Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

đảng bộ huyện mỹ đức lãnh đạo kinh tế nông nghiệp tu nam 1996 den nam 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 139 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------

NGUYỄN THỊ THOA

ĐẢNG BỘ HUYỆN MỸ ĐỨC (TỈNH HÀ TÂY)
LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2008

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI – 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------

NGUYỄN THỊ THOA

ĐẢNG BỘ HUYỆN MỸ ĐỨC (TỈNH HÀ TÂY)
LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2008

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ



Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS Hoàng Hồng

HÀ NỘI – 2012

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH

Ban Chấp hành

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CTQG

Chính trị Quốc gia

CNH – HĐH

Công nghiệp hoá - hiện đại hoá

ĐCSVN

Đảng Cộng sản Việt Nam


ĐHKHXH & NV

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

HĐND

Hội đồng nhân dân

HTX

Hợp tác xã

KHXH

Khoa học xã hội

Nxb

Nhà xuất bản

NN & PTNT

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

TW

Trung ương

UBND


Uỷ ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

3


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Tên các bảng

Trang

Bảng 1.1. Cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp

35

Bảng 2.1. Tổng hợp diện tích chuyển đổi cơ cấu cây trồng – vật

64

nuôi huyện Mỹ Đức
Bảng 2.2. Kết quả dồn ô đổi thửa của huyện Mỹ Đức

79

Bảng 2.3. Tổng hợp trang trại trên địa bàn huyện Mỹ Đức


82

4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 3
Chương 1: ĐẢNG BỘ HUYỆN MỸ ĐỨC LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP GIAI ĐOẠN 1996 – 2000. ......................................................... 14
1.1. Tình hình kinh tế nông nghiệp huyện Mỹ Đức trước năm 1996 ............ 14
1.1.1. Các điều kiện phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện Mỹ Đức ...... 14
1.1.2. Thực trạng kinh tế nông nghiệp huyện Mỹ Đức trước năm 1996 ....... 22
1.2. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện Mỹ Đức
giai đoạn 1996 - 2000 .................................................................................. 27
1.3. Quá trình chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ
huyện Mỹ Đức giai đoạn 1996 - 2000 ......................................................... 34
1.3.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ........................................... 34
1.3.2. Tiếp tục đổi mới mô hình quản lý kinh tế nông nghiệp ...................... 43
1.3.3. Thực hiện chính sách khuyến nông, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật
.................................................................................................................... 48
1.3.4. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn ......................... 52
Chương 2: ĐẢNG BỘ HUYỆN MỸ ĐỨC LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 2001 ĐẾN THÁNG 7 – 2008. ..... 56
2.1. Chủ trương của Đảng bộ huyện Mỹ Đức về phát triển kinh tế nông
nghiệp ......................................................................................................... 56
2.1.1. Đường lối chung của Đảng và chủ trương phát triển kinh tế nông
nghiệp của Đảng bộ tỉnh Hà Tây ................................................................. 56
2.1.2. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện Mỹ Đức
.................................................................................................................... 60

2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp của
Đảng bộ huyện Mỹ Đức. ............................................................................. 63
2.2.1. Chỉ đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ............... 63
2.2.2. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương dồn điền đổi thửa ............................ 79

5


2.2.3. Chỉ đạo phát triển kinh tế trang trại. .................................................. 87
2.2.4. Gắn phát triển kinh tế nông nghiệp với xây dựng thôn mới. .............. 93
Chương 3: NHẬN XÉT CHUNG VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM CHỦ
YẾU .......................................................................................................... 105
3.1. Nhận xét chung................................................................................... 105
3.1.1. Ưu điểm........................................................................................... 105
3.1.2. Hạn chế ........................................................................................... 115
3.2. Những kinh nghiệm chủ yếu .............................................................. 118
KẾT LUẬN .............................................................................................. 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 129

6


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhiều quốc gia. Đối với Việt Nam, việc đầu tư phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn càng có vị trí quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối
với sự phát triển kinh tế đất nước.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của kinh tế nông nghiệp, Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm đổi mới chính sách phát triển

nông nghiệp. Trong thời kỳ đổi mới, phát triển nông nghiệp luôn được Đảng
và Nhà nước xem “là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu”. Đặc
biệt trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, được Đảng
xác định khởi điểm là từ năm 1996, cần phải tiếp tục đổi mới đường lối phát
triển nông nghiệp theo hướng phát triển nhanh và bền vững, đáp ứng xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế. Trải qua quá trình hoàn thiện và đổi mới từng bước,
nền nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần đưa
nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tạo
tiền đề và cơ sở bước đầu cho công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Mỹ Đức là một huyện nông nghiệp thuộc tỉnh Hà Tây (cũ). Từ khi
thành lập đến nay, Đảng bộ Mỹ Đức đã lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến
lên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Những thành
quả mà Mỹ Đức đạt được hôm nay là một minh chứng về vai trò lãnh đạo
toàn diện của Đảng bộ Mỹ Đức, đặc biệt trong xây dựng và phát triển kinh tế.
Nằm trong bối cảnh chung của cả nước, những năm trước đổi mới, Mỹ
Đức lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội: lương thực, thực phẩm thiếu thốn
không đáp ứng đủ nhu cầu của nhân dân, sản xuất đình đốn, hàng hóa khan
hiếm, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.

