
trong các truyện ngắn của chị mà nổi bật nhất là: “Cách nhà văn miêu tả một
trong những nét đẹp về đời sống tinh thần của người ĐBSCL mà những vùng
miền khác không có đó là đờn ca tài tử, cải lương”[46].
Giới thiệu về Truyện ngắn Ba tác giả nữ ĐBSCL, Nguyễn Anh Vũ có
nhận xét rất chính xác thể hiện được nét đặc trưng của thiên nhiên vùng sông
nước: “Có một điều đặc biệt thú vị khi đọc truyện ngắn của ba tác giả nữ
ĐBSCL, đó là người đọc luôn bắt gặp một không gian đầy quyến rũ và thơ
mộng của vùng sông nước Cửu Long với những bờ kênh, con rạch, với hình


7

ảnh những miệt vườn, những cù lao xanh hút tầm mắt và những thú vui điền
dã mang đậm đặc trưng của miền đất Nam bộ”[196, tr.11].
Trong bài giới thiệu truyện ngắn trên Website Văn nghệ sông Cửu Long

với tựa đề Một phong vị đồng bằng riêng biệt, Tường Vi viết: “Tập truyện đã
gợi lên cho người đọc hình ảnh sông nước, làng quê với cảm giác nhớ nhung,
khắc khoải về một vùng đất, đặc biệt là trầm buồn trong những ngày mưa
lũ,… cho người đọc những câu chuyện thú vị về một vùng đất hào sảng, nơi
có những tay “sát cá”, những buổi “ăn ong”, những vùng nước cá tôm nhiều
vô kể’’[195].
Còn ở bài Thiên nhiên và con người Nam bộ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư, Tiền Văn Triệu nhận định: ‘‘Dòng sông và cánh đồng rộng là không
gian phù hợp để những câu hò, câu ca vọng cổ cất lên mỗi khi gặp nỗi buồn’’
Nguyễn Thanh lại có cái nhìn khái quát hơn về sự trù phú của thiên
ĐBSCL: “Vốn là một vùng châu thổ nhiệt đới, được tạo thành do phù sa Cửu
Long bồi tụ…đây là vùng đất trẻ, đất mới với điều kiện địa lý đặc thù thiên
nhiên ưu đãi”[134, tr.59].
Từ những ý kiến trên, chúng tôi nhận thấy, mỗi công trình nghiên cứu có
cách tiếp cận khác nhau. Hướng tiếp cận chủ yếu của các công trình trên là
hướng tiếp cận nhân học và hướng tiếp cận văn hóa học (đương nhiên không
thể thiếu hướng tiếp cận ngữ văn học). Theo những hướng tiếp cận này, các
nhà nghiên cứu trên khai thác tập trung vào đặc trưng tính cách con người và
đặc trưng văn hóa mà các truyện ngắn ĐBSCL đã vẽ nên qua lăng kính đạo
đức - thẩm mỹ và cá tính của mỗi nhà văn. Nhìn chung, các công trình trên đã
đề cập đến những đóng góp nổi bật ở phương diện nội dung của truyện ngắn
ĐBSCL sau 1975.
2.1.2. Những đóng góp nổi bật về nghệ thuật


8

Trong tham luận hội thảo Bàn tròn văn xuôi ĐBSCL, lần I, Hồ Tĩnh Tâm
có nhận xét: “Một số cây bút văn xuôi ĐBSCL đã sử dụng thành thục các giá
trị đặc trưng ngôn ngữ Nam bộ, thậm chí còn nâng cao ngôn ngữ Nam bộ lên

