Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Đảng bộ huyện thái thụy (tỉnh thái bình) lãnh đạo kinh tế nông nghiệp từ năm 2000 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.67 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TÔ THÚY HẰNG

ĐẢNG BỘ HUYỆN THÁI THỤY (TỈNH THÁI BÌNH)
LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TÔ THÚY HẰNG

ĐẢNG BỘ HUYỆN THÁI THỤY (TỈNH THÁI BÌNH)
LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Quỳnh Nga


Hà Nội - 2015


Lời cam đoan

Luận văn “Đảng bộ huyện Thái Thụy (tỉnh Thái Bình) lãnh đạo kinh
tế nông nghiệp từ năm 2000 đến năm 2010” là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Thị Quỳnh Nga.
Các số liệu và tài liệu tôi sử dụng trong luận văn là hoàn toàn trung thực.

Hà Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2015
Tác giả luận văn

Tô Thúy Hằng


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo hết sức nhiệt tình của các thầy cô giáo, bạn bè
trong khoa Lịch sử, đặc biệt là TS. Lê Thị Quỳnh Nga. Nhân đây, tôi xin gửi
lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô và các bạn. Đồng thời xin trân trọng
gửi lời cảm ơn đến các bác, các cô, chú phòng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn huyện Thái Thụy, Huyện ủy Thái Thụy, trung tâm chính trị huyện
Thái Thụy, văn phòng tư liệu khoa Lịch sử, Trung tâm Thư viện Quốc gia –
Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện giúp tôi sưu tầm tài liệu trong quá
trình thực hiện đề tài. Mặc dù đã có sự đầu tư nghiên cứu và làm việc trên cơ
sở tư liệu có độ tin cậy cao, song trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu không
tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ
bảo của quý thầy cô! Tôi xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2015
Tác giả luận văn

Tô Thúy Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1. HUYỆN THÁI THỤY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRƯỚC NĂM 2000 ................................................. 7

1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Thái Thụy.......... 7
1.2. Thực trạng kinh tế nông nghiệp huyện Thái Thụy trước năm
2000 ......................................................................................................... 15
1.2.1. Vài nét về chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp................ 15
1.2.2. Thực trạng kinh tế nông nghiệp của huyện Thái Thụy trước
năm 2000 ............................................................................................ 20
Tiểu kết .................................................................................................... 24
Chương 2. QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TRONG NHỮNG NĂM 2000 – 2010 .................................................................. 25

2.1. Lãnh đạo kinh tế nông nghiệp từ năm 2000 đến năm 2005 ................ 25
2.1.1. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Thái Bình ........................................... 25
2.1.2. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ
huyện Thái Thụy tại Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII (2000) ......... 31
2.1.3. Quá trình chỉ đạo thực hiện ....................................................... 35
2.2. Đảng bộ huyện Thái Thụy lãnh đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế
nông nghiệp giai đoạn 2006 – 2010 .......................................................... 43

2.2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh
Thái Bình về phát triển kinh tế nông nghiệp ....................................... 43
2.2.2. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ
huyện Thái Thụy tại Đại hội Đảng bộ lần thứ XIII (2005) .................. 49
2.2.3. Quá trình chỉ đạo thực hiện ....................................................... 52
Tiểu kết .................................................................................................... 63


Chương 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM LỊCH SỬ ...... 65

3.1. Một vài nhận xét về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện ......................... 65
3.1.1. Đảng bộ huyện đã nhận thức đầy đủ về phát triển kinh tế
nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH .................................................. 65
3.1.2. Đảng bộ huyện lãnh đạo thực hiện tốt công tác chuyển đổi
cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa và từng
bước tiếp cận với thị trường................................................................ 69
3.1.3 Quá trình chỉ đạo bám sát thực tiễn, sáng tạo nhiều giải pháp
phù hợp thúc đẩy sự phát triển kinh tế nông nghiệp địa phương ......... 71
3.1.4 Một số hạn chế trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
bộ huyện Thái Thụy............................................................................ 74
3.2. Một số kinh nghiệm lịch sử ............................................................... 77
Tiểu kết .................................................................................................... 80
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 84
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 92