7


Vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới do Đại hội VI (1986) của Đảng
khởi xướng, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã tích cực triển khai cụ thể hóa thành
các chương trình, mục tiêu cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế địa phương,
bước đầu tháo gỡ được những khó khăn trong phát triển kinh tế. Mặc dù còn
nhiều những hạn chế, nhưng công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế nông
nghiệp đã góp phần đưa Mỹ Đức từng bước khởi sắc và phát triển. Thu nhập
và đời sống của nông dân được cải thiện và ngày càng nâng cao.
Tuy nhiên, một loạt vấn đề kinh tế đang nảy sinh đòi hỏi Đảng bộ Mỹ

Đức phải tiếp tục có những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa năng lực lãnh
đạo, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Nhất là trong điều kiện hiện nay, Hà Nội mở rộng địa giới hành chính. Tỉnh
Hà Tây sáp nhập vào thành phố Hà Nội (01/08/2008). Nông nghiệp huyện Mỹ
Đức nói riêng và toàn tỉnh Hà Tây nói chung đang đứng trước những cơ hội
và thách thức mới. Về cơ hội: nông nghiệp Mỹ Đức sẽ có thêm nhiều điều
kiện để phát triển, mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, thúc đẩy đổi mới
công nghệ sản xuất hàng hóa, chế biến nông sản, thu hút nhiều vốn đầu tư. Về
thách thức: nông nghiệp Mỹ Đức còn hạn chế, lạc hậu cả về cơ sở vật chất kỹ
thuật lẫn cơ chế quản lý, điều kiện thời tiết thiên tai còn có nhiều ảnh hưởng
xấu…
Trước đây, khi làm khóa luận cử nhân, tác giả đã bước đầu nghiên cứu
đề tài Đảng bộ huyện Mỹ Đức (tỉnh Hà Tây) lãnh đạo phát triển kinh tế nông
nghiệp từ năm 1996 – 2006. Trong bối cảnh mới, khi Mỹ Đức đã sáp nhập
vào thành phố Hà Nội, tác giả thiết nghĩ, cần phải tổng kết, đánh giá một cách
khách quan khoa học vai trò của đảng bộ địa phương trong việc thực hiện
đường lối phát triển nông nghiệp của Đảng. Từ đó thấy được thực trạng nông
nghiệp của Mỹ Đức trong những năm qua và những cơ hội, thách thức đối với
nông nghiệp địa phương trong tình hình mới; trên cơ sở đó chỉ ra được thành
tựu, hạn chế và những bài học kinh nghiệm nhằm đẩy mạnh sự nghiệp phát

8


triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH của huyện Mỹ Đức, nay thuộc Hà
Nội, trong những năm tới là việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan
trọng. Tác giả quyết định tiếp tục nghiên cứu vấn đề Đảng bộ huyện Mỹ Đức
lãnh đạo kinh tế nông nghiệp trong khoảng thời gian từ năm 1996 đến trước
khi tỉnh Hà Tây sáp nhập vào thành phố Hà Nội (tháng 7/2008), phát triển từ
khóa luận cử nhân lên luận văn thạc sĩ.

Với tất cả những lí do trên, cùng với sự gợi ý của giáo viên hướng dẫn,
tác giả chọn đề tài: “Đảng bộ huyện Mỹ Đức (tỉnh Hà Tây) lãnh đạo kinh tế
nông nghiệp từ năm 1996 đến năm 2008” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đối với nước ta, kinh tế nông nghiệp là ngành kinh tế có vị trí quan
trọng trong quá trình cách mạng XHCN cũng như trong sự nghiệp đổi mới.
Đảng ta cũng xác định chúng ta phải tiến hành CNH – HĐH đất nước từ
ngành kinh tế này. Do đó, đường lối, chủ trương của Đảng trên mặt trận nông
nghiệp là đề tài có tính chất chiến lược, được các nhà lý luận, các nhà lãnh
đạo, các ngành chức năng và nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trên phạm vi cả
nước đã có nhiều công trình của các nhà khoa học đề cập đến vấn đề ở những
góc độ khác nhau. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu như:
Các cuốn sách: “Một số vấn đề kinh tế HTX nông nghiệp Việt Nam”,
tập thể tác giả Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội, 1991; “Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, thành tựu,
vấn đề và triển vọng”, Nguyễn Văn Bính (chủ biên), Nxb Thống kê, Hà Nội,
1995; “Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam”, Trương Thị
Tiến, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999; “Thực trạng nông nghiệp, nông
thôn và nông dân ở nước ta”, Nguyễn Sinh Cúc, Nxb Thống kê, Hà Nội,
1999; “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam”, Lê Huy Ngọ (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002;

9


“Nông nghiệp nông thôn thời kỳ đổi mới 1986 – 2002” của Nguyễn Sinh Cúc,
Nxb Thống kê, Hà Nội, 2003; “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt
Nam” của Bùi Tất Thắng (chủ biên), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006…
Một số Khóa luận cử nhân, Luận văn thạc sỹ, Luận án tiến sỹ như:

“Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn từ 1991 – 2002”, Lê Quang Phi, Luận án tiến sĩ Lịch
sử, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2006; “Đường lối phát triển nông
nghiệp nông thôn của Đảng trong những năm 1986 – 2006”, Lê Thị Thu
Hương, Luận văn thạc sỹ Lịch sử, Trường ĐHKHXH và NV, Hà Nội, 2008;
“Quá trình thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn của Đảng ở tỉnh Hà Tây (1996 – 2005)”, Nguyễn Thị Năm, Luận
văn thạc sỹ Lịch sử, Trường ĐHKHXH và NV, Hà Nội, 2009;…
Cùng một số bài viết, một số bài nghiên cứu như: “Chính sách và giải
pháp cho nông dân nông nghiệp và nông thôn hiện nay” của Nguyễn Thanh
Bạch, Tạp chí Kinh tế, số 248, tháng 1 – 1999; “Cơ cấu nông nghiệp Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới” của Nguyễn Thị Hồng Phấn, Tạp chí Kinh tế, số
262, tháng 1 – 2001; “Định hướng và phát triển nền nông nghiệp hàng hoá”
của Phan Sỹ Mẫn, Tạp chí Kinh tế, số 262, tháng 1 – 2001…
Nhìn chung các công trình này chủ yếu đề cập, nghiên cứu về thực
trạng tổ chức HTX, kinh nghiệm tổ chức và những giải pháp nhằm đẩy mạnh
phát triển các hình thức hợp tác của hộ nông dân. Nghiên cứu cơ chế quản lý
nông nghiệp, đầu tư cơ sở vật chất tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp,
nông thôn nước ta phát triển. Nghiên cứu con đường CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn từ đó đề ra những phương hướng và giải pháp đối với
những vấn đề đặt ra trong quá trình CNH, HĐH từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm cho sự phát triển của giai đoạn sau. Các công trình nghiên cứu trên
đây chủ yếu đề cập đến vấn đề khoa học kinh tế mà ít đề cập đến góc độ lịch
sử.

10


Riêng về huyện Mỹ Đức (Hà Tây) cũng có một số bài viết đề cập như:
“Đảng bộ Mỹ Đức lãnh đạo công cuộc đổi mới giai đoạn 1991 – 2000”,

Nguyễn Quang Thục, Khoá luận tốt nghiệp cử nhân Lịch sử, trường
ĐHKHXH và NV, Hà Nội, 2001; “Mỹ Đức trên con đường hội nhập”, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2007…Tuy nhiên đó chỉ là những nghiên cứu,
tìm hiểu mang tính chất kinh tế, lịch sử mà chưa đề cập đến vai trò và quá
trình lãnh đạo của Đảng bộ Mỹ Đức đối với những thành tựu trong phát triển
kinh tế nông nghiệp. Hiện nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về Đảng bộ
huyện Mỹ Đức lãnh đạo kinh tế nông nghiệp trong những năm 1996 – 2008.
Song, đây là những tài liệu quan trọng để tác giả tham khảo, tiếp cận các sự
kiện lịch sử, là cơ sở để phân tích, đánh giá những thành tựu, hạn chế của
Đảng bộ huyện Mỹ Đức trong quá trình lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ
trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
- Khôi phục chân thực quá trình Đảng bộ huyện Mỹ Đức lãnh đạo kinh
tế nông nghiệp từ năm 1996 đến năm 2008.
- Nêu được những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế cần
khắc phục và rút ra một số bài học kinh nghiệm phục vụ phát triển kinh tế
nông nghiệp của huyện hiện nay.
Nhiệm vụ
- Tập hợp và lựa chọn các tài liệu lịch sử liên quan đến đề tài.
- Từ những thông tin lịch sử khai thác được, kết cấu và phân chia giai
đoạn để làm sáng rõ quá trình lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ huyện Mỹ
Đức trong lãnh đạo kinh tế nông nghiệp những năm từ năm 1996 đến năm
2008.

11


- Bước đầu phân tích, tổng kết, đánh giá và rút ra những kinh nghiệm từ
quá trình đó.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chủ trương và các biện pháp trong quá trình
chỉ đạo thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện Mỹ Đức
từ năm 1996 đến năm 2008.
Phạm vi nghiên cứu: Các vấn đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới
tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp ở huyện Mỹ Đức từ năm 1996 đến
tháng 7 – 2008 (trước khi tỉnh Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội); trọng tâm
nghiên cứu là: chủ trương và các biện pháp của Đảng bộ huyện Mỹ Đức chỉ
đạo phát triển nông nghiệp ở địa phương.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu
- Các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ VI, VII, VIII, IX, X; Các Nghị quyết của hội nghị Trung ương và
các Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng liên quan đến kinh tế nông
nghiệp.
- Các Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo, Thông tri của Tỉnh uỷ Hà Tây về
phát triển kinh tế nông nghiệp.
- Các Nghị quyết, Chỉ thị, Báo cáo tổng kết về tình hình kinh tế nông
nghiệp của Huyện uỷ, UBND và một số ban ngành của huyện Mỹ Đức.
- Một số sách và công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử để mô tả, trình bày quá trình
Đảng bộ huyện Mỹ Đức lãnh đạo kinh tế nông nghiệp trong những năm 19962008 và phương pháp logic để tổng hợp, khái quát và nhận xét đánh giá quá

12


trình đó. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh để làm rõ các
sự kiện lịch sử.
6. Đóng góp của luận văn

- Góp phần tái tạo lịch sử lãnh đạo phát triển kinh tế của Đảng bộ
huyện Mỹ Đức.
- Khẳng định thành tựu, hạn chế và bước đầu rút ra những bài học kinh
nghiệm phục vụ quá trình lãnh đạo kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện
Mỹ Đức trong những năm tiếp theo.
- Là tài liệu tham khảo để nghiên cứu và giảng dạy lịch sử địa phương.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, cấu trúc luận văn gồm
có 3 chương:
Chương 1: Đảng bộ huyện Mỹ Đức lãnh đạo kinh tế nông nghiệp giai đoạn
1996 – 2000.
Chương 2: Đảng bộ huyện Mỹ Đức lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp
từ năm 2001 đến tháng 7 - 2008.
Chương 3: Nhận xét chung và những kinh nghiệm chủ yếu.

