Tải bản đầy đủ (.pdf) (184 trang)

Chủ trương xây dựng con người mới của đảng cộng sản việt nam thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 184 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN Lí LUẬN CHÍNH TRỊ

——————————————

PHẠM MINH THẾ

CHỦ TRƢƠNG XÂY DỰNG CON NGƢỜI MỚI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI
MỚI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2006

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN Lí LUẬN CHÍNH TRỊ

——————————————

PHẠM MINH THẾ

CHỦ TRƢƠNG XÂY DỰNG CON NGƢỜI MỚI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI
MỚI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2006

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Chuyờn ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mó số:



60 22 56

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. Ngô Đăng Tri

HÀ NỘI - 2009


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1

Chƣơng 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHỦ TRƢƠNG XÂY DỰNG CON NGƢỜI
MỚI CỦA ĐẢNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986-2006) ....................................... 12

1.1. Cơ sở lý luận. ........................................................................................ 12
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người
mới và xây dựng con người mới. ................................................ 12
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người mới
và xây dựng con người mới ..................................................... 21
1.2. Cơ sở thực tiễn....................................................................................... 29
1.2.1. Vài nét khái quát về xu hướng biến chuyển của tình
hình thế giới và những vấn đề đặt ra về xây dựng và
phát triển con người cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI ..................... 29

1.2.2. Khái lược những đức tính cơ bản của con người Việt
Nam và những đòi hỏi, yêu cầu đặt ra đối với vấn đề
xây dựng con người mới thời kỳ đổi mới .................................... 34

Chƣơng 2. NHỮNG QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƢƠNG CƠ BẢN CỦA
ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG CON NGƢỜI MỚI Ở VIỆT NAM

THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986-2006) ............................................................. 41

2.1. Những quan điểm cơ bản của Đảng về tiêu chí và phương
hướng xây dựng con người mới của Đảng thời kỳ đổi mới ....................... 41
2.2. Quan điểm của Đảng về định hướng nhân cách, lý tưởng, lối
sống, nếp sống, phát triển thể lực và biện pháp xây dựng con
người mới thời kỳ đổi mới ...................................................................... 55

2.2.1. Định hướng xây dựng nhân cách, lối sống, nếp sống,
và phát triển thể lực con người mới của Đảng thời kỳ
đổi mới...................................................................................... 55

2.2.2. Về biện pháp, cách thức xây dựng con người mới ....................... 71
2.3. Quan điểm của Đảng về vai trò của môi trường gia đình, nhà
trường, xã hội và các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế,
khoa học - công nghệ với xây dựng con người mới .................................. 76

2.3.1. Về vai trò của gia đình và môi trường gia đình, nhà
trường và xã hội trong xây dựng con người mới .......................... 77


2.3.2. Quan điểm của Đảng về vai trò của các lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, giáo dục, y tế và khoa học - công nghệ
đối với xây dựng con người mới ................................................. 81

Chƣơng 3. NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ CƠ BẢN VỀ XÂY
DỰNG CON NGƢỜI MỚI THỜI KỲ ĐỔI MỚI THEO QUAN
ĐIỂM, CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VÀ MỘT VÀI NHẬN
XÉT, KHUYẾN NGHỊ ........................................................................... 88


3.1. Thành tựu và hạn chế về xây dựng con người mới thời kỳ đổi
mới ....................................................................................................... 88
3.1.1. Những thành tựu cơ bản về xây dựng con người mới ................... 88
3.1.2. Một vài gương mặt tiêu biểu ...................................................... 93
3.1.3. Hạn chế trong xây dựng con người mới ......................................... 109
3.2. Một vài nhận xét và khuyến nghị .......................................................... 118
3.2.1. Mấy nhận xét về quan điểm, chủ trương xây dựng
con người mới của Đảng ở Việt Nam thời kỳ đổi mới................ 118
3.2.2. Một số khuyến nghị về định hướng xây dựng con
người mới ở Việt Nam trong những năm tiếp theo..................... 121
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 124
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 127
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 139


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Thực tiễn đã cho thấy, mỗi giai đoạn phát triển của xã hội và cách
mạng xã hội đều đòi hỏi phải có một lớp người mới phù hợp với đặc điểm của
nó. Đó là những con người có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi mà xu
thế phát triển của thời đại đặt lên vai họ. Do vậy, xây dựng con người mới
luôn là một đòi hỏi tất yếu, một quy luật khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển của xã hội. Nhận thức được quy luật khách quan ấy cho nên, xây
dựng con người mới là một vấn đề được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm
đến từ rất sớm trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ở mỗi thời kỳ
cách mạng, Đảng đều có những quan điểm, chủ trương về xây dựng con
người phù hợp với các đặc điểm và điều kiện của cách mạng.
Ngày nay, công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã và đang
đặt ra nhu cầu là phải có những con người mới có năng lực và bản lĩnh, thích

ứng được với những yêu cầu, đòi hỏi mới của dân tộc và thời đại, phục vụ
công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, trong quá
trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng đã đưa ra và từng bước hoàn thiện
chủ trương về xây dựng con người Việt Nam mới. Coi xây dựng và phát triển
con người là một trong những trọng tâm của công cuộc đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước; vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển.
Thực hiện những quan điểm, chủ trương của Đảng, việc xây dựng con
người mới từ năm 1986 đến năm 2006 đã đạt được nhiều thành tựu với những
kết quả khả quan. Những lớp người Việt Nam mới bước đầu đã được hình
thành và có những đóng góp nhất định cho những thành công của sự nghiệp
đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trên các phương diện kinh tế,
chính trị và văn hoá, xã hội... Với sự xuất hiện của những lớp người mới đó
thì một lối sống, nếp sống và nhân cách mới của con người Việt Nam bước
đầu đã được hình thành như: sự năng động, sáng tạo, chủ động, linh hoạt…