QUY ƯỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH


: Ban Chấp hành

CNH-HĐH

: Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

ĐCSVN

: Đảng Cộng sản Việt Nam

HTX

: Hợp tác xã

KH-KT

: Khoa học – kỹ thuật

Nxb

: Nhà xuất bản

NN &PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
TW

: Trung ương

UBND


: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa diễn ra mạnh
mẽ trên toàn thế giới. Đây là cơ hội đồng thời cũng là thách thức lớn đối với
Việt Nam. Trước yêu cầu mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định, muốn
đưa kinh tế nước ta tiến lên theo hướng sản xuất hàng hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế thì phải tiến hành CNH-HĐH đất nước. Căn cứ thực tiễn của đất nước,
Đảng cũng chỉ rõ muốn tiến hành thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH thì phải thực
hiện thắng lợi công cuộc CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, coi đây là
“nhiệm vụ then chốt, cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài”.
Hòa mình vào sự phát triển chung của đất nước, Huyện Thái Thụy –
một huyện thuần nông nghiệp của tỉnh Thái Bình, vừa mang trong mình
những đặc điểm chung của ngành kinh tế nông nghiệp đất nước, vừa có những
đặc điểm riêng đặc trưng cho vùng quê lúa Bắc Bộ. Để phát triển kinh tế nông
nghiệp của Huyện, Đảng bộ Huyện Thái Thụy đã quán triệt và vận dụng
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước vào công tác lãnh
đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện. Quá trình vận dụng, thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng về CNH-HĐH nông nghiệp tại địa phương là
một vấn đề cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn lớn. Nhất là thời gian từ sau khi
thực hiện nội dung CNH-HĐH nông nghiệp đã được đề ra từ Đại hội Đảng
lần thứ VIII. Việc nghiên cứu kinh tế nông nghiệp Huyện Thái Thụy phần nào
làm rõ quá trình nhận thức, vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng về phát
triển kinh tế nông nghiệp ở địa phương.
Với ý nghĩa đó, tôi chọn vấn đề: “Đảng bộ huyện Thái Thụy (tỉnh Thái
Bình) lãnh đạo kinh tế nông nghiệp từ năm 2000 đến năm 2010” làm đề tài
cho Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Kinh tế nông nghiệp luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu. Đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu liên quan đến kinh tế nông
1


nghiệp. Để đạt được mục tiêu của mình các tác giả đã nghiên cứu, tiếp cận ở
nhiều góc độ khác nhau. Qua quá trình tìm hiểu, khảo cứu, tôi chia thành hai
nhóm sau:
Nhóm 1: Các công trình, bài viết về nông nghiệp, kinh tế nông
nghiệp, tiêu biểu như:
Nguyễn Văn Khánh (2001), Biến đổi cơ cấu ruộng đất và nông nghiệp
ở vùng Châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội; Lê Quang Phi (2004), Đẩy mạnh CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn
trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Hồng Vinh (1998),
CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Xuân Thảo (2004), Góp phần phát triển
bền vững nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
Đặng Kim Sơn (2001), CNH từ nông nghiệp: lý luận, thực tiễn và triển vọng
ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội; Tập thể tác giả: Nguyễn Văn Nam,
Nguyễn Viết Thông, Đặng Quốc Tuyến, Nguyễn Ngô Hải (2002), CNH –
HĐH, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội; Lê
Mạnh Hùng (1998), thực trạng CNH – HĐH nông thôn Việt Nam, Nxb Thống
kê Hà Nội... Các công trình này đã cho thấy được tầm quan trọng của kinh tế
nông nghiệp trong quá trình phát triển đất nước và nhấn mạnh CNH-HĐH
trong nông nghiệp là nhu cầu tất yếu và là nhân tố quyết định đến sự phát triển
kinh tế-xã hội của đất nước trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhóm 2: Các công trình nghiên cứu, bài viết về sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ các cấp, sự quản lý của Nhà nước về sự phát
triển của kinh tế nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Đặng Kim Oanh (2011), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chuyển

dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp (1996-2006), Luận án TS Lịch sử Đảng,
Trường ĐHKHXH&NV; Đào Thị Vân (2004), Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh
đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH giai đoạn 1997-2003,

2


Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn
Tuấn Thành (2009), Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo phát triển nông
nghiệp, nông thôn trong những năm 1997 – 2006, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử
Đảng, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận Chính trị; Bùi Quang
Thọ (2010), Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo thực hiện CNH – HĐH nông
nghiệp, nông thôn từ năm 1995 – 2005, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Học
viện Chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị Năm (2009),
Qúa trình thực hiện đường lối CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn của
Đảng ở tỉnh Hà Tây (1996 – 2000), Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), Hà Nội;
Tống Văn Chung (2011), Những nhân tố kinh tế xã hội tác động đến sự
chuyển cư của cư dân nông thôn trong quá trình CNH, HĐH, Luận án Tiến sĩ
Xã hội học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia
Hà Nội), Hà Nội….
Những luận văn, luận án trên đã nêu lên được sự lãnh đạo của Đảng đối
với việc phát triển kinh tế nông nghiệp ở các địa phương như: Thái Bình, Hà
Tây (cũ), Hưng Yên…nhưng chưa có công trình nào đề cập đến sự lãnh đạo
của Đảng bộ huyện Thái Thụy (Thái Bình) đối với việc phát triển kinh tế
nông nghiệp từ năm 2000 đến năm 2010.
Mặc dù vậy nhưng tất cả những công trình nghiên cứu trên là nguồn tài
liệu tham khảo vô cùng quý báu để phục vụ cho tôi nghiên cứu đề tài.
Cho đến nay, công trình viết về tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp
huyện Thái Thụy không nhiều, có một số công trình nghiên cứu dưới góc độ

lịch sử như: Lịch sử Đảng bộ huyện Thái Thụy (1927-2005), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội năm 2005; Nguyễn Thị Hằng (2005), Đảng bộ huyện Thái
Thụy lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp thời kỳ 1996-2004, Khóa luận
tốt nghiệp Lịch sử Đảng, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà
Nội;…. Tuy nhiên, các công trình này chỉ đề cập một cách tổng quát về tình