tầm cao của ngôn ngữ nghệ thuật”[147]. Ông còn cho rằng truyện ngắn
ĐBSCL đã dựng được“chân dung về tâm linh, tình cảm của người Nam bộ
đúng thứ ngôn ngữ rất thuần Nam bộ”[147].
Bàn về nghệ thuật truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay, Võ Tấn Cường
cho rằng: “Truyện ngắn ĐBSCL có diện mạo riêng với những phong cách
nghệ thuật mang đậm nét đặc điểm của văn hoá truyền thống”[24].
Nhận xét về cách viết của một số tác giả truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay, Hoài Phương nhận định: “Đa số các nhà văn ở ĐBSCL có cách viết
uyển chuyển và nhẹ nhàng hơn, ít tuân thủ theo các kết cấu truyền thống là
phải có hậu, thậm chí nhiều truyện không có phần kết giống như một cánh
cửa khép hờ. Đặc biệt, có một số tác giả đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân
vật giúp cho người đọc cảm thấy thích thú”[123].
Nhận định về nghệ thuật sử dụng phương ngữ Nam bộ trong truyện ngắn
của ba tác giả nữ ĐBSCL, Nguyễn Anh Vũ viết: ‘‘Ngôn ngữ của vùng đất
Nam bộ với những phương ngữ, thổ ngữ độc đáo hay những đặc trưng trong
lời ăn, tiếng nói của người Nam bộ luôn được sử dụng nhuần nhị, tự nhiên
trong mỗi tác phẩm đã tạo nên cho truyện ngắn của ba tác giả nữ một bản sắc
riêng, tạo ấn tượng đối với người đọc’’[196, tr.12].
Nhận xét về nghệ thuật sử dụng phương ngữ Nam bộ trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư, Huỳnh Công Tín viết: “Nhìn từ phương diện nghệ thuật,
chị đã sử dụng ngôn từ của phương ngữ Nam bộ khá thành công trong sáng
tác của mình. Điều này góp phần làm nên một văn phong riêng ở chị. Tất
nhiên có thể có người không đồng tình với những nhận định này vì cho rằng,
trong tác phẩm văn chương mà sử dụng quá nhiều từ địa phương thì sẽ gây


9

trở ngại cho người đọc, hạn chế độc giả. Nhưng, để có được những sáng tác
phản ánh sinh động thực tại, không gì tốt hơn là phải dùng được chất liệu

ngôn từ của thực tại cần phản ánh”[152, tr.4].
Bàn về phong cách diễn đạt của Nguyễn Ngọc Tư qua Cánh đồng bất
tận, Đặng Vũ nhận xét: “Nhà văn có lối viết truyện thật hay, không theo
khuôn phép nào, cũng chẳng theo chủ nghĩa này nọ, không gò bó, trái lại rất
tự nhiên, thoải mái,“viết như chơi”[184].
Trần Phỏng Diều bàn về Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư: “Có thể nói, thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
chính là hình tượng người nghệ sỹ, hình tượng người nông dân và hình tượng
con sông đưa mình uẩn khúc, chở nặng tình người”[31].
Còn ở bài Điểm nhìn và lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Ông Thiềm
Thừ của Trần Kim Trắc, Đỗ Thị Hiền nhận định: Truyện ngắn này “gửi đến
chúng ta một thông điệp về nhân cách con người từ góc nhìn văn hoá”[69].
Trong bài Yếu tố giọng điệu trong truyện ngắn Sơn Nam, Trần Phỏng
Diều nhận xét: “Điều dễ nhận thấy nhất trong giọng điệu truyện ngắn Sơn
Nam đó là giọng ngậm ngùi, giọng tâm tình, hoài niệm, giọng rề rà, chậm rãi.
Có thể nói giọng rề rà, chậm rãi là một đặc trưng trong truyện ngắn của
ông...”[30].
Bàn về phong cách Sơn Nam, có ý kiến cho rằng: ‘‘Văn Sơn Nam không
ồn ào như gió chướng, lại không trong veo như nước cất trong phòng thí
nghiệm, mà nó là thứ nước chất lỏng hồng hào có tên phù sa, chỉ cần vốc lên
đã thấy mỡ màu cả bàn tay... Những cảnh, những đời, những tâm sự của ông
dù với tính cách hảo hớn, hào hùng nhất, sảng khoái và chịu chơi nhất bao
giờ cũng pha một giọng kể trầm buồn, u hoài, xa vắng’’[58].
Ở bài Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đậm sâu một phong cách Nam Bộ,
Trần Vệ Giang đã viết: “Không phải kiểu Nam bộ quê rặt, địa phương tính,