1


Thành quả xây dựng con người mới đã góp phần không nhỏ vào những thắng
lợi chung của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì việc xây dựng
con người mới thời kỳ đổi mới cũng đã bộc lộ những hạn chế, không ít những
hiện tượng tiêu cực, không lành mạnh biểu hiện ra trong lối sống, nếp sống,
đạo đức ở nhiều con người. Sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, bệnh sùng
ngoại, coi thường các giá trị dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, coi trọng
lợi ích cá nhân, coi nhẹ lợi ích cộng đồng; cờ bạc, mại dâm, ma tuý,... của
nhiều tầng lớp nhân dân, nhất là trong thế hệ trẻ đang là những vấn đề nhức
nhối, ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng con người mới. Rõ ràng, cuộc
đấu tranh giữa hai con đường: cái mới với cái cũ, tiên tiến với lạc hậu, tiến bộ
với phản động trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, lối sống, trong quá trình xây

dựng con người Việt Nam mới đang diễn ra hằng ngày, rất phức tạp và không
thể xem nhẹ.
Những thành tựu và hạn chế đó đã cho thấy, việc nghiên cứu, tổng kết
lại quá trình xây dựng con người mới thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước theo quan điểm, chủ trương của Đảng, từ đó rút ra những
kinh nghiệm và khuyến nghị cho việc xây dựng con người mới trong những
năm tiếp theo là một việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn mang tính cấp
thiết đối với sự phát triển của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn
chưa có một công trình khoa học nào tiếp cận, nghiên cứu và trình bày về vấn
đề này một cách toàn diện và có hệ thống.
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn nói trên, học viên lựa chọn
vấn đề: “Chủ trương xây dựng con người mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến năm 2006” làm đề tài luận văn
thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về con người nói chung là một vấn đề không mới, song
nghiên cứu về chủ trương xây dựng con người mới trong quá trình đổi mới,

2


công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của Đảng Cộng sản Việt
Nam lại là một đề tài còn khá mới mẻ. Vì thế cho đến nay chỉ có rất ít các
công trình nghiên cứu về vấn đề này được công bố. Hơn nữa, các công trình
đã được công bố đều chưa đề cập đến một cách trực tiếp các chủ trương của
Đảng về xây dựng con người mới trong quá trình đổi mới, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Do vậy, các công trình này cũng
chưa làm rõ được chủ trương của Đảng về xây dựng con người mới thời kỳ
đổi mới, cũng như những thành tựu và hạn chế của việc xây dựng con người
mới. Có thể phân loại các công trình này làm hai nhóm:

- Nhóm các công trình của các học giả, các nhà khoa học trong
nước. Trong nhóm này, căn cứ vào cách tiếp cận có thể chia thành ba nhóm
nhỏ như sau:
+ Nhóm thứ nhất tiếp cận nghiên cứu về con người với tư cách là
nguồn nhân lực, nhân tài, và các biện pháp sử dụng, bồi dưỡng và phát triển
nguồn nhân lực, nhân tài ở Việt Nam trong quá trình đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Một số công trình tiêu biểu
như: Một số vấn đề về trí thức Việt Nam của Nguyễn Thanh Tuấn, xuất bản ở
Hà Nội năm 1998; Bảo tồn và phát huy giá trị danh nhân văn hoá truyền
thống Việt Nam của Diêm Thị Đường xuất bản ở Hà Nội năm 1998; Nghiên
cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Phạm Minh Hạc xuất bản ở Hà Nội năm 2001; Nhân tài trong chiến lược phát
triển quốc gia của Nguyễn Đắc Hưng, Phan Xuân Dũng xuất bản ở Hà Nội
năm 2004; Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước của Nguyễn
Đắc Hưng xuất bản ở Hà Nội năm 2005; Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
nguồn nhân lực tài năng của Trần Văn Tùng xuất bản ở Hà Nội năm 2005;
Lược khảo về kinh nghiệm đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịch sử Việt
Nam do Phạm Hồng Tung chủ biên, tái bản lần thứ 2 ở Hà Nội năm 2008;
Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
hiện nay của Phạm Công Nhất xuất bản ở Hà Nội năm 2008; Tài năng và đắc

3


dụng (Nghiên cứu về một số nhân tài tiêu biểu ở Việt Nam và nước ngoài) do
Nguyễn Hoàng Lương và Phạm Hồng Tung chủ biên, xuất bản ở Hà Nội năm
2008; Vai trò của con người và văn hóa phát huy nguồn lực con người trong
sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay của Nguyễn Thành Trung đăng trong
Tạp chí Triết học số 7 (206) tháng 7 năm 2008;… Nhóm các công trình này
tiếp cận nghiên cứu về con người theo xu hướng là nguồn nhân lực nói chung

và nguồn nhân lực tài năng - tức là nhân tài. Với cách tiếp cận đó, các tác giả
của nó đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản của con người Việt Nam cả hạn chế
và tiêu cực với tư cách là nguồn nhân lực, từ đó đưa ra các giải pháp để xây
dựng và phát triển con người Việt Nam theo hướng phát triển nguồn nhân lực
hoặc các giải pháp về đào tạo và sử dụng nhân tài. Do vậy, các công trình này
ít hay nhiều đều có đề cập đến các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây
dựng và phát triển con người Việt Nam, tuy nhiên, vẫn chưa chỉ ra được một
cách có hệ thống các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng con người
mới, thực trạng và những giải pháp xây dựng con người mới. Các công trình
này là những tài liệu tham khảo bổ ích cho luận văn.
+ Nhóm thứ hai nghiên cứu về con người theo cách tiếp cận giáo dục
học và tâm lý học, chủ yếu là giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống của con
người ở Việt Nam trong quá trình đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Các công trình nhóm này, ít hay nhiều đều có đề cập vắn tắt đến các
quan điểm, chủ trương cơ bản của Đảng về xây dựng và phát triển con người
trong quá trình đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Có thể kể đến các công trình như: Giáo dục con người cho hôm nay và ngày
mai (1995), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã
hội - kinh tế (1996), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá (2001) của Phạm Minh Hạc xuất bản ở Hà Nội; Văn hoá
phát triển và con người Việt Nam của Nguyễn Phúc, xuất bản ở Thành phố
Hồ Chí Minh năm 2000; Nghiên cứu con người đối tượng và những hướng
chủ yếu - Niên giám nghiên cứu số 1 do Phạm Minh Hạc và Hồ Sĩ Quý chủ
biên, in lần thứ hai năm 2002; Về phát triển văn hoá và xây dựng con người
4


thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá do Phạm Minh Hạc và Nguyễn Khoa
Điềm chủ biên, xuất bản ở Hà Nội năm 2003; Trần Đức Liêm với Phát triển
con người ở Việt Nam, xuất bản ở Hà Nội năm 2007… Đây đều là những