3


hình phát triển kinh tế nông nghiệp mà chưa đi sâu vào nghiên cứu, phân tích
cụ thể, chi tiết và có hệ thống về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Thái Thụy
phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện từ năm 2000 đến năm 2010.
Trên cơ sở tham khảo các công trình nghiên cứu, tôi đã bước đầu hiểu
được những chủ trương của Đảng, biết được vai trò của kinh tế nông nghiệp
trong nền kinh tế quốc dân cũng như thấy được sự vận dụng các chủ trương
đó của Đảng bộ huyện Thái Thụy trong vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp
của huyện từ năm 2000 đến năm 2010.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Thái Thụy trong việc
thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp, quá trình nhận thức nghị quyết của
Đảng vận dụng vào điều kiện cụ thể của địa phương và đưa ra những chủ
trương, đường lối, tổ chức thực hiện theo chủ trương của TW Đảng, Đảng bộ
tỉnh Thái Bình.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng bộ huyện. Đồng thời rút ra một số nhận xét và những bài học kinh
nghiệm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất nông nghiệp từ năm 2001
đến năm 2010.
3.2. Nhiệm vụ
- Tập hợp và hệ thống hóa lại các nguồn tư liệu liên quan đến đề tài.

- Mô tả một cách khách quan, toàn diện chủ trương, biện pháp và quá
trình chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện Thái Thụy
trong thời gian từ những năm 2000 đến năm 2010.
- Rút ra những nhận xét, đánh giá về thành tựu cũng như hạn chế trong
công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện
Thái Thụy trong những năm từ 2000 đến năm 2010. Đồng thời rút ra những
kinh nghiệm để phát triển kinh tế nông nghiệp trong những thời kỳ sau.

4


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện Thái Thụy về việc phát triển
kinh tế nông nghiệp của huyện từ năm 2000 đến năm 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt nội dung: Luận văn đi sâu nghiên cứu vai trò của Đảng bộ
huyện Thái Thụy trong quá trình vận dụng sáng tạo chủ trương phát triển
ngành kinh tế nông nghiệp vào tình hình cụ thể của địa phương.
Trên cơ sở đó, nêu lên những thành tựu đã đạt được, những hạn chế còn
gặp phải và bước đầu rút ra những kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
bộ huyện trong quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu từ năm 2000 đến năm 2010. Sỡ dĩ,
tôi lấy mốc thời gian trên là vì: Năm 2000 là Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ
XII đã đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI và đề ra
phương hướng “… đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH-HĐH, bảo đảm tốc độ tăng trưởng gấp 1,5 lần nhiệm kỳ vừa qua”, còn
năm 2010 là năm diễn ra Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI, đai hội đánh
giá tình hình và đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển KT-XH trong 5 năm
tiếp theo.

Về không gian: Luận văn tiến hành nghiên cứu trên địa bàn huyện
Thái Thụy.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu bao gồm:
+ Các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, các Nghị quyết
của Hội nghị TW. Chỉ thị của Bộ chính trị, các văn bản pháp luật của nhà
nước có liên quan đến kinh tế nông nghiệp.
+ Các Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình, các quyết định
của UNND tỉnh.
5


+ Nghị quyết cấp ủy, thường trực UBND, báo cáo, đề án sản xuất, số
liệu thống kê của Huyện ủy, phòng NN &PTNT huyện Thái Thụy, niên giám
thống kê huyện từ năm 2000 đến năm 2010.
+ Một số bài viết về kinh tế nông nghiệp tỉnh Thái Bình, huyện Thái Thụy.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành Luận văn, tác giả đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau: Phương pháp nghiên cứu lịch sử; phương pháp phân
tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp, thống kê, lập bảng biểu, khảo sát thực tế kết
hợp với phương pháp logic để làm sáng tỏ vấn đề có tính chất quy luật trong
sự vận động và phát triển của quá trình nhận thức của Đảng bộ huyện nhằm
tìm ra mối quan hệ giữa các sự kiện liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng bộ,
các hoạt động của quần chúng nhân dân, mối quan hệ nhân quả, rút ra những
kinh nghiệm lịch sử.
6. Đóng góp của luận văn
Thông qua quá trình nghiên cứu, luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là Đảng bộ cơ sở trong phát triển kinh tế nông
nghiệp. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm nâng cao hơn nữa vai

trò của Đảng bộ Thái Thụy đối với nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế
địa phương.
Luận văn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo khi nghiên cứu về lịch sử Đảng
bộ địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn được bố cục làm 3 chương:
Chương 1: Huyện Thái Thụy và một số vấn đề về kinh tế nông
nghiệp trước năm 2000
Chương 2: Quá trình lãnh đạo kinh tế nông nghiệp trong những
năm 2000 – 2010
Chương 3: Một số nhận xét và những kinh nghiệm lịch sử
6


Chương 1
HUYỆN THÁI THỤY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRƯỚC NĂM 2000
1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Thái Thụy
Điều kiện tự nhiên
Thái Thụy, một huyện ven biển của tỉnh Thái Bình, Thái Thụy không
chỉ biết đến bởi những đặc sản của vùng biển mà còn được nhắc đến với 2 từ
thân thuộc “quê lúa”. Trong chiến tranh, huyện Thái Thụy đã làm tốt vai trò
của hậu phương lớn, chi viện cho chiến trường miền Nam. Đạt thành tích cao
trong sản xuất nông nghiệp không những trong thời chiến, mà thời bình,
huyện Thái Thụy còn tiếp tục phát huy truyền thống quê lúa, đạt nhiều thành
tựu trong ngành sản xuất này.
Thái Thụy là huyện đồng bằng ven biển nằm ở vị trí Đông Bắc tỉnh
Thái Bình, có tọa độ địa lý từ 20027’ độ vĩ Bắc, 106025’-106050’ độ kinh đông.
Phía Đông giáp biển Đông, phía Nam và Đông Nam giáp huyện Tiền Hải,

