Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Đảng bộ tỉnh thái bình lãnh đạo chiến tranh du kích trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân pháp (1946 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.23 MB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------

PHẠM THỊ HƯƠNG

ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH
DU KÍCH TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP (1946-1954)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------

PHẠM THỊ HƯƠNG

ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH
DU KÍCH TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP (1946-1954)

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Tang Bồng



Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Luận văn có sự kế thừa các
công trình nghiên cứu của những người đi trước và có bổ sung thêm những tư
liệu mới và những kết luận mới mà chưa được công bố ở bất cứ công trình
nào khác.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2015
Tác giả luận văn

Phạm Thị Hương


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi đã nhận được sự quan tâm hướng dẫn,
giúp đỡ của nhiều cá nhân, tập thể trong và ngoài trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Vũ Tang Bồng đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình viết luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân, Ban tuyên giáo,
Bộ chỉ huy quân sự và Thư viện Tỉnh Thái Bình đã tạo điều kiện thuận lợi,
giúp đỡ tôi trong quá trình sưu tầm tài liệu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Lịch sử, và
các thầy cô giáo một số chuyên ngành khác của trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân Văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức
cho tôi suốt 2 năm học qua.
Một lần nữa tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu này!



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ...................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................... 5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 5
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu. .............................. 6
6. Đóng góp của Luận văn .................................................................................. 6
7. Bố cục của luận văn ........................................................................................ 7
CHƯƠNG 1 ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH THỜI KỲ ĐẤU KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1950) ......................................... 8
1.1. Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và truyền thống yêu nước
cách mạng của nhân dân Thái Bình .................................................................... 8
1.1.1 Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội...................................... 8
1.1.2 Truyền thống yêu nước cách mạng của nhân dân Thái Bình .................... 15
1.2. Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo tổ chức xây dựng phong trào chiến tranh du
kích, góp phần cùng quân dân Liên khu ngăn chặn âm mưu mở rộng phạm vi
chiếm đóng của thực dân Pháp (1946 - 2/1950). ............................................... 21
1.2.1 Khái niệm về chiến tranh du kích, khu du kích, căn cứ du kích, làng kháng
chiến. ................................................................................................................ 21
1.2.2 Đảng bộ lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức phát động phong
trào du kích chiến tranh ................................................................................... 22
1.2.3 Đảng bộ lãnh đạo quân dân địa phương xây dựng, bảo vệ vùng tự do, cùng
quân dân Liên khu chiến đấu ngăn chặn âm mưu mở rộng phạm vi chiếm đóng
của thực dân Pháp............................................................................................ 29
Tiểu kết chương 1............................................................................................. 36
CHƯƠNG 2 ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH DU

KÍCH TỪNG BƯỚC ĐÁNH BẠI MỌI ÂM MƯU THỦ ĐOẠN CÀN QUÉT,
KHỦNG BỐ, BÌNH ĐỊNH CỦA ĐỊCH, GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG (2/1950
–7/1954)............................................................................................................ 37


2.1. Đảng bộ tổ chức phát động chiến tranh du kích đánh bại mọi âm mưu thủ
đoạn càn quét, khủng bố, bình định của địch (2/1950 –1951) ........................... 37
2.1.1 Đảng bộ tổ chức phát động cuộc chiến tranh du kích ngay sau khi Thực
dân Pháp đánh chiếm Thái Bình (2/1950) ........................................................ 37
2.1.2 Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo củng cố, mở rộng các làng kháng chiến,
đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống âm mưu càn quét bình định của địch
(6/1950- 12/1951) ............................................................................................. 49
2.2. Lãnh đạo đẩy mạnh chiến tranh du kích trên địa bàn, góp phần cùng quân
dân cả nước kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến (11/1951–7/1954). ................ 56
Tiểu kết chương 2............................................................................................. 81
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM......... 83
3.1 Một số nhận xét .......................................................................................... 83
3.1.1 Ưu điểm ................................................................................................... 83
3.1.2 Hạn Chế .................................................................................................. 89
3.2. Một số bài học kinh nghiệm....................................................................... 91
3.2.1. Chiến tranh du kích muốn giành thắng lợi phải kiên trì bám đất, bám dân,
bám đánh địch. ................................................................................................. 91
3.2.2 Chiến tranh du kích phải xây dựng được hậu phương tại chỗ .................. 96
3.2.3. Chiến tranh du kích cần có sự kết hợp giữa các lực lượng, hình thức và
mặt trận đấu tranh............................................................................................ 98
3.2.4. Cần coi việc chống càn quét là một quy luật của chiến tranh du kích, từ đó
chủ động đề ra các biện pháp chống càn ........................................................ 100
3.2.5. Đảng bộ địa phương phải không ngừng củng cố và hoàn thiện về tổ chức
và năng lực lãnh đạo ...................................................................................... 102
KẾT LUẬN ................................................................................................... 105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 108
PHỤ LỤC ...................................................................................................... 115


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Thái Bình là một địa
bàn chiến lược có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Đây là nơi đứng chân của
nhiều cơ quan Đảng, chính quyền, đơn vị vũ trang của Liên khu và của Hải
Phòng, Kiến An trong những ngày đầu kháng chiến. Đây cũng là nơi các hoạt
động đấu tranh của quân dân ta phá các âm mưu, thủ đoạn, thâm độc, xảo
quyệt “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”
của địch diễn ra hết sức quyết liệt và gay gắt.
Nằm sâu trong vùng địch tạm chiếm, nhân thức rõ tầm quan trọng của
địa bàn đối với cuộc kháng chiến của địa phương cũng như với Liên khu 3,
với toàn quốc, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và của Liên khu ủy, Bộ tư lệnh Liên khu III, Đảng bộ tỉnh Thái
Bình đã sớm tổ chức, phát động cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp, xây
dựng các làng kháng chiến, các căn cứ du kích, khu du kích liên thôn, liên xã,
liên huyện, liên tỉnh, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, biến
hậu phương địch thành hậu phương của ta, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực
địch đồng thời ra sức đóng góp sức người, sức của góp phần cùng quân dân cả
nước đưa sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi.
Nghiên cứu tìm hiểu quá trình lãnh Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo xây
dựng và tổ chức phát động chiến tranh du kích, kết hợp giữa đấu tranh quân sự
với đấu tranh chính trị, xây dựng và tổ chức hậu phương, kết hợp tiến công trên
chiến trường chính và tiến công ở vùng sau lưng địch, rút ra một số kinh
nghiệm tổ chức tiến hành chiến tranh du kích ở một tỉnh đồng bằng, nằm sâu
trong vùng địch tạm chiếm, khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến đúng
đắn sáng tạo của Đảng bộ Thái Bình là việc hết sức cần thiết nhằm góp phần