công trình đề cập trực tiếp đến vấn đề con người và xây dựng, phát triển con
người ở Việt Nam, song chủ yếu là về xây dựng những giá trị tinh thần, đời
sống mới, đạo đức, lối sống, nếp sống mới, nhân cách mới,... cho con người.
Xác định những đặc điểm về lối sống, nếp sống của con người Việt Nam
truyền thống, từ đó đưa ra các giải pháp xây dựng lối sống, nếp sống cho con
người Việt Nam hiện tại, trong đó có đề cập đến cả những quan điểm, chủ
trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về vấn đề này. Các công trình
này đã chỉ ra được một cách cơ bản những đặc điểm chủ yếu của con người
Việt Nam về lối sống, nếp sống và tính cách,... nhưng các quan điểm, chủ
trương về xây dựng con người mới của Đảng thời kỳ đổi mới vẫn chưa được
trình bày một cách có hệ thống và toàn diện. Đây là những công trình có hết
sức có ý nghĩa để luận văn tham khảo.
+ Nhóm thứ ba là các công trình nghiên cứu về con người và xây dựng
con người theo cách tiếp cận văn hoá học, xã hội học, nhân học và dân tộc
học. Các công trình tiêu biểu của nhóm này có thể kể đến như: Văn hóa Việt
Nam và cách tiếp cận mới của Phan Ngọc (1994); Các giá trị truyền thống và
con người Việt Nam hiện nay của nhóm tác giả do Phan Huy Lê và Vũ Minh
Giang chủ biên (3 tập, 1994-1996); Văn hóa và Đổi mới của cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng (1996); Triết lý phát triển ở Việt Nam-mấy vấn đề cốt yếu do
Phạm Xuân Nam chủ biên (2002); Văn hóa, lối sống với môi trường của tập
thể tác giả do Chu Khắc Thuật và Nguyễn Văn Thù chủ biên (1998); Những
thay đổi về văn hóa, xã hội trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường
ở một số nước châu Á do Dương Phú Hiệp và Nguyễn Duy Dũng chủ biên
(1998); Tìm về bản sắc văn hóa việt Nam của Trần Ngọc Thêm (1991); Văn
hóa Việt Nam: Tìm tòi và suy ngẫm của Trần Quốc Vượng (2000); Văn hóa
và con người của Nguyễn Trần Bạt (2005); Văn hóa và phát triển của Đỗ Huy
(2005); Nhân cách văn hoá trong bảng giá trị Việt Nam (1993); Sự chuyển
5



đổi các giá trị trong văn hoá Việt Nam (1993); Xây dựng môi trường văn hoá
ở nước ta dưới góc nhìn giá trị học (2001); Tính cộng đồng, tính cá nhân và
cái tôi của thanh niên Việt Nam của Đỗ Long và Phan Thị Mai Hương (2002);
Phân tích về mặt tâm lý học lối sống của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh
của Nguyễn Ánh Hồng (2005); Thanh niên với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
(1989-1991); Con người và văn hóa từ lý luận đến thực tiễn phát triển do
Trịnh Thị Kim Ngọc chủ biên xuất bản ở Hà Nội năm 2009;… Có thể nói,
cũng như nhóm thứ nhất và thứ hai, các công trình của nhóm này chủ yếu tập
trung vào nghiên cứu con người Việt Nam theo hướng lối sống, nếp sống, đạo
đức và đặc điểm tính cách, cung cách ứng xử của con người Việt Nam nói
chung và các tộc người Việt Nam nói riêng. Từ đó khám phá những đặc điểm
giá trị văn hóa truyền thống của con người Việt Nam. Đó là những thành công
rất lớn, có ý nghĩa khoa học của nhóm công trình này, song về khía cạnh các
quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng con người mới thì các công
trình này vẫn chưa đề cập được một cách rõ nét. Kết quả đáng tin cậy của các
công trình này là những tài liệu tham khảo hữu ích cho luận văn.
+ Ngoài ra, có thể nói đến nhóm thứ tư, tiếp cận nghiên cứu con người
theo hướng triết học về con người. Các công trình của nhóm này chủ yếu đề
cập hay tiếp cận nghiên cứu vấn đề con người theo hướng các triết lý, phương
pháp luận và phương pháp nghiên cứu con người. Có thể kể đến một số công
trình tiêu biểu của nhóm này như: Về vấn đề xây dựng con người mới do
Phạm Như Cương chủ biên, xuất bản ở Hà Nội năm 1978; Nghiên cứu giá trị
nhân cách theo phương pháp NEO PI-R cải biên do Phạm Minh Hạc chủ biên
xuất bản ở Hà Nội năm 2007; Con người và phát triển con người của Hồ Sĩ
Quý xuất bản ở Hà Nội năm 2007; Con người chính trị Việt Nam truyền thống
và hiện đại (sách chuyên khảo) do Nguyễn Văn Huyên chủ biên, xuất bản ở
Hà Nội năm 2009;... Thành quả của các công trình này, là đã đưa ra được một
hệ thống triết lý, lý luận về con người, bản chất con người và xây dựng con
người mới. Song công trình của nhóm tác giả do Phạm Như Cương chủ biên
lại đề cập đến vấn đề xây dựng con người mới ở Việt Nam thời kỳ trước đổi

6


mới. Còn lại những công trình khác thì chủ yếu chỉ đề cập, tiếp cận nghiên
cứu con người theo hướng triết lý về con người chính trị và nhân cách con
người. Do vậy, nhóm công trình này vẫn chưa có điều kiện để đi sâu và trình
bày có hệ thống các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng con người
mới thời kỳ đổi mới.
Như vậy, cho đến nay ở trong nước cũng đã có không ít các công trình
nghiên cứu về con người nói chung và con người Việt Nam nói riêng ở cả
khía cạnh lý luận và thực tiễn, lịch sử và hiện tại. Các công trình đó đã tập
trung vào một số lĩnh vực chuyên sâu như: đặc điểm của con người Việt Nam;
triết lý của con người Việt Nam; văn hoá và hệ giá trị của con người Việt
Nam; đạo đức, lối sống, nhân cách của con người Việt Nam; quan điểm về
xây dựng mẫu hình con người Việt Nam từ thời cổ đại cho đến ngày nay; lý
luận về xây dựng mẫu hình con người Việt Nam mới;... qua đó, đã bước đầu
định hình được những đặc điểm cơ bản, mang tính truyền thống (cả tích cực
và hạn chế) của con người Việt Nam trong lịch sử và hiện tại. Đó là những
thành công không nhỏ của các học giả Việt Nam trong nghiên cứu về con
người nói chung và con người Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, một điều dễ
nhận thấy là, các nhóm công trình kể trên đều chưa đề cập đến một cách trực
tiếp, cụ thể và đầy đủ hệ thống các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng con người mới trong quá trình đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Kết quả nghiên cứu khoa học, công phu và
nghiêm túc của nhóm các công trình này sẽ là những tài liệu tham khảo rất bổ
ích cho luận văn.
- Nhóm các công trình của các học giả nước ngoài. Nếu xét trong bối
cảnh nghiên cứu về con người nói chung thì đây là nhóm có rất nhiều công
trình, song trong giới hạn nghiên cứu về con người và xây dựng, phát triển
con người Việt Nam thì số lượng công trình lại rất hiếm hoi, hầu hết đều xuất