phía Tây Nam giáp huyện Kiến Xương, phía Tây giáp huyện Đông Hưng
(Thái Bình), phía Tây Bắc giáp huyện Quỳnh Phụ. Về phía Bắc, Thái Thụy
giáp với các huyện của thành phố Hải Phòng là: huyện Vĩnh Bảo ở phía chính
Bắc (ranh giới là sông Hóa), huyện Tiên Lãng ở phía Đông Bắc (ranh giới là
đoạn cửa Thái Bình của sông Thái Bình). Phía Nam huyện có sông Trà Lý
chảy men theo ranh giới với huyện Tiền Hải, đổ ra cửa Trà Lý. Chính giữa
huyện có con sông Diêm Hộ chảy qua theo hướng Tây - Đông, đổ ra cửa
Diêm Hộ, chia huyện thành hai nửa gần tương đương về diện tích.
Diện tích tự nhiên của huyện là 256,83km², bao gồm 47 xã và 1 thị
trấn. Trung tâm của huyện là thị trấn Diêm Điền, Huyện có cảng Diêm
Điền mở ra biển Đông, hướng về miền Nam Trung Quốc và các nước
Đông Nam Á.

7


Với vị trí địa lý thuận lợi, hệ thống giao thông thủy bộ phát triển tạo
điều kiện cho huyện giao lưu, thông thương, trao đổi hàng hóa, thông tin kỹ
thuật, tiếp thu thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, có khả năng thu hút

8


vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho sự phát triển
kinh tế xã hội, phát triển nền kinh tế đa dạng và có sự kết hợp lẫn nhau.
Nằm trong vùng đồng bằng châu thổ được bồi đắp bởi phù sa của 2 con
sông lớn là sông: Thái Bình và Trà Lý, địa hình Thái Thụy có xu thế cao dần về
phía biển. Giữa lưu vực có vùng trũng tập trung là Thái Hồng – Đồng 80 và rải
rác những vùng đất bám hai bên sông Sinh, sông Phong Lẫm, sông Bà Đa (cao
độ 0,3-0,5m). Trên dải đất dọc 27km bờ biển có vùng cao điển hình: Thụy

Trường, Thụy Xuân, Thụy Hải, Thái Thượng, Thái Hòa, Thái Đô, Mỹ Lộc đặc
biệt là vùng Bích Du, Sơn Thọ (cao độ 1,5-2m) đây là những vùng đất cát pha
bạc màu, dinh dưỡng kém, độ chua mặn cao. Những vùng còn lại có địa hình
tương đối bằng phẳng (cao độ 1-1,2m) rất thuận lợi cho canh tác nông nghiệp.
Đất ở đây chủ yếu là đất phù sa màu mỡ, phân bố trên địa hình khá
bằng phẳng, thích hợp với việc trồng lúa nước, cây hoa màu, cây công nghiệp,
cho năng suất cao, có khả năng thâm canh, tăng vụ. Huyện có diện tích đất tự
nhiên rộng song lại có đặc điểm đất đai rất phức tạp và khó khăn hơn các
huyện nội đồng. Đất chua mặn nhiều, có thể chia ra thành 3 miền khác nhau:
khoảng 40% diện tích đất vùng ngọt, 35% diện tích đất vùng đệm, 25% diện
tích đất phèn mặn. Địa hình đất đai cao trũng khác nhau có độ chênh lệch lớn,
nên công tác thủy lợi tưới tiêu khó khăn. Sự khác biệt về chất đất của huyện,
không những là khó khăn, thử thách lớn đối với sản xuất nông nghiệp mà trái
lại, huyện đã biến những khó khăn đó thành động lực, phát triển ngành nông
nghiệp đa dạng với nhiều lĩnh vực, cây trồng, con vật nuôi mà không chỉ đơn
thuần là sản xuất lúa. Do vậy công tác khai phá và cải tạo vùng đất này để
phục vụ sản xuất nông nghiệp luôn là một yêu cầu cấp thiết, vô cùng quan
trọng tới sự phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện.
Với kiểu khí hậu đặc trưng của vùng nhiệt đới ven biền Bắc bộ, chịu
ảnh hưởng của gió mùa. Nhiệt độ Trung bình trong năm từ 22 – 240C, có 2
mùa rõ rệt: mùa nóng (tháng 4- tháng 10) nhiệt độ trung bình 260C, mùa lạnh
(tháng 11 – đến tháng 4 năm sau), nhiệt độ trung bình 210C.
9