làm phong phú thêm đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện và

1


trường kỳ của Đảng, góp phần giáo dục truyền thống, đồng thời có thể vận
dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
Với lý do trên, tôi chọn “Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo chiến
tranh du kích trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (19461954)” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình…
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về chiến tranh du kích
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói chung, trên địa bàn Thái
Bình nói riêng. Theo đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu có thể sắp
xếp các công trình trên theo các nhóm sau:
2.1- Các nhóm công trình do các cơ quan, các nhà khoa học cấp
trung ương biên soạn:
“ Những sự kiện lịch sử Đảng”, tập 1 (Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1979) của
Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương biên soạn; các công trình “ Lịch sử
Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-1954)”, tập 1 (Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội,1994); “Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (19451954)” tập 1, tập 2 (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,1994) do Viện Lịch sử
quân sự Việt Nam biên soạn;“ Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, thắng lợi và bài học” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996) của Ban
chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị; “ Lịch sử kháng chiến
chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu III (1945-1955)” (Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2005) của Bộ Tư lệnh Quân khu III và Viện Lịch sử
quân sự Việt Nam; “Quân khu Ba - Lịch sử kháng chiến chống thực dân
Pháp” (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998) của Bộ tư lệnh Quân khu III;
“Lịch sử Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam tập 1 (1944-1954)” (Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội,2009) của Đảng bộ quân đội nhân dân Việt Nam;
“ Trung đoàn 42 trung dũng” ( Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995) của

Bộ Tư lệnh Quân khu III; “ Lịch sử kháng chiến chống Pháp khu Tả ngạn

2


sông Hồng (1945 -1955)” ( Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001) của Hội
đồng chỉ đạo biên soạn công trình lịch sử kháng chiến chống Pháp khu Tả
Ngạn sông Hồng; “Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc
Bộ (1946-1954)” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001) của Vũ Quang
Hiển; v.v
2.2 Nhóm công trình do địa phương biên soạn :
Công trình Sơ thảo “Tổng kết lịch sử du kích chiến tranh Thái Bình”
(Tỉnh đội Thái Bình xuất bản, 1961). Cuốn sách không chỉ đưa ra những điểm
tương đồng và khác biệt về chiến tranh du kích của tỉnh Thái Bình với tỉnh
khác mà còn đưa ra những nhận định đánh giá về những ưu điểm và hạn chế
và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu để quân và dân Thái Bình tiếp
tục góp sức mình vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.
Công trình “ Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Thái Bình 1945-1954” do
Ban tuyên giáo tỉnh ủy Thái Bình xuất bản năm 1989. Cuốn sách đã trình bày
khá đầy đủ những sự kiện lịch sử quan trọng của tỉnh trong thời kỳ này. Đặc
biệt là những sự kiện về chiến tranh du kích, các đại hội Đảng bộ tỉnh, giúp
cho người đọc dễ dàng nắm được các mốc thời gian diễn ra các sự kiện của
Đảng bộ trong giai đoạn 1930 – 1945.
Cuốn sách “Nhân dân Tán Thuật đánh giặc giữ làng” của Kịch Lịch
(Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1963) đã phần nào dựng lại quá
khứ hào hùng của quân và dân Tán Thuật. Với lối đánh du kích sáng tạo, linh
hoạt, quân và dân Tán Thuật đã lập lên nhiều chiến công góp phần vào thắng
lợi chung của chiến tranh du kích ở Thái Bình.
Công trình “Thái Bình đánh giặc” (Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Thái
Bình, 1975). Từ nguồn tư liệu của các nhân chứng lịch sử, tác phẩm đã giúp

cho người đọc phần nào có thể hình dung về một thời chiến đấu đầy khó
khăn, gian khổ, hy sinh nhưng cũng rất anh dũng của quân và dân Thái Bình.

3


Sau khi đất nước thống nhất, chủ đề chiến tranh du kích ở tỉnh Thái
Bình (1950 - 1954) vẫn được nhiều cá nhân và tập thể tiếp tục đề cập
Năm 1999, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình biên soạn và xuất bản
công trình “Thái Bình kháng chiến chống Pháp xâm lược 1945 -1954”, cuốn
sách đã tái hiện lại bức tranh toàn cảnh tỉnh Thái Bình từ sau Cách mạng
tháng Tám cho đến ngày Thái Bình được giải phóng, trong đó giành khá
nhiều trang viết về cuộc chiến tranh du kích của quân và dân Thái Bình.
Cũng trong năm 1999, Tỉnh ủy Thái Bình biên soạn, xuất bản cuốn
“Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1927 – 1954)”. Tác phẩm đã làm nổi bật
vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ khi ra đời cho đến 1954. Với
đường lối chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, linh hoạt, Đảng bộ đã lãnh đạo quân và
dân trong tỉnh giành được nhiều thắng lợi to lớn trên mọi lĩnh vực, trong cuộc
chiến chống thực dân Pháp.
Gần đây nhất là công trình “ Lịch sử quân sự tỉnh Thái Bình 1947- 2007”
do Đảng bộ quân sự tỉnh Thái Bình tổ chức biên soạn và xuất bản năm 2010.
Cuốn sách phản ánh quá trình hình thành và phát triển của Đảng bộ quân sự và
lực lượng vũ trang tỉnh, từ khi thành lập Tỉnh đội ( 1947) đến 2007.
Các công trình nghiên cứu trên đã khai thác được nguồn tư liệu rất
phong phú và sinh động. Nhưng các công trình do trung ương biên soạn chủ
yếu nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên địa bàn Liên
khu 3 mà không thể nghiên cứu sâu về chiến tranh du kích ở Liên khu 3 nói
chung, tỉnh Thái Bình nói riêng.
Các công trình do địa phương biên soạn chủ yếu trình bày các hoạt
động tác chiến, việc đề cập đến vai trò lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh du kích

của Đảng bộ còn chưa đầy đủ.
Tuy nhiên, tất cả các công trình kể trên đều rất bổ ích, không chỉ cung
cấp tư liệu mà còn giúp định hướng, gợi mở cho học viên nhiều vấn đề trong
quá trình thực hiện luận văn.