hiện trong quá trình Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Có thể kể đến một vài công trình tiêu biểu như: Tám xu

7


hướng phát triển của châu Á đang làm thay đổi thế giới của John Naisbitt
xuất bản ở Hà Nội năm 1998; Possibilities of reuniting streeting working
children with their families (Khả năng trở lại gia đình của lao động trẻ em
đường phố) của Radda Barnen xuất bản ở Hà Nội năm 1999; The issue of
child labuor (Vấn đề lao động trẻ em) của Vũ Ngọc Bình, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia xuất bản lần thứ 2 ở Hà Nội năm 2002; Sự phát triển liên
cá nhân (Le dévelopment transpersonnel) của Roberto Assagioli, xuất bản ở
Hà Nội năm 1997; Thế giới phẳng - Tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ 21 (The
World is flat - A brief history of the twenty-first century) của Thomas
Friedman, xuất bản ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 2006;...
Có thể nói, các công trình trên đây của các học giả nước ngoài (và cả
của người Việt ở nước ngoài) đều ít nhiều có đề cập đến con người Việt Nam,
văn hoá Việt Nam dưới nhiều chiều cạnh khác nhau như: đặc điểm con người
Việt Nam, văn hoá Việt Nam; lối sống, đạo đức và nhân cách người Việt
Nam; thực trạng đời sống vật chất và tinh thần của người Việt Nam; những
mặt tích cực và hạn chế của con người Việt Nam và xu hướng phát triển của
con người Việt Nam; các cơ chế, chính sách xây dựng và phát triển con người
Việt Nam của Đảng và Nhà nước;... Song, cũng giống như các công trình của
các học giả trong nước, các công trình của các học giả nước ngoài cũng chưa
đề cập trực tiếp, cụ thể và đầy đủ, toàn diện các quan điểm, chủ trương của
Đảng và chính sách của Nhà nước về xây dựng và phát triển con người Việt
Nam mới trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Như vậy, dưới cái nhìn tổng quan có thể thấy cho tới nay đã có khá
nhiều công trình nghiên cứu được công bố ở trong và ngoài nước có liên quan

đến vấn đề con người và xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay. Càng
ngày, xu hướng tiếp cận nghiên cứu về vấn đề này càng được mở rộng, mang
tính liên ngành, đa ngành với nhiều chiều cạnh hơn, và do vậy đây sẽ là
những tài liệu tham khảo rất bổ ích đối với tác giả trong quá trình nghiên cứu
và trình bày luận văn của mình.

8


3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Bước đầu tập hợp, hệ thống hoá và phân tích các quan điểm, chủ
trương của Đảng về vấn đề xây dựng con người mới thời kỳ đổi mới từ năm
1986 đến năm 2006. Trên cơ sở thực tiễn xây dựng con người mới, bước đầu
đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong chủ trương của Đảng về xây dựng
con người mới, đưa ra các khuyến nghị về định hướng và giải pháp xây dựng
con người mới trong những năm tiếp theo.
* Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu và
cơ bản là:
- Tập hợp các tài liệu, tư liệu thể hiện quan điểm, chủ trương của Đảng
về xây dựng con người mới thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
- Làm rõ và hệ thống hóa các chủ trương của Đảng về xây dựng con
người mới trong giai đoạn 1986 - 2006.
- Bước đầu phân tích, đánh giá về thành tựu và hạn chế xây dưng con
người mới ở Việt Nam thời kỳ đổi mới theo quan điểm, chủ trương của Đảng,
từ đó đưa ra những khuyến nghị về định hướng và giải pháp xây dựng con
người mới trong thời kỳ tiếp theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chủ trương của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng con người mới trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi
mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế trong những
năm từ 1986 đến 2006.
* Phạm vi nghiên cứu

9


- Về mặt nội dung, theo quan điểm chung, tìm hiểu sự lãnh đạo của
Đảng sẽ gồm có mấy bước cơ bản là: bước thứ nhất là tìm hiểu và trình bày
về quá trình hình thành quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; hai là tìm
hiểu về quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện trong thực tiễn các quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng; bước thứ ba là từ thực tiễn rút ra những nhận
xét đánh giá về thành tựu cũng như những hạn chế và kinh nghiệm, từ đó
người nghiên cứu có thể đưa ra những đề xuất, khuyến nghị. Tuy nhiên, trong
khuôn khổ của luận văn, tác giả không có điều kiện trình bày toàn bộ quá
trình Đảng lãnh đạo xây dựng con người mới ở Việt Nam giai đoạn 1986 2006 theo hệ thống các bước nêu trên, mà chỉ tập trung vào việc tập hợp và
trình bày lại những chủ trương cơ bản nhất của Đảng về xây dựng con người
mới - tức là chủ yếu tập trung của bước một. Thực tiễn xây dựng con người
mới sẽ là những căn cứ khoa học để tác giả rút ra những nhận định, đánh giá
về ưu điểm và hạn chế của các chủ trương của Đảng về vấn đề này.
Mặt khác, các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng con người
mới và phát triển con người trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước đề cập đến nhiều vấn đề và ở những mức độ cụ thể khác nhau,
trên nhiều lĩnh vực của đời sống con người Việt Nam như: giáo dục, đạo đức,
lối sống, sức khoẻ, y tế, văn hoá,... mà với thời lượng có hạn, luận văn không
thể đề cập đến toàn bộ hệ thống các quan điểm, chủ trương đó mà chỉ tập
trung vào trình bày, phân tích, đánh giá những quan điểm, chủ trương cơ bản

nhất và cơ sở hình thành nên những quan điểm, chủ trương đó của Đảng.
- Về mặt không gian, luận văn nghiên cứu những chủ trương của Đảng
về xây dựng con người Việt Nam mới nói chung, chứ không trình bày một
cách cụ thể từng đối tượng con người theo sự phân chia thành các giai cấp,
tầng lớp hay dân tộc hoặc giới tính, độ tuổi…
- Về mặt thời gian, luận văn chỉ tìm hiểu, nghiên cứu về các chủ trương
xây dựng con người mới của Đảng trong giai đoạn những năm từ 1986 đến
2006.