Giờ nắng trung bình 1500 – 1800 giờ, tổng nhiệt lượng cả năm khoảng
1600 – 1800 KCL/cm3/năm. Độ ẩm trung bình 86-87%.
Lượng mưa trung bình 1788mm/năm, số ngày mưa trung bình 150
ngày/năm. Lượng mưa tập trung chủ yếu vào mùa hè (tháng 5- tháng 10),
chiếm 80% lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau,

trong đó tháng 2 và tháng 3 là thời kỳ mưa phùn ẩm ướt.
Gió thịnh hành ở đây là gió Đông Nam thổi từ tháng 4 đến tháng 9,
mang theo không khí nóng, ẩm; gió Bắc thổi từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau
mang theo không khí lạnh.
Mùa đông, hiện tượng sương mù, sương muối, thời tiết thất thường gây
tác hại xấu tới sản xuất nông nghiệp của huyện.
Tuy nhiên, hàng năm phải chịu ảnh hưởng từ 4 - 6 trận bão và áp thấp
nhiệt đới.
Nhìn chung, sự phân hóa khí hậu theo mùa đã tạo cho huyện có một
nền sản xuất nông nghiệp phong phú, đa dạng về cây trồng, vật nuôi và mùa
vụ, tạo điều kiện cho cây trồng, con vật nuôi phát triển tốt.
Bên cạnh đó, huyện còn có hệ thống sông ngòi chằng chịt với 3 con
sông chính là: Sông Hóa, sông Diêm Hộ và sông Trà Lý. Sông Hoá chảy qua
phía Bắc của huyện, là ranh giới tự nhiên giữa huyện Thái Thụy và huyện
Vĩnh Bảo - Hải Phòng đổ ra biển Ở cửa Thái Bình. Sông Diêm Hộ chảy từ
Tây sang Đông chia huyện thành 2 khu: Khu bắc và khu Nam, đổ ra biển ở
cửa Diêm Điền. Sông Trà Lý là chi lưu của sông Hồng, chạy qua phần phía
Nam huyện, phân định ranh giới giữa huyện Thái Thụy với huyện Tiền Hải và
Kiến Xương, đổ ra biển ở cửa Trà Lý. Ngoài ra huyện còn có các con sông
nhỏ như sông Hoàng Nguyên, sông chợ Cổng, sông Cái, sông Sinh… và hệ
thống kênh mương thủy lợi dày đặc.
Các hệ thống sông này có nước chảy quanh năm, rất thuận lợi cho
nguồn nước tưới và thau chua rửa mặn cho các cánh đồng trong huyện, tiêu
nước trong mùa mưa, tạo thuận lợi phát triển nông nghiệp. Mặt khác, lượng
10


phù sa đổ ra biển hàng năm ở cửa sông tạo ra bãi bồi rộng lớn ven biển là thế
mạnh cho phát triển nông-lâm-ngư nghiệp. Diện tích mặt nước ở ao, hồ, sông
là nơi nuôi trồng thủy hải sản.

Như vậy, có thể nói Thái Thụy là huyện có điều kiện tự nhiên khá điển
hình và thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên do có sự
phân hóa về khí hậu và chế độ thủy văn theo mùa đã ảnh hưởng không nhỏ
đến đời sống và sản xuất kinh tế nông nghiệp của nhân dân địa phương. Mùa
hè lượng mưa lớn, mực nước các sông lên cao trong khi các cửa sông đổ ra
biển có độ dốc nhỏ, nước tiêu chậm, gây úng lụt cục bộ ở một số diện tích
canh tác ở ngoài đê. Ảnh hưởng của nhiều trận bão trong năm gây thiệt hại
đến đời sống, sản xuất. Mùa đông, lượng mưa ít, mực nước sông thấp, nước
mặn theo thủy triều xâm lấn vào sâu trong nội địa gây ra tình trạng nhiễm
mặn, khó khăn cho việc canh tác, sản xuất nông nghiệp. Do đó, Đảng bộ và
các cấp lãnh đạo trong huyện cần có những chủ trương, chính sách và có
những biện pháp cụ thể, hữu hiệu để khai thác tốt các điều kiện tự nhiên phục
vụ đời sống sản xuất của nhân dân.
Bên cạnh những tiềm năng về điều kiện tự nhiên, Thái Thụy còn là
huyện có nguồn tài nguyên phong phú của vùng biển như:
Thái Thụy có 1.552,3 ha rừng ngập mặn, tập trung ở các xã ven biển,
rừng ở đây chủ yếu là rừng phi lao có tác dụng lớn trong phòng hộ đê biển,
điều hoà khí hậu, thuận lợi cho việc lắng đọng phù sa và có giá trị lớn về cảnh
quan môi trường, bảo tồn hệ sinh thái ngập nước ven biển. Đây là nơi thích
hợp cho việc nuôi ong, nuôi trồng thủy hải sản và cũng là nơi có ý nghĩa quan
trọng về mặt quốc phòng, an ninh.
Không những thế, với đường bờ biển dài 27km và hàng chục nghìn km2
lãnh hải, có 3 cửa sông lớn hàng năm đổ ra biển một lượng phù sa lớn. Vùng
biển Thái Thụy có một tiềm năng hải sản phong phú. Theo số liệu điều tra của
Viện nghiên cứu Hải sản 1, trong vùng biển Thái Thụy có ít nhất 46 loài cá có
giá trị kinh tế cao, 10 loài tôm, 5 loài mực, ....vv. Bãi biển ven cửa sông lớn,
vùng nước lợ trong đê có nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao như: tôm, cua,
11