4


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Làm sáng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng bộ Thái Bình
trong việc phát động, tổ chức lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích ở địa
phương và những đóng góp xứng đáng của Đảng bộ, quân dân Thái Bình
trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ; rút ra một
số bài học kinh nghiệm cần vận dụng trong quá trình xây dựng thế trận chiến
tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng Thái Bình
thành khu vực phòng thủ vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Tập hợp, hệ thống những nghị quyết, chỉ thị, văn kiện phản ánh các chủ
trương của Trung ương Đảng, Liên khu ủy III và đảng bộ tỉnh Thái Bình trong
trong quá trình lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích thời kỳ 1945-1954.
- Góp phần khẳng định vị trí chiến lược quan trọng của tỉnh Thái Bình
và những đóng góp to lớn, xứng đáng của chiến tranh du kích tỉnh Thái Bình
trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Cố gắng phản ánh những sáng tạo của Đảng bộ Thái Bình trong quá
trình tổ chức, chỉ đạo,lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích, từ đó rút ra
một số kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh du kích trên địa bàn.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Quá trình lãnh đạo chỉ đạo của Đảng bộ trong tổ chức lãnh đạo các
hoạt động chiến tranh du kích tại địa phương trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp (1946-1954).
- Những thành tích tiêu biểu của phong trào chiến tranh du kích tỉnh
Thái Bình trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: trình bày phong trào chiến tranh du kích tỉnh Thái Bình
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Về thời gian: từ sau cách mạng tháng Tám, chủ yếu từ tháng 12/1946
đến tháng 7/1954.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu.
5.1 Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quân sự của Đảng và những chủ trương
lãnh đạo, chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh Thái Bình
trong kháng chiến chống Pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng quân sự
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về chiến tranh, luận văn chủ yếu sử
dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic, ngoài ra còn sử
dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh...
5.3. Nguồn tư liệu
Các văn kiện của Trung ương Đảng, Liên khu ủy III, các chỉ thị, nghị
quyết, báo cáo của Tỉnh ủy và của các huyện ủy thuộc tỉnh ủy Thái Bình
trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp; Các công trình lịch sử, tổng

kết của trung ương và địa phương đã xuất bản. Các báo cáo của các cơ quan
quân sự tỉnh Thái Bình thời kỳ kháng chiến chống Pháp; Hồi ký của các lão
thành cách mạng…
6. Đóng góp của Luận văn
- Thông qua việc trình bày các chủ trương, giải pháp của Đảng bộ tỉnh
Thái Bình, luận văn làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ trong tổ chức, chỉ
đạo phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn từ 1946 đến 1954.

6


- Góp phần phản ánh rõ hơn, toàn diện hơn cuộc kháng chiến của Đảng
bộ quân dân Thái Bình, làm nổi bật vị trí đặc biệt quan trọng của phong trào
chiến tranh du kích trên địa bàn.
- Góp thêm nguồn sử liệu phục vụ công tác nghiên cứu về lịch sử cuộc
kháng chiến chống Pháp tỉnh Thái Bình.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo xây dựng phong trào chiến
tranh du kích thời kỳ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1950).
Chương 2: Đảng bộ lãnh đạo đẩy mạnh chiến tranh du kích từng bước đánh
bại mọi âm mưu thủ đoạn càn quét, khủng bố, bình định của địch, giải phóng quê
hương (2/1950 –7/1954)
Chương 3. Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm.

7


CHƯƠNG 1

ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG PHONG
TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH THỜI KỲ ĐẤU KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1950)
1.1. Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và truyền
thống yêu nước cách mạng của nhân dân Thái Bình
1.1.1 Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội
Tỉnh Thái Bình nằm ở phía đông nam đồng bằng châu thổ sông Hồng,
có diện tích tự nhiên 1546 km2 (số liệu 2003) được bao bọc bởi 3 dòng sông
lớn. Phía Tây và Tây Nam là sông Hồng, giáp hai tỉnh Hà Nam và Nam Định.
Phía Bắc là sông Luộc giáp hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương. Phía Đông Bắc
là sông Hóa giáp với thành phố Hải Phòng. Phía Đông là biển cả mênh mông
với trên 54km bờ biển trong Vịnh Bắc Bộ. Cùng với 3 dòng sông lớn bao
quanh, trên địa bàn còn có 70 dòng sông lớn nhỏ.
Thời nước Văn Lang của các vua Hùng, tỉnh Thái Bình ngày nay thuộc
bộ Lục Hải. Thời Bắc thuộc thuộc huyện Chu Diên, quận Giao Chỉ. Sau khi
Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng ( năm 938) chấm
dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc, vùng đất Thái Bình hiện nay thuộc Châu Đông.
Năm 1005, thời Tiền Lê, Châu Đông được đổi thành phủ Thái Bình. Tên Thái
Bình có từ đây. Đến thời Lý, Trần vùng đất Thái Bình hiện nay thuộc các lộ
Kiến Xương, Long Hưng, Tiên Hưng. Phủ Long Hưng có các huyện Ngự
Thiên, Duyên Hà, Cổ Lan, Thần Khê. Phủ Kiến Xương có các huyện Bí,
Bồng Điền, Kiến Xương, Chân Lợi. Phủ Tiên Hưng có các huyện Thái Bình,
A Côi, Đa Dực, Tây Quan. Thời Hậu Lê, theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi,
Thái Bình có 3 phủ, 11 huyện, 525 châu, xã, thôn, trang… Thời Nguyễn
vùng đất Thái Bình hiện nay thuộc trấn Sơn Nam Hạ chia làm 3 phủ gồm 11
huyện, 82 tổng, 602 xã, thôn, trang, phường. Ngày 21.3.1890, toàn quyền
Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Thái Bình. Tính đến ngày 1.1.1893