10

văn chương của Nguyễn Quang Sáng có cái hơi thở đồng bằng, phù sa dòng

sông, cái khoáng đạt, giản đơn của con người miền sông nước. Và quan trọng
hơn hết là, ông thâu tóm vào tác phẩm cái hồn cốt Nam bộ”[187].
Ngoài các công trình đã đề cập trên đây, trong các trường đại học ở khu
vực và thành phố Hồ Chí Minh sinh viên, học viên cao học ngành ngữ văn đã
thực hiện luận văn với đề tài về truyện ngắn ĐBSCL sau 1975. Trong số đó
đáng chú ý là đề tài Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Đồng Tháp giai đoạn
1975 đến 2005 (Luận văn thạc sĩ - Nguyễn Anh Dân). Tác giả luận văn đã
phát hiện sự đa dạng, phong phú của thế giới nhân vật, sự đặc sắc trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật của truyện ngắn Đồng Tháp trong cách thể hiện xung
đột, sự kiện, trong lựa chọn chi tiết và sử dụng ngôn ngữ… Đề tài Những đặc
điểm nổi bật của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Luận văn thạc sĩ - Nguyễn
Thị Thu Thuỷ) là một công trình nghiên cứu công phu và nghiêm túc về
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Tác giả luận văn khẳng định: ‘‘Mọi sự ồn ào
rồi sẽ qua đi, những giá trị đích thực sẽ ở lại, có thể nói Nguyễn Ngọc Tư là
gương mặt của văn học Việt Nam đương đại, chất nhân văn trong sáng tác
của chị là điều làm đọc giả say mê và thích thú. Phải chăng đó là do tình
nhân ái, tính nhân bản là gốc rễ phẩm chất của một nhà văn tài năng’’...
Nhìn chung, các ý kiến đã chỉ ra được một số đóng góp ở phương diện
nghệ thuật như phong cách, thị hiếu thẩm mỹ, giọng điệu, ngôn ngữ truyện,...
đặc biệt nghệ thuật sử dụng phương ngữ Nam bộ trong tác phẩm. Vốn ngôn từ
địa phương dưới bàn tay nhào nặn, sắp đặt câu chữ khéo léo của nhà văn đã
góp phần quan trọng cho thành công về mặt nghệ thuật của các nhà văn
ĐBSCL.
2.2. Bàn về hạn chế của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay
Trong bài Đi tìm‘‘chân dung’’ truyên ngắn ĐBSCL, Võ Tấn Cường nhận
xét về sự hạn chế trong việc xây dựng nhân vật và phong cách diễn đạt: “Đọc