10


5. Nguồn tƣ liệu, phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tư liệu
Để hoàn thành được luận văn, tác giả đã tham khảo và sử dụng các
nguồn tư liệu cơ bản sau:
- Nguồn tư liệu thứ nhất là các văn kiện, tài liệu của Đảng, Chính phủ
về xây dựng con người mới ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm
2006.
- Nguồn tư liệu thứ hai là các tài liệu của Viện nghiên cứu Con người
thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, của UNDP (United
Nations Devolopment Programme - Chương trình phát triển của Liên hợp
quốc) về con người Việt Nam trong những năm từ 2000 đến 2006.
- Nguồn tư liệu thứ ba là các công trình của các học giả ở cả trong và
ngoài nước, các công trình khác như: khoá luận cử nhân, luận văn thạc sĩ,
luận án tiến sĩ, các đề tài nghiên cứu khoa học của các đơn vị và cá nhân có
đề cập trực tiếp hoặc có liên quan đến vấn đề xây dựng con người mới ở Việt
Nam trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2006.
- Nguồn tư liệu thứ tư là các bài báo, bài tạp chí, bài nói, bài viết của
các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học trong các hội nghị, hội

thảo hay trên các báo, đài và tạp chí có liên quan đến đề tài của luận văn.
* Về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Về mặt phương pháp luận, luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, của
Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề xây dựng con người mới.
- Về mặt phương pháp nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp
nghiên cứu của khoa học lịch sử và các phương pháp bổ trợ như: lôgíc, thống
kê, so sánh, phân tích để tập hợp tư liệu, nghiên cứu và trình bày nội dung của
luận văn.

11


- Bên cạnh đó, luận văn cũng sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khác, mang tính chất liên ngành và đa ngành để nghiên cứu và trình bày luận
văn như: phương pháp nghiên cứu văn hoá học, nhân học - dân tộc học, xã hội
học, tâm lý học, triết học,...
6. Đóng góp của luận văn
- Trình bày lại một cách có hệ thống các chủ trương xây dựng con
người mới của Đảng trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế giai đoạn 1986 - 2006.
- Đánh giá những ưu điểm và hạn chế chủ trương xây dựng con người
mới của Đảng, đưa ra những khuyến nghị để khắc phục hạn chế cho việc xây
dựng con người trong những năm tiếp theo của Việt Nam.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho những học giả và các nhà nghiên
cứu quan tâm đến vấn đề này, nhất là với sinh viên của các chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn hoá học và Nhân học.
7. Kết cấu của luận văn
Để làm rõ được nội dung của vấn đề nghiên cứu, ngoài phần mở đầu và
kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết:

Chƣơng 1: Cơ sở hình thành chủ trương xây dựng con người mới của
Đảng thời kỳ đổi mới (1986-2006).
Chƣơng 2: Những quan điểm, chủ trương cơ bản của Đảng về xây
dựng con người mới thời kỳ đổi mới (1986-2006).
Chƣơng 3: Những thành tựu, hạn chế cơ bản về xây dựng con người
mới thời kỳ đổi mới theo quan điểm, chủ trương của Đảng và một vài nhận
xét, khuyến nghị.

12


Chƣơng 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHỦ TRƢƠNG XÂY DỰNG
CON NGƢỜI MỚI CỦA ĐẢNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986-2006)

1.1. Cơ sở lý luận
Đại hội lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: Đảng ta lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận, kim chỉ nam
cho mọi hành động của Đảng. Điều đó cho thấy, khi nghiên cứu về lịch sử
Đảng và về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng không thể không
nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như là
những tiền đề, cơ sở lý luận cho sự hình thành quan điểm, chủ trương, đường
lối của Đảng. Và với cách tiếp cận như vậy, trong luận văn này chúng tôi coi
những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như là
những tiền đề hay cơ sở lý luận cho sự hình thành các quan điểm, chủ trương
của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng con người mới ở Việt Nam trong
quá trình đổi mới đất nước.
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người mới và xây
dựng con người mới
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nghiên cứu, luận giải về con

người trước hết phải hiểu được bản chất của con người. Với quan niệm đó,
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì: “Bản chất của con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà của những mối quan hệ xã
hội” [8, tr.493]. Và như vậy, khi mà chế độ xã hội đã thay đổi thì bản chất của
xã hội - tổng hoà các mối quan hệ xã hội cũng sẽ thay đổi theo và theo đó, bản
chất của con người cũng sẽ thay đổi để phù hợp với những biến đổi của xã
hội.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của xã hội đối với sự hình thành bản chất
con người, song chủ nghĩa Mác-Lênin không coi nhẹ mặt tự nhiên của nó, bởi

13


lẽ theo Ph. Ăngghen thì: “bản thân chúng ta, cả xương thịt, máu mủ và đầu óc
chúng ta thuộc về giới tự nhiên” [6, tr.268-269]. Như vậy, con người theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vừa là một bộ phận của tự nhiên, vừa là
một thực thể xã hội, là sự thống nhất giữa mặt vật chất và mặt tinh thần, giữa
mặt sinh học và mặt xã hội. Con người vừa chịu tác động của quy luật tự
nhiên, vừa chịu tác động của quy luật xã hội.
Tự nhiên là cái có trước con người, sinh ra con người. Và cho đến nay,
dù muốn hay không con người vẫn phải sống dựa vào tự nhiên. Nhưng con
người không chỉ sống dựa vào tự nhiên mà nó còn cải tạo tự nhiên để đáp ứng
nhu cầu sinh tồn của chính bản thân con người. Và theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin thì quá trình con người cải tạo tự nhiên cũng chính là quá
trình con người trở thành người, Ph. Ăngghen đã từng nói: Lao động sáng tạo
ra con người, cũng là theo nghĩa ấy khi ông luận giải quá trình chuyển biến từ
vượn thành người là nhờ ở việc chế tạo ra công cụ lao động để cải biến tự
nhiên.
Khác với tự nhiên, xã hội không thể có trước con người mà xã hội là