13


Chương 1:
ĐẢNG BỘ HUYỆN MỸ ĐỨC LÃNH ĐẠO KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
GIAI ĐOẠN 1996 – 2000.
1.1. Tình hình kinh tế nông nghiệp huyện Mỹ Đức trước năm 1996
1.1.1. Các điều kiện phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện Mỹ
Đức
* Điều kiện tự nhiên:
Vị trí địa lý
Mỹ Đức là huyện nằm phía Tây Nam tỉnh Hà Tây, trung tâm huyện lỵ
cách thị xã Hà Đông 38 km, cách Thủ đô Hà Nội 54 km về phía Tây Nam.
Toạ độ địa lý từ 20035’40’’ đến 20043’40’’ vỹ độ Bắc và từ 105038’44’’ đến
105049’33’’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện Chương Mỹ (Hà Tây); phía

Đông có dòng sông Đáy là ranh giới tự nhiên với huyện Ứng Hoà (Hà Tây);
phía Tây giáp huyện Lương Sơn, huyện Kim Bôi và huyện Lạc Thuỷ (Hoà
Bình); phía Nam giáp huyện Kim Bảng (Hà Nam).
Tổng diện tích tự nhiên của huyện Mỹ Đức là 23031,21 ha; trong đó
đất nông nghiệp là 13411,26 ha, chiếm 58,23% tổng diện tích đất tự nhiên.
Toàn huyện có 22 xã, trong đó có 1 thị trấn (thị trấn Đại Nghĩa) và 1 xã miền
núi, với 38.686 hộ gia đình sinh sống ở 112 làng và 80 cơ quan, đơn vị doanh
nghiệp đóng trên địa bàn huyện.
Địa hình
Mỹ Đức nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, nhưng cũng
là khu vực chuyển tiếp giữa đồng bằng và trung du. Huyện có 3 dạng địa hình
chính:
- Địa hình núi đá xen kẽ với các khu vực trũng bao gồm 10 xã phía tây
huyện. Độ cao trung bình so với mặt nước biển của dãy núi đá phía tây huyện
từ 150m đến hơn 300m. Do phần lớn đá Kast bị nước xâm thực qua quá trình

14


kiến tạo lâu dài nên khu vực này hình thành nhiều hang động tự nhiên đẹp, giá
trị du lịch và lịch sử rất lớn.
- Địa hình đồng bằng gồm 12 xã, thị trấn ven sông Đáy. Độ cao địa
hình trung bình dao động trong khoảng từ 3,8m đến 7m so với mặt nước biển.
Địa hình khá bằng phẳng và hơi dốc theo hướng từ Đông sang Tây, rất thuận
lợi cho việc xây dựng các công trình thuỷ lợi tự chảy dùng nguồn nước sông
Đáy tưới cho các cánh đồng lúa thâm canh. Đồng thời có thế mạnh phát triển
về hoa màu và các cây công nghiệp như ngô, khoai, đậu, lạc vừng, dâu tằm,
trồng cây ăn quả.
- Phần tiếp giáp giữa các dãy núi phía tây và đồng bằng phía đông là
vùng chiêm trũng. Vùng này có nhiều khu vực độ cao địa hình thấp tạo thành

các hồ chứa nước như hồ Quan Sơn, hồ Tuy Lai, hồ Cầu Dậm, Bán Nguyệt,
Ngái Lạng, Đồng Suối với diện tích hàng ngàn ha…Vùng này giàu tiềm năng
về phát triển du lịch, ngư nghiệp, chăn nuôi gia cầm, kết hợp với trồng một số
cây ăn quả, đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi phát triển mô hình kết hợp
nuôi thuỷ sản – trồng cây ăn quả - phát triển du lịch sinh thái nghỉ
dưỡng…phục vụ nhu cầu ngày càng cao của các đô thị xung quanh.
Khí hậu, thời tiết
Mỹ Đức nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ bình quân
trong năm là 23,10C, nhiệt độ trung bình thấp nhất vào tháng 1 là 13,6 0C, cao
nhất vào tháng 7 khoảng 33,20C. Số giờ nắng trung bình trong năm là 1.630,6
giờ. Lượng mưa trung bình năm là 1.520,7mm, phân bố không đều trong năm.
Mùa mưa tập trung vào tháng 4 – 10, chiếm 85,2% tổng lượng mưa cả năm.
Mùa khô bắt đầu từ cuối tháng 10, đầu tháng 11 đến tháng 3 năm sau, tháng
mưa ít nhất trong năm là tháng 12 – tháng 2. Độ ẩm không khí trung bình năm
là 85%.
Về sông ngòi

15


Hệ thống sông ngòi huyện Mỹ Đức rất đa dạng và phong phú, bao gồm:
- Hệ thống sông Đáy: là một phân lưu của sông Hồng, phần sông chảy
qua địa phận huyện Mỹ Đức dài 40 km. Độ uốn khúc của sông lớn, sông bị
bồi lấp mạnh. Về mùa khô, nhiều đoạn sông chỉ như một lạch nhỏ. Tuy nhiên,
lưu lượng đủ cung cấp nước cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt.
- Sông Thanh Hà: là một nhánh của sông Đáy, bắt nguồn từ vùng núi
đá huyện Kim Bôi (Hoà Bình) và chảy vào sông Đáy tại cửa Đục Khê. Sông
có chiều dài 28 km và diện tích lưu vực 390 km2.
- Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có sông Mỹ Hà ở phía tây dài trên
30m và các kênh lớn như kênh tiêu 7 xã, kênh dọc trục huyện…;các hồ chứa