11


hàng trăm truyện ngắn ĐBSCL, tôi nhận ra sự đóng băng trong việc miêu tả
tâm lý, tính cách nhân vật của một số tác giả... Truyện ngắn ĐBSCL chưa có
nhiều tác phẩm tạo dựng được những điển hình nhân vật có tầm nhìn, có khả
năng ý thức về cái tôi của con người trong mối quan hệ với cuộc đời và vũ
trụ. Các nhà văn chưa đào sâu vào miền bí ẩn của tâm linh con người với
nhưng xung đột giữa cái thiện và cái ác, giữa cao thượng và thấp hèn... Các
nhà văn ĐBSCL chưa xây dựng được những nhân vật có tính cách, tầm vóc
ngang tầm hoặc cao hơn những người mẫu trong cuộc sống. Hầu hết các
truyện ngắn viết theo lối kể chuyện truyền thống, nhịp điệu và mạch truyện
chậm thiếu độ căng về cấu trúc’’[24, tr.14].
Cũng trong bài Đi tìm ‘‘chân dung’’ truyện ngắn ĐBSCL, khi bàn về
ngôn ngữ truyện, Võ Tấn Cường có những nhận xét khá thẳng thắn: ‘‘Ngôn
ngữ kể chuyện trong nhiều truyện ngắn pha tạp nhiều khẩu ngữ, thiếu sự gọt
giũa, chắt lọc....’’[24, tr.14].
Bàn về phong cách diễn đạt của Nguyễn Ngọc Tư, Bùi Việt Thắng nhận
xét: “Văn viết Nguyễn Ngọc Tư gần với văn nói”[146].
Trong bài Bàn tròn văn xuôi ĐBSCL khi nhìn nhận về hạn chế của truyện
ngắn, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã dẫn ý kiến của Nguyên Tùng: ‘‘Thừa tả
thực mà thiếu tưởng tượng. Truyện ngắn của các tác giả ĐBSCL chúng ta dễ
gây cho người đọc cảm giác: ‘‘Đó là câu chuyện có thật’’. ‘‘Nguyên liệu thô’’
còn đan bện quá nhiều trong tác phẩm hư cấu. Chính điều này đã làm giảm
sự hứng thú cho người đọc...’’[147, tr.41].
Nhìn chung các nghiên cứu trên, ở từng mức độ đều có được sự tìm tòi,
khám phá đáng quý, đáng trân trọng trong việc khẳng định những thành công
và chỉ ra mặt hạn chế của truyện ngắn ĐBSCL.
Trên cơ sở đó, chúng tôi có điều kiện để đi sâu hơn, phát hiện thêm
những điều mới mẻ về truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay.


12


3. Mục đích nghiên cứu
Văn chương nói chung, truyện ngắn nói riêng cũng đòi hỏi có sự tổng kết
ở từng giai đoạn. Vì vậy, khi thực hiện đề tài Khảo sát đặc điểm truyện ngắn
đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay, chúng tôi có điều kiện tiếp cận
toàn diện vấn đề. Qua đó, luận án làm rõ quan niệm truyện ngắn về ĐBSCL
cũng như nhận diện diện mạo, sự vận động và những đặc điểm chủ yếu của
thể loại này.
4. Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
Sở dĩ chúng tôi chọn mốc thời gian từ 1975, vì đây là năm đánh dấu
sự chuyển biến lớn lao của đất nước. Văn học nói chung, văn học ĐBSCL
cũng bắt đầu vận động theo qui luật đời thường.
So với các thể loại khác, truyện ngắn ĐBSCL sau 1975, có bước phát
triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, luận án chọn thể loại truyện
ngắn để khảo sát. Cụ thể các tuyển tập sau:
- Tuyển tập truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 - 1995,
Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
- Tuyển tập 18 Nhà văn đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản
Mũi Cà Mau.
- Truyện ngắn Ba tác giả nữ đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất
bản Văn học.
- Truyện ngắn miền Tây, Nhà xuất bản Trẻ Tp. Hồ Chí Minh.
- Truyện ngắn Đồng Tháp, An Giang và truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư.
Nghiên cứu văn học phạm vi một vùng lãnh thổ, do vậy, ngoài khảo
sát truyện ngắn của tác giả truyện ngắn ĐBSCL là hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam, chúng tôi còn chọn khảo sát truyện ngắn của tác giả là hội viên Hội Văn


13


học - Nghệ thuật ở các địa phương, để có cái nhìn toàn diện hơn về diện mạo
cũng sự vận động của thể loại truyện ngắn ở ĐBSCL từ 1975 đến nay.
Bên cạnh đó, luận án còn mở rộng phạm vi khảo sát một số truyện
ngắn ĐBSCL trước năm 1975 và ở vùng miền khác để có cơ sở đối chiếu, so
sánh góp phần làm rõ hơn những nét riêng của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay.
Chọn vấn đề Khảo sát truyện ngắn ĐBSCL từ 1975 đến nay, chúng tôi đã
tiếp cận với một đối tượng khá rộng và chưa ổn định. Vì vậy, luận án chỉ khảo
sát những vấn đề chủ yếu về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn ĐBSCL
từ 1975 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi xuất phát từ quan điểm Mác - xít để nhìn nhận và lí giải mối
quan hệ giữa thực tiễn đời sống ở ĐBSCL với cảm hứng sáng tạo nghệ thuật
và những vấn đề được các nhà văn phản ảnh trong tác phẩm; đồng thời,
người viết sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp hệ thống
Nghiên cứu truyện ngắn ĐBSCL phải đặt trong sự vận động phát triển
của truyện ngắn Việt Nam sau 1975, và bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá của
vùng ĐBSCL.
5.2. Phương pháp loại hình
Với phương pháp này, luận án tìm hiểu đặc điểm của truyện ngắn
ĐBSCL từ 1975 đến nay dựa trên những đặc trưng của thể loại truyện ngắn.
5.3. Phương pháp miêu tả, so sánh
Để làm rõ diện mạo và đặc điểm riêng của truyện ngắn ĐBSCL từ 1975
đến nay.
5.4. Phương pháp liên ngành