8



tỉnh Thái Bình có 2 phủ gồm 10 huyện, 79 tổng, 548 xã. Đến năm 1926 Thái
bình có 12 phủ huyện gồm 95 tổng, 814 xã và 1 thị xã. Từ sau cách mạng
tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng tổ chức lại cấp xã. Xã mới
thường gồm một số xã cũ (hoặc một số làng) hoặc là một tổng cũ. Trong
kháng chiến chống Pháp, Thái Bình có 1 thị xã và 12 huyện ( Vũ Tiên, Thư
Trì, Kiến Xương, Tiền Hải, Thái Ninh, Thụy Anh, Đông Quan, Quỳnh Côi,
Phụ Dực, Duyên Hà, Hưng Nhân, Tiên Hưng) và 162 xã. [77. Tr.145-156].
Hiện nay, Thái Bình có 1 thành phố và 7 huyện ( Vũ Thư, Kiến Xương,
Tiền Hải, Đông Hưng, Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Thái Thụy) với 7 thị trấn và 286
xã, phường. So với các tỉnh đồng bằng Tả Ngạn sông Hồng, Thái Bình có
diện tích tự nhiên tương đối rộng. Sông Hồng đoạn chảy qua Thái Bình dài
80km qua các huyện Hưng Nhân, Thư Trì , Vũ Tiên, Kiến Xương, Tiền Hải
rồi đổ ra biển theo cửa Ba Lạt chỗ rộng nhất lên tới 1000m, có nhiều đoạn
quanh co gấp khúc bên lở bên bồi, sâu từ 15 đến 30m.. Trong kháng chiến,
sông Hồng là tuyến giao thông đường thủy chiến lược đối với việc vận
chuyển lương thực, quân số, vũ khí của địch từ ngoài biển vào Nam Định, Hà
Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Phía Tây Bắc là sông Luộc (phân lưu của
sông Hồng) bắt nguồn từ Hà Xá (Hưng Nhân) chảy qua huyện Hưng Nhân,
Quỳnh Côi, Phụ Dực, Vĩnh Bảo (Hải Phòng) dài 40km, chỗ rộng nhất 150m,
hẹp nhất 70m. Sông Luộc cũng là con đường thủy vô cùng quan trọng. Phía
Đông Bắc là sông Hóa dài 60km, bắt nguồn từ Lộng Khê ( Phụ Dực) chạy
theo ven huyện Thụy Anh, Phụ Dực ra biển, quãng rộng nhất là 150m, hẹp
nhất 70m. Cả ba con sông này địch đều thiết lập một hệ thống đồn bốt để bảo
vệ, gây cho ta nhiều trong bảo quản giao thông liên lạc và tác chiến. Bờ biển
Thái Bình dài 54km, có các cửa sông lớn như: cửa Ba Lạt, cửa sông Trà Lý,
cửa sông Thái Bình và cửa Lân.[76,tr.8]
Ngoài ba con sông lớn bao quanh, nội đia Thái Bình còn có 4 con sông
tương đối lớn khác là: Trà Lý, Diêm Hộ, Kiến Giang, Sa Lung. Thái Bình là


9


tỉnh duy nhất của miền Bắc không có núi rừng, đất đai màu mỡ, phì nhiêu,
nông nghiệp và ngư nghiệp khá phát triển, là 1 trong những vựa lúa lớn của
đồng bằng sông Hồng. Do điều kiện tự nhiên là vùng đất được phù sa bồi đắp,
bằng phẳng, các cánh đồng phần lớn có nước quanh năm. Đặc điểm địa hình
kể trên khiến cho việc bảo đảm hậu cần, cơ động lực lượng tác chiến của quân
dân ta rất khó giữ bí mật,việc phát triển, cất giấu thóc lúa, của cải và đào hầm
hào cũng rất khó khăn…Địa hình bằng phẳng còn có lợi thế cho địch đóng cứ
điểm, xây lô cốt cao, có thể kiểm soát cả một vùng.
Thái Bình còn có hệ thống giao thông đường bộ thuận tiện. Từ Thái
Bình theo đường quốc lộ số 10 có thể đi Hải Phòng, Quảng Ninh, cũng theo
đường 10 có thể đến Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa vào Khu 4. Đường 39
nối Thái Bình với Hưng Yên, theo đường này có thể xuống Hải Dương, lên
Hà Nội và các tỉnh Đông Bắc, Tây Bắc. Cùng với 2 con đường quan trọng
này, Thái Bình còn có một hệ thống đường giao thông liên huyện là đường
216, 217,218,219,220… dài tổng cộng 500km. Hệ thống đường giao thông
ngang dọc chia cắt địa bàn Thái Bình thành từng khu vực nhỏ từ 3-7km, tuy
thuận tiện cho việc giao thông, có lợi phần nào cho cách đánh du kích,
nhưng cũng gây trở ngại cho ta khi địch chiếm đóng chốt giữ những đoạn yết
hầu với những phương tiện hiện đại của chúng.[76, tr.7]
Nhìn chung, địa hình, đất đai, khí hậu… của Thái Bình đối với hoạt
động của con người chứa đựng sẵn hai mặt: thuận lợi, ưu đãi và khó khăn,
thách thức. Những thuận lợi tạo ra khả năng cho Thái Bình xây dựng một
nền kinh tế nông nghiệp tự cấp, tự túc, đảm bảo yêu cầu thiết yếu cho cuộc
sống và chiến đấu. Song những khó khăn lại đòi hỏi cư dân ở đây phải cố
kết chặt chẽ, phải biết lợi dụng quy luật tự nhiên, và chiến đấu chống lại sự
tàn phá của thiên nhiên, tạo điều kiện cho ý thức cộng đồng sớm hình thành
và phát triển.