cá, rong câu,.... đang được quan tâm phát triển. Tài nguyên biển có ý nghĩa rất
lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội của huyện vì vậy cần có chính sách đầu
tư, sử dụng, khai thác hợp lý và có hiệu quả nguồn tài nguyên này.
Ngoài ra, ở huyện còn có mỏ dầu khí, hiện đang được thăm dò và khai
thác tại xã Thụy Xuân, Thụy Trường; huyện cũng đang đầu tư xây dựng nhà
máy nhiệt điện lớn nhất miền bắc đó là nhà máy nhiệt điện Mỹ Lộc (đặt tại xã
Mỹ Lộc), xây dựng cảng Trà lý để mở rộng giao lưu và buôn bán. Bên cạnh
đó huyện còn có khu rừng sinh thái ngập mặn ven biển ở xã Thái Đô – Thái
Thượng đây được coi là khu dự trữ sinh quyển thế giới là điều kiện vô cùng
thuận lợi để huyện phát triển ngành du lịch.
Là huyện có nhiều điều kiện thuận lợi về điều kiên tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên, đây là ưu đãi, đồng thời cũng là thế mạnh để huyện phát
triển nền kinh tế nói chung và phát triển kinh tế nông nghiệp nói riêng, tuy
vậy cũng có không ít khó khăn và thách thức đòi hỏi huyện cần có những chủ
trương, biện pháp thích hợp để phát huy tối đa mọi nguồn lực phát triển kinh
tế của huyện.
Điều kiện kinh tế - xã hội
Thái Thụy – một địa danh lịch sử đã có từ lâu đời, gắn liền với lịch sử
của đất nước, để có tên gọi Thái Thụy ngày hôm nay là cả một quá trình thay
đổi về tên tuổi và địa giới hành chính qua các triều đại trong lịch sử. Từ sau
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công do yêu cầu xây dựng địa bàn hành
chính cho phù hợp với sự chỉ đạo chung của nhà nước, từ năm 1946 đến trước
năm 1969, huyện đã nhiều lần thay đổi về địa giới. Đến cuối năm 1969 huyện
Thái Thụy đã ra đời trên cơ sở sự sáp nhập hai huyện Thái Ninh và Thụy Anh.
Thái Thụy là miền đất giàu truyền thống yêu nước, trong 2 cuộc kháng
chiến vĩ đại, Thái Thụy là hậu phương lớn, chi viện sức người, sức của cho
tiền tuyến với khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người”… Là quê hương anh hùng cách mạng như Nguyễn Đức Cảnh, Tạ
Quốc Luật, Bùi Quang Thận, Nguyễn Bá Lại… Nơi đây còn được biết đến
12



với truyền thống học hành khoa bảng đáng tự hào như: Phạm Công Thế (Phúc
Khê – Thái Phúc ngày nay) là người khai khoa đầu tiên, đỗ tiến sĩ khoa Đinh
Mùi đời Lê Dụ Tông; 2 anh em họ Quách (Phúc Khê – Thái Phúc) được xếp
vào hạng 2 trong 18 người phò tá có công lao tài đức thời Lê Sơ…
Dân số và nguồn nhân lực
Thái Thụy là huyện đồng bằng ven biển cư dân sống tập trung trong
huyện ngày một đông. Theo kết quả điều tra năm 2010, dân số trên toàn
huyện Thái Thụy có 274.054 người. Mật độ trung bình là 1065 người/km2. Số
hộ trên địa bàn là 73.206 hộ. Tỷ lệ sinh những năm gần đây bình quân 1,23%.
Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên là 0,65%. Số người trong độ tuổi lao động
khoảng 125.000 người, trong đó lao động nông – lâm – ngư nghiệp chiếm
trên 70% dân số của huyện [23; 1]. Với nguồn lao động dồi dào, dân số trẻ,
đây là những lợi thế lớn về nguồn nhân lực cho phát triển của huyện.
Người dân Thái Thụy cần cù, chịu khó có kinh nghiệm trong thâm
canh, tăng vụ lại năng động, sáng tạo, có khả năng tiếp thu và mạnh dạn áp
dụng KH-KT vào sản xuất nông nghiệp. Đây là điều kiện thuận lợi để huyện
phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH. Tuy nhiên, nguồn lao
động còn nhiều hạn chế, chủ yếu là lao động phổ thông, trình độ thấp, phân
công lao động giữa các ngành, các địa phương không hợp lý; mặt khác do tính
chất thời vụ trong sản xuất nông nghiệp nên tình trạng thiếu việc làm là một
sức ép lớn. Do vậy trong tương lai, để đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH nông
nghiệp, nông thôn thì việc đào tạo, nâng cao chất lượng lao động, phân bố lại
lao động là điều cần thiết.
Là huyện “đất chật người đông” cũng là một sức ép lớn đới với sản xuất
nông nghiệp, diện tích đất theo đầu người thấp. Các ngành kinh tế khác còn
kém phát triển, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh dẫn đến đất nông nghiệp ngày
càng thu hẹp, gây khó khăn trong giải quyết việc làm, do nhu cầu về việc làm
của người lao động ngày càng tăng dẫn đến lao động đi làm việc tự do ở các

tỉnh ngày càng nhiều. Do vậy, vấn đề đặt ra làm thế nào để tăng năng suất, sản
13