nước như hồ Quan Sơn, hồ Tuy Lai, Ngái Lạng với diện tích 850 ha, hiện là
nguồn dự trữ nước cho trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản và phục vụ du lịch.
Về đất đai
Trên địa bàn huyện Mỹ Đức có 10 loại đất, gồm: đất phù sa được bồi
hàng năm, đất phù sa không được bồi hàng năm, đất phù sa Glây, đất phù sa
úng nước, đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng, đất đỏ vàng trên đá sét, đất nâu
vàng trên phù sa cổ, đất đỏ nâu trên đá vôi, đất than bùn, đất đen trên sản
phẩm bồi tụ của cacbonat. Do các đặc điểm về địa thế, các tính chất hóa lý
khác nhau nên khả năng khai thác chúng cũng khác nhau.
Theo thống kê của phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Mỹ Đức,
năm 2008, tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện là 23031,21 ha, bình quân
0,13ha/người. Trong đó: đất nông nghiệp chiếm 58,23%; đất phi nông nghiệp
chiếm 31,05%; đất chưa sử dụng chiếm 10,72%.
Đất sản xuất nông nghiệp là 13411,26 ha, bình quân 0,075 ha/người.
Cơ cấu nhóm đất nông nghiệp: diện tích đất trồng cây hằng năm là 9202,67
ha, chiếm 39,96% diện tích đất tự nhiên, trong đó đất chuyên trồng lúa là

16


8344,05 ha, chiếm 36,23%; diện tích đất phát triển lâm nghiệp là 3526,16 ha
và diện tích đất nuôi trồng thuỷ sản là 674,33 ha.
Nhìn chung, Mỹ Đức là huyện có tài nguyên đất nông nghiệp phong
phú, là yếu tố quan trọng trong việc phát triển các vùng chuyên canh cây
lương thực và các cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao.
Tài nguyên động thực vật:
Mỹ Đức có dãy núi đá vôi ở phía tây, vì vậy, diện tích rừng tự nhiên
hiện có 2317,12 ha, tập trung chủ yếu ở Hương Sơn. Đây cũng là nơi tập
trung rất đa dạng và phong phú các loài động thực vật.
Theo kết quả điều tra, trên địa bàn có 350 loài thực vật thuộc 92 họ,

trong đó, có 92 loài hạt kín, 50 loài dương sỉ, còn lại là các họ hạt trần như
thông đất, tháp bút…Đặc biệt, có nhiều loài quý hiếm, cây làm thuốc, cây đặc
sản và cây phong cảnh như lành vanh, cây xưa, lát hoa, cỏ roi ngựa, cam thảo
nam, kim ngân, mơ, rau sắng, củ mài…
Động vật cũng có 88 loài chim thuộc 37 họ và 15 bộ, 35 loại bò sát
thuộc 16 họ và 3 bộ, 32 loại thú thuộc 17 họ và 3 bộ…Hệ động vật nhìn
chung nghèo về số loài và số lượng cá thể từng loài nhưng rất độc đáo với
nhiều loài quý hiếm như gà lôi trắng, rái cá…
Khoáng sản:
Huyện Mỹ Đức tập trung 2 khoáng sản chính là than bùn và đá vôi:
Than bùn phân bố rải rác ở 10 xã miền núi, tập trung lớn nhất ở xã
Đồng Tâm, Thượng Lâm và vùng Hương Sơn. Tổng trữ lượng khoảng 100
triệu tấn nhưng hiện chưa được khai thác nhiều.
Đá vôi phân bố thành dải kéo dài từ xã Đồng Tâm đến xã Hương Sơn
với chiều dài trên 40km, rộng 1 – 2km, cao trung bình 50 – 100m, trữ lượng
ước tính khoảng 600 triệu m3. Đáng chú ý là, ở nhiều dãy núi có xen đá đỏ, đá

17


xanh đen, đá đen granit. Đây là nguồn tài nguyên quan trọng cho công nghiệp
xây dựng, đặc biệt là xi măng.
Tiềm năng du lịch:
Mỹ Đức là huyện có nhiều di tích lịch sử - tôn giáo, danh thắng thiên
nhiên đẹp. Đặc biệt là khu vực Hương Sơn vừa là khu danh thắng, vừa là khu
bảo tồn thiên nhiên, đồng thời đây còn là một vùng văn hóa đặc sắc với các lễ
hội và phong tục tập quán đặc trưng. Trong đó, lễ hội Chùa Hương là lễ hội
dài nhất, kéo dài từ mùng 6 tháng giêng đến cuối tháng 3 âm lịch. Bên cạnh
đó, khu vực Quan Sơn được ví như “Hạ Long cạn” có tổng diện tích gần 3000
ha. Ngoài ra, với cảnh quan sơn thủy hữu tình, Mỹ Đức còn có: Thung Cấm,

Thung Ngái, Thung Phật, Hồ Tuy Lai…là những địa điểm đa dạng và sẽ phát
triển dịch vụ du lịch nghỉ ngơi cuối tuần thuận lợi.
Mỹ Đức còn có nhiều nghề thủ công truyền thống, điển hình là dệt,
nhuộm, thêu, mây tre đan, mộc…Trên địa bàn huyện hiện nay có một số làng
nghề điển hình như Phùng Xá, Thượng Lâm, Phúc Lâm, An Phú, Đại Nghĩa,
Phù Lưu Tế. Nếu được khai thác hiệu quả, đây cũng sẽ là một sản phẩm du
lịch đặc sắc, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng và độc đáo cho ngành
du lịch của huyện.
* Điều kiện kinh tế - xã hội
Dân cư:
Theo số liệu của phòng Thống kê huyện Mỹ Đức, dân số toàn huyện
năm 2005 là 173.478 người, trong đó nam chiếm 48,92% dân số, nữ chiếm
51,08% dân số, tỷ lệ phát triển dân số bình quân hàng năm là 0,98%. Dân số
thị trấn có 6.835 người, vùng nông thôn có 166.643 người. Mật độ dân số
trung bình 778 người/km2. Trong đó, dân cư tập trung đông hơn ở những xã
thuộc khu vực đồng bằng phía Đông ven sông Đáy.
Nguồn lao động:

18


Mỹ Đức có nguồn lao động khá dồi dào. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao
động của Mỹ Đức duy trì ở mức 51,8% tổng số dân, trong đó lao động trong
độ tuổi chiếm 91,5% lao động xã hội và phân bố chủ yếu trong lĩnh vực nông
nghiệp 79%, chỉ còn 21% lao động ở các ngành nghề khác. Với tỷ lệ lớn dân
số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, thời gian lao động thực chỉ chiếm
70 – 75% tổng quỹ thời gian lao động, huyện Mỹ Đức cần phải có chiến lược
phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ - du lịch hợp lý, nhằm
vừa hạn chế các hoạt động công nghiệp gây ô nhiễm, đảm bảo việc duy trì
môi trường và cảnh quan du lịch; vừa giải quyết vấn đề thiếu việc làm cho

nhân dân trong vùng. Hơn nữa, cần có chiến lược đầu tư cho giáo dục – đào
tạo nghề nhằm hình thành lực lượng lao động đáp ứng được yêu cầu phát triển
của Mỹ Đức trong tương lai.
Truyền thống lịch sử:
Là vùng đất có lịch sử phát triển lâu đời, trải nhiều thăng trầm của lịch
sử đã tạo cho mảnh đất và con người nơi đây những giá trị văn hoá truyền
thống tốt đẹp. Cư trú trên vùng đất cổ, nhân dân Mỹ Đức đã xây dựng nên
những ngôi đình, chùa, miếu, quán có tiếng trong vùng. Đặc biệt hệ thống
chùa chiền được tạo dựng trong các hang động ở vùng núi Hương Sơn đã tạo
nên một thắng cảnh nổi tiếng của đất Việt, được mệnh danh là “Nam thiên đệ
nhất động”. Bên cạnh đó, Mỹ Đức còn là vùng đất hiếu học, là cái nôi xuất
thân của nhiều người học cao, biết rộng. Đó là niềm tự hào của vùng đất và
con người huyện Mỹ Đức.
Mỹ Đức là vùng đất giữ vị trí cửa ngõ nên thời kỳ lịch sử nào của đất
nước, nhân dân Mỹ Đức cũng sát cánh cùng cả dân tộc kiên cường đấu tranh
chống giặc ngoại xâm. Đặc biệt là từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với
Cương lĩnh đầu tiên khẳng định: làm cách mạng tư sản dân quyền, tiến lên
làm cách mạng XHCN, các tầng lớp nhân dân Mỹ Đức đoàn kết một lòng
dưới ngọn cờ cách mạng của Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân

19


Mỹ Đức đã kiên cường bất khuất cùng cả nước đấu tranh giành chính quyền
và tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ đi đến thắng lợi cuối cùng.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, Mỹ Đức đã đóng góp xứng đáng vào công
cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc, vinh dự được Nhà nước phong tặng
danh hiệu cao quý “Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân”. Trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Mỹ Đức đã

không ngừng nỗ lực phát huy truyền thống của quê hương và đã đạt được
nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, góp một phần quan trọng
vào sự nghiệp phát triển chung của cả nước.
* Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện
Mỹ Đức đối với vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp:
Những lợi thế:
- Mỹ Đức là huyện ngoại thành, giáp ranh với vành đai đô thị vệ tinh
trực tiếp của thành phố Hà Nội, vì vậy, ngoài thị trường nội vùng, Mỹ Đức có
lợi thế để tham gia vào chuỗi cung hàng hoá nông sản gồm rau, nông sản chất
lượng cao, hoa cây cảnh và dịch vụ du lịch cho các đô thị trong vùng.
- Mỹ Đức có tài nguyên đất đa dạng, diện tích đất phù sa màu mỡ
chiếm 24,94% tổng diện tích đất tự nhiên, khí hậu nhiệt đới ẩm và nguồn
nước tưới chủ động, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Sự đa
dạng về thổ nhưỡng và truyền thống canh tác lâu đời của người dân là điều
kiện tốt cho phát triển nông nghiệp với tốc độ cao và cơ cấu sản phẩm đa
dạng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
- Diện tích đất ngập nước và nửa ngập nước của huyện khá lớn (chiếm
23,32% tổng diện tích đất tự nhiên). Đây là điều kiện thuận lợi để Mỹ Đức có
thể đưa thuỷ sản – chăn nuôi dần trở thành ngành chính trong nông nghiệp.

20


- Mỹ Đức có nguồn lao động dồi dào (dân số trong độ tuổi lao động
chiếm 51,8% tổng dân số), có nhiều nghề thủ công truyền thống tinh xảo, có
khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật và tiếp cận sản xuất hàng hoá. Đây là một
lợi thế quan trọng, tạo tiền đề cho quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện.
Những hạn chế:
- Mỹ Đức tuy là huyện ngoại thành nhưng lại cách xa so với các trục