10


Trong chiến tranh đây là địa bàn địch có khả năng phát huy ưu thế về
phương tiện và vũ khí hiện đại. Thực tế đó đòi hỏi quân dân Thái Bình phải
biết lợi dụng và cải biến địa hình địa vật để tổ chức xây dựng thế trận chiến
tranh nhân dân, phát động chiến tranh du kích để duy trì và phát triển lực
lượng, chủ động đánh địch với những hình thức thích hợp.
Dân cư Thái Bình có nguồn gốc từ nhiều nơi. Họ tụ cư và hợp cư ở đây
bằng lao động, chinh phục và cải tạo tự nhiên. Sau cách mạng tháng Tám dân
số Thái Bình có gần 1 triệu người, mật độ dân số 650 người /km2, xếp hạng
thứ 4 của đồng bằng sông Hồng và thứ 5 so với cả nước[66, tr.104, 106]. Vì
vậy, Thái Bình được ví như là kho người mà ta và địch đều muốn giành giật.
So với các tỉnh khác thuộc châu thổ Bắc Bộ thì Thái Bình có lịch sử
hình thành đất đai và cư dân mang tính gối sóng tương đối rõ rệt. Nhiều làng
cổ thuộc vùng đất Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Đông Hưng, Vũ Thư có lịch sử trên
dưới 2000 năm. Tuy nhiên, số làng được khai phá từ thời Trần trở về sau
chiếm tỉ lệ cao, những làng coi là mới được xác lập ở Tiền Hải từ cuộc đại
khẩn hoang của Nguyễn Công Trứ bắt đầu từ năm 1828 đến nay cũng đã có
lịch sử gần 200 năm. Cư dân Thái Bình vốn là sự hội tụ từ các luồng cư dân
có gốc từ Sơn Tây, Hà Đông, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Quảng Yên, Hải Dương,
Hưng Yên, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Nam, Nam Định,.. và có cả một bộ phận
theo đường biển từ Bắc xuống, từ Nam ra vốn làm nghề đánh cá về sau định
cư trên đất Thái Bình. Họ mang theo những tập quán sản xuất, những truyền
thống văn hóa ở nơi ở cũ đến vùng này và nhanh chóng hòa nhập với sự phát
triển chung của nền văn hóa bản địa. Đến nay, ở Thái Bình có 58 dòng họ, cư
dân hầu hết là người Kinh.
Người dân Thái Bình sống bằng nghề nông là chủ yếu nên làng xã là
điểm quần cư của họ. Những xóm làng nhỏ liền nhau được bao bọc bởi những

cánh đồng lúa nước mênh mông, có nơi làng nọ áp lưng vào làng kia, hay chỉ
cách nhau một con đường hoặc một con sông đào…Trong làng có nhiều ao,

11


ngòi, xen lẫn với những lũy tre, ngăn cách thành từng khu vực nhỏ. Xung
quanh làng thường được bao bọc bởi các lũy tre xanh tốt, dày đặc. Nhiều làng
còn được bao quanh bởi những con sông hoặc nằm giữa cánh đồng lầy.
Làng xóm ở phía bắc tỉnh thường rải rác nhỏ hẹp khó tổ chức chiến đấu
chống địch càn quét, dễ bị địch bao vây chia cắt. Các làng xóm ở phía nam
tỉnh rộng lớn hơn, gần kề liên tiếp nhau thuận lợi cho việc xây dựng trận địa
liên hoàn và rào làng kháng chiến như những khu : Thần Huống (Thái Ninh),
Trại Chè ( Kiến Xương), Quang Thẩm (Vũ Tiên)…
Nhìn chung, làng xóm ở Thái Bình thường gọn và tập trung, dễ bị phi
pháo của địch phá hoại, nhưng cũng là chướng ngại cho địch, chúng không
thể dễ dàng triển khai hành quân theo đội hình cũng như không thể giữ vững
cự ly của các mũi tiến quân, hoặc hoạt động của cơ giới khi bị ta phá hoại
đường xá. Về phía ta, đây là nơi bộ đội địa phương và dân quân du kích có thể
tiến hành chiến tranh du kích rộng khắp. Trong kháng chiến ta đã dựa vào
những xóm làng tự nhiên này để xây dựng hàng loạt làng chiến đấu các khu
căn cứ du kích, đánh bại các cuộc hành quân càn quét, phá âm mưu “lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch.
Thái Bình là nơi sắc thái văn hoá được hội tụ và biểu hiện qua tín
ngưỡng dân gian, những lễ hội truyền thống của các làng quê trong tỉnh. Các
lễ hội với nhiều nội dung phong phú phản ánh truyền thống “uống nước nhớ
nguồn”, tôn vinh các vị anh hùng dân tộc, những người có công với đất nước,
quê hương. Thái Bình cũng là một trong những cái nôi của nghệ thuật chèo
truyền thống. Đã từ lâu, chiếu chèo sân đình cùng với bến nước, gốc đa là
những thành tố văn hoá quan trọng, món ăn tinh thần không thể thiếu của mỗi

người dân quê lúa. Qua thống kê cho thấy, trước Cách mạng tháng Tám năm
1945, ở Thái Bình có 52 gánh hát chèo, trong đó phải kể đến ba làng chèo nổi
tiếng là Hà Xá (huyện Hưng Hà), Khuốc (huyện Đông Hưng), Sáo Đền