14


Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài có sự liên quan chặt chẽ đến
vấn đề và lịch sử, xã hội, văn hoá và địa lý tự nhiên của vùng đất Nam bộ, vì
vậy sự kết hợp phương pháp nghiên cứu liên ngành giữa các lĩnh vực là sự
cần thiết.
6. Những đóng góp của luận án
6.1. Về giá trị khoa học
Đóng góp của luận án là làm rõ quan niệm về truyện ngắn ĐBSCL, cũng
như nhận diện diện mạo, sự vận động và đặc điểm chủ yếu của truyện ngắn
ĐBSCL từ 1975 đến nay.
6.2. Về giá trị thực tiễn
Chúng tôi hi vọng luận án phần nào sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích
đối với các nhà nghiên cứu và những ai quan tâm đến truyện ngắn ĐBSCL
sau 1975.
Mặt khác, kết quả luận án đạt được có thể là cơ sở cho các nhà biên soạn
lựa chọn được những truyện ngắn ĐBSCL tiêu biểu để đưa vào sách giáo
khoa hoặc tài liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy và nghiên cứu môn văn
học ở bậc học phổ thông và đại học.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án có
ba chương:
Chương 1: Khái quát về truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975
đến nay.
Chương 2: Những cảm hứng trong truyện ngắn đồng bằng sông Cửu
Long từ 1975 đến nay.
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật của truyện ngắn đồng bằng
sông Cửu Long từ 1975 đến nay.


15


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN NGẮN
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TỪ 1975 ĐẾN NAY
1.1. Khái quát về lịch sử, xã hội và văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu
Long
1.1.1. Khái quát về lịch sử, xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long
Nam bộ bao gồm hai vùng đất có nét riêng là Đông Nam bộ và Tây Nam
bộ - Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Theo Mạc Đường, trong bài viết: Vấn đề dân cư và dân tộc ở đồng bằng
sông Cửu Long thì ‘‘Khái niệm ‘‘đồng bằng sông Cửu Long’’ được phổ dụng
rộng rãi từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai cho đến nay. Đồng bằng sông
Cửu Long là vùng đất miền Tây Nam Bộ, là nơi có sông Tiền, sông Hậu và
các chi lưu nhỏ của sông Mêcông chảy ra biển mà nhân dân ta từ xưa quan
niệm là chín rồng (Cửu Long) phun nước để tưới vùng đất đai này’’[162,
tr.54].
ĐBSCL là vùng đất tiếp nối địa hình bán sơn địa với một đồng bằng
châu thổ phẳng và thấp. Với diện tích khoảng 39.568 km2, ĐBSCL gồm 13
tỉnh thành: An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau, Đồng Tháp, Hậu Giang,
Kiên Giang, Long An, Tiền Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, và thành phố Cần
Thơ, với dân số trên 21 triệu người, nơi đây:
Ruộng đồng mặc sức chim bay
Biển bờ lai láng, cá bầy đua bơi
Nói đến ĐBSCL là nói đến một thực tại lịch sử - lịch sử khai phá vùng
đất đất Nam bộ nói chung và ĐBSCL nói riêng. Trước thế kỷ XVII, vùng đất
này ngủ yên trong vẻ hoang sơ u tịch, với dân số bản địa ít ỏi và thưa thớt.
Sang thế kỷ XVII, dưới thời các Chúa Nguyễn cư dân người Việt ở miệt ngoài