cái sinh ra cùng với con người, từ khi con người biết sử dụng công cụ lao
động. Nhưng không phải vì thế mà xã hội không giữ vai trò gì trong việc hình
thành con người. Bản thân Mác đã từng đánh giá rất cao vai trò của xã hội
trong việc hình thành con người và bản chất con người khi ông nói: Xã hội đã
sản xuất ra con người. Nhưng xã hội cũng không phải là cái gì trừu tượng bất
biến, mà theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì mỗi hình thái kinh tế xã hội đều dựa trên một phương thức sản xuất chủ yếu nào đó và khi phương
thức sản xuất đó biến đổi thì nó cũng biến đổi theo. Mà nhân tố quyết định
phương thức sản xuất phát triển lại là lực lượng sản xuất bao gồm con người
và công cụ sản xuất. Như thế, không phải cái gì khác mà chính là con người,
cùng với những công cụ do nó chế tạo ra, đã quyết định sự thay đổi của bộ
mặt xã hội. Cũng do vậy mà chính xã hội đã sản xuất ra con người “với những
tính cách là con người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội như
thế ấy” [87, tr.130].
14


Từ những luận điểm luận giải của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất
con người như vậy thì chúng ta có thể hiểu, con người mới là thuật ngữ được
dùng để những con người được hình thành trong quá trình phát triển của lịch
sử xã hội loài người và của các cuộc cách mạng xã hội. Đó là những con
người mà đặc điểm tư duy, lối sống, nếp sống, nhân cách và đạo đức của họ là
những mẫu hình đại diện, biểu hiện cho một xu hướng phát triển mới, tiến bộ
hơn của sự phát triển xã hội. Mặt khác, con người mới còn là những con
người có sự phát triển và có những năng lực mới về mặt sinh học, như thể
chất, sức khỏe để duy trì sự sinh tồn của bản thân con người. Với cách hiểu
như vậy về bản chất của con người thì theo quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, con người mới xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng, con người mới là
những con người có khả năng làm chủ xã hội và sự phát triển xã hội, làm chủ
chính bản thân mình khi các ông viết: “Một khi đã làm chủ được phương thức
sinh hoạt trong xã hội của mình, thì chính cũng do đó mà trở thành những

người làm chủ tự nhiên, làm chủ cả chính mình, tức là trở thành người tự do”
[87, tr.130].
Mặt khác, C. Mác đã từng nói: “Cách mạng là cần thiết không những vì
chỉ có cách mạng mới có thể lật đổ được giai cấp thống trị, mà còn là vì chỉ có
trong cách mạng thì giai cấp lật đổ mới có thể vứt bỏ sự thối nát cũ và trở
thành có khả năng tạo ra cơ sở mới của xã hội” [9, tr.464]. Quan điểm này của
C. Mác đã chỉ rõ vai trò là chủ thể của xã hội và sự phát triển xã hội của con
người. Bởi lực lượng quan trọng nhất, quyết định nhất đối với bất cứ một
cuộc cách mạng nào trong lịch sử cũng đều là con người. Vì thế, muốn cách
mạng thành công thì trước hết phải tạo ra một lớp người phù hợp với đặc
điểm bản chất của cuộc cách mạng đó, làm lực lượng tiên phong và lãnh đạo
cách mạng. Đó là những con người mang bản chất mới, đại diện cho một xu
hướng phát triển mới của xã hội. Và như vậy, con người là chủ thể của xã hội
và sự phát triển của xã hội ở một thời điểm hiện tại nhất định và con người

15


mới sẽ là chủ thể của xã hội và sự phát triển của xã hội trong những giai đoạn
phát triển tiếp theo.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì, xu hướng phát triển
chung của tiến trình lịch sử loài người được quy định bởi sự phát triển của lực
lượng sản xuất bao gồm con người và những công cụ lao động do con người
tạo ra, trong đó con người là lực lượng sản xuất cơ bản nhất, quan trọng nhất.
Cũng bởi vậy mà con người là lực lượng quy định sự phát triển của xã hội và
là chủ thể của xã hội và con người mới do vậy, phải là những con người có đủ
khả năng, năng lực làm chủ xã hội và sự phát triển của xã hội, đại diện cho
một xu thế phát triển mới, tiến bộ của xã hội. Điều đó chỉ có thể xảy ra trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa, bởi một khi chế độ công hữu tư liệu sản xuất
được xây dựng một cách vững chắc sẽ xoá bỏ được thảm cảnh chi phối người

sản xuất, tình trạng sản xuất vô chính phủ được thay thế bằng nền sản xuất có
tổ chức và phân phối có kế hoạch, sản phẩm dồi dào sẽ thoả mãn mọi nhu cầu
phát triển về thể chất và tinh thần của con người. Chỉ đến lúc đó, lần đầu tiên
con người mới thoát khỏi giới động vật, chuyển từ những điều kiện sinh sống
của loài vật lên những điều kiện thật sự là của loài người. Đó là “lần đầu tiên
con người trở thành những người chủ thật sự và có ý thức đối với tự nhiên,
bởi vì họ đã thật sự trở thành những người chủ cuộc sống của chính mình ở
trong xã hội” [5, tr.482].
Thứ hai, con người mới là con người được tự do và phát triển toàn diện
về các mặt trí, đức, thể, mỹ, không còn lệ thuộc vào bất cứ sự bất công nào.
Những con người mới có tự do và được phát triển toàn diện như vậy chỉ có
thể là những con người được sản sinh ra trong lòng của chế độ xã hội chủ
nghĩa. Đó là những con người khác hẳn với những con người của nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa, do sự phân công ép buộc của nền sản xuất này nên mỗi
người công nhân, nếu không suốt đời phụ thuộc vào một cỗ máy, thậm chí
một bộ phận của một cỗ máy thì cũng bị bó buộc vào một nghề nhất định. Sự
phân công này đạt đến đỉnh cao trong thời kỳ công trường thủ công và được
hoàn thiện trong nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Hậu quả của sự phân công
16