lượng lương thực, giải quyết việc làm cho người lao động là điều cấp thiết, đòi
hỏi Đảng bộ huyện phải có chủ trương, giải pháp đúng đắn, phù hợp để lãnh
đạo phát triển kinh tế cũng như kinh tế ngành nông nghiệp của huyện ngày
càng phát triển.
Cơ sở vật chất – cơ sở hạ tầng
Huyện Thái Thụy có mạng lưới giao thông rộng khắp, thuận lợi từ các
vùng dân cư đến trung tâm xã, thị trấn của huyện với các đường quốc lộ, tỉnh
lộ, huyện lộ, đường liên xã, đường liên thôn tạo thành hệ thống giao thông
liên hoàng, thuận tiện cho việc giao lưu, thông thương buôn bán.
Với hệ thống mạng lưới giao thông đường bộ khá hoàn thiện, bao gồm
18km đường quốc lộ 39; 64,2 km đường tỉnh lộ nối liền các huyện, các tỉnh
phía Bắc, phía Tây, phía Nam và ra ven biển; cùng với 76,2 km đường huyện,
738,7 km đường xã thôn. Chất lượng đường tốt, được rải nhựa hoặc bê tông
hóa. Trên địa bàn huyện đường thủy nội địa qua 3 sông: Sông Trà Lý, sông
Diêm và sông Hóa với tổng chiều dài 112km. Bên cạnh đó có đường bờ biển
dài 27km lợi thế phát triển vận tải biển cũng rất lớn thông qua cảng Diêm
Điền, là nơi trung chuyển hàng hóa, xuất – nhập khẩu của huyện.
Hệ thống thủy lợi là công tác rất quan trọng trong quá trình sản xuất,
cải tạo đất đai của huyện. Đến nay huyện đã có hệ thống kênh mương khá
hoàn chỉnh, chủ động tiêu nước cho hơn 25.000 ha đất tự nhiên, tưới tiêu chủ
động cho hơn 19.000 ha đất canh tác, thau chua rửa mặn cho 4000 ha. Sông
trục chính của huyện là 150km, kênh cấp I: 374km, kênh cấp II: 456km, kênh
cấp III; 808 km; toàn huyện có 228 trạm bơm, kênh tưới tổng chiều dài
612,516 km, đã kiên cố được 98,430 km. Sông dẫn nội đồng có tổng chiều dài
là 678 km; cầu giao thông nội đồng, tổng số cầu là 508 cái; cống nội đồng có
tổng số là 1.011 cái; đường giao thông nội đồng có tổng chiều dài là 740 km,

đã cứng hóa được 70 km.
Hệ thống thông tin liên lạc tương đối hoàn chỉnh, từng bước được nâng
cấp. Hệ thống các đài phát thanh huyện, xã, thôn đảm bảo cung cấp đầy đủ
14


những thông tin về tình hình, diễn biến của sản xuất nông nghiệp đến với
nhân dân. Mạng lưới điện được hoàn chỉnh, cung cấp điện sinh hoạt, điện cho
sản xuất đến tất cả các xã, thôn, xóm trong huyện….
Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất ngày càng hoàn thiện là một điều kiện
vô cùng thuận lợi để huyện tập trung phát triển kinh tế nói chung và kinh tế
nông nghiệp nói riêng.
Như vậy, tiềm năng và thế mạnh để huyện phát triển sản xuất nông
nghiệp là rất lớn. Đó là tiền đề quan trọng để huyện chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH-HĐH nhưng cũng gây ra những
khó khăn, trở ngại, ảnh hưởng tới sản xuất. Do vậy vấn đề đặt ra là huyện
phải có những chủ trương, biện pháp phù hợp với tình hình của huyện để lãnh
đạo phát kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH, gắn với nền kinh tế thị
trường, đưa huyện trở thành huyện “gương mẫu về mọi mặt”.
1.2. Thực trạng kinh tế nông nghiệp huyện Thái Thụy trước
năm 2000
1.2.1. Vài nét về chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp
* Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng Cộng sản
Việt Nam
Đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng KTXH trầm trọng. Tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã được
triệu tập, Đại hội đã chỉ ra những sai lầm, thiếu sót và đưa ra đường lối đổi
mới toàn diện nền kinh tế, trong đó có kinh tế nông nghiệp. Với những chủ
trương mới trong sản xuất nông nghiệp vào đầu năm 1988, Quốc hội thông
qua Luật đất đai, đánh dấu một bước phát triển mới trong sản xuất nông
nghiệp: Nhà nước đã giao quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài cho các hộ xã

viên, cho phép các hộ xã viên có thể chuyển nhượng sang bán thành quả lao
động và kết quả đầu tư trên mảnh đất đã giao khoán; nghiêm cấm việc mua
bán ruộng đất trái phép.

15


Ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10 “về đổi mới quản lý
kinh tế nông nghiệp” với nội dung sắp xếp và tổ chức hoạt động sản xuất
nông nghiệp, củng cố và mở rộng quan hệ sản xuất CNXH, sử dụng đúng đắn
các thành phần kinh tế. Chỉ thị này đã đánh dấu bước ngoặt cho sự phát triển
kinh tế nông nghiệp.
Vào tháng 6/1991, Đại hội đại biểu toàn quốc được triệu tập. Trong Đại
hội, Đảng chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, tiếp tục đổi mới kinh tế và khẳng định vai trò của ban quản trị HTX
trong việc quản lý, điều hành sản xuất và tổ chức dịch vụ. Tháng 6/1993, Hội
nghị lần 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII), đã ra Nghị
quyết về “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế xã hội nông thôn”. Trung
ương đã đánh giá thực trạng nông nghiệp nước ta, xác định mục tiêu, quan
điểm đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nước ta từ năm 1993
đến năm 2000. Trên cơ sở đó, đề ra phương hướng và giải pháp phát triển
kinh tế - xã hội nông thôn dựa trên những quan điểm chủ yếu là: Đổi mới cơ
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng coi trọng đúng mức sản xuất lương thực,
tăng nhanh sản lượng, năng suất, nâng cao chất lượng sản xuất và chế biến
lương thực. Tăng tỷ trọng chăn nuôi trong giá trị sản phẩm nông nghiệp.
Thâm canh mở rộng diện tích một số cây công nghiệp, mở rộng phát triển cây
ăn quả và xây dựng thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn,…. Thực hiện
chính sách giao quyền tự chủ ruộng đất cho nông dân.
Tháng 6-1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã họp và đánh
giá khái quát những thành tựu của 10 năm đổi mới: “…thế và lực của đất