16


di cư vào đây lập nghiệp khai phá. Và thực dân Pháp tiếp nối tiếp nối quá
trình đó trong chính sách khai thác thuộc địa.
ĐBSCL trong suốt tiến trình lịch sử của mình luôn trải qua những biến
cố liên quan đến vận mệnh của cả dân tộc.
Điểm đặc trưng nhất khi nói đến ĐBSCL là người ta dễ dàng liên tưởng
đến một vùng sông nước. Ở đây những dòng sông xẻ ngang, xẻ dọc, những
con rạch chằng chịt ôm lấy những cánh đồng lúa bao la, ôm lấy xóm ấp tạo
nên một hình thái giao thông hết sức đa dạng. ĐBSCL được coi là vương
quốc của sông rạch. Chính vì vậy mà người dân miền Tây có thể ngồi trên ghe
đi khắp vùng đồng bằng, qua các thành phố, thị trấn, xóm ấp, miệt vườn... mà
không phải đặt chân lên bờ. Các hoạt động sản xuất, sinh hoạt hàng ngày của
người dân luôn gắn bó với mọi biến động của dòng nước, của con nước. Nếu
ngoài Bắc người dân bám lấy mặt đường để làm ăn buôn bán, ở ĐBSCL
người dân bám lấy mặt sông, mặt kênh mà sinh sống. Có chỗ một dãy dài vài
ba cây số, dân làm nhà chen chúc hai bờ sông, sàn nhà mấp mé mặt nước.
Nhà nào cũng hướng ra mặt sông, mở cửa là bước xuống xuồng. Sông rạch ở
đây còn đem phù xa nước ngọt bồi đắp, tưới mát cho những miệt vườn đầy ắp
trái cây, những cánh đồng lúa tươi tốt và cá tôm nhiều vô kể. Dường như con
người nơi đây đã gắn chặt cuộc đời mình với sông nước, nơi nào có sông,
rạch là có ghe, xuồng. Có chiếc ghe để làm ăn sinh sống là là nhu cầu và ước
vọng của người dân. Nhiều gia đình đời này qua đời khác lập nghiệp bằng
chiếc ghe, coi nó như ngôi nhà của mình. Nhiều ghe thuyền tụ lại tạo nên khu
dân cư nổi, chợ nổi trên sông.
Người xưa đã nói Thiên - Địa - Nhân hợp nhất, nghĩa là trời, đất, con
người luôn có mối giao kết liên quan đến nhau. Vùng đất, thời tiết nào con
người ở đó có phong cách, sắc thái riêng của vùng đó, nó cũng như trái cây,
con vật đặc sản ấy.