đó là đã “chia nhỏ con người”, hy sinh tất cả năng khiếu, thể lực và trí lực của
con người. Sự phát triển phiến diện con người như thế đã gây ra mâu thuẫn
ngay với bản thân nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Nó đặt ra
yêu cầu là phải giải phóng con người, xoá bỏ sự phân công cũ của chủ nghĩa
tư bản thiết lập một chế độ mới qua cách mạng xã hội chủ nghĩa để tạo điều
kiện cho con người phát triển toàn diện những năng lực của mình. Bởi nếu
như trước đây, những con người phát triển một cách què quặt đã tỏ ra không
thích hợp với nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa thì “nền công nghiệp do toàn
xã hội kinh doanh một cách tập thể lại càng cần có những con người có năng

lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất đảm
nhiệm” [4, tr.28]. Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, những con người toàn diện, con
người được làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân, con người
đã đạt được bước nhảy vọt từ “vương quốc tất yếu” sang “vương quốc tự do”
chính là những con người ở giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa cộng sản.
Còn xã hội cộng sản vừa thoát thai từ trong xã hội tư bản ra thì cũng như con
người không tránh khỏi còn mang theo “những dấu vết của các xã hội đã đẻ ra
nó” về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, trí tuệ... Do đó, con người mới chỉ
có thể phát triển toàn diện trên một mức độ nhất định, và mới bước đầu làm
chủ được tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. Mặt khác, C. Mác cũng
đã cho rằng: “Chỉ có trong tập thể mới có những phương tiện làm cho mỗi cá
nhân có khả năng phát triển toàn diện những năng khiếu của mình,... chỉ có
trong tập thể mới có tự do cá nhân” [9, tr.526]. Điều này cũng đã được Ph.
Ăngghen chỉ rõ khi ông nói: Dĩ nhiên là xã hội không thể nào tự giải phóng
cho mình được nếu không giải phóng cho mỗi cá nhân. Có thể hiểu sự tự do
của con người ở đây là sự tự do trên cơ sở tôn trọng sự tự do của tập thể, tự do
có tổ chức và khuôn khổ nhất định. Sự phát triển toàn diện của con người
cũng vậy, nó cũng phải được đặt trên cơ sở của sự phát triển của tập thể, xã
hội mà sự phát triển của người này không làm ảnh hưởng hay kìm hãm sự
phát triển của người khác.

17


Thứ ba, con người mới là những con người đại diện cho một xã hội mới
và mang bản chất của xã hội đó, song đồng thời con người mới cũng mang
trong mình những đặc điểm, tính chất của cả chế độ xã hội cũ trước đó.
Nói con người mới là những người đại diện cho một xã hội mới và
mang bản chất của xã hội mới là vì con người là chủ thể của xã hội và sự phát
triển xã hội. Mặt khác, con người còn là lực lượng sản xuất quan trọng nhất,

quyết định nhất đối với sự phát triển của xã hội. Xã hội như thế nào thì sẽ có
con người như thế ấy. Còn nói con người mới vẫn mang trong mình những
đặc điểm của xã hội cũ là vì, điểm khác biệt giữa con người với con vật là con
người ngoài sự kế thừa bằng di truyền sinh học, còn có sự kế thừa về mặt xã
hội. Bằng con đường giáo dục, sự kế thừa xã hội sẽ truyền lại kinh nghiệm
của những thế hệ trước cho các thế hệ sau. Bởi vậy, Lênin đã từng có nhận xét
là: trong xã hội cũ, đứa bé lọt lòng đã bú ngay phải cái tâm lý tư hữu từ trong
dòng sữa mẹ. Nói như thế không phải Lênin cho rằng tâm lý tư hữu của người
mẹ được truyền lại bằng con đường sinh học, mà ý ông muốn nói đến con
đường kế thừa xã hội. Bởi vì những điều kiện môi trường lặp lại trong hàng
loạt thế hệ đã ảnh hưởng đến việc con người tiếp thu những hành vi xã hội
nhất định nào đó.
Mặt khác, sản xuất ngày càng phát triển thì tính chất xã hội hoá ngày
càng cao. Việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự
phát triển mới của nền sản xuất do nó mang lại sẽ cần đến những con người
hoàn toàn mới, những con người có năng lực phát triển toàn diện và đến lượt
nó, nền sản xuất sẽ tạo nên những con người mới, sẽ làm nên những thành
viên trong xã hội có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển
của mình. Do vậy mà con người mới là những con người đại diện cho xu thế
thế phát triển mới của xã hội và mang những đặc điểm bản chất của xã hội
mới, tiến bộ hơn. Vì thế, để xây dựng được những con người mới, Mác đã coi
sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển sản xuất với phát triển con người là một
trong những biện pháp mạnh mẽ để cải biến xã hội.

18


Thứ tư, con người mới xã hội chủ nghĩa là những con người nắm vững
các tri thức khoa học. Điều này đã được thể hiện ở quan điểm của Lênin về sự
cần thiết phải làm giàu trí tuệ của người cộng sản khi ông nói: “Người ta chỉ

có thể trở thành người cộng sản sau khi đã làm giàu trí tuệ của mình bằng sự
hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra” [81, tr.347].
Đây là một luận điểm hết sức đúng đắn và có ý nghĩa của Lênin không chỉ về
vấn đề phải nâng cao trình độ hiểu biết của những người cộng sản mà nó còn
đúng đắn đối với cả vấn đề xây dựng con người mới. Bởi lẽ, con người mới là
những người đại diện và là tiên phong cho xu hướng phát triển mới của xã hội
cho nên họ phải là những người có trình độ chuyên môn, có tri thức và văn
hóa.
Quan điểm này không chỉ đúng với thời điểm mà Lênin đang lãnh đạo
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô những năm 20 của thế kỷ
trước, mà nó còn đúng với cả thời đại ngày nay về vấn đề xây dựng và phát
triển con người phục vụ cho công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Nếu như có khoa học, kỹ thuật phát triển mà không có được
những con người am hiểu và sử dụng được máy móc, khoa học, kỹ thuật thì
cũng sẽ không thể tạo ra sự phát triển kinh tế, xã hội được. Mặt khác, cách
mạng là một quá trình cải biến xã hội toàn diện, không chỉ về mặt tư duy, đạo
đức, lối sống và nếp sống của xã hội để hướng tới xây dựng một xã hội có lối
sống, nếp sống văn minh, tiến bộ mà nó còn là cuộc cách mạng về khoa học,
kỹ thuật và công nghệ để từ đó tạo ra sự phát triển về kinh tế, nâng cao đời
sống vật chất cho con người, giải phóng con người. Vì thế, con người mới những chủ nhân của xã hội và sự phát triển xã hội không thể không có trình
độ chuyên môn và tri thức khoa học được. Như vậy, nâng cao trình độ chuyên
môn, tri thức cho con người cũng chính là sự hiện đại hóa con người, làm cho
con người có đủ điều kiện để phát triển toàn diện, tiến tới xây dựng cuộc sống
văn minh, hiện đại.
Bên cạnh những đặc điểm trên, chủ nghĩa Mác-Lênin cũng cho rằng
con người mới xã hội chủ nghĩa là những con người có bản lĩnh, dũng cảm và
19