12


(huyện Vũ Thư). Cùng với nghệ thuật chèo, múa rối nước cũng là một loại
hình sân khấu độc đáo, thể hiện sự khéo léo, tài tình của người dân quê lúa.
Bên cạnh những giá trị văn hoá phi vật thể, Thái Bình còn là nơi lưu giữ
nhiều giá trị văn hoá vật thể đặc sắc với 1.404 công trình kiến trúc cổ như:
đình, đền, phủ, chùa, miếu… Mặc dù hiện nay đã thiếu vắng nhiều công trình
do chiến tranh do thiên nhiên và cả con người tàn phá, song số còn lại cũng để
lại nhiều dấu ấn đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật điêu khắc tinh xảo qua từng
mảng kiến trúc tại các di tích: chùa Keo, đền Tiên La, đền Đồng Bằng, đền
Trần, đình An Cố, chùa Ký Con, đình Đông Lĩnh...
Là địa phương nằm xa các trung tâm văn hoá cổ, với địa hình bị chia cắt
bởi sông nước, nhưng Thái Bình lại có truyền thống hiếu học từ khá sớm.
Trong tổng số 2.898 trí thức đại khoa Việt Nam, Thái Bình có 111 vị, trong
đó có 2 trạng nguyên, 2 bảng nhãn, 3 thám hoa, 26 hoàng giáp, 78 người là
tiến sĩ, phó bảng.
Ngoài tín ngưỡng dân gian, có hai tôn giáo phát triển ở Thái Bình : Phật
giáo, Thiên chúa giáo.
Đạo Phật xuất hiện ở Thái Bình cách đây khoảng hơn 2000 năm, thịnh
hành nhất vào thời Lý –Trần. Hiện nay có 770 ngôi chùa nằm trên 267 xã
phường . Có 109 chùa được công nhận là di tích lịch sử văn hóa, trong đó có
17 chùa được cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, 92
chùa được chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Đặc biệt chùa Keo
được công nhận là di tích lịch sử đặc biệt cấp quốc gia.
Đạo Thiên chúa du nhập vào Thái Bình tương đối sớm. Theo gia phả họ

đạo xứ Dương Cước - Hồng Thái - Kiến Xương thì đạo Thiên chúa có mặt ở
đây từ năm 1665. Nhà thờ xứ đầu tiên được xây dựng vào năm 1700 là nhà
thờ xứ Lai Ổn - xã An Quí - Quỳnh Phụ. Năm 1936 Tòa thánh Vatican cho
phép công giáo Thái Bình tách khỏi "Địa phận Bùi Chu" thành lập "Địa phận
Thái Bình" gồm tỉnh Thái Bình và Hưng Yên. Từ năm 1936 đến năm 1945,

13


tòa Giám mục Thái Bình đã qua 5 đời Giám mục, trong đó có 2 Giám mục
người nước ngoài. Hiện nay Thái Bình có 48 nhà thờ xứ, 300 nhà thờ họ lẻ,
và 1 trường tiểu chủng viện ở Cát Đàm (Đông Quan), 1 Giám mục và 26 linh
mục với gần 10 vạn giáo dân.. Các nhà thờ thường được xây dựng ở những
nơi đầu mối giao thông thủy bộ quan trọng. Thời Pháp thuộc và trong kháng
chiến hệ thống tổ chức và thủ đoạn tuyên truyền của bọn giáo sĩ phản động
luôn được củng cố và phát triển rộng rãi với nhiều thủ đoạn hết sức thâm độc
tinh vi, xảo quyệt. Lợi dụng hoàn cảnh đói khổ của nông dân, chúng ra sức
mê hoặc, lôi kéo nhân dân theo đạo bằng cách cho lương thực, đến nay người
dân vẫn nhớ câu “ Đi đạo lấy gạo mà ăn”. Vào Việt Nam cùng với chủ nghĩa
thực dân, Thiên Chúa giáo đã bị các thế lực đế quốc lợi dụng biến một bộ
phận giáo dân thành công cụ phục vụ cho âm mưu xâm lược của chúng. Tuy
nhiên đa số giáo dân là nông dân lao động chất phác, cần cù vẫn hướng về tổ
tiên, dòng họ, gia đình, do bị thực dân phong kiến áp bức bóc lột nên đều có
tinh thần yêu nước thương nòi, căm ghét đế quốc phong kiến.
Thái Bình là 1 trong những vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh
nghề trồng trọt, chăn nuôi và khai thác nguồn lợi biển (muối, cá…), người
dân Thái Bình cón có những nghề thủ công truyền thống như dệt lụa, dệt
chiếu, rèn, đúc đồng, chạm bạc …
Là một tỉnh chủ yếu sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp lại phân tán
nhiều ở nông thôn, công nghiệp hầu như không phát triển nên ở Thái Bình có

hai giai cấp chủ yếu là nông dân và địa chủ.
Nông dân Thái Bình chiếm 93% dân số. Hầu hết họ là những người có
rất ít hoặc không có ruộng đất . Họ phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ, hoặc
phải làm thuê cho chúng để kiếm sống. Lợi dụng tình hình đó, bọn địa chủ ra
sức tăng mức địa tô và các khoản tô phụ, người dân phải nộp hai phần ba hoa
lợi trên diện tích lĩnh canh. Ngoài ra nông dân còn phải đóng sưu cao, thuế
nặng. Thêm vào đó, bọn cường hào, lý dịch địa phương lại phù thu lạm bổ,

14


nhiều nông dân làm quanh năm mà không đủ tiền sưu thuế. Không có tiền nộp
sưu thì bị bọn quan lại, cường hào đánh đập, kìm kẹp tàn nhẫn. Vì vậy, người
nông dân Thái Bình sớm có truyền thống đấu tranh chống áp bức bất công,
chống bọn phong kiến cường quyền và kẻ thù xâm lược.
Giai cấp địa chủ Thái Bình chiếm 2% dân số nhưng chiếm đoạt 20%
tổng số ruộng đất. Khi bị đế quốc đụng chạm tới quyền lợi và khi phong trào
cách mạng lên cao, một số địa chủ có tinh thần yêu nước đã tham gia chống
Pháp với mức độ khác nhau. Song nhìn chung đây là chỗ dựa của đế quốc để
áp bức bóc lột nhân dân ta ở vùng nông thôn.
1.1.2 Truyền thống yêu nước cách mạng của nhân dân Thái Bình
Với vị trí trọng yếu của đất nước và đồng bằng Bắc Bộ, Thái Bình sớm
phải đương đầu với các thế lực ngoại xâm. Trong nhiều thập kỷ, người dân
nơi đây rất nổi tiếng bởi ý chí kiên cường, bất khuất, lập nên bao kỳ tích anh
hùng. Ngay từ buổi đầu dựng nước, vào năm 40 sau công nguyên, hưởng ứng
lời hịch cứu nước của Hai Bà Trưng, nhiều anh hùng hào kiệt ở Thái Bình đã
nổi dậy phất cờ khởi nghĩa chống lại chế độ cai trị hà khắc của nhà Đông Hán.
Tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa của Vũ Thị Thục ở Tiên La Trang (nay là xã
Đoan Hùng, huyện Hưng Nhân), dưới ngọn cờ “Phù Trưng phạt Hán”. Cuộc
khởi nghĩa đã tập hợp được đông đảo, nhân dân trong vùng nhanh chóng phát