17

Sau 30 tháng 4 năm 1975, ĐBSCL cùng cả nước hân hoan mừng chiến
thắng. Thế nhưng vết thương chiến tranh chưa lành, người dân các tỉnh biên
giới lại phải đối đầu với chiến tranh biên giới Tây Nam. Bên cạnh đó là muôn
vàn khó khăn khác : nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, nhiều vùng nông thôn bị
hoang hoá, công nghiệp không đáng kể, nạn thiếu ăn xảy ra nghiêm trọng, rồi
lũ lụt, dịch bệnh... Nhưng với ý chí quyết tâm và tinh thần không sợ gian khổ,
người dân ĐBSCL từng bước tạo nên những thành tựu rất đáng tự hào trên
nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hoá xã hội. Đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân từng bước được cải thiện, trình độ dân trí được nâng lên.
Sau ngày giải phóng ĐBSCL các Đài truyền thanh huyện, thị; Báo, Đài
phát thanh - truyền hình tỉnh, thành phố đi vào hoạt động, kịp thời phục vụ
đời sống tinh thần cho các tầng lớp nhân dân trong vùng. Các Hội văn học
nghệ thuật, Tạp chí văn nghệ là nơi phát hiện, đào tạo đội ngũ sáng tác và giới
thiệu tác phẩm của họ đến công chúng.
Từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, các lĩnh vực văn hoá, xã
hội, đời sống có những biến chuyển khá rõ nét. Phong trào văn nghệ quần
chúng được duy trì và chất lượng hoạt động ngày càng được nâng cao. Các lễ
hội truyền thống được khôi phục có chọn lọc, phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân. Các loại hình hoạt động văn hoá truyền thống như đờn ca tài tử, sân
khấu cải lương cũng được duy trì và phát triển ở nhiều địa phương.
1.1.2. Khái quát về văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long
Nhà nhiên cứu văn hoá Ngô Đức Thịnh chia đất nước ta thành bảy vùng
văn hoá, trong đó văn hoá Nam bộ là vùng thứ bảy và có đặc điểm là vùng
đất mới. Việc phân vùng văn hoá được xác định trên cơ sở mối quan hệ giữa
văn hoá lịch sử và địa lý của một vùng và gọi tắt là vùng văn hoá. ‘‘Vùng văn
hoá là một vùng lãnh thổ, có những tương đồng về hoàn cảnh tự nhiên, dân
cư sinh sống ở đó từ lâu có mối quan hệ nguồn gốc và lịch sử có những tương



18

đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giữa họ đã trải qua các mối quan
hệ giao lưu, ảnh hưởng văn hoá qua lại mật thiết, nên từ lâu đã hình thành
những sắc thái văn hoá chung, thể hiện trong sinh hoạt văn hoá vật chất và
văn hoá tinh thần, có thể phân biệt với những vùng văn hoá khác’’[150, tr.64].
Trong mỗi vùng như vậy lại có những tiểu vùng và có những đặc trưng riêng
lẻ.‘‘Vùng văn hoá Nam bộ, xét trên cả phương diện địa lý và lịch sử, đều là
vùng thứ bảy và có ba tiểu vùng Đông Nam bộ, Tây Nam bộ và tiểu vùng Sài
Gòn - Gia định’’[154, tr.17].
Điều kiện địa lý và lịch sử làm cho ĐBSCL có những nét đáng lưu ý về
mặt văn hoá. Đây là nơi cộng cư của nhiều tộc người như Việt, Hoa, Khmer,
Chăm trong đó người Việt đóng vai trò chính. Ngay người Việt cũng là dân
‘‘tứ chiếng’’ gồm nhiều lớp người với nhiều nguyên nhân từ Bắc và Trung bộ
hội nhập về đây. Cho nên, đây là nơi diễn ra quá trình giao lưu văn hoá giữa
các tộc người, là vùng văn hoá với nhiều sắc thái đặc trưng. Những người Việt
đầu tiên đến định cư ở vùng đất mới đều từ miền Bắc và miền Trung. Họ đến
và mang theo vốn văn hóa gốc rễ của mình. Bốn nguồn văn hóa cộng lại
thành một nền văn hóa cộng cư đặc trưng của ĐBSCL trong nền văn hóa Việt
Nam. Đó là một nền văn hóa vô cùng phong phú và lạ lẫm. Nếu người Việt có
những làn điệu cải lương hay những câu hò, điệu lý thì người Khmer lại thể
hiện bản sắc của mình trong điệu múa roăm - vuông, hát đối đáp Aday hay
nhịp trống Chay - dăm. Nếu người Chăm có những hoạt động nghệ thuật sôi
động trong những ngày kết thúc tháng Ramada sinh nhật Muhamed hoặc các
dịp hôn nhân cưới hỏi thì người Hoa lại góp vào đời sống văn hóa Nam bộ
những câu hát Tiêu, hát Quảng...
Nhưng sức hấp dẫn mãnh liệt nhất của mảnh đất này vẫn là những trang
sử đấu tranh chói lọi thể hiện tinh thần bất khuất và ý chí quật cường của
những người nông dân lưu tán “từ thửa mang gươm đi mở cõi” để chống chọi



×