có tinh thần tập thể, làm việc có trật tự, kỷ cương. Biết kế thừa và phát huy

được những giá trị tốt đẹp của dân tộc và thời đại để xây dựng nền móng của
xã hội mới tiến bộ, tốt đẹp hơn. Điều này được thể hiện bởi quan điểm của C.
Mác khi ông cho rằng, con người mới chỉ có thể được hình thành trong đời
sống tập thể, cộng đồng. Vì thế mà bản thân mỗi con người muốn tự làm mới
mình thì trước hết phải sống trong một tập thể nhất định, tôn trọng lợi ích và
trật tự, kỷ cương của tập thể, cộng đồng. Theo Lênin, con người mới xã hội
chủ nghĩa cần phải có tinh thần lao động: “một thứ lao động làm ngoài tiêu
chuẩn, không chờ một món thù lao nào, không đặt điều kiện đòi hỏi một món
thưởng nào, một thứ lao động do thói quen lao động cho tập thể mà làm, và
do ý thức (đã trở thành thói quen) tự giác thấy phải làm vì lợi ích công cộng một thứ lao động đã trở thành nhu cầu của một cơ thể lành mạnh” [83, tr.661].
Như vậy, chúng ta thấy chủ nghĩa Mác-Lênin đã vạch ra được những
đặc điểm hết sức cơ bản của con người mới xã hội chủ nghĩa. Và trên cơ sở
của những định hướng về con người mới xã hội chủ nghĩa như vậy, chủ nghĩa
Mác-Lênin cũng đã chỉ ra những phương cách hay cách thức để xây dựng con
người mới.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì sự hình thành của con
người mới cần có những điều kiện nhất định của nó, và do vậy quá trình xây
dựng con người mới là một quá trình có quy luật gắn liền với trình độ phát
triển ở từng giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản và không thể làm nhanh được.
Theo quan điểm của C. Mác, quá trình phát triển của cách mạng xã hội chủ
nghĩa gồm hai giai đoạn: xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Như vậy,
theo lôgic của lý luận mácxit có thể hiểu xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa cũng gồm có hai giai đoạn. Ở giai đoạn đầu (giai đoạn xã hội chủ
nghĩa), sự phân phối còn phải thực hiện theo nguyên tắc “làm theo năng lực,
hưởng theo lao động”, đến giai đoạn sau (giai đoạn cộng sản chủ nghĩa) mới
“làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Và trên cơ sở của sự phân chia giai
đoạn như vậy, ông cho rằng để chuyển từ giai đoạn một sang giai đoạn hai thì
phải có đủ ba điều kiện: một là, xã hội hoá tư liệu tư liệu sản xuất dưới một
20



hình thức duy nhất; hai là, lực lượng sản xuất phải phát triển thật mạnh mẽ;
ba là, phải tiến từ việc xoá bỏ các giai cấp bóc lột sang xoá bỏ hoàn toàn các
giai cấp, tiến tới thủ tiêu sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay,
biến lao động từ chỗ là phương tiện sinh sống thành nhu cầu bậc nhất đối với
con người.
Mặt khác, do còn có sự khác nhau về chất giữa hai giai đoạn của chủ
nghĩa cộng sản, nên yêu cầu xây dựng con người mới cũng không thể đặt ra
một cách chung chung mà phải thấy được yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn
để rồi từ đó có những bước đi, nội dung và biện pháp xây dựng thích hợp.
Theo Lênin, xây dựng con người mới không có nghĩa là không có sự kế
thừa những giá trị tốt đẹp của con người cũ, mà đó là quá trình kết hợp giữa
cải tạo con người cũ với xây dựng con người mới. Xã hội chủ nghĩa không
phải từ đâu xa lạ, mà vừa thoát thai từ xã hội tư bản, hay phong kiến - thực
dân mà ra, còn mang trên mình biết bao dấu vết của xã hội cũ. Lênin đã từng
so sánh chủ nghĩa tư bản không giống như một cái xác chết có thể đem chôn,
mà “thối ra, tan rã giữa chúng ta, làm nhơ bẩn không khí chung quanh chúng
ta, đầu độc cuộc sống của chúng ta” [82, tr.82-83]. Rằng: “Những tàn dư của
xã hội cũ sẽ tìm cách ẩn náu lâu dài trong ý thức của con người, nhất là tâm lý
“sống chết mặc bay, ai lo phận nấy” của chế độ tư hữu đã ăn sâu vào tim óc
người ta, trở thành thói quen, thành truyền thống. Cải tạo những con người
được giáo dục hàng thế kỷ theo những thói quen như thế là một việc làm thật
khó khăn, mất nhiều thời gian, bởi vì “sức mạnh của tập quán ở hàng triệu
người và hàng chục triệu người là sức mạng ghê gớm nhất”” [81, tr.45-46]. Vì
thế, theo Lênin thì chỉ cải tạo những tư tưởng cũ, tâm lý cũ thôi thì vẫn chưa
đủ để xây dựng con người mới. Điều quan trọng hơn đối với việc xây dựng
con người mới là phải làm sao xây dựng cho được những tư tưởng mới, tình
cảm mới nảy sinh từ trên cơ sở một nền kinh tế mà các tư liệu sản xuất đã
được công hữu hoá. Và một trong những nội dung quan trọng cần phải xây
dựng cho con người mới là tinh thần và năng lực làm chủ nhà nước, làm chủ

xã hội mà thước đo tinh thần và năng lực làm chủ này là thái độ lao động mới
21


×