triển ra khắp tỉnh trở thành cánh quân mạnh của Hai Bà Trưng ở vùng hạ lưu
sông Hồng.
Ở thế kỷ thứ VI, Thái Bình là một trong những căn cứ đầu tiên nhen
nhóm cuộc khởi nghĩa Lý Bí, lật đổ ách đô hộ của nhà Lương, lập nên nhà
nước Vạn Xuân (544-602). Đến năm 938, sau chiến thắng Bạch Đằng diệt
quân xâm lược Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương xây nền tự chủ, đất nước
ta bước vào thời kỳ độc lập, chấm dứt gần 1.000 năm Bắc thuộc. Tuy nhiên,
sau khi Ngô Quyền mất, triều đình khủng hoảng, đã tạo cho các thủ lĩnh địa
phương nổi dậy, dẫn đến loạn 12 sứ quân, Trần Lãm cai quản vùng Bố Hải

15


Khẩu (thành phố Thái Bình ngày nay) là sứ quân mạnh hơn cả. Biết được sức
mạnh của sứ quân Trần Lãm, Đinh Bộ Lĩnh đã sớm tìm đến nương tựa. Sau
khi Trần Lãm chết, Đinh Bộ Lĩnh kế tục binh quyền kéo quân về Hoa Lư,
chiêu mộ thêm binh lính và lần lượt dẹp tan các sứ quân khác, chấm dứt nội
chiến, lập nên nhà Đinh.Vào thế kỷ XIII, Thái Bình không chỉ là đất dấy
nghiệp của nhà Trần mà còn là địa bàn chiến lược trong kế sách chống giặc
Nguyên - Mông, Thái Bình trở thành hậu phương quan trọng cung cấp quân
đội, lương thảo cho cuộc kháng chiến và là tuyến phòng thủ quan trọng bảo
vệ hành cung Thiên Trường.
Đầu thế kỷ XV (1407-1427), hàng loạt các cuộc nổi dậy chống ách đô
hộ của nhà Minh nổ ra liên tục trên đất Thái Bình. Bất chấp thủ đoạn tàn bạo
của kẻ thù, nhân dân các vùng ven biển, các huyện Kiến Xương, Đa Dực đều
nhất tề đứng lên chống giặc. Dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh nghĩa quân Lê
Điệt và Bùi Đằng Liêu ở Kiến Xương và 6 anh em họ Phạm là: Phạm Bôi,
Phạm Quý, Phạm Lưu, Phạm Du, Phạm Quỳnh, Phạm Khuê ở huyện Đa Dực
(Phụ Dực, huyện Quỳnh Phụ ngày nay) đã tập hợp đông đảo nhân dân Thái
Bình đứng lên chống giặc. Khi Lê Lợi dấy binh ở Lam Sơn - Thanh Hoá thì

cả Bùi Đằng Liêu và Phạm Bôi đều đem quân vào xin nhập với đại quân của
Lê Lợi, góp phần đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập vào năm 1427. Vào
thế kỷ XVIII trước tình hình triều đình Lê – Trịnh ngày càng thối nát, hàng
loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra trên khắp địa bàn tỉnh như: cuộc khởi
nghĩa của Nguyễn Sơn (Hồng Việt, Đông Hưng), Bùi Đá, Hoàng Sỏi (huyện
Quỳnh Côi), sau phát triển sang huyện Thần Khê, Duyên Hà, tiếp đó phát
triển sang Hải Phòng phối hợp với nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu… chống
lại sự thối nát, mục ruỗng cùng ách áp bức bóc lột hà khắc của triều đình
phong kiến. Tuy nhiên, có ảnh hưởng lớn nhất lúc bấy giờ là cuộc khởi nghĩa
của Hoàng Công Chất. Hoàng Công Chất, người làng Hoàng Xá, xã Nguyên
Xá, huyện Vũ Thư đã liên kết được nhiều lực lượng ở đồng bằng, trung du và

16


vùng Tây Bắc kéo dài cuộc khởi nghĩa trong 30 năm. Vào thế kỷ XIX, dưới triều
nhà Nguyễn, ngọn lửa đấu tranh của nông dân nổi lên dữ dội. Tiêu biểu trong
các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta lúc đó là cuộc khởi nghĩa của Phan Bá
Vành, người làng Minh Giám, xã Vũ Bình, huyện Kiến Xương. Cuộc khởi nghĩa
đã tập hợp được hàng vạn nông dân tham gia, mở rộng khắp vùng đồng bằng
duyên hải sông Hồng và đến tận Quảng Ninh. Đi đến đâu nghĩa quân cũng thực
hiện khẩu hiệu “lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo” và trừng trị thẳng tay bọn
phú hào, địa chủ nên được nhân dân hết lòng che chở giúp đỡ. Vào thời điểm
Pháp đánh chiếm miền Bắc lần thứ nhất (năm 1873) và lần thứ hai (năm 1882), ở
Thái Bình xuất hiện nhiều cuộc khởi nghĩa do các văn thân sĩ phu không cam
chịu nỗi nhục mất nước, bất hợp tác với thực dân Pháp và triều đình Huế đã từ
quan về quê tổ chức nhân dân dựng cờ khởi nghĩa, bất chấp lệnh bãi binh của
triều đình. Tiêu biểu trong số đó là cuộc khởi nghĩa của cha con Nguyễn Mậu
Kiến (Động Trung, huyện Kiến Xương), tiến sĩ Nguyễn Khuê (xã Song Lãng,
Vũ Thư), cuộc khởi nghĩa của Biện Tốn (Tam Nông, huyện Hưng Hà), cử nhân