nước đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Nước ta đã thoát khỏi cuộc khủng hoàng
KT-XH nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững
chắc xong đã tạo tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy
mạnh CNH-HĐH đất nước” [39; 12].
Đại hội VIII cũng đề ra nội dung cơ bản của CNH – HĐH trong những
năm còn lại của thập kỷ 90 là: “Đặc biệt coi trọng CNH – HĐH nông nghiệp
và nông thôn, phát triển toàn diện nông – lâm – ngư nghiệp gắn với công
16


nghiệp chế biến nông – lâm – thủy sản; phát triển hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu” [39; 86]. Đại hội cũng chỉ rõ: Phát triển toàn diện nông – lâm – ngư
nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây
trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hóa nhiều về số lượng, tốt về chất lượng,
đảm bảo an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công
nghiệp chế biến và của thị trường trong và ngoài nước. Đảng đã đưa ra
phương hướng phát triển kinh tế nông nghiệp của 5 năm 1996 - 2000 là “phát
triển nông nghiệp toàn diện hướng vào bảo đảm an toàn lương thực quốc gia
trong mọi tình huống…. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông
thôn có hiệu quả. Trên cơ sở bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực, chủ yếu
là lúa, mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả tăng nhanh đàn
gia súc, gia cầm, phát triển kinh tế biển,…., tăng nhanh sản lượng hàng hóa
gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, mở rộng thị trường nông thôn,
tăng thu nhập của nông dân. Đẩy mạnh việc xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ
tầng KT-XH” [39; 174-175].
Ngày 17/10/1998, Hội nghị TW 6 (lần 1) khóa VIII đã họp bàn về:
Nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1999 và vấn đề phát triển nông nghiệp, nông
thôn. Hội nghị đã khẳng định: “Tập trung cao hơn nữa sức cho nhiệm vụ phát
triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng CNH – HĐH, làm cơ sở
chắc cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trong mọi tình huống, ưu

tiên phát triển phục vụ nông nghiệp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới cơ chế các
ngành nông nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn, tăng nhanh khả năng cạnh tranh
của sản phẩm” [42; 4].
Ngày 10/11/1998, Bộ Chính trị khóa VIII đã ra Nghị quyết số 06NQ/TW “Về một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn”. Nghị quyết
đã nêu rõ quan điểm của Đảng về phát triển nông thôn trong giai đoạn mới là:
Coi trọng thực hiện CNH – HĐH trong phát triển nông nghiệp, đưa nông
nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng
trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị xã hội,

17


củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức, đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn phát triển nông nghiệp với
công nghiệp chế biến, gắn sản xuất với thị trường để hình thành sự liên kết
nông – công nghiệp – dịch vụ và thị trường ngay trên địa bàn nông thôn và
trên phạm vi cả nước; gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn
mới; gắn công nghiệp hóa với thực hiện dân chủ hóa và nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực ở nông thôn.
Phát huy lợi thế của từng vùng và cả nước, áp dụng nhanh các tiến bộ
khoa học công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng, đáp ứng
ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp,
hướng mạnh về xuất khẩu” [43; 2-3]. Nghị quyết cũng nêu rõ: phát triển nông
nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế HTX dần dần trở thành nền tảng. Tiếp tục phát triển hình thức
kinh tế HTX, các loại hình HTX, từng bước xây dựng HTX nông nghiệp.
Ngày 15/6/2000, Chính phủ ban hành Nghị quyết 09/2000/NQ-CP “về
một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp” nhằm phát huy lợi thế to lớn của nền nông nghiệp nước ta

về tiềm năng thiên nhiên, truyền thống làm nông nghiệp từ lâu đời và thực hiện
mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp mạnh, phát triển bền vững, áp dụng
công nghệ mới, từng bước HĐH, vươn lên trở thành một nền nông nghiệp với
những ngành sản xuất hàng hóa lớn. Nghị quyết đã thể hiện sự đổi mới tư duy
theo hướng sản xuất hàng hóa, lấy hiệu quả làm mục tiêu, khác hẳn với tư duy
tự túc lương thực bằng mọi giá, kể cả cấm chuyển đất lúa sang trồng các loại
cây khác hoặc chạy theo năng suất cao, sản lượng nhiều mà không quan tâm
đến chất lượng, giá cả nông sản và sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
* Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Bình
Quán triệt chủ trương của TW Đảng, với mong muốn sớm đưa Thái
Bình thoát khỏi khủng hoảng Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII (10/1986)
18


×