giao thông hướng tâm chính (đi vào khoảng 40km so với trục Quốc lộ 6 nối
Hà Nội – Xuân Mai – Hoà Bình và cách khoảng 37km so với thị xã Phủ Lý),
vì vậy, điều kiện thu hút đầu tư kém lợi thế hơn hẳn so với những huyện xung
quanh như Chương Mỹ, Thanh Oai, Phú Xuyên, Ứng Hoà.
- Do nằm trong phạm vi vùng phân lũ của Hà Nội, địa hình lại kẹp giữa
sông Đáy ở phía Đông và dãy núi đá vôi ở phía Tây, nên diện tích đất bị úng
trũng của Mỹ Đức khá lớn (diện tích đất bị úng trũng và bị biến đổi do chịu
ngập úng thường xuyên như bị glây hoá, than bùn hoá…chiếm 26,04% tổng
diện tích đất tự nhiên). Đây là một thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ sản, nhưng
lại gây khó khăn cho phát triển trồng trọt, đòi hỏi sự đầu tư lớn về thuỷ lợi và
khoa học kỹ thuật.
- Tài nguyên nước dồi dào, nhưng phân hoá theo mùa quá rõ rệt và bị
bồi lấp mạnh (đặc biệt là sông Đáy), dẫn đến tình trạng ngập úng trong mùa lũ
và thiếu nước trong mùa khô. Điều này đòi hỏi huyện phải có sự đầu tư thoả
đáng cho hệ thống thuỷ lợi để vừa đảm bảo duy trì vai trò là vùng phân lũ cho
Thủ đô, vừa tạo điều kiện phát triển nông nghiệp hàng hoá trên địa bàn huyện.
- Mỹ Đức có tỷ lệ dân nông thôn lớn (96,05%). Sự chuyển biến về cơ
cấu lao động gần như không đáng kể, tỷ lệ lao động nông nghiệp vẫn chiếm
hơn 70% tổng số lao động của huyện. Đây là một khó khăn của huyện trong
định hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá và
phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Vì vậy, cần có chiến lược phát

21


triển giáo dục – đào tạo nhằm nâng cao trình độ cho người lao động một cách
hiệu quả và kịp thời.
1.1.2. Thực trạng kinh tế nông nghiệp huyện Mỹ Đức trước năm
1996
Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII, tháng 9/1991,

tỉnh Hà Sơn Bình tách thành 2 tỉnh Hòa Bình và Hà Tây. Huyện Mỹ Đức là
một trong 12 huyện và 2 thị xã tái nhập về tỉnh Hà Tây. Dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Tỉnh ủy Hà Tây, mặc dù tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức
tạp, tình hình kinh tế - xã hội trong nước cũng như của tỉnh còn rất nhiều khó
khăn. Nhưng với khí thế và quyết tâm, đặc biệt có Nghị quyết Đại hội Đảng
soi đường, Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức đã dấy lên phong trào thi đua
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Sau hơn 5 tháng tỉnh Hà Tây được tái lập và chính thức đi vào hoạt
động, thi hành Điều lệ Đảng và Chỉ thị 59 của Ban Bí thư Trung ương, Đảng
bộ tỉnh Hà Tây tổ chức Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI. Đại hội đã kiểm
điểm, đánh giá thực trạng tình hình trong tỉnh những năm 1986 – 1991; vận
dụng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và Báo cáo chính trị
của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII để định ra phương hướng nhiệm vụ
trong những năm 1992 – 1995. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI là
động lực giúp Đảng bộ và nhân dân huyện Mỹ Đức tiếp tục vươn lên thu
được nhiều kết quả quan trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ngày 19 - 21/11/1991, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mỹ Đức lần thứ
XVIII đã được tổ chức, xây dựng nhiệm vụ chủ yếu của năm 1991 – 1995.
Nghị quyết của Đại hội nhấn mạnh: “Quán triệt Nghị quyết Đại hội VII của
Đảng, phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu từ nay đến hết năm 1995 là: Tập
trung đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, ổn định và nâng cao đời
sống nhân dân, mọi lao động có thêm và đủ việc làm, đẩy lùi các biểu hiện

22


tiêu cực, thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật
tự xã hội” [15; 10]. Đại hội đề ra mục tiêu: đến hết năm 1995 đời sống quần
chúng tăng gấp rưỡi so với năm 1990; tổng sản lượng quy thóc đạt 70 ngàn

tấn, bình quân 430 – 450 kg/người. Thu nhập ngành nghề vượt 1 triệu
đồng/hộ/năm; phát triển dân số 1,7%; trồng từ 400 – 500 ha dâu nuôi tằm, để
có 400 – 500 tấn kén.
Để khai thác tối đa tiềm năng thế mạnh của địa phương trong công
cuộc phát triển kinh tế - xã hội, Đảng bộ Mỹ Đức đã xác định rõ trọng tâm
kinh tế của huyện chính là sản xuất nông nghiệp, lấy sự phát triển của sản
xuất nông nghiệp làm tiền đề thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Gắn
phát triển kinh tế nông nghiệp với phát triển kinh tế nông thôn, hướng cơ bản
là coi trọng sản xuất lương thực, với mục tiêu trước mắt là xoá đói, giảm
nghèo, đảm bảo nhu cầu lương thực cho người dân, căn bản khắc phục tình
trạng đói giáp hạt và có tích luỹ, vươn lên khá, làm giàu trong nông thôn.
Thực hiện mục tiêu này, ngoài việc đẩy mạnh sản xuất, đảm bảo vững chắc
vấn đề lương thực, phải đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng sản
phẩm hàng hoá. Một mặt tăng đàn, mặt khác chú trọng cải tạo con giống, từng
bước đưa con giống có năng suất cao, chất lượng tốt vào thay thế giống cũ đã
thoái hoá, năng suất thấp.
Huyện uỷ đã có kế hoạch chỉ đạo đối với phòng NN & PTNT và các
HTX hướng dẫn, vận động nhân dân ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, đổi mới cơ cấu giống cây trồng,
vật nuôi, tận dụng tối đa hệ số sử dụng đất, sử dụng có hiệu quả hơn các loại
đất trồng trọt nhằm tăng nhanh giá trị nông sản hàng hoá trên đơn vị diện tích.
Toàn huyện mở rộng diện tích vụ đông trên đất canh tác để trồng các loại rau
màu thực phẩm. Ưu tiên dành diện tích đất bãi ven sông, đất đồi gò để phát
triển mạnh cây dâu tằm, cây chè…,phát triển chăn nuôi đàn trâu, bò, lợn, gia
cầm, nuôi thuỷ sản…Chú trọng giống mới và từng bước nuôi theo phương