Ngự sử Phạm Huy Quang (huyện Đông Hưng), Tạ Hiện (xã Quang Lang, huyện
Thái Thuỵ) và Kỳ đồng Nguyễn Văn Cẩm.
Những năm đầu thế kỷ XX, Thái Bình là một trong những địa phương
có phong trào yêu nước theo trào lưu dân chủ tư sản phát triển mạnh nhất.
Nhiều lớp học của Đông kinh Nghĩa thục được mở ra ở Động Trung,Thượng
Gia, Cần Phán.Hưởng ứng phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi
xướng nhiều thanh niên ở Thái Bình đã hăng hái xuất dương như: Ngô Quang
Đoan, Lê Văn Tập, Hoàng Chuyên, Đào Nguyên Phổ, Nguyễn Hữu Cương,
Phạm Tư Trực. Mặc dù các phong trào yêu nước theo trào lưu dân chủ tư sản
cuối cùng bị thực dân Pháp đàn áp nhưng các phong trào đó thể hiện ý chí
kiên cường bất khuất của nhân dân. Đồng thời, là cơ sở, điều kiện để chủ
nghĩa Mác-Lênin thâm nhập vào vùng đất Thái Bình dẫn đến sự ra đời của tổ
chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Thái Bình từ đầu năm 1927.

17


Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với lời kêu gọi của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc như một luồng gió mới thổi bùng ngọn lửa đấu tranh
cách mạng trong cả nước.
Trong cao trào cách mạng 1930-1931, ở Thái Bình đã diễn ra nhiều
cuộc đấu tranh quyết liệt của nông dân với chính quyền tay sai phong kiến ở
các huyện Kiến Xương, Vũ Tiên, Thái Ninh, Thư Trì. Tiêu biểu là hai cuộc
biểu tình của nông dân Duyên Hà - Tiên Hưng ngày 1/5/1930 và cuộc biểu
tình của nông dân Tiền Hải ngày 14/10/1930. Mặc dù các cuộc biểu tình đều
bị đàn áp khốc liệt, hàng trăm cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng,
trong đó có cả Ban Tỉnh uỷ đều bị địch bắt, tra tấn, tù đày nhưng nó đã mở ra
một thời kỳ mới, thời kì đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
Từ sau cao trào cách mạng 1930-1931, những năm 1932-1935, phong

trào cách mạng trong cả nước cũng như trong tỉnh bị địch khủng bố ác liệt,
nhiều cơ sở cách mạng của Đảng bị phá vỡ. Ba Ban Tỉnh uỷ kế tiếp nhau
được thành lập nhưng đều bị địch bắt, phong trào cách mạng gặp nhiều khó
khăn. Tuy nhiên, các đảng viên và quần chúng vẫn kiên cường đứng vững,
duy trì và từng bước phát triển phong trào đấu tranh cách mạng. Từ đầu năm
1934, mặc dù không còn cơ quan lãnh đạo của tỉnh nhưng một số chi bộ ở địa
phương vẫn tiếp tục hoạt động. Hình thức chủ yếu là hoạt động hợp pháp để
duy trì cơ sở.
Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ 1936-1939, phong trào cách mạng phát
triển mạnh ở thành thị rồi lan về nông thôn, tạo đà phát triển cho phong trào
cách mạng ở Thái Bình. Tháng 6-1937, Hội nghị bầu Ban Tỉnh uỷ thống nhất
được tiến hành tại Vũ Lăng (Kiến Xương), gồm 7 đồng chí. Hội nghị tập
trung bàn về công tác tuyên truyền, công tác xây dựng Đảng và tổ chức quần
chúng cũng như việc lãnh đạo quần chúng đấu tranh với nhiều hình thức
phong phú. Khắp nơi trong tỉnh đều nổ ra những cuộc đấu tranh chống ách áp

18


bức bóc lột hà khắc, đòi giảm các khoản đóng góp trong làng xã, đòi cải cách
hương thôn. Đồng thời, nông dân cũng tích cực hưởng ứng các cuộc vận động
do Trung ương và Xứ uỷ phát động như: đấu tranh đòi trả tự do cho các chính
trị phạm, phản đối dự án thuế thân của Saten, cử đại biểu đi dự mít tinh ở Hà
Nội, quyên góp ủng hộ báo của Mặt trận dân chủ, ủng hộ nhân dân Trung
Quốc chống Nhật…
Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tháng 11-1939,
Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 quyết định chuyển hướng hoạt
động. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương
thay cho Mặt trận dân chủ. Tại Thái Bình, việc chuyển hướng các mặt trận
công tác cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới đã được Ban Tỉnh uỷ

thực hiện.
Tháng 9-1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Nhân dân ta sống
trong tình cảnh “một cổ hai tròng” dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát
xít Nhật. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương đã
họp và quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp hết thảy mọi
tầng lớp nhân dân tham gia đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập dân tộc.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, tỉnh đã triển khai chỉ thị của Trung ương
Đảng, triệu tập cuộc họp đại biểu Việt Minh các phủ, huyện tại Động Trung,
huyện Kiến Xương, bàn biện pháp mở rộng cơ sở cứu quốc, thành lập Ban
chấn chỉnh phong trào. Giữa lúc đó, Thái Bình xảy ra nạn đói, trong vòng 5
tháng đầu năm 1945, toàn tỉnh đã có 28 vạn người chết (chiếm gần 30% dân
số toàn tỉnh lúc đó). Ban chấn chỉnh phong trào đã lãnh đạo vận động cuộc
cứu đói trong dân, đấu tranh với chính quyền bù nhìn thân Nhật để cứu tế.
Tháng 4-1945, Ban chấn chỉnh phong trào họp tại Động Trung, huyện
Kiến Xương, đổi tên thành Ban Tỉnh uỷ lâm thời và bầu Ban Thường vụ do
đồng chí Nguyễn Đức Tâm (Tâm Hậu) làm Bí thư. Hội nghị tiến hành một số

19


×