23


pháp công nghiệp. Mặt khác, để sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định,

vững chắc, Đảng bộ huyện đã rất chú trọng thực hiện các giải pháp xây dựng
hệ thống thuỷ lợi, hệ thống dịch vụ khuyến nông, hoàn thiện quan hệ sản xuất
trong nông thôn, giao đất, giao rừng, lấy hộ gia đình làm đơn vị kinh tế tự
chủ, xây dựng chính sách hỗ trợ giá về phân bón, thuốc trừ sâu, tăng tỷ trọng
đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp.
Để người nông dân yên tâm sản xuất trên mảnh đất của mình, thực hiện
Luật Đất đai và Kết luận 41 ngày 13/ 7/ 1992 của Tỉnh uỷ và Nghị quyết của
Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp thứ 4 (tháng 7/1992) về giao ruộng đất ổn
định, lâu dài và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất đến hộ nông
dân; sau khi rút kinh nghiệm của xã Lê Thanh, Ban Thường vụ Huyện uỷ đã
tiến hành triển khai giao ruộng ở tất cả các xã trong toàn huyện. Đến năm
1995, 23/ 23 HTX nông nghiệp đã hoàn thành việc giao ruộng đất đến hộ
nông dân, đảm bảo đúng luật, giữ được ổn định và đoàn kết trong nông thôn.
Đây chính là động lực làm cho người lao động yên tâm, phấn khởi đầu tư sản
xuất và thâm canh tăng vụ đạt kết quả cao.
Một thuận lợi rất quan trọng trong giai đoạn này là lĩnh vực kinh tế
nông nghiệp huyện Mỹ Đức đã phục hồi và phát triển nghề trồng dâu, nuôi
tằm, nghề truyền thống của Mỹ Đức. Những năm trước, đã có thời kỳ diện
tích dâu đạt tới 700 ha, sản lượng kén đạt 245 tấn/ ha. Vào cuối những năm
80, do nghề trồng dâu, nuôi tằm mang lại hiệu quả kinh tế thấp, nên bị mai
một, nhất là năm 1988 diện tích dâu chỉ còn 18 ha. Từ khi có cơ chế khoán 10
và sự tác động tích cực của thị trường tơ lụa thế giới, đặc biệt là sau Đại hội
Đảng bộ huyện lần thứ XVIII, cùng với sự tác động mạnh mẽ của những tiến
bộ khoa học kỹ thuật, nghề trồng dâu, nuôi tằm có những chuyển biến mạnh
mẽ. Năm 1992, diện tích dâu đạt 177,37 ha, tuy chưa đạt kế hoạch, nhưng hứa
hẹn sự phục hồi và phát triển nghề truyền thống của địa phương cho các năm
tiếp theo.

24



Nhờ vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng trên cơ sở thực tiễn
địa phương, từ năm 1991 - 1995, Đảng bộ huyện Mỹ Đức đã cơ bản hoàn
thành các chủ trương, giải pháp lớn, đẩy mạnh công cuộc đổi mới trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, thu được những kết quả quan trọng.
Qua 5 năm (1991 - 1995), sản xuất nông nghiệp đã có sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, tiến bộ, từng bước khắc phục sản xuất độc
canh, bước đầu đã tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hóa. Nhịp độ tăng
bình quân hàng năm là 5,8%. Cơ cấu kinh tế nông thôn đạt một bước chuyển
dịch quan trọng. Năm 1991, tỷ trọng nông nghiệp chiếm 78,8%, tiểu thủ công
nghiệp chiếm 12,4%, dịch vụ du lịch chiếm 8,8%, đến năm 1995, nông nghiệp
chiếm 68,7%, tiểu thủ công nghiệp chiếm 15,6%, dịch vụ du lịch chiếm
15,7%. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện
[41; 1].
Về trồng trọt, đã mạnh dạn ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật
phục vụ phát triển sản xuất, giúp nhân dân đưa các giống cây trồng có năng
suất cao, chất lượng tốt, góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở địa phương.
Năm 1995, năng suất lúa đạt 8,6 tấn/ha. Sản lượng lương thực đạt 71.500 tấn
(vượt chỉ tiêu Đại hội đề ra 1.500 tấn), đưa bình quân lương thực đầu người từ
381kg lên 446kg/người/năm. Cơ bản đã khắc phục được nạn đói giáp hạt.
Diện tích cây vụ đông được mở rộng. Các loại rau đậu, cây nông sản
thực phẩm đều phát triển. Cây ngô đã từng bước đưa giống lai đơn ĐK888,
ĐK999 vào sản xuất có hiệu quả cao. Năng suất ngô bình quân đạt 23,7 tạ/ha.
Diện tích cây công nghiệp ngắn ngày nhìn chung ổn định. Cây đậu
tương tăng nhanh từ 10,4 ha (năm 1991) lên 500 ha (năm 1995). Cây lạc ổn
định 220ha. Cây dâu có xu hướng giảm do không chủ động được giống và nơi
tiêu thụ. Cây chè trồng mới được 60 ha. Giá trị 1 sào dâu, 1 sào chè thu được
gấp 2,5 lần trồng cây lương thực.